1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Tôn giáo và dân tộc (không bàn chuyện thời sự - xem thông báo của Mod trang 47)

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi fddinh, 01/09/2008.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. fddinh

    fddinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/07/2006
    Bài viết:
    2.342
    Đã được thích:
    1
    Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo Thứ ba,  25/10/2005
    Người Thái và người Hmôngvới đạo công giáo và đạo tin lànhở miền núi Thanh Hóa
    (Số 4(34)/2005)  Miền núi Thanh Hóa là một khu vực rộng lớn với diện tích 7.893 km2, chiếm 3/4 diện tích toàn tỉnh, có 11 huyện với 220 xã, 1.878 làng bản trong đó có 105 xã vùng cao, 15 xã biên giới. Cùng với những lớp cư dân bản địa đầu tiên, quá trình thiên di và giao thoa văn hóa trong suốt chiều dài lịch sử đã tạo nên những dân tộc thiểu số có bản sắc văn hóa riêng ở miền núi Thanh Hóa ngày nay. Đó là các tộc người Thái, Mường, Thổ, Hmông, Dao, Khơ Mú... Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi trình bày vấn đề: Sự biến đổi tôn giáo, tín ngưỡng trong đời sống tinh thần của người Thái và người Hmông ở khu vực này của tỉnh Thanh Hoá.
    1. Người Thái ở miền núi Thanh Hoá với đạo Công giáo
    Theo tổng điều tra dân số ngày 1 - 4 -1999, người Thái ở miền núi Thanh Hóa có số dân 210.908 người với hai nhóm tự gọi là Tày và Tày Dọ. Nhóm tự gọi là Tày phân bố chủ yếu ở các huyện Quan Hoá, Quan Sơn, Mường Lát, Bá Thước, Lang Chánh?; nhóm tự gọi là Tày Dọ tập trung chủ yếu ở các huyện Thường Xuân, Như Xuân, Như Thanh? Một bộ phận lớn của nhóm này sinh sống trên địa bàn miền núi tỉnh Nghệ An (các huyện Quế Phong, Quỳ Châu, Quỳ Hợp...). Các nhóm Thái đến đất Thanh Hoá từ các tỉnh Sơn La, Lai Châu, Hoà Bình và cả ở Lào sang. Thời gian di cư của các nhóm này không đồng nhất , nhóm có mặt sớm nhất cách đây khoảng 600 - 700 năm(1).
    Nếu so sánh ta sẽ thấy nhóm tự gọi là Tày (cùng Tày Thanh, Tày Mười của Nghệ An), về mặt ngôn ngữ và văn hoá gần gũi với người Thái Đen ở Tây Bắc. Nhóm tự gọi là Tày Dọ có nhiều nét tương đồng với người Thái Trắng ở Tây Bắc. ?oRiêng danh xưng Tày Dọ có thể có mối liên hệ với các địa danh Mường Xo (Lai Châu), Mường Do (Vân Nam - Trung Quốc) xưa kia?(2). Cũng có ý kiến cho rằng: ?oDọ? có nghĩa là tạm, chẳng hạn ?odú dọ? (ở tạm). Rất có thể ?oDọ? là để chỉ những bộ phận Thái mới chuyển cư đến, lúc đầu chỉ xin ở tạm, sau đó mới định cư lâu dài(3). Về danh xưng Tày Đèng, qua khảo sát của chúng tôi cho thấy người Tày Đèng là người Thái ở Mường Đèng. Nghĩa của ?oĐèng? (hay Đanh) là ?ođỏ?. Do vậy, lâu nay chúng ta nhầm và gọi là Thái Đỏ như gọi Thái Đen, Thái Trắng. Nay xác định nhóm Thái này tự nhận là Tày Đăm (Thái Đen)(4).
    Trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, ở miền núi Thanh Hóa tồn tại 40 mường(5) của người Thái. Trong số đó có 4 mường lớn, tiêu biểu cho 4 tiểu vùng không gian văn hóa của người Thái ở miền núi Thanh Hóa là mường Ca Da (huyện Quan Hóa), mường Khoòng (huyện Bá Thước), mường Đèng (huyện Lang Chánh) và mường Chiếng Ván (huyện Thường Xuân)(6).
    Đạo Công giáo được du nhập vào Thanh Hóa (huyện Tĩnh Gia) từ năm 1627(7), nhưng gần 250 năm sau, năm 1876 mới du nhập được vào vùng người Thái ở miền núi Thanh Hóa (vùng mường Đèng thuộc huyện Lang Chánh)(8). Nếu xét về nguyên nhân theo đạo Công giáo của người Thái ở mường Đèng, ta sẽ thấy một bộ phận nhỏ (Tạo(9) và chức dịch) tự nguyện theo đạo Công giáo vì quyền lợi cá nhân. Còn lại, đa số người lao động Thái theo đạo vì mưu sinh. Chẳng hạn, nếu thiếu tiền, hết thóc thì ra nhà thờ vay và không phải trả lãi. Khi ốm đau, bệnh tật, ra nhà thờ khám bệnh và lĩnh thuốc (cho không) về dùng. Nếu có điều gì oan ức mà Tạo mường không giải quyết hoặc giải quyết không thoả đáng thì người dân có thể ra nhà thờ nhờ linh mục can thiệp. Trường học do nhà thờ mở (học đến lớp 3), mỗi bản ở mường Đèng được cử một học sinh (thường là con em của Tạo), các mường lân cận như mường Ngày, mường Đôn (nay thuộc xã Lâm Phú), mường Giao Lão (nay thuộc xã Giao An) đều thuộc huyện Lang Chánh..., mỗi mường được cử một học sinh. Mặc dù theo đạo Công giáo nhưng người dân không từ bỏ tín ngưỡng truyền thống của mình. Chẳng hạn, khi trong nhà có người chết thì phải mời linh mục đến "rửa tội", nhưng sau đó lại mời mo và tiến hành tang lễ theo phong tục truyền thống; trước khi cưới phải ra nhà thờ làm lễ và khi về nhà lại tổ chức cưới bình thường; khi Tạo mường phạt vạ ai thì người đó cũng phải ra nhà thờ "xưng tội" để linh mục "rửa tội?(10).
