1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Chính quyền và tôn giáo, lịch sử và hiện tại

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi fddinh, 16/09/2008.

Trạng thái chủ đề:
Đã khóa
  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. fddinh

    fddinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/07/2006
    Bài viết:
    2.342
    Đã được thích:
    1
    Chính quyền và tôn giáo, lịch sử và hiện tại

    Thưa các bạn, topic Tôn giáo và dân tộc http://www10.ttvnol.com/forum/f_533/1088024.ttvn tôi lập ra để tìm hiểu về ảnh hưởng của tôn giáo đến văn hóa, lịch sử của dân tộc, những đóng góp cho dân tộc, những ảnh hưởng tiêu cực tới truyền thống của dân tộc.

    Tuy nhiên có vấn đề là đôi khi có bạn phát biểu không đúng với nội dung của topic, thiên sang hướng quyền lực chính trị, Nhà nước, pháp luật. Nói tới pháp luật thì phải nghiên cứu tới Nhà nước đã tạo ra luật pháp đó, cụ thể là Chính quyền đã, đang và sẽ tạo ra, thi hành luật pháp đó. Như có bạn đã đăng trích đoạn sách trắng về tôn giáo vậy.

    Nói tới Chính quyền, đối với tôn giáo, cần phải nghiên cứu quan điểm, chính sách của chính quyền đối với tôn giáo như thế nào, như tôi viết ở khổ trên, bạn nào đó đăng trích đoạn sách trắng là quan điểm chính thống của chính quyền đối với tôn giáo.

    Vì vậy, tôi mở thêm topic này để nghiên cứu về chính sách đối với tôn giáo của các Chính quyền trên thế giới từ trước đến nay.

    Đầu tiên, xin giới thiệu với các bạn công trình của bà
    Trần Thị Liên
    Groupe d''Etude sur le Vietnam Contemporain - IEP Paris
    về Vấn đề Công giáo miền bắc Việt Nam
    qua tư liệu lưu trữ Ba Lan (1954-1956)​
    do Nguyễn Ngọc Giao dịch từ nguyên văn tiếng Pháp, đăng trên tạp chí Thời Đại Mới ngày 25-3-05. Xin trích một đoạn dưới đây:


    Wojciech Ketrzynski, thành viên phái đoàn Công giáo Ba Lan được Việt Nam mời qua thăm vào mùa xuân 1955, đã kết luận bản báo cáo như sau: "Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà (VNDCCH) phải đương đầu với một nhiệm vụ hết sức khó khăn: ngay từ bước đầu, phải tìm cách xây dựng Nhà nước, đồng thời tiến hành cuộc đấu tranh gian khổ nhằm thống nhất đất nước. Trong tổng thể các vấn đề chính trị của Việt Nam, yếu tố Công giáo không giữ một vai trò quan yếu. Tuy nhiên, là nhóm tôn giáo có tổ chức, thuần nhất và lớn mạnh nhất, có lẽ Công giáo có một trọng lượng nhất định trong cán cân quyền lực chung". Ketrzynski là một người Công giáo thuộc tổ chức Pax, nhận định của ông tóm tắt khá chính xác vấn đề Công giáo đặt ra cho các nhà lãnh đạo VNDCCH trong những ngày tiếp theo chiến thắng Điện Biên Phủ.

    Bài này có mục đích soi rọi vấn đề Công giáo trong những năm độc lập đầu tiên ở VNDCH dưới ánh sáng của những tư liệu tìm được trong thư khố Ba Lan. Tư liệu của một nước "anh em" là một nguồn bổ ích vì trước hết, cho đến nay, các nhà nghiên cứu vẫn chưa thể tham khảo thư khố của Việt Nam về vấn đề này. Liên Xô và Trung Quốc đương nhiên là "hệ quy chiếu" và mô hình của VNDCCH trên những vấn đề quốc tế lớn. Nhưng ngay sau khi Hiệp định Genève được kí kết, nước Cộng hoà Nhân dân Ba Lan đã được VNDCCH yêu cầu giúp đỡ để giải quyết vấn đề gay go do thiểu số Công giáo đặt ra, nhất là vấn đề người Công giáo ồ ạt di cư vào Nam. Do tầm quan trọng của đạo Ki tô ở Ba Lan, các nhà lãnh đạo C ộng sản Việt Nam cho rằng các đồng chí Ba Lan là những người có khả năng nhất trong các nước anh em có thể làm cố vấn cho họ trong vấn đề hội nhập người Công giáo dưới chế độ xã hội chủ nghĩa.

