1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Quan hệ Việt Nam - Campuchia trong lịch sử

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi TranMinhkhochuoi, 09/06/2008.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. con_ech_gia

    con_ech_gia Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    14/11/2006
    Bài viết:
    1.773
    Đã được thích:
    65
    Cộng đồng người Khmer dưới triều Nguyễn
    Trong cuộc tranh chấp giữa các vua chúa Chân Lạp, cộng đồng người Khmer tại miền Nam giữ thái độ trung lập. Dân chúng Khmer thường tìm cách tránh xa nơi nào có giao tranh, hoặc di cư về những vùng đất cao dọc hai bờ Tiền Giang và Hậu Giang (Ba Thắc) sinh sống (Trà Vinh, Sóc Trăng ngày nay) lập nghiệp. Khi thấy chúa Nguyễn bị quân Tây Sơn nhiều lần đánh bại (1776-1777), cộng đồng người Khmer tại Trà Vinh có nổi lên ủng hộ nhưng bị Đỗ Thành Nhân cùng binh đoàn Đông Sơn tàn sát rất dã man năm 1780. Từ đó người Khmer giữ thái độ trung lập trong các cuộc tranh chấp giữa người Việt và người Hoa tiến chiếm các tỉnh miền Đông và miền Tây, cộng đồng người Khmer tránh xa những nơi hành quân và tranh chấp giữa quân Việt và quân Pháp.
    Dưới thời Gia Long (1802-1820), toàn bộ lãnh thổ miền Nam tương đối ổn định. Khu vực biên giới giữa Việt Nam (Gia Định, Vĩnh Thanh) và Chân Lạp , tuy chưa được phân chia một cách rõ ràng nhưng rất ổn định. Chủ quyền trên các hải đảo trong vịnh Thái Lan cũng đã rõ ràng : đảo Phú Quốc, đảo Thổ Châu thuộc về nhà Nguyễn. Toàn bộ lãnh thổ Chân Lạp từ Phnom Penh đến hữu ngạn sông Hậu Giang (Kandal, Takeo, Kocong) đặt dưới quyền bảo hộ của nhà Nguyễn.
    Năm 1817, Nguyễn Văn Thoại (Thoại Ngọc Hầu) tuyển mộ người Việt và người Khmer đào kinh Núi Sập (Thoại Hà) từ Hậu Giang đến Rạch Giá. Từ đầu năm 1818, tướng Lê Văn Duyệt chỉ huy 55.000 dân công, trong đó dân công Việt được tuyển mộ ở Vĩnh Thanh và Định Tường do Thoại Ngọc Hầu điều khiển, dân công Khmer tuyển mộ ở Trà Ôn (đồn Uy Viễn) do Nguyễn Văn Tồn (một tướng gốc Khmer được Gia Long ban họ Nguyễn) chỉ huy đào kinh Vĩnh Tế, nối liền Châu Đốc với Hà Tiên đến năm 1823 thì hoàn tất. Từ đó đồng bằng sông Cửu Long đông đảo dần, người Việt và người Khmer sinh sống xen kẽ với nhau. Các tỉnh Bến Tre, Trà Vinh, Vĩnh Long, Sa Đéc, Sóc Trăng, Long Xuyên, Châu Đốc, Cần Thơ trở nên trù phú. Do đất đai còn rộng, nhiều gia đình Khmer tự ý thay đổi chỗ ở khi có người Việt hoặc người Hoa đến lập nghiệp kế bên. Cũng nên biết người Khmer rất tôn trọng sự thuần chủng, những cuộc hôn nhân dị chủng, nhất là với phái nữ, rất khó được chấp nhận. Thêm vào đó yếu tố tôn giáo cũng rất quan trọng, đa số người Khmer theo văn hóa Ấn Độ và Phật giáo tiểu thừa nên không muốn có sự chung chạ trong các lễ đưa nước, rước nước?