    Vào những thập kỉ đầu của thế kỉ XX, Giáo phận Công giáo Thanh Hoá bao gồm tỉnh Thanh Hóa và tỉnh Hủa Phăn (Lào), ở khu vực có người Thái sinh sống thuộc các huyện Lang Chánh, Thường Xuân (đều là các huyện miền núi có đông người Thái cư trú và có đường biên giới quốc gia với Lào) đã từng có nhà thờ của đạo Công giáo.
    Trong qúa trình tồn tại, theo thời gian và những biến động của lịch sử, xã hội, các tín đồ đạo Công giáo là người Thái đã dần ?onhạt đạo? và hiện nay đa số đã trở về với tôn giáo, tín ngưỡng truyền thống của dân tộc mình.
  2. fddinh

    fddinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/07/2006
    Bài viết:
    2.342
    Đã được thích:
    1
    2. Người Hmông ở miền núi Thanh Hoá với đạo Công giáo và đạo Tin Lành
    Tìm hiểu về lịch sử cư trú của người Hmông ở miền núi tỉnh Thanh Hóa, tác giả H. Le Breton viết: ?oNgười ta gặp trên vùng núi tỉnh Thanh Hóa một số người Mèo và Mán. Đấy là những cư dân mới từ Trung Quốc dời sang Đông Dương gần đây nhất, vào khoảng giữa thế kỉ trước (tức thế kỉ XIX - VTG), hình như là sau các cuộc tàn sát man rợ của người Tàu vào thời kì đó ở vùng Quý Châu? Người ta luôn thấy họ trên các đỉnh núi cao. Do thói quen du canh du cư, rất khó có số lượng của họ. Khi đất khai thác bởi phương pháp làm rẫy không còn có thể gieo trồng được nữa, toàn bộ lạc di chuyển đi đốt một góc rừng mới. Trong tỉnh Thanh Hóa, họ tụ cư gần vùng Mường Lát, tại các tổng Lực Canh và Hữu Thuỷ của châu Quan Hóa?(11). Cũng có ý kiến cho rằng người Hmông di cư tới miền núi Thanh Hóa và Nghệ An sớm hơn: ?o... Người Mèo (tức người Hmông - VTG) ở khu vực miền núi Thanh - Nghệ tập trung đông nhất là vùng mường Xén (Nghệ An) và Quan Hóa (Thanh Hóa). Họ từ các vùng Thượng Lào và Tây Bắc Việt Nam di cư vào các địa phương trên cách đây khoảng chừng hơn 200 năm. Người Mèo ở miền núi Thanh - Nghệ gồm có hai ngành: ngành Mèo Hoa còn gọi là Mèo Lài và ngành Mèo Trắng còn gọi là Mèo Khao?(12).
    Người Hmông có mặt ở miền núi Thanh Hóa từ bao giờ? Người già trong làng kể lại rằng tổ tiên của họ tới vùng này khoảng 5 - 7 đời. Nếu một đời người khoảng 20 - 25 năm (sinh ra, lấy vợ, có con) thì người Hmông di cư đến Thanh Hóa sớm nhất khoảng giữa thế kỉ XIX và muộn nhất khoảng những thập kỉ đầu của thế kỉ XX (13).
    Trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, người Hmông ở Thanh Hóa có khoảng 500 người (14); năm 1960 có 1.235 người (15); theo điều tra dân số năm 1979 có 2.606 người; năm 1985 có 3.066 người; năm 1989 có 3.638 người với 3 ngành là Hmông Trắng, Hmông Hoa, Hmông Đen, và cư trú thành 14 bản ở 3 xã là Pù Nhi (12 bản), 2 xã Tam Chung và Quang Chiểu mỗi xã có 1 bản (các xã này đều thuộc huyện Quan Hóa)(16).
    Từ những năm đầu thập kỉ 90 thế kỉ XX, dòng người Hmông di cư tự do từ các tỉnh phía Bắc như Sơn La, Lào Cai, Yên Bái, Hà Giang, Cao Bằng... tràn vào các huyện Mường Lát và Quan Hóa của tỉnh Thanh Hoá. Chỉ trong vòng 10 năm (1989 - 1999) số dân Hmông đã tăng đột biến, từ 3.638 người lên 13.863 người (theo tổng điều tra dân số ngày 1 - 4 - 1999). Người Hmông chọn những nơi rừng đầu nguồn, đất tốt, có nguồn nước? trong đó tập trung chủ yếu ở 3 xã Trung Lý, Mường Lý, Tam Chung (huyện Mường Lát) và 2 xã Phú Sơn, Trung Thành (huyện Quan Hóa). Do cuộc sống nghèo đói, phương thức canh tác của người Hmông chủ yếu là đốt rừng làm rẫy nên đã làm cho tài nguyên rừng ngày càng cạn kiệt, môi trường tự nhiên ngày càng bị tàn phá? Việc di cư tự do đã tác động tới nhiều mặt của đời sống chính trị, xã hội, an ninh, quốc phòng và gây nên những biến đổi nhất định trong văn hóa  truyền thống của tộc người này.