    Bài này chủ yếu khai thác những báo cáo của các đại sứ Ba Lan tại Hà Nội cũng như những báo cáo của phái đoàn Ba Lan trong Uỷ hội Quốc tế Giám sát và Kiểm soát được lưu trữ tại Thư khố Bộ ngoại giao tại Warsaw (AMSZ). Trong bài này, tôi sẽ trình bày vấn đề Công giáo trong những năm đầu của VNDCCH độc lập nhìn từ quan điểm cộng sản (chính phủ Việt Nam cũng như các cố vấn Ba Lan). Quan điểm của thiểu số Công giáo cũng sẽ được đề cập.

    (.......)

    Hồ Chí Minh là người kiến trúc sư lớn của chính sách đoàn kết dân tộc đối với người Công giáo. Chính sách này đã mang lại kết quả ngay từ đầu tháng chín 1945, khi bốn vị giám mục Công giáo thừa nhận ông là chủ tịch chân chính của nước VNDCCH. Lên nắm chính quyền, ông không ngần ngại cử Nguyễn Mạnh Hà, người Công giáo, làm bộ trưởng Bộ kinh tế trong Chính phủ đoàn kết dân tộc đầu tiên. Trong phái đoàn Việt Nam sang thương lượng ở Fontainebleau, ông để cả Nguyễn Đệ tham gia vì Nguyễn Đệ có quan hệ tốt với người Pháp và giới Ngân hàng Đông Dương. Sự hiện diện của những nhà lãnh đạo cấp cao của *********, Phạm Văn Đồng và Võ Nguyên Giáp, tại cuộc lễ tấn phong giám mục Lê Hữu Từ và lễ thành lập Liên Đoàn Công Giáo (không nằm trong *********) tháng mười 1945 ở Phát Diệm, cũng chứng tỏ ý muốn thu hút thiểu số Công giáo. Nhân dịp này, Hồ Chí Minh còn cử tân giám mục Phát Diệm làm Cố vấn Tối cao của Chính phủ ! Các cuộc tiếp xúc Công giáo ?" C ộng sản ở ngoài bắc, là vùng chủ yếu do ********* kiểm soát, đều là những cuộc gặp trực tiếp, và ở cấp cao nhất, còn ở trong nam, là vùng sớm bị Pháp chiếm đóng, các cuộc tiếp xúc diễn ra một cách bán chính thức.

    Không những thế, ********* đã ban hành những chỉ thị nghiêm ngặt, cấm đoán mọi hành động xúc phạm tôn giáo, nhất là việc phá huỷ nơi thờ cúng, người phạm tội có thể bị xử tử hình. Đây là một cố gắng thực sự nhằm hạn chế bất hoà đối với người Công giáo. Năm 1949, uỷ viên nội vụ Nam Bộ Ung Văn Khiêm nghiêm cấm "mọi hành động phẫn nộ hay khiêu khích đối với người Thiên chúa giáo". Không những không cấm đoán việc thờ chúa, ********* còn cho phép tổ chức những cuộc đại lễ nhân những ngày lễ đạo trọng đại. Mỗi năm vào dịp Nô-en, bao giờ Hồ Chí Minh cũng gửi thư chúc mừng đồng bào Công giáo. Các báo cáo của bề trên dòng Thừa sai Paris (MEP), vốn chống đối *********, đều ghi nhận rằng, mặc dầu chủ trương tiêu thổ kháng chiến, ********* vẫn tôn trọng nhà cửa của giáo hội, khác hẳn Quân đội Viễn chinh Pháp không ngần ngại chiếm đóng hoặc phá huỷ cơ ngơi của các tôn giáo. Như một giáo sĩ thừa sai viết đầu năm 1949: "Nói chung, ít nhất là ở ngoài mặt, chính sách của VM tỏ ra khoan dung. Dường như người Công giáo, với tư cách người Công giáo, không bị khó dễ gì hơn là các thành phần khác trong dân chúng (...) Rõ ràng là có chỉ thị từ cấp cao (...) Thực sự đây là cả một chính sách nhằm tranh thủ người Công giáo." Về phía Công giáo, họ tích cực tham gia phong trào dân tộc chủ nghĩa, vì muốn tiêu trừ lời lên án Công giáo là "phản quốc" đã đè nặng lên đầu cộng đồng tín đồ từ ngày Pháp xâm chiếm Việt Nam. Có thể khẳng định rằng trong thòi kì đầu của cuộc kháng chiến, người Công giáo và người C ộng sản đã kinh qua một thử nghiệm cộng tác tương tự như tình hình ở Pháp trong Đại chiến Thế giới lần thứ II. Sự hợp tác được biện minh bằng sự nghiệp độc lập.