    Dưới thời các chúa Nguyễn và Gia Long, cộng đồng người Khmer hưởng qui chế tự trị. Sang thời Minh Mạng, chính sách đồng hóa (về văn hóa), dưới tên gọi "nhất thị đồng nhơn", nghĩa là phải coi họ là người (như chúng ta), được áp dụng chung cho tất cả các sắc tộc, kể cả những cộng đồng người Khmer sinh sống từ lâu tại miền Nam : Trà Ôn (Châu Đốc), Lạc Hóa (Cầu Kè, Tiểu Cần), Ba Thắc (Sóc Trăng, Kế Sách), Ô Môn (bắc Cần Thơ), Hà Tiên. Quyền hạn của giới tăng lữ Phật giáo tiểu thừa cũng bị giới hạn. Chịu không nổi chính sách đồng hóa của Minh Mạng, năm 1820 nhiều lãnh tụ Khmer như Achar Kuy (Chauvai Kuy), Teva Som ở Trà Cú kêu gọi dân chúng Khmer nổi lên chống lại, tất cả đều bị dẹp trong biển máu. Từ sau khi Lê Văn Khôi bị đánh dẹp năm 1835, cộng đồng người Khmer càng bị trù dập nhiều hơn : phải sống cố định, phum, sóc đổi thành làng, xã và họ tên của mỗi người phải được phiên âm tiếng Việt như Sơn, Thạch, Kim, Kiên?
    Chính sách đồng hóa này gây bất mãn trong cộng đồng người Khmer. Năm 1838, một người tên Gi, giữ chức an phủ, và một viên quản cơ Khmer ở vùng biên giới Hà Tiên-An Giang cấu kết với quân Xiêm chống lại triều đình ; cuộc nổi dậy bị thất bại và tất cả các thủ lãnh đều bị giết. Năm 1840, người Khmer tiếp tục chống đối ở vùng biên giới này, hàng ngàn người Khmer từ núi Thất Sơn tràn qua biên giới đốt phá làng xã, chợ búa của người Kinh tại Kiên Giang, Rạch Giá, Tri Tôn.
    Dưới thời Thiệu Trị, những cuộc nổi loạn của người Khmer xảy ra nhiều hơn, đặc biệt là tại Lạc Hóa (Trà Vinh, Cầu Kè, Tiểu Cần, Cầu Chong), tức Trà Vinh (nay là Vĩnh Bình). Cuộc nổi dậy kéo dài 7 tháng, từ tháng 3 đến tháng 10-1841, thủ lãnh là Sana Som (Lâm Sum). Lâm Sum dùng bùa phép xui giục dân chúng Khmer địa phương theo nếu không sẽ bị hại, đa số người Khmer vì sợ thần thánh đã nghe theo. Khoảng 8.000 quân nổi loạn chiếm cứ một vùng đất dài hơn 30 km dọc hai bờ sông Hậu Giang. Thừa thắng xông lên, dân chúng Khmer sinh sống tại Sóc Trăng, Ba Xuyên, Trà Tâm, Sóc Sâm do Sana Tía lãnh đạo và tại Thất Sơn, Vĩnh Tế, Rầy Đéc, Cần Sư, Tịnh Biên, Hà Dương, Hà Âm, được quân Xiêm La do Phi Nhã Chất Tri (Chakri) lãnh đạo, cũng nổi lên chống lại quân triều đình. Nhà Nguyễn phải gởi những tướng nổi tiếng nhất của triều đình thời đó (Bùi Công Huyên, tổng đốc, tham tán trấn Tây Thành, Nguyễn Tấn Lâm, Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Tri Phương, Trương Minh Giảng) đến dẹp, tất cả đã phải rất khó khăn mới dẹp được yên.
    Từ sau 1842, quan quân triều Nguyễn tỏ ra rất dè dặt với người Khmer, người Kinh từ miền Trung và những tội nhân thường phạm được ồ ạt đưa vào sống xen kẽ với người Khmer tại Lạc Hóa, Ba Xuyên, Tịnh Biên, nhiều kinh lạch được đào thêm để sự di chuyển của quân đội được dễ dàng, đặc biệt là trên kinh Long An Hà, nhiều đồn điền quân sự được thành lập dọc vùng biên giới (Giang Thành, Vĩnh Tế). Cộng đồng người Khmer tại đồng bằng sông Cửu Long bị cô lập hoàn toàn với triều đình Chân Lạp. Nói chung, cho đến khi Pháp chiếm đóng Lục Tỉnh, toàn bộ đồng bằng sông Cửu Long đã được tổ chức rất nề nếp, mỗi địa phương quan trọng đều có một quan gốc Kinh cai trị.