    Người Hmông bản địa ở miền núi Thanh Hóa không theo đạo Công giáo và đạo Tin Lành. Hai tôn giáo này theo dòng người Hmông di cư tự do từ các tỉnh Lào Cai, Yên Bái, Lai Châu, Hòa Bình, Cao Bằng? vào miền núi Thanh Hóa trong những năm từ 1989 đến nay, với số lượng ngày càng lớn và phạm vi ngày càng rộng.  
    Đến tháng 4 - 2002, trong tổng số 8.526 khẩu người Hmông di cư tự do có 733 hộ/4.579 khẩu theo đạo Công giáo và đạo Tin Lành.
    Các hộ theo đạo Công giáo có 163 hộ/1.102 khẩu, tập trung chủ yếu ở bản Suối Tôn (xã Phú Sơn, huyện Quan Hóa) và bản Ba Búa (xã Trung Lý, huyện Mường Lát); ngoài ra còn có một số hộ ở xen trong các bản Chánh Cộng, Cá Giáng (xã Trung Lý) và xã Trung Thành (huyện Quan Hóa).
    Các hộ theo đạo Tin Lành có 570 hộ/3.477 khẩu và trong 5 xã có người Hmông di cư tự do đều có hoạt động của đạo Tin Lành, nhưng tập trung chủ yếu ở 19 bản của 3 xã Tam Chung, Mường Lý, Trung Lý (huyện Mường Lát).
    Hầu hết các gia đình người Hmông theo đạo Tin Lành không có bàn thờ tổ tiên. Vào chủ nhật hằng tuần, tất cả người Hmông theo đạo đều không đi làm mà ở nhà nghe đài đọc kinh và cầu nguyện. Cũng có khi họ tập trung về một gia đình nào đó để sinh hoạt tôn giáo.
    Trong tất cả các bản có đạo Tin Lành đã thành lập chi hội có Ban Chấp sự và trưởng, phó nhóm theo lứa tuổi. Mỗi Ban Chấp sự hay nhóm đạo có thư kí và thủ quỹ. Điểm đáng chú ý là tổ chức của đạo Tin Lành ngày càng được củng cố, mặc dù số người theo đạo không tăng. Tổ chức này luôn tìm mọi cách để cô lập những người không theo đạo: không có quan hệ hôn nhân, không có sự giúp đỡ giữa người Hmông theo đạo và người Hmông không theo đạo. Thậm chí, có những bản còn đặt quy ước: trong bản có nhiều hộ theo đạo thì số còn lại buộc phải theo đạo; hộ nào mới đến phải theo đạo, nếu chưa theo đạo phải chấp thuận theo đạo mới được cư trú. Quy ước này do một số đối tượng đứng đầu nhóm hay Ban Chấp sự đặt ra và họ khống chế hoạt động của bản. Một số bản như bản Xì Lồ, bản Muống (xã Mường Lý) thì trưởng bản là trưởng nhóm đạo nên việc này được thực hiện triệt để(17).
    Có thể nói rằng ?ongười Hmông luôn bị động trong qúa trình tiếp nhận đạo Tin Lành. Cũng do kém hiểu biết mà người Hmông còn bị o ép, cưỡng chế, thậm chí còn bị hãm hại vì lí do tôn giáo... Người Hmông không thể nhận biết được mục đích của những người truyền đạo, mà chỉ thấy tôn giáo mới có lợi về vật chất, thuận tiện, đơn giản, không bị ràng buộc khắt khe thì dễ nghe theo. Họ không biết được mình đang bị lợi dụng, mê hoặc bởi những hình tượng siêu hình mê tín...?(18). Sở dĩ có một bộ phận người Hmông ở miền núi Thanh Hoá từ bỏ tín ngưỡng truyền thống để theo đạo Công giáo và đạo Tin Lành, theo chúng tôi, vì những nguyên nhân dưới đây.

    Một là, đồng bào các dân tộc thiểu số, đặc biệt là ngư­ời Hmông, cư­ trú ở những vùng biên giới, núi cao, hệ thống điện, đường, trư­ờng, trạm không có hoặc thiếu, nền kinh tế chủ yếu là tự cấp tự túc, đời sống vật chất, tinh thần... gặp rất nhiều khó khăn. Trong điều kiện đó, đồng bào dễ bị tuyên truyền, vận động theo đạo.
    Hai là, phong tục của người Hmông còn rất phức tạp, rư­ờm rà trong nghi thức và tốn kém trong chi phí, đặc biệt là trong đám cưới, đám ma... Đây là một gánh nặng kinh tế khi họ còn chật vật với "bát cơm manh áo" hằng ngày. Theo đạo, đồng bào hi vọng sẽ trút bỏ đư­ợc gánh nặng về kinh tế này. Mọi nghi lễ đư­ợc tổ chức đơn giản, gọn nhẹ ở những tín đồ theo đạo Công giáo hoặc đạo Tin Lành.
    Ba là, ngư­ời Hmông là cư­ dân nông nghiệp trồng lúa nư­ớc ở trung lư­u sông Dư­ơng Tử, với một quốc gia khá hùng mạnh, trình độ phát triển khá cao. Do những nguyên nhân của lịch sử hàng nghìn năm, ngư­ời Hmông trở thành cư­ dân du canh du cư­ với nền kinh tế nư­ơng rẫy và mất đi vốn văn hoá gốc của mình. Họ đã bị lạc hậu hoá, mặc cảm hóa với thân phận của mình và bị hẫng hụt trong tâm lí, niềm khát khao chính là sự huy hoàng của quá khứ tộc người(19).