    (.....)

    Trong bản báo cáo đầu tiên, tháng giêng 1955, đại sứ (Ba lan) Tomasz Pietka, trong phần nội trị, đã xếp vấn đề Công giáo lên hàng đầu và nói tới yêu cầu giúp đỡ của chính phủ Việt Nam: ?oVấn đề di cư của người Công giáo vẫn tiếp diễn: ?~Chính phủ và Đảng đã làm tất cả những gì có thể để giảm bớt, nhưng vẫn gặp những khó khăn to lớn (...). Vấn đề giáo dân sẽ còn đè nặng lên chính sách nội trị của VNDCCH trong thời gian tới đây, vì vậy mà họ vẫn thường yêu cầu sứ quán giúp đỡ và tham vấn?T?.

    Trong bài phân tích đầu tiên về nguyên nhân cuộc di cư ồ ạt, Pietka liệt kê sự tuyên truyền của Pháp và Mĩ, và nói đến cả các nhà lãnh đạo Việt Nam: ?oMột nhân tố khác có thể giải thích những khó khăn này là bệnh bè phái ở các cấp cơ sở trong Đảng. Những đồng chí đảng viên ở cơ sở nói rằng: ?~Tám năm dài trên rừng núi, tôi chịu bao nhiêu hi sinh gian khổ để giải phóng cho họ, mà bây giờ họ lại bỏ đi!?T. Thế là họ dùng những biện pháp cứng rắn như bác đơn di cư mà không một lời giải thích ?. Pietka cũng phê bình ?ohọ thiếu hiểu biết về những vấn đề Công giáo? trong lĩnh vực tuyên truyền: ?oCho đến nay, chỉ có phía Đảng mới tiến hành công tác nâng cao ý thức (quần chúng và đảng viên), không huy động Mặt trận Tổ quốc tham gia vào việc này. Chúng tôi cũng đã góp ý kiến?. Trong bản báo cáo tiếp theo, Pietka hoan nghênh việc mở rộng Mặt trận Tổ quốc ra những giới xã hội khác, đặc biệt là chủ trương ?obắt tay người Công giáo? thể hiện qua việc Linh mục Vũ Xuân Kỷ tham gia Đại hội Liên Việt tổ chức trong tháng giêng 1955 tại Hà Nội.

    Theo Pietka, một nguyên nhân quan trọng khác của làn sóng di cư là tình hình kinh tế bi đát ở miền Bắc Việt Nam. Trong bản báo cáo tháng hai, ông viết: ?oThị trường cần được cung cấp thêm lúa gạo và các nông sản khác đang bị thiếu hụt nghiêm trọng. Cần phải ngăn ngừa nạn đói có thể xảy ra ở khu 4 là nơi hội đủ những triệu chứng (hạn hán, ruộng đất bỏ hoang (...). Nông thôn quá đông dân. Nông dân bỏ ra thành phố nhưng không tìm ra việc làm (các nhà máy không hoạt động), chỉ còn cách buôn bán vặt trên vỉa hè hoặc đi bán rong...). Ở nông thôn, thấy rõ những dấu hiệu thiếu đói gây ra bất mãn, ngay trong những người đã tham gia kháng chiến, là những người đã quen ăn rễ ăn củ để tiếp tục chiến đấu giành lại tự do cho tổ quốc (...). Gặp những người phụ trách những bộ quan trọng của chính phủ, nhiều khi thấy họ rơm rớm nước mắt khi nói tới những vấn đề của họ.? Pietka còn nhấn mạnh không chỉ có vấn đề người Công giáo mà còn có vấn đề những người không Công giáo: ?oTrong đời sống nội bộ của VNDCCH, tồn tại cuộc di cư của giáo dân. Có thể nói vấn đề di cư đã tăng lên trong thời gian vừa qua, không những người Công giáo mà cả người không Công giáo cũng xin đi vào Nam. Nguyên nhân tình trạng này là nạn thiếu lương thực, thất nghiệp, và cả chiến dịch tuyên truyền Mĩ-Pháp vẫn tiếp tục khai triển?. Sang tháng ba, tình hình vẫn tiếp tục nghiêm trọng.