    Dưới thời Pháp thuộc, khu vực biên giới miền Nam và Cambodge đã được xác định lại khá rõ ràng. Tại một vài nơi như Cà Mau và Rạch Giá, người Pháp để người Khmer cai quản người Việt nên đã xảy ra nhiều cuộc tranh chấp đáng tiếc giữa hai cộng đồng năm 1868. Tuy nhiên đời sống người Khmer trong thời kỳ này thấp hơn người Kinh, vì người Khmer rất sợ giới quan quyền nên chịu nhiều thiệt thòi về ruộng đất và quyền lợi. Thêm vào đó, các quan chức Pháp rất coi thường người Khmer vì cho rằng không có kiến thức, trừ những người đã có chức phận từ thời nhà Nguyễn. Tên họ những người Khmer bị đặt một cách tùy tiện như Danh cho đàn ông và Thị cho đàn bà.
    Trong những năm mất mùa vì lụt lội hay bão tố, cộng đồng người Khmer đã cùng người Kinh nhiều lần nổi lên chống lại những chính sách ức hiếp của người Pháp như năm 1928 tại Rạch Giá (vụ Ninh Thạnh Lợi) chống tịch biên ruộng đất và đòi dân sinh do chủ điền Chọt, Mốc và Cồ Cui cầm đầu. Nhưng nói chung, cộng đồng người Khmer vẫn thích sống tách biệt với cộng đồng người Việt và người Hoa. Trong thập niên 1940 phong trào ********* có tiếp cận cộng đồng này, nhưng không đạt hiệu quả mong muốn, chỉ vài người như Lâm Phát (phó chủ tịch ủy ban hành chánh kháng chiến tỉnh Cửu Long), Maha Thông (hội trưởng hội Khmer Issarak), Thạch Ngọc Biên đã tỏ ra tích cực hợp tác. Tại một vài nơi, quân đội Pháp không dám vào Cầu Kè, Cầu Ngang, Hòa Tú, Lộc Hòa, Trường Khánh, Trà Vinh do ********* chiếm giữ.
    **************************************************​
    lionking_arc thích bài này.
  2. con_ech_gia

    con_ech_gia Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    14/11/2006
    Bài viết:
    1.773
    Đã được thích:
    65
    Trong một bài viết khác của ông Huy có nhiều tình tiết rất đang lưu ý (trích)
    Ngày Nay: Trong chuyện tranh giành biên giới, một số dư luận Miên (kể cả cựu hoàng Sihanouk) nói Phú Quốc thuộc về họ, có đúng không ?
    Ts Nguyễn Văn Huy: Không đúng.
    Năm 1681, một phái đoàn người Minh Hương tị nạn, do Mạc Cửu dẫn đầu, đổ bộ vào vùng Panthais, trong eo biển Vịnh Xiêm La, tức lãnh thổ Hà Tiên ngày nay. Họ đã không gặp một cư dân nào và cũng không biết vùng đất này thuộc về ai. Đúng là một vùng đất vô chủ (terra nullus). Sau nhiều ngày đi sâu vào nội địa, gần đến địa phận Oudong, phái đoàn mới gặp được các vị vương Khmer, lúc đó đang tranh chấp ngôi vị với nhau. Mạc Cửu giúp Jayachetta III chiếm lại ngôi vua và được quyền khai thác toàn bộ vùng duyên hải trong vịnh Xiêm La. Mạc Cửu đã tìm được bảy địa điểm cao ráo, từ Hà Tiên đến Kompong Som ngày nay, để thành lập những sòng bài thu hút số tiền do những đám hải tặc, đa số là người Hoa, đang hoành hành trong vịnh Xiêm La. Không ngờ, với thời gian, vùng đất này trở thành sầm uất. Khách giang hồ tứ xứ nườm nượp đến đây lập nghiệp và giúp Mạc Cửu xây dựng một vùng đất phú cường. Đảo Phú Quốc (tên Khmer là Koh Tral), trước kia la một đảo hoang, trở thành địa điểm họp mặt của những tay giang hồ trao đổi hàng hóa do cướp giựt hay thu mua từ khắp nơi mang về. Lãnh thổ do Mạc Cửu lãnh đạo mang tên Căn Khẩu, và là một đe dọa cho chính quyền Ayuthia, thủ đô Xiêm La do Trình Quốc Anh, một người Minh Hương khác, đang giữ quyền lãnh đạo. Trong suốt giai đoạn này, không một người Khmer nào xuất hiện để tranh giành ảnh hưởng với Mạc Cửu. Lo sợ bị quân Xiêm tấn công, năm 1714 Mạc Cửu xin thần phục Minh Vương Nguyễn Phúc Trăn và được giao quyền lãnh đạo Căn Khẩu quốc. Năm 1724, sau khi chúa Nguyễn đánh bại quân Xiêm tại Căn Khẩu, Mạc Cửu xin dâng toàn bộ vùng đất này. Căn Khẩu Quốc đổi tên thành Long Hồ Dinh, thủ phủ đặt tại Hà Tiên. Con Mạc Cửu là Mạc Thiên Tứ (tên thật là Mạc Sĩ Lân) được nhìn nhận là truyền nhân của dòng họ Mạc. Dưới thời Mạc Thiên Tứ, lãnh thổ Long Hồ phát triển và được nới rộng thêm đến Long Xuyên và Cà Mau ngày nay.
    Một tình cờ khác là năm 1739, Nặc Nguyên (Ang Sgnuon), một vương tôn Khmer, bị chúa Nguyễn đánh bại và được Mạc Thiên Tứ xin khoan hồng, đã tặng riêng Mạc Thiên Tứ lãnh thổ Tầm Bôn (Cần Thơ) và Lôi Lập (Long Xuyên), một hình thức để hợp thức hóa bốn huyện do Mạc Thiên Tứ thành lập từ lâu để tạ ơn. Năm 1758, một vương tôn khác tên Nặc Tôn (Ang Ton) nhờ Mạc Thiên Tứ giúp lên ngôi. Sau khi thành công Nặc Tôn đã tặng chúa Nguyễn vùng đất Tầm Phong Long (Châu Đốc) để tạ ơn và tặng riêng Mạc Thiên Tứ vùng bờ biển trong vịnh Xiêm La, từ Kompong Som đến Rạch Giá. Tiến trình hợp thức hóa quyền làm chủ toàn bộ lãnh thổ miền Nam, tức đồng bằng sông Cửu Long, đến năm 1758 coi như hoàn tất.
    Vấn đề là giới trí thức và chính trị Khmer, mặc dù biết rõ việc này, đã lờ đi coi như không có. Những người Khmer quá khích, kể cả Norodom Sihanouk, không muốn nhắc lại giai đoạn u tối này trong lịch sử của họ, và chỉ nhắc lại với người Pháp gia đình họ yêu cầu Pháp bảo hộ và dựa vào thế lực của Pháp đòi lại những vùng đất đã mất, tức một phần lãnh thổ Đắc Lắc, vùng đất quanh Tây Ninh và Mỏ Vẹt, và nhất là chủ quyền trên đảo Phú Quốc, vì những nguồn lợi dưới lòng biển mà người Khmer tin rằng có dầu lửa.
    Nói tóm lại, việc đòi chủ quyền trên đảo Phú Quốc là không đúng và trái với sự thật lịch sử.
    Ngày Nay: Chủ quyền của Việt Nam trên Vịnh Xiêm La tỏa rộng đến đâu ?
    Ts Nguyễn Văn Huy: Xin nhắc lại là cho đến năm 1914, chủ quyền của Việt Nam trên vịnh Xiêm La kéo dài từ Kompong Som (Hương Úc hay Vũng Thơm) đến Hà Tiên. Sự kiện này có thể làm người Khmer thất vọng và phẫn nộ nhưng đó là sự thật.
    Sau khi tiêu diệt Phù Nam cuối thế kỷ thứ 7, đầu thế kỷ thứ 8, vương triều Angkor bỏ rơi Oc Eo để thành lập đế đô tại khu vực Battambang-Siemreap, một vùng đất sình lầy nhưng gần các núi đá hoa cương, phía Tây-Bắc Biển Hồ (Tonlé Sap). Trong suốt bảy thế kỷ cầm quyền, các triều vương Angkor chỉ lo tổ chức chiến tranh để bắt thêm nô lệ về xây dựng đền đài. Vùng đất dọc vùng duyên hải Vịnh Xiêm La trở nên hoang vắng vì không còn dân cư cho đến cuối thế kỷ 17 khi phái đoàn Mạc Cửu đổ bộ lên đất liền năm 1681. Từ sau ngày đó, người Hoa sau đó là người Việt làm chủ vùng đất này trong suốt hơn 300 năm và biến thành một vùng đất phồn vinh. Chính sự phồn vinh này đã làm người Khmer thèm muốn và bằng mọi giá muốn thu hồi lại. Sự tranh chấp về mặt hành chánh và quân sự giữa miền Nam và Cambodge buộc chính quyền thuộc địa Pháp ban hành thông tư ngày 31-1-1939 xác định lãnh hải phân chia hai vùng đất là một đường thẳng từ kinh tuyến 104 : toàn bộ các đảo phía Bắc kinh tuyến này thuộc vương quốc Cambodge, toàn bộ hải đảo phía Nam kinh tuyến này thuộc về Nam Kỳ. Đường phân ranh này được tôn trọng cho đến 1958.
    Về việc phân chia lãnh hải và đảo Phú Quốc bắt đầu từ kinh tuyến 104 và vĩ tuyến 10 là một sự thật hiển nhiên. Người Khmer chưa bao giờ làm chủ đảo Phú Quốc mặc dù đảo này nằm sát cạnh vùng duyên hải hiện hành so với Việt Nam chỉ vì một lý do giản dị : dân tộc Khmer chưa bao giờ là một dân tộc hàng hải và sống bằng nghề đánh cá biển. Người Khmer chỉ bắt đầu làm quen với biển cả khi được Pháp bảo hộ, và họ chỉ hành nghề đánh cá. Việc biên phòng lãnh hải đều do hải quân Pháp đảm nhiệm.
    Tháng 2-1958, hải quân Khmer đã đơn phương chiếm đóng các đảo Hòn Tai và Hòn Tre Nam và tháng 3-1960 chiếm đóng quần đảo Phù Du gồm Hòn Nang Trong và Hòn Nang Ngoài) để chuẩn bị cho phe cộng sản Bắc Việt đưa người người và vũ khí vào miền Nam. Lực lượng hải quân Việt Nam Cộng Hòa đã chiếm lại các hòn đảo nói trên và kiểm soát luôn mọi ngỏ ra vào bằng đường biển trong Vịnh Xiêm La. Tình trạng này chỉ chấm dứt sau năm 1975 khi lực lượng hải quân Việt Nam di tản ra nước ngoài và lực lượng hải quân Khmer đỏ liền thay thế và chiếm đóng một số hải đảo quanh đảo Phú Quốc cho đến cuối năm 1978.
    Giới đối lập Khmer hiện nay vẫn tiếp tục phản bác sự phân chia này vì cho rằng bất công và không phù hợp với những nguyên tắc công pháp quốc tế, và phản bác luôn những văn kiện về lãnh hải đã chính thức ký kết với Việt Nam tháng 7-1982, và thỏa thuận bổ sung ngày 10-10-2005 vừa qua. Để làm gì ? Họ muốn làm rùm beng một sự kiện không quan trọng để che giấu những tranh chấp nội bộ giữa các phe phái chính trị, nhất là sự ghen tức với đương kim thủ tướng Hun Sen, được chính quyền cộng sản Việt Nam ủng hộ.
    Vượt lên những tranh chấp chính trị trong nội bộ chính quyền Khmer, chúng ta, người Việt Nam, chỉ yêu cầu những người Khmer nhìn lại sự thật lịch sử để tránh những va chạm vô ích và không cần thiết giữa hai quốc gia và hai dân tộc trong quá trình chia sẻ một tương lai chung trong vùng Đông Nam Á. Nếu những người Khmer quá khích tiếp tục đòi xét duyệt lại các đường biên giới theo nguyên tắc uti possidetis juris thì lãnh thổ Việt Nam kéo dài đến cảng Kompong Som (Sihanoukville) ngày nay. Lịch sử Đông Dương không thể bắt đầu từ sau khi Campuchia bị Pháp bảo hộ năm 1863, và đó cũng không phải là một ngày không vinh quang gì cho dân tộc Khmer.
    lionking_arc thích bài này.
  3. dienthai

    dienthai Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    21/03/2006
    Bài viết:
    2.949
    Đã được thích:
    13
    Bài này hay quá, nhiều thông tin lâu nay tui nghe được tản mát lâu nay được học giả Nguyễn Văn Huy gom lại. Thanks!
    Thôi chót thì chét, em đăng luôn phần cuối nhé?
    Nếu bài của bác được thả ra thì em sẽ xóa bài của mình.


    Về mặt lịch sử vùng đồng bằng sông Cửu long trước thuộc vào Chân lạp thì có điều gì phải bàn nữa. Nhung từ đó mà suy ra chủ quyền hiện tại thì không thể được. Bởi vì lịch sử các vương quốc hình thành trên bán đảo Đông dương (tức là vùng đất Thái lan, Lào, Cam pu chia, Nam Việt nam) có cùng chung một nét văn hoá. Đó là văn hoá ĐNA ảnh hưởng Ấn độ, bắt đầu từ các vương quốc Chàm và Phù Nam. Vương quốc Chàm đã hoàn toàn là nằm trong đất nước VN. Còn đất của Phù Nam cũ thì nay thuộc vào cả Thái lan, Lào, Cam pu chia, Việt nam. Vì thế đáng nhẽ cứ tiếp tục cái mặc cảm lịch sử « chiếm đất », thì người ta nên tự hào là có một nền văn hoá chung. Cái mặc cảm chiếm đất thực ra là một tâm lý tự tị. Tự ti bởi vì người ta chỉ nghĩ hẹp hòi rằng văn hoá Việt nam, lịch sử Việt nam là một cái gì đó bất biến, của người Kinh, bắt đầu từ cụ tổ Hùng vương. Điều đó đâu còn đúng nữa. Thậm chí trong chiếu xin cầu phong của vua Gia Long với nhà Thanh, một hình thức bình thường hoá quan hệ ngoại giao giống như là nhà nước VN hiện tại và Mỹ sau kháng chiến chống Mỹ, vua cũng đã nói rõ đất nước của mình, tức nhà Nguyễn, tức cha mẹ trực tiếp về lãnh thổ của nước VN hiện tại, bao gồm Đại Việt, Chiêm thành, Chân lạp cũ..Vậy mà tại sao tới ngày nay, người ta chỉ nhìn lịch sử VN như một extention của Đại Việt là thế nào.
    Đừng nghĩ rằng chỉ có người Kinh mới đóng góp hình thành nên nước VN. Một ví dụ rất gần đây thôi. Hoàng Văn Thụ, tổng bí thư ĐCS VN là người Tầy tương tự như anh Kim Đồng. Trong đội VN tuyên truyền giải phóng quân, hơn một nửa là người Tầy. Đại đoàn sao vàng, được coi là quả đấm thép của Quân đội nhân dân VN, lúc mới thành lập trên 2 trên 4 tiểu đoàn là người dân tộc ở Việt bắc.
    Như vậy không nên quan niệm rằng lịch sử VN chỉ là lịch sử của tộc người Kinh mà là lịch sử của một vùng đất, một nền văn hoá, trong đó những văn hoá, nhà nước « phi Đại Việt » đóng vai trò to lớn.
    Một ví dụ, Nếu xét về việc hình thành nhà nước về lịch sử, có ghi chép, thì nhà nước Lâm ấp là quốc gia đầu tiên hình thành ở VN. Ảnh hưởng của nó tới việc hình thành nhà nước Đại Việt không nhỏ. Vì sao ? Có ai đặt câu hỏi, tại sao sau khởi nghĩa Hai bà Trưng, cuộc đấu tranh giành độc lập của người Kinh chống lại các Triều địa TQ đều xuất phát từ vùng Thanh ?" Nghệ, tức là vùng Cửu chân, từ Bà Triệu trở đi. Nếu người ta không tính đến ảnh hưởng về khái niệm « độc lập ». Bởi vùng đất Thanh ?" Nghệ, vốn là vùng tranh chấp giữa TQ và Lâm Ấp.
    Nhà Lý nhà Trần có thể xây dựng được một identity về văn hoá được không, nếu thiếu những du nhập văn hoá Chàm, qua trao đổi, qua chiến tranh, ...Tại sao vua nhà Trần, vua nhà Lý lại cầu sư từ những vùng đất này, mặc dù thỉnh kinh đại tạng của nhà Tống ? Thăng long sẽ như thế nào nếu không có Thập tam trại, vốn là các làng tù binh Chiêm thành thời nhà Lý.
    Nếu không có việc ĐNA hoá, thông qua quan hệ với Chiêm thành, trước khi nhà Hậu Lê (Lê lợi) trở lại học TQ, thì cái identity văn hoá VN sẽ thế nào ?
    Sau này từ thế kỷ XVI, những đóng góp to lớn cho lịch sử VN cũng bắt đầu từ những triều đại « phương Nam »: Tây sơn, Nguyễn Gia long.
    Chỉ có điều do bị « loá mắt » bởi văn hoá TQ, nên trí thức VN mới bỏ quên một phần đóng góp của phương Nam vào Identity VN mà thôi. Cũng giống như bây giờ người ta loá mắt vì văn minh Mỹ vậy. Điều đó không có nghĩa là văn hoá TQ hay Mỹ dở, nó chỉ nói lên một điều là người ta đã không « fair play » trong việc đánh giá, nghiên cứu.
    Như vậy cách nghiên cứu LS ?" VH Việt nam phải bắt nguồn từ địa giới VN hiện tại, rồi đi ngược lại lịch sử tìm về « thuỷ tổ » của mình. LS-VH Việt nam có 3 thuỷ tổ : Đại Việt, Phù Nam, Chiêm thành. Trong đó Đại Việt, Chiêm thành là exlusive, còn lại Phù nam thì VN phải ăn chia với Thái, Lào, Cam pu chia.
    Thông qua Đại Việt mà văn hoá VN có nét Trung hoa. Thông qua Chiêm thành, Phù nam mà ta có văn hoá ĐNA, Ấn độ.
    Người tộc Khơ me ở VN là người Việt nam. Người Khơ me ở Cam pu chia là người Cam pu chia.
    Không có nhà nước Khơ me, cũng không có nhà nước Kinh. Trong lịch sử chưa bao giờ tồn tại những nhà nước như vậy, và ngày nay cũng thế.
    Được dienthai sửa chữa / chuyển vào 17:23 ngày 09/06/2008
  4. cavalryman

    cavalryman Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    29/09/2007
    Bài viết:
    553
    Đã được thích:
    0
    Thù là sao, nếu đúng nghĩa của từ này thì chỉ có 1 cách giải thích là bọn Khmer có nhiều người bị bệnh tâm thần hơn! Thực tế thì những vấn đề thù địch giữa 2 dân tộc này chỉ nói miệng là chính thôi chứ hiếm ai thể hiện ra bằng hành động. Kẻ mạnh miệng nhất có khi là kẻ rụt vòi nhất khi có chuyện .
  5. TranMinhkhochuoi

    TranMinhkhochuoi Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    16/10/2006
    Bài viết:
    1.082
    Đã được thích:
    2
    Em nghĩ Bác nhầm. Không có nói miệng đâu bác ạ. Bác nhìn thấy sự khốc liệt của chến tranh BG tây nam rồi. Bên box giáo dục quốc phòng cũng có.
    Link http://www10.ttvnol.com/forum/gdqp/429470.ttvn
    Bác ạ bác cứ hay phán lung tung. Không phán thì cũng đâu ai bảo bác câm.
  6. sinh_nham_the_ky

    sinh_nham_the_ky Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    03/01/2007
    Bài viết:
    353
    Đã được thích:
    0

    Bời vì Thái và Campuchia cùng 1 gốc văn hóa
    Việt và Cam thì khác
    Cốt lõi của sự kỳ thị ghét bỏ diệt chủng lẫn nhau giữa các dân tộc là văn hoá và máu mủ chứ còn gì nữa
    Được sinh_nham_the_ky sửa chữa / chuyển vào 20:09 ngày 09/06/2008
  7. sinh_nham_the_ky

    sinh_nham_the_ky Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    03/01/2007
    Bài viết:
    353
    Đã được thích:
    0
    Ừ mà nhân nói về văn hoá thì em càng ngày càng ghét như xúc đất đổ đi với cái văn hoá HVB phi nhân phản quốc mà lại còn đạo đức giả, không biết chữa thế nào thật ghê quá đi
    Ps : À với lại miền Nam có người Tàu di cư càng làm phân hóa văn hóa Việt Cam
    Được sinh_nham_the_ky sửa chữa / chuyển vào 20:16 ngày 09/06/2008
  8. sinh_nham_the_ky

    sinh_nham_the_ky Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    03/01/2007
    Bài viết:
    353
    Đã được thích:
    0
    Cái bài dài dài thế kia nói về cách thức ghi nhận lịch sử để chiêu hồi những người dân tộc thiểu số.
    Nói thế cũng được nhưng vai trò của người Kinh là chủ yếu, đặt ngang hàng với các dân tộc thiểu số là không chính xác lắm. Các dân tộc thiểu số chỉ đóng vai trò làm lính đánh nhau hay là bị giết mà thôi, có ai lãnh đạo quái đâu. Thỉnh thoảng cũng có người làm lãnh đạo như Mạnh hiện nay nhưng mà cũng phải leo trèo đấu đá mãi trong bộ máy người Kinh chứ có gì đâu
  9. TranMinhkhochuoi

    TranMinhkhochuoi Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    16/10/2006
    Bài viết:
    1.082
    Đã được thích:
    2
    NHỮNG HIỂU BIẾT MỚI VỀ NAM BỘ
    Nguyễn Văn Huy (Pháp)
    Những nhóm dân cư đầu tiên tại miền Nam
    Những danh xưng như Moat Chruk (Châu Đốc), Phsar Dek (Sa Đéc), Toek Khmau (Cà Mau), v.v. chỉ xuất hiện sau này khi người Khmer theo chân người Việt và người Minh Hương đến khai phá đồng bằng sông Cửu Long, từ giữa thế kỷ 17 đến cuối thế kỷ 19. Di tích xưa nhất của người Khmer : các chùa chiền có cùng niên đại với sự xuất hiện của người Hoa và người Việt, nghĩa là cách đây khoảng 300 năm.
    -----------------------------
    Hai bác Ếch và dienthai có biết gì về tác giả trên không? Uy tín cở nào? Bác í viết có thiên vị cho người Việt quá không? (Tại vì bác í là dân An nam mít)
    Cho em hoài nghi về đoạn trên vì theo các tài liệu nước ngoài
    khẳng định ở Nam bộ (khmer Krom theo cách nói của người K) cư dân đầu tiên là người Khmer rồi đến người Hoa sau mới tới người Việt
    @bác Thế kỷ 21BC: HVB là gì vậy?Huy chương Bạc hay vi rút viêm gan B?
  10. dangnghia

    dangnghia Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/05/2003
    Bài viết:
    1.800
    Đã được thích:
    0
    Các bác gọi người ta là Miên người ta còn thù hơn đấy.
    Nghe bác nào trong diễn đàn quansuvn bảo là gọi người Kam là người Miên như kiểu bọn Tầu gọi dân ta là An Nam hay bọn Pháp gọi là Annamit í.
    Còn lịch sử, trước khi Vn làm thịt Chăm pa thì quốc gia này liên tục oánh vào biên giới VN, gây ra đau thương và mất mát cho dân chúng mới đến định cư (nhơ mon K đỏ làm với dân biên giới 3 thập kỷ trước). Xong rồi lại còn đc bọn Tầu và bọn khác "giáo dục" qua những thùng hàng viện trợ trá hình (đọc ở quansuvn thấy bọn này viện trợ cho dân chả thấy đâu, toàn viện trợ cho bọn đỏ)

Chia sẻ trang này