    Bốn là, toàn bộ vùng Đông Nam Á lục địa và nam Trung Quốc có khoảng 3 triệu ngư­ời Hmông, nh­ưng họ lại cư­ trú trên một địa bàn rất rộng lớn của vùng biên giới 5 n­ước là Trung Quốc, Việt Nam, Lào, Thái Lan, Myanma. Không gian sinh tồn và tâm lí cố kết cộng đồng rất chặt chẽ đã làm cho ngư­ời Hmông có ý thức về đồng tộc, thân tộc nổi trội hơn ý thức về chính trị, ranh giới quốc gia. Điều này thật ngẫu nhiên trùng hợp với quan niệm của những nhà truyền giáo, bởi họ rất mong tôn giáo của họ vư­ợt qua mọi ranh giới chính trị, lãnh thổ quốc gia(20).
    Năm là, ng­ười Hmông có truyền thống lâu đời về thờ cúng tổ tiên, như­ng một bộ phận c­ư dân bị khủng hoảng niền tin do "không thấy tổ tiên phù hộ cho đỡ khổ". Họ có nhu cầu về một "niềm tin" mới ở một "đấng tối cao có quyền năng" có thể giúp họ khỏi đói khổ. Do vậy, đồng bào từ bỏ tín ng­ưỡng truyền thống để đến với một tôn giáo mới là "Vàng Chứ" - sự hoá thân của Giêsu.
    Sáu là, chiến dịch truyền đạo Tin Lành vào đồng bào Hmông lúc đầu được các nhà truyền giáo phát qua đài bằng tiếng Hmông từ đài phát thanh đặt ở nước ngoài. Ban đầu chư­ơng trình của đài này chỉnhững bài hát, những làn điệu dân ca Hmông, dần dần họ mới hư­ớng dẫn và giảng giải một số nghi lễ, giáo lí, dạy thánh ca đã đ­ược dân ca hoá nên ngư­ời nghe dễ hiểu, dễ nhớ. Bên cạnh đó, có một số ngư­ời Hmông đã theo đạo đi sâu vào các bản làng để giảng đạo nên đồng bào càng dễ tin và dễ theo.
    Bảy là, chúng ta có nhiều cơ quan làm công tác dân vận, dân tộc, tôn giáo, nhưng nhiều chủ trư­ơng, chính sách của Đảng, Nhà nước, ngư­ời dân không nắm được, đặc biệt là ở các vùng cao. Mặt khác, đội ngũ cán bộ dân tộc cơ sở còn thiếu và yếu, trình độ dân trí rất thấp. Theo số liệu điều tra năm 1999 có 68,99% ngư­ời Hmông mù chữ (tỉ lệ % so với tổng số dân từ 5 tuổi trở lên của từng dân tộc).
  3. fddinh

    fddinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/07/2006
    Bài viết:
    2.342
    Đã được thích:
    1
    3. Đôi lời nhận xét
    Trước hết, quá trình du nhập của đạo Công giáo vào vùng người Thái ở miền núi Thanh Hóa gắn liền với việc tìm kiếm thị trường, xâm lược, bình định và thống trị của Pháp ở Việt Nam nói riêng và Đông Dương nói chung trong thế kỉ XIX và những thập kỉ đầu của thế kỉ XX.

    Thứ hai, quá trình du nhập của đạo Công giáo và đạo Tin Lành vào vùng người Hmông ở miền núi Thanh Hóa gắn liền với dòng người Hmông di cư tự do từ các tỉnh miền núi phía Bắc vào miền núi Thanh Hóa từ năm 1989 đến nay. Hiện nay qúa trình này vẫn đang diễn biến phức tạp và tác động tới nhiều mặt của đời sống chính trị, xã hội, văn hóa, an ninh, quốc phòng? ở miền núi Thanh Hóa.
    Thứ ba, dân tộc và tôn giáo là những vấn đề phức tạp và nhạy cảm. Giải quyết vấn đề này cần quán triệt đường lối, quan điểm của Đảng và pháp luật của Nhà nước về dân tộc và tôn giáo, đồng thời, phải căn cứ vào tình hình cụ thể của từng vùng, từng địa phương, từng dân tộc. Có như thế công tác vận động quần chúng xây dựng đời sống văn hoá mới ở từng thôn, bản mới đạt được kết quả mong muốn, góp phần thực hiện thành công chính sách xoá đói, giảm nghèo ở các vùng dân tộc miền núi, trong đó có miền núi tỉnh Thanh Hoá ./.
     Vũ Trường Giang(*)
    ______________________
     *. ThS., Phân viện Hà Nội, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.
    1. Lê Sỹ Giáo. Lần tìm cội nguồn lịch sử người Thái Thanh Hóa. Tạp chí Dân tộc học, số 2 - 1995.
    2. Lê Sỹ Giáo. Đặc điểm phân bố các tộc người ở miền núi Thanh Hóa. Tạp chí Dân tộc học, số 2 - 1991, tr. 37 - 43.
    3. Vi Văn An. Góp thêm tư liệu về tên gọi và lịch sử cư trú của các nhóm Thái vùng đường 7 tỉnh Nghệ An. Tạp chí Dân tộc học, số 2 - 1993, tr. 52 - 56.
    4. Vũ Trường Giang. Đôi điều suy nghĩ về truyền thống lịch sử và tính cách con người vùng Thanh - Nghệ - Tĩnh. Tạp chí Nghiên cứu con người, số 6 - 2003, tr. 39 - 44.
    5. Mường là đơn vị hành chính cao nhất trong tổ chức xã hội truyền thống của người Thái ở miền núi Thanh Hóa.
    6. Xem thêm: Vũ Trường Giang. Không gian văn hóa Thái và phong trào Cần Vương chống Pháp của người Thái ở miền núi Thanh Hóa cuối thế kỉ XIX. Tạp chí Khoa học Xã hội, số 11 - 2004, tr. 78 - 82.
    7. Hoàng Tuấn Phổ. Một số ý kiến về thờ cúng, tín ngưỡng tôn giáo ở Thanh Hóa. Trong: Văn hóa làng Thanh Hóa (Kỷ yếu Hội thảo khoa học), Sở Văn hóa Thông tin Thanh Hóa, 1990, tr. 207.
    8. R. Robert. Notes sur les Tày dèng de Lang Chánh (Thanh Hóa - An nam), Hanoi imprimerie d'' Extrême - Orient, 1941, p. 119.
    9. Tạo là người đứng đầu Mường.
    10. Xem thêm: Vũ Trường Giang. Thiết chế bản mường của người ?oTày Đèng? ở Lang Chánh (Thanh Hóa). Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam á, số 3 - 2000, tr. 74.
    11. Le Breton. La Province de Thanh Hoa. Hanoi, La Revue Indochinoise, 1918, P. 20.
    12. Mạc Đường. Các dân tộc miền núi Bắc Trung Bộ - Sự phân bố dân cư và những đặc trưng văn hóa. Nxb Khoa học, Hà Nội 1964, tr. 43 - 44.
    13. Tài liệu điền dã của tác giả tại huyện Quan Hóa năm 1994.
    14. Ban Dân tộc Thanh Hóa. Giới thiệu 40 năm dân tộc Hmông Thanh Hóa (1945 - 1985). Hồ sơ số 57, năm 1985, Lưu trữ UBND tỉnh Thanh Hóa.
    15. Mạc Đường. Sđd, tr. 21.
    16. Năm 1996, huyện Quan Hóa được chia thành 3 huyện: Quan Hóa, Quan Sơn, Mường Lát.
    17. Báo cáo của Ban Dân tộc và Miền núi tỉnh Thanh Hóa, tháng 10 năm 2002.
    18. Lương Thị Thoa. Quá trình du nhập đạo Tin Lành - Vàng Chứ vào dân tộc Hmông trong những năm gần đây. Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 2 - 2001, tr. 55.
    19. V­ương Duy Quang. Vấn đề ngư­ời Hmông theo Kitô giáo hiện nay. Tạp chí Dân tộc học, số 4 - 1994, tr 40, 42.
    20. V­ương Duy Quang. Bài đã dẫn, tr 40, 42.
    --------------------------------------------------------------------------------© Copyright 2003-2004 vae.org.vn, All rights reserved.® Ghi rõ nguồn "www.vae.org.vn" khi bạn phát hành lại thông tin từ website này. 
  4. fddinh

    fddinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/07/2006
    Bài viết:
    2.342
    Đã được thích:
    1
    Tản mạn một chút về Kinh Thánh và Darwin
    Bài này được chuyển qua đây: http://ttvnol.com/forum/ThaoLuan/1138258/trang-13.ttvn#14598797, cảm phiền Admin, Mod nào đi tuần thì chuyển giúp mấy bài phía sau sang của CoDep và ngochai12a2 sang đó cho đúng với chủ đề, và xóa luôn bài này hộ.
    Xin cảm ơn!
    Hoặc các bạn có bài có thể tự chuyển cũng được!
    Được FDDinh sửa chữa / chuyển vào 16:07 ngày 23/02/2009
  5. fddinh

    fddinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/07/2006
    Bài viết:
    2.342
    Đã được thích:
    1
    Tại đây, http://ttvnol.com/f_533/1093605/trang-4.ttvn#13666698 những tài liệu mà Công giáo gọi là "Bình Tây Sát Tả" hay "Bách hại Công giáo" mà tôi đăng tải hay dẫn link đều thường lên án gay gắt do chính sách cấm đạo của nhà Nguyễn, và đặc biệt nhấn mạnh sự độc ác của vua Minh Mạng đối với giáo sĩ, giáo dân đạo Thiên Chúa và gán cho ông những cái tên thật xấu xa: "tên bạo chúa", "kẻ khát máu", "tay sai của quỷ Satan", "Néron của Việt Nam", v.v?
    Trong thời gian qua, thông qua những tư liệu lịch sử cụ thể, nhất là những tư liệu xung quanh vụ vua Minh Mạng cho đòi các giáo sĩ thừa sai Châu Âu về Huế, mà tôi sưu tầm được, hy vọng sẽ đưa ra một cái nhìn toàn diện hơn, khách quan hơn về thái độ của vua Minh Mạng đối với đạo Thiên Chúa.
    Sau khi lên ngôi được một số năm, vua Minh Mạng ban hành các sắc chỉ thể hiện một chính sách cấm đạo Thiên Chúa khá chặt chẽ, có hệ thống và có định hướng rõ rệt.
    Các sắc chỉ cho thấy, ông không có ý định dùng ngay các biện pháp bạo lực để tiêu diệt đạo Thiên Chúa mà trước mắt tìm cách hạn chế tới mức tối đa sự lan rộng của đạo này và chỉ dùng đến biện pháp cưỡng chế khi cần thiết.
    Để thực hiện ý đồ đó, đối với giáo dân, ông chủ trương trước hết nên dùng biện pháp giáo dục để họ quay trở lại với các tôn giáo, tín ngưỡng, tập tục truyền thống. Nhằm hỗ trợ cho biện pháp này, ông biên soạn Thập điều giáo huấn (đã đăng tại link trên, được diễn giải theo góc nhìn Công giáo, từ tài liệu của Công giáo), cho rao giảng rộng rãi trong nhân dân. Nhưng biện pháp này tỏ ra kém hiệu quả nếu không muốn nói là vô hiệu, số người theo đạo ngày càng đông thêm. Vào những năm 30 thế kỉ XIX, nhất là sau cuộc khởi loạn của Lê Văn Khôi (1833), Minh Mạng đã cho  thi hành những cuộc bắt đạo ráo riết, gây nhiều khó khăn và thiệt hại cho Giáo hội Thiên Chúa giáo ở Việt Nam. Tuy nhiên, do sự  khôn khéo của giáo dân và chức sắc của các họ đạo, cũng như một số yếu tố khách quan khác, sự thiệt hại không quá lớn và đã không xảy ra những cuộc sát đạo hàng loạt. Giáo hội Thiên Chúa giáo Việt Nam vẫn phát triển (Xem thêm: Nguyễn Văn Kiệm. "Vua Minh Mạng có phải là Néron của Việt Nam. T/c Xưa và Nay, số 40 năm 1997 và "Sự du nhập của Đạo Thiên Chúa vào Việt Nam từ thế kỉ XVII đến thế kỉ XIX". Hội Khoa học lịch sử Việt Nam xuất bản năm 2001). Vào năm 1800, số giáo dân trong cả nước là 310.000; đến năm 1840, nghĩa là 1 năm trước khi Minh Mạng chết, số giáo dân trong cả nước đã là 420.000, tức tăng thêm 110.000 người (Số liệu của Encyclopedia of Religions  and Ethics, tập VIII, New York, 1915, trang 718 và 719).
    Đối với các giáo sĩ thừa sai ngoại quốc, Minh Mạng ra lệnh: 1- Kiểm soát chặt chẽ các tàu buôn ra vào các hải cảng ngăn không cho các giáo sĩ thừa sai ngoại quốc xâm nhập đất liền; 2- Lệnh cho các giáo sĩ thừa sai ngoại quốc đã có mặt ở Việt Nam phải ở yên tại nhiệm sở, không được tự do đi lại truyền đạo nếu không có giấy phép của chính quyền; 3- Lệnh cho các giáo sĩ thừa sai hiện đang có mặt ở Việt Nam phải về tập trung ở Huế với lí do vua cần họ để phiên dịch những văn kiện, tài liệu bằng tiếng nước ngoài.
    Mục đích của những biện pháp này thực chất là nhằm tước bỏ phần đầu não - các vị chủ chăn - của Giáo hội Thiên Chúa giáo Việt Nam để nó tự bị tiêu diệt dần dần.
    Về việc tập trung các thừa sai ngoại quốc về Huế, Nhà nước lệnh cho các quan phủ, huyện ở các tỉnh, nếu phát hiện được thừa sai ngoại quốc, phải bắt giải về kinh đô; giáo sĩ nào bằng lòng chấp hành lệnh sẽ được thưởng 3 nén bạc, tương đương 246 francs (hồi đó cứ 3 francs tiền Pháp đổi được một quan tiền Việt).
    Tuy nhiên, các thừa sai ở phía Bắc không ai chấp hành lệnh này và đều đi trốn lánh.
    Riêng mấy giáo sĩ thừa sai ở phía Nam như Taberd, Gagelin, Odorico, v.v? có lẽ tin vào sự bảo lãnh của Tả quân Lê Văn Duyệt, nên đã về Huế năm 1827.
    Ở đây, các thừa sai này được đón tiếp nồng hậu, được sắp xếp nơi ăn ở chu đáo, cử người hầu hạ, phát cho mỗi người hằng tháng 20 quan tiền và 5 hộc gạo (mỗi hộc khoảng 13 lít). Ai ốm đau đều được thày thuốc đến chăm sóc, chữa bệnh.
    Về công việc, trong thực tế, thi thoảng Minh Mạng cũng nhờ các thừa sai dịch một số giấy tờ, một vài đoạn sách, giải thích một số bản đồ, một số sự kiện lịch sử thế giới, các cuộc cách mạng Phương Tây hay các nhân vật lịch sử nổi tiếng như Napoléon I chẳng hạn.
    Ngoài ra, các thừa sai được hoàn toàn nghỉ ngơi, đi lại tự do; song khi được biết các vị này vẫn lén lút đến các họ đạo để làm việc đạo, thì Minh Mạng cử các tốp lính đến gác ngày đêm và theo dõi từng bước chân của họ.
    Vào giữa năm 1828, cụ thể là vào tháng 6, do sự can thiệp của Lê Văn Duyệt, sự thỉnh cầu của các thừa sai và cũng là do lòng khoan dung của vua Minh Mạng, các giáo sĩ thừa sai đã đến Huế, nay được trở về nhiệm sở với điều kiện là phải chịu sự kiểm soát của chính quyền địa phương đúng theo pháp lệnh đã ban hành.
    Kể từ đó cho đến khi Lê Văn Duyệt chết (1832), khởi loạn của Lê Văn Khôi bùng nổ (1833), chính sách cấm đạo của nhà nước phong kiến Nguyễn đã dịu đi rất nhiều: các giáo sĩ thừa sai bị bắt buộc phải về tập trung ở Huế, việc hành đạo của giáo dân trong cả nước diễn ra thuận lợi. Tình hình chỉ căng thẳng trở lại khi trong cuộc khởi loạn của Lê Văn Khôi thấy có mặt của Thừa sai Marchand và sự tham gia của một số giáo dân.
    Từ năm 1833 đến năm 1840 đã có một số giáo sĩ thừa sai bị bắt, bị xử tử hình hoặc chết trong tù, vào những tình huống nhất định, song chủ yếu là do vi phạm pháp lệnh cấm đi lại tự do giảng đạo: Gagelin (1833), Marchand (1835), Cornay (1837), Jaccard và Barie (1838), Delamothe (1840), v.v?
    Để minh họa cho tình hình đã nêu ở trên, bài sau tôi sẽ trích đăng một số bản dịch  những đoạn lấy trong thư của những người trong cuộc gửi về cho các nhân vật quan trọng trong Giáo hội ở Pháp và một số tài liệu do Hội truyền bá Đức tin phát hành miêu tả diễn biến vụ tập trung các thừa sai về Huế của vua Minh Mạng, vụ việc mà cuối cùng đã biến thành cái gọi là thời kỳ "Bách hại Công giáo".
  6. dinhphdc

    dinhphdc Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    19/09/2008
    Bài viết:
    2.086
    Đã được thích:
    7
    Công giáo và Việt Nam
    Trong 300 năm đầu của kỷ nguyên, Trái đất chưa có đạo Công Giáo mà chỉ có đạo Kitô nguyên thủy (Early Christianity). Tín đồ Kitô Giáo nguyên thủy không xây nhà thờ, không có ảnh tượng, không có hệ thống tu sĩ, không tin Đức Mẹ đồng trinh. Họ tụ họp nhau trong các phòng hội để đọc Thánh Kinh và noi gương cuộc sống của Chúa Jesus mà họ tin là Đấng Cứu Thế.
    Kinh Thánh nói rõ Chúa Jesus là con trai đầu của Đức Mẹ chứ không phải là con trai duy nhất của Người. Trưởng nam Jesus có 4 em trai và 3 em gái. Em trai đầu của Chúa Jesus tên James làm giáo chủ đạo Kitô tại Jerusalem vào giữa thế kỷ I. Đức Mẹ có tới 8 người con làm sao còn đồng trinh được? Vì vậy tín điều Đức Mẹ Đồng Trinh là một điều vừa phản tự nhiên vừa khôi hài quái đản. Mọi vấn đề về đức tin Kitô trở nên phức tạp và gây ra các vụ tranh cãi, thậm chí gây ra chiến tranh đẩm máu là do tham vọng của Đế Quốc La Mã. Đứng đầu bởi Hoàng Đế Constantine The Great.
    Sau hơn 300 năm, các hoàng đế La Mã ra sức diệt đạo Kitô nhưng đạo này vẫn bành trướng ra khắp đế quốc. Điều nguy hiểm là những đoàn quân Hung Nô (Mông Cổ) rất đông đảo và hùng mạnh đang đe dọa tràn ngập toàn đế quốc. Dân chúng đa số theo đạo Kitô chẳng những không chịu đi lính cho đế quốc La Mã mà còn sẵn sàng hợp tác với địch. Do đó, năm 313, Constantine ra lệnh bãi bỏ việc cấm đạo và chính thức công nhận đạo Kitô là đạo của toàn đế quốc. Ngày 20/5/325, Constantine ra lệnh triệu tập hội nghị các giám mục họp tại Nicaea (Thổ Nhĩ Kỳ) để thống nhất các giáo phái Kitô bằng cách buộc mọi người phải chấp nhận một bản tóm tắt các tín điều được gọi là "Niềm Tin của các Tông Đồ" (The Creed of Apostles), sau gọi tắt là Kinh Tin Kính. Trong đó có tín điều Thiên Chúa Ba Ngôi và Đức Mẹ Đồng Trinh. Các Giám mục và tín đồ Kitô nguyên thủy chống lại Công Đồng Nicaea đều bị giết hoặc bị đưa đi đày. Riêng giáo phái Arius bị giết tới 3.000 người. Năm 340, đạo Kitô của Constantine được đổi tên thành Công Giáo (Cattolica) nghĩa là Đạo Toàn Cầu (Universal Religion). Nhờ quyết định cực kỳ khôn ngoan của Constantine, đế quốc La Mã đã tạo lập được những đoàn quân thập tự (Crusaders) vừa đông đảo vừa cuồng tín để bảo vệ đế quốc La Mã và có thể xử dụng để chinh phục toàn cầu dưới khẩu hiệu "IN HOC SIGNO VINCES" (Dưới dấu hiệu thánh giá ta sẽ chiến thắng toàn cầu!) Tự Điển Bách Khoa Công Giáo (The Catholic Encyclopedia vol.4, p.300) đã viết rõ như sau: "Constantine ưu đãi Kitô Giáo hoàn toàn vì lý do chính trị và ông ta đã được xem như là một bạo chúa được ơn soi sáng để xử dụng tôn giáo vào mục tiêu thực hiện chính sách của mình".
    Như vậy rõ ràng một điều là các vua La Mã đã ra sức diệt đạo Kitô nguyên thủy để lập ra đạo Công Giáo. Đạo Công Giáo là Đạo của đế quốc La Mã nên danh từ Công Giáo La Mã thật là chính xác (Roman Catholic). Đạo Công Giáo đã được lập nên trên nấm mồ của Kitô Giáo nguyên thủy và hoàn toàn đi ngược lại giáo lý đạo Kitô lúc ban đầu. ......

    Trong bài tựa cuốn Việt Nam Giáo Sử (trang 20), Linh Mục Phan Phát Huồn viết: "Máu ?" của các thánh tử đạo ?" đã nhuộm đỏ đất nước Việt Nam yêu quí làm cho đất phì nhiêu tốt tươi. Lấy võ lực đàn áp Công Giáo để tiêu diệt người Công Giáo thì chẳng những Công Giáo không bị tiêu diệt mà còn sinh sản đông đúc thêm...Các Hoàng đế La Mã muốn tiêu diệt đạo Công Giáo thì ngày nay trên thủ đô Roma phất phới trước gió cách oai hùng quốc kỳ Vatican tượng trưng cho quyền bính của giáo hội".
    Linh Mục Phan Phát Huồn đã cao hứng ca ngợi những người cuồng tín tử đạo Việt Nam quá trớn mà quên rằng các hoàng đế La Mã không thể nào tiêu diệt đạo Công Giáo được! Các hoàng đế La Mã chỉ tiêu diệt đạo Kitô nguyên thủy để lập đạo Công Giáo mà thôi. Từ năm 313 trở đi, các hoàng đế La Mã chỉ lo củng cố chứ không bao giờ diệt đạo Công Giáo cả.
    Giáo Hội Công Giáo Việt Nam tuy là con đẻ của các cố đạo giáo sĩ Dòng Tên Bồ Đào Nha, nhưng Các cố đạo Bồ đã không giữ được đứa con của mình sau cuộc cạnh tranh kéo dài gần một trăm năm giữa Bồ Đào Nha và Thánh bộ Truyền Giáo, giữa các giáo sĩ Dòng Tên Bồ (cùng các giáo sĩ Dòng Tên thuộc nhiều nước khác) và các Thừa Sai người Pháp (Xem thêm http://ttvnol.com/forum/tiengviet/1084815/trang-6.ttvn#14651689), để rồi Giáo Hội Công Giáo Việt Nam trở thành con ghẻ của thực dân Pháp. Các cố đạo (thừa sai Paris) thường huênh hoang nói: "Nước Pháp là trưởng nữ của Hội thánh và là Mẹ của giáo hội Việt Nam" (France, fille ainée de L?TEglise et Mère du Vietnam).
  7. dinhphdc

    dinhphdc Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    19/09/2008
    Bài viết:
    2.086
    Đã được thích:
    7
    Trong thời gian gần 5 thế kỷ có mặt của đạo Công giáo trên đất nước Việt Nam kể từ năm năm 1533 , có khoảng hơn bốn thập niên trong nửa cuối thế kỷ XIX (1852-1884) là thời gian thăng trầm, phức tạp và ô nhục nhất trong lịch sử Công giáo Việt Nam. Đó chính là thời gian các giáo sĩ trong Hội Thừa Sai Paris và khoảng 600.000 giáo dân đã tích cực giúp cho thực dân Pháp hoàn thành dễ dàng cuộc xâm chiếm Việt Nam và mau chóng bình định lãnh thổ để áp đặt nền thống trị lên dân tộc Việt Nam trong hơn 80 năm.Những gì đã xảy ra trước và trong quá trình xâm lược Việt Nam của thực dân Pháp đã khẳng định rằng: các giáo sĩ trong Hội Thừa Sai Paris đã chủ động tạo ra cớ cho cuộc can thiệp võ trang của Pháp vào Việt Nam. Nhà nghiên cứu Pháp Georges Coulet đã viết trong tác phẩm của ông Cultes et Religions de l?TIndochine Annamite (Saigon, p. 99) như sau: ?o Thiên Chúa giáo đã mở cửa cho quân đội Pháp và đã là nguyên nhân trực tiếp của cuộc xâm lược đất nước này?.Suốt thời gian giặc Pháp đô hộ, tổ quốc Việt Nam đã bị xỉ nhục nặng nề, sinh mạng và tài sản của nhân dân bị xâm phạm nghiêm trọng. Đây là những vết hằn lịch sử khó có thể xóa mờ trong ký ức của mọi người Việt yêu nước. Lịch sử mất nước của dân tộc Việt Nam vào cuối thế kỷ XIX gắn liền với sự có mặt của Hội Thừa Sai Paris - một công cụ mở rộng nước Chúa của Vatican, đồng thời cũng là một công cụ mở rộng thuộc địa của thực dân Pháp. Sát cánh với Hội Thừa Sai Paris là Giáo Hội Công Giáo Việt Nam.Việc tìm hiểu một cách xác thực giai đoạn thăng trầm của lịch sử mất nước không phải là chuyện dễ dàng vì các tài liệu về lịch sử Công giáo Việt Nam còn lưu lại ở Việt Nam rất hiếm hoi. Nhưng Patrick J.N. Tuck, người Ấn Độ, giáo sư sử học tại đại học Liverpool (Anh) đã bỏ ra nhiều công sức sưu tầm các tư liệu liên quan đến các hoạt động của các giáo sĩ thừa sai Pháp và các chính sách của đế quốc tại Việt Nam từ 1857 đến 1914.Tất cả các tài liệu lịch sử quí giá này đều là những tài liệu do chính văn khố của Hội Thừa Sai Paris cung cấp. Đây là nguồn tư liệu quí giá cho những ai muốn tìm hiểu Công giáo Việt Nam. Bộ sưu tập tài liệu về Hội Thừa Sai Paris của Patrick J.N. Tuck được viết bằng tiếng Anh dưới tựa đề ?oFrench Catholic Missionaries and the Politics of Imperialism in Vietnam 1857-1914? do Liverpool University Press xuất bản tại Anh năm 1987. Bản dịch tiếng Việt do UBĐKCGYNVN/TP.HCM thực hiện và phổ biến năm 1989 dưới tựa đề: ?oThừa Sai Công Giáo Pháp và các chính sách của đế quốc tại Việt Nam 1857-1914? (TSCG) . Ngoài tư liệu của Patrick Tuck, còn có thể tham khảo thêm sách ?oSự Du Nhập của Thiên Chúa giáo vào Việt Nam từ thế kỷ 17 đến thế kỷ 19? (SDN) của giáo sư Nguyễn Văn Kiệm với sự hợp tác của Viện Nghiên Cứu Tôn Giáo và Hội Khoa Học Lịch Sử Việt Nam.
    Cả hai cuốn sách nói trên cung cấp cho chúng ta rất nhiều bằng chứng lịch sử về các hoạt động đầy tội ác của các giáo sĩ thuộc