    Tháng tư 1955, một báo cáo khác xác nhận bức tranh kinh tế bi thảm mà tháng trước đại sứ Pietka đã phác hoạ. Ông nêu lên nguy cơ xảy ra nạn đói ở miền bắc do sự kém cỏi của chính quyền: ?oNăm ngoái, các đồng chí Việt Nam đã không biết xử lí vấn đề với sự nghiêm chỉnh cần thiết. Người Pháp đã báo trước với họ về nguy cơ đói kém, song chính phủ bạn đã khẳng định sẽ giải quyết thành công bằng cách tăng suất, đẩy mạnh thuỷ lợi và nhất là trồng những loại cây sản lượng cao (khoai, sắn, đậu). Chính sách này đúng nhưng chỉ đúng về dài hạn. Nếu Việt Nam không nhận được viện trợ to lớn về lúa gạo, thì tình hình sẽ trở thành nguy ngập và cuộc bầu cử sẽ hết sức bấp bênh?. Quả vậy, nhờ viện trợ Trung Quốc nên tháng năm 1955, VNDCCH đã tránh được nạn đói.

    Đại diện Ba Lan trong Uỷ hội Quốc tế Kiểm soát, Jerzy Grudzinsky, cũng nhất trí với phân tích tình hình kinh tế nói trên. Trong bản báo cáo đề ngày 27/4/1955, Grudzinsky coi việc người Công giáo di cư ?olà một trong những vấn đề lớn nhất đặt ra cho Uỷ hội Quốc tế trong thời gian qua?. Ông viết tiếp: ?oMột vài nhóm cực đoan trong dân chúng ra sức kích động di cư, phối hợp với cuộc vận động của giáo hội, của chính quyền Pháp, của bè lũ Bảo Đại. Tình hình này tiếp tục xấu đi do hạn hán, mất mùa đang đe doạ vùng Công giáo. Trên lãnh thổ của VNDCCH, giáo dân bắt đầu tổ chức những cuộc tập họp lớn, cả vạn người, yêu cầu được di cư vào Nam?. Chắc ông muốn nói tới sự kiện Ba Làng, nơi 10.000 giáo dân tụ tập lại đòi đi nam, bị Quân đội giải tán trong khi họ hoài công đứng đợi phái đoàn Uỷ hội Quốc tế.

    Đối với Grudzinski, tình hình những giáo dân muốn di cư tuyệt vọng tới mức Uỷ hội Quốc tế (thông qua đại diện Ba Lan) đã phải nhờ đến cả chiếc tàu Kilinski của Ba Lan từ tháng mười 1954 đã vận chuyển bộ đội ********* và gia đình của họ từ nam ra bắc. ?oHiện nay, tàu Kilinski của ta phải lo di chuyển giáo dân vào nam. Cho đến ngày 18 tháng năm, nó sẽ phải chở 10.000 người. Đang có tin đồn người Pháp muốn đề nghị kéo dài thời hạn 300 ngày cho dân chúng có thể chuyển vùng?. Trong báo cáo tháng hai 1955, đại sứ Pietka xác nhận: ?ochính phủ ta đồng ý để cho tàu Kilinski chở 5400 giáo dân từ bắc vào nam, trong tinh thần ?~bắt tay người Công giáo?T.?

    (....)

    Cuối cùng và quan trọng hơn cả, phái đoàn còn có nhiệm vụ thuyết phục các giám mục còn rất lần khân hãy tiếp xúc với Nhà nước. Trong thời gian ở Việt Nam, các phái viên Ba Lan đã tổ chức chín cuộc gặp những chức sắc của Giáo hội, cụ thể là giám mục Hà Nội Trịnh Như Khuê, giám mục Vinh, Trần Hữu Đức, các linh mục Tân, Liêm và Hiệp, cai quản những địa hạt mà giám mục đã bỏ vào nam (Thanh Hoá, Phát Diệm và Hải Phòng), và cả hai giám mục người Pháp thuộc dòng Đa Minh (Hedde và Jacq). Dường như họ không được đón tiếp niềm nở gì cho lắm, nhất là ở Hà Nội, Vinh và Thanh Hoá. Giám mục Hà Nội đã tỏ thái độ lạnh nhạt nếu không nói là ác cảm ngay từ lúc đầu: ?oGiám mục đã tỏ thái độ thù nghịch đối với phái đoàn, chỉ cho phép hai linh mục cử hành lễ thánh trong một nhà nguyện đóng kín ?~sine assistentia populi?T [không có giáo dân dự lễ]!?. Với giám mục Vinh cũng thế. Các giám mục này ?" phái đoàn đánh giá họ là ?o*********? ?" đã quyết định ở lại và cương quyết kêu gọi giáo dân đừng bỏ đi.

    Nhiệm vụ ?ogóp phần vào sự bình thường hoá quan hệ tôn giáo? của phái đoàn cũng không thành. Họ đã thất bại trong việc đưa Uỷ ban Công giáo xích lại gần hàng giáo phẩm. Người đã tổ chức được cuộc gặp gỡ chính thức tháng tư 1955 giữa phó thủ tướng Phạm Văn Đồng và giám mục Hà Nội không phải là phái đoàn Ba Lan mà là Nguyễn Mạnh Hà và thư kí của Giám mục là linh mục Phạm Hân Quynh. Ông Nguyễn Mạnh Hà là một nhân sĩ công giáo miền Bắc. Người Pháp coi ông là người đứng đầu phe công giáo cấp tiến, có phần khuynh tả nữa. Khi Hồ Chí Minh thành lập chính phủ lâm thời liên hiệp dân tộc vào hồi thàng 8 năm 1945, thì theo đề nghị của Võ Nguyên Giáp, ông Hà đã nhận lời tham gia vào chính phủ và giữ chức bộ trưởng bộ kinh tế. Sau khi chiến tranh bùng nổ vào tháng 12 năm 1946, ông vẫn giữ quan hệ tốt với các nhà lãnh đạo ********* (Hồ Chí Minh, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp). Trong thời kì chiến tranh, nhiều lần chính quyền Pháp đã tiếp cận Nguyễn Mạnh Hà để tìm cách tiếp xúc với lãnh đạo *********. Năm 1951, ông bị tướng De Lattre trục xuất (vì không dung thứ lập trường của ông là chủ trương phải thương lượng với *********) và từ đó trở đi, sống ở Paris với bà vợ người Pháp. Quan tâm cho tình trạng Giáo hội sống dưới chế độ C ộng sản, tháng bảy 1954, ông sang Genève gặp các nhà lãnh đạo *********. Ông đề nghị đứng ra làm trung gian giữa VNDCCH và Giáo hội. Sau đó, ban lãnh đạo chính phủ có mời ông về Hà Nội hai lần trong năm 1955. Ông có chơi thân với linh mục Phạm Hân Quynh, là bí thư tòa giám mục, lại được giám mục Hà Nội là Trịnh Như Khuê nể vì, cho nên ông đã thuyết phục được giám mục đi gặp ban lãnh đạo chính phủ, để xác định mối tương quan sau này giữa giáo hội và nhà nước. Về điểm này ta chắc được rằng ông nguyễn Mạnh Hà đã đóng một vai trò quan trọng, vì thực ra phái đoàng Ba lan không có ảnh hưởng gì cả tới hàng giáo phẩm Việt Nam.
  2. fddinh

    fddinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/07/2006
    Bài viết:
    2.342
    Đã được thích:
    1
    (....)
    Cuối cùng, phái đoàn Ba Lan đã tác động thế nào đến pháp chế quy định mối quan hệ giữa Giáo hội và Nhà nước? Họ đã có mấy lần gặp những nhà lãnh đạo chính quyền, Hồ Chí Minh, Phạm Văn Đồng, nhất là Hoàng Quốc Việt, uỷ viên Thường vụ Đảng Lao động phụ trách các vấn đề Công giáo. Khi mới tới Việt Nam, phái đoàn đã than phiền là đảng anh em ?othiếu một chỉ thị chính trị rõ ràng về vấn đề Công giáo?. Rồi họ đưa ra đề nghị thành lập một hội đồng phụ trách các vấn đề thờ cúng và tôn giáo. Họ cũng tham gia soạn thảo những đạo luật cùng với Bộ tư pháp và luật sư Dương Văn Đàm. Ít nhất đó là điều Wojciech Ketrzynski viết trong báo cáo: ?ophái đoàn đã tích cực tham gia soạn thảo văn bản sắc lệnh về tự do tôn giáo và tự do tín ngưỡng. Văn bản này đã được phái đoàn sửa đi sửa lại nhiều lần, và về đại thể mà nói, văn bản cuối cùng là kết quả việc làm của phái đoàn (...). Phái đoàn cũng đã tham gia việc soạn thảo những điều khoản về C ải cách ruộng đất liên quan tới tài sản của nhà thờ, và việc giải quyết toàn bộ cơ sở tài chính của hoạt động Công giáo tại Việt Nam?.
    Đúng là ngày 14.6.1955, sắc lệnh số 234 về vấn đề tôn giáo đã được Hồ Chí Minh và Phạm Văn Đồng ban hành. Sắc lệnh này bảo đảm ?oquyền tự do tín ngưỡng và thờ cúng? cũng như các hoạt động kinh tế, văn hoá và xã hội của các tổ chức tôn giáo (kể cả việc giảng dạy đạo), và quy định cả cách đối xử đặc biệt cho các tổ chức tôn giáo trong cải cách ruộng đất. Đúng là có đôi chút cởi mở đối với việc hành đạo (nhất là ở Hà Nội) năm 1955, nhưng tình trạng này kéo dài không lâu. Hơn nữa, tình hình khác hẳn ở nông thôn, là nơi Đợt 5 của cuộc C ải cách ruộng đất được tiến hành một cách quyết liệt.
    Một số ghi chú:
    1 - Theo cùng một đạo với thực dân, người Công giáo bị coi là nguyên nhân của cuộc xâm lược. Song đạo Ki tô không vào Việt Nam cùng một lúc với quân đội Pháp, mà từ thế kỉ XVI với những giáo sĩ Dòng Tên người Bồ Đào Nha. Từ thế kỉ XVII trở đi, Ki tô giáo lan truyền ở Việt Nam nhờ hoạt động của giáo sĩ Dòng Tên của thành phố Avignon, Alexandre de Rhodes, và của những linh mục dòng Đa Minh người Tây Ban Nha. Trước sự thù nghịch của chính quyền quân chủ Việt Nam đối với một tôn giáo ngoại lai, Vatican cố gắng làm thế nào để Giáo hội không bị đồng hoá với hai thế lực thực dân lớn của thời đó (Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha). Theo đề nghị của Dòng Tên, Vatican trao cho Dòng Thừa sai Paris (một dòng tu Pháp) nhiệm vụ truyền giáo ở Việt Nam. Nhưng một thế kỉ sau, chính các giáo sĩ Thừa sai đã cầu cứu quân đội Pháp để chấm dứt việc đàn áp Công giáo. Vì vậy mà người Công giáo Việt Nam bị mang tiếng. Về vấn đề này, xin xem bài phát biểu của tôi tại cuộc họp Réseau Asie tại Paris, 25-26/9/2003: "De la notion loyauté/déloyauté à la notion d?Tengagement politique: les catholiques vietnamiens en période coloniale" (Từ khái niệm trung/bất trung đến khái niệm dấn thân chính trị: người Công giáo Việt Nam dưới thời thực dân) - Trần Thị Liên.
    2 - Hiến pháp năm 1936 của Liên Xô, điều 124: "Nhằm bảo đảm cho công dân quyền tự do tín ngưỡng, Giáo hội ở Liên Xô tách biệt khỏi Nhà nước, trường học tách biệt khỏi Giáo hội. Mọi công dân đều có quyền tự do thờ cúng theo tín ngưỡng và có quyền tuyên truyền chống tôn giáo" trong Cécile Vaisse, Le prix de la survie. Les relations entre l?TEglise russe orthodoxe et le pouvoir politique depuis 1917, luận văn cao học Nghiên cứu về Liên Xô và Đông Âu, IEP, Paris, 1993, tr.121.
    3 - Pierre Gheddo, Catholiques et bouddhistes au Vietnam, Paris, Alsatia, 1970, tr. 108. Hồ Chí Minh đã lên tiếng về vấn đề này vào tháng bảy, tháng mười rồi tháng chạp 1954. Nhân dịp lễ Giáng sinh, ông gửi thư cho người Công giáo, cam kết bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng và hứa huỷ bỏ lệnh thiết quân luật trong để giáo dân có thể dự lễ thánh nửa đêm.
    4 - Vào thời chế độ bảo hộ, thì năm 1945 ông Hà còn làm thanh tra lao động ở Hải phòng. Người công giáo biết ông là người sáng lập ra phong trào Thanh niên Lao động Công giáo (Jeunesse Ouvrière Chrétienne) tại Hải Phòng. Trước đó vào những năm 20 và 30, khi còn là sinh viên, ông đã tham gia vào phong trào Công giáo Tiến hành bên Pháp, cho nên khi tốt nghiệp trường Luật, ông về Việt Nam năm 1937, thì rất chú trọng đến vấn đề xã hội. Ong tìm cách truyền bá học thuyết xã hộ của Giáo hội trong giới công giáo, đồng thời hoạt đông để cho công giáo có mặt trong giới thợ thuyền ở Hải phòng là thành phố hải cảng (Xem: "Nguyen Manh Ha: A voice for neutral solution in South Vietnam (1954-1957)", AAS Annual Meeting, Chicago, March 2001)
    5 - Phái viên trong phái đoàn Ba Lan đi thăm Việt Nam tháng tư-năm 1955 cũng nhận định tương tự: ?o Cuộc sống vật chất, và trước hết là tình hình lương thực nguy kịch là một trong những nguyên nhân của cuộc di cư (cho dù tuyên truyền rất hiệu quả của Mĩ-Pháp là nguyên nhân quan trọng nhất) ?. AMSZ, Departament V, Z12, T613, W26: Báo cáo hoạt động của Đoàn đại biểu Công giáo Ba Lan đi thăm Việt Nam (từ 13 đến 19/4/1955), Hà Nội, 19/4/1955, mang chữ kí của P. J. Keller, P. Suwala và W. Ketrzynski.
    6 - ASHAT Fonds Gambiez, 1 K 540 Carton 16, Báo cáo về tình hình người tị nạn ở Bắc Việt của Giám mục Phạm Ngọc Chi, cai quản địa phận Bùi Chu, phụ trách về ngươì di cư Bắc Việt, tháng mười 1955, gửi Bộ truyền giáo Roma, 14 trang. Trong tổng số 860.206 người di cư vào nam, 676.348 là giáo dân.
    © Thời Đại Mới

    Trên đây tôi mới chỉ trích 1 phần công trình của bà Trần Thị Liên về quan điểm của Chính phủ VNDCCH đối với Công giáo trong thời kháng chiến 9 năm và quá trình hình thành chính sách đối với Công giáo của Chính phủ VNDCCH sau chiến thắng Điện Biên Phủ.
    Bạn nào quan tâm tìm hiểu kỹ hơn, xin theo link này http://www.tapchithoidai.org/ThoiDai4/200504_TTLien.htm để đọc toàn văn công trình nghiên cứu của bà Trần Thị Liên.
    Được fddinh sửa chữa / chuyển vào 09:51 ngày 16/09/2008
  3. chauphihwangza

    chauphihwangza Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    28/06/2006
    Bài viết:
    1.487
    Đã được thích:
    0
    Tôi xin góp ý:
    Chính quyền và tôn giáo, lịch sử và hiện tại...tương lai có thể lường trước nữa. Những tôn giáo độc thần như Công giáo nếu có sự giúp đỡ của chính quyền tôn nó lên làm tôn giáo chính thống của quốc gia. Và nó sẽ nguy hiểm đến chừng nào khi chính quyền nâng đỡ nó để thực hiện việc ngu dân đào tạo nên những tín đồ cuồng tín.
    Được chauphihwangza sửa chữa / chuyển vào 10:54 ngày 16/09/2008
  4. fddinh

    fddinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/07/2006
    Bài viết:
    2.342
    Đã được thích:
    1
    Vâng đầu tiên tôi có để chữ tưong lai, trước khi nhấn nút để post bài, tôi đã bỏ chữ tương lai, vì tương lai thì còn chưa nhìn thấy được cạn à, nhưng ngầm hiểu có chữ đó trong topic thì tôi không phản đối đâu.
    Đoạn vàng vàng thì quá khứ đã có rồi đó thôi bác.
  5. CoDep

    CoDep Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/09/2004
    Bài viết:
    9.559
    Đã được thích:
    11
    Mấy câu sáo rỗng của chauphihwangza chỉ thể hiện một sự cuồng tín mà
    thôi.
    Mời bạn tỉnh táo lại mà nói cho rõ nghĩa xem "nguy hại" như thế nào?
    1- Ở VN chính quyền nâng đỡ Công Giáo?
    2- Ở Vatican thì dân chúng bị đói khổ, đàn áp, không tự do nh^n quyền,
    lắm chuyện tranh giành đất đai?
  6. chauphihwangza

    chauphihwangza Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    28/06/2006
    Bài viết:
    1.487
    Đã được thích:
    0
    Phương Tây thừa hưởng giá trị văn hoá tốt đẹp từ thời Hy Lạp La Mã trước đây với tín ngưỡng đa thần dân chủ và nhân văn đã phát triển thành một nền văn minh tầm cỡ thời cổ đại.
    Còn hãy nhìn xem từ khi Giáo hội Công giáo bành trướng từ Trung Đông đến La Mã đã làm được gì cho phương Tây ngoài cái thời Đêm trường trung cổ đen tối.
    Được chauphihwangza sửa chữa / chuyển vào 11:49 ngày 16/09/2008
  7. chauphihwangza

    chauphihwangza Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    28/06/2006
    Bài viết:
    1.487
    Đã được thích:
    0
    Đó chỉ là đúc rút kinh nghiệm thôi.
    Trong lịch sử những nhà nước dung dưỡng độc tôn tôn giáo mà đặc biệt là tôn giáo độc thần đã gây ra sự cực đoan vì nhà nước lợi dụng niềm tin của tín đồ để thực hiện mục đích xấu. Ví dụ đế quốc Đông La Mã đã độc tôn Công giáo đã đào tạo được những tín đồ cuồng tín giết người ko ghê tay phục vụ cho những cuộc thập tự chinh đẫm máu.
    Vì kinh nghiệm lịch sử mà nhà nước Việt Nam hiện nay không khuyến khích Công giáo là đúng thôi. Không khuyến khích chứ không phải là cấm đạo. Với lại còn có lý do chính đáng là đông đảo dân chúng Việt Nam theo tín ngưỡng cổ truyền không hợp với Công giáo.
    Vatican không tự tạo nên các giá trị dân chủ mà là do nhân loại tiến bộ đúc rút nên. Những nhà cách mạng đã đấu tranh lại phong kiến với đất phong và nhà thờ Công giáo mới có được đấy chứ. Giáo dân ở Vatican thừa hưởng thành quả đó mà thôi.
    Được chauphihwangza sửa chữa / chuyển vào 12:19 ngày 16/09/2008
  8. cavalryman

    cavalryman Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    29/09/2007
    Bài viết:
    553
    Đã được thích:
    0
    thôi các bác, chuyện tôn giáo không nên bàn nhiều, bàn nhiều thì chỉ tổ ghét nhau thôi chứ ai vẫn giữ đạo nấy. Với lại cũng cần tôn trọng một bộ phận của dân tộc nữa! Tui cũng chỉ mạnh tay khi có ai định tuyên truyền quảng cáo cho đạo hay thắc mắc về đối xử giữa chính quyền với đạo mà thôi. Các bác cũng nên theo nguyên tắc như thế: họ không nói trước thì mình cũng không nên gợi chuyện ra để đả phá làm gì!
  9. red_star_7545

    red_star_7545 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    09/09/2005
    Bài viết:
    1.314
    Đã được thích:
    255
    Bác thử xem những người đem lại tự do và nhân quyền ở Châu Âu đã làm gì nhà thờ nhé
  10. dhlv

    dhlv Guest

    Bác nào có biết cách lách luật hiện hành Việt Nam trong vấn đề chống, phản tuyên truyền Công Giáo không nhỉ? Mục đích là tập hợp các tài liệu được xuất bản tại Việt Nam (VNDCCH, CHXHCNVN) và các sách dịch cũng như chính các tài liệu của Nhà Thờ để tuyên truyền ngược.
    Hiến Pháp năm 1936 của Liên Xô quả thật có điểm hay hơn đó là có quyền tuyên truyền chống tôn giáo.
    Mình cứ lấn cấn mãi vì nó lại vướng vào cái luật mơ hồ là "phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc VN" nên từ lâu chưa dám động thủ. Chứ cãi nhau trên mạng cũng chán òm, chả đi đến đâu, số lượng người truy cập cũng không nhiều !
Trạng thái chủ đề:
Đã khóa

Chia sẻ trang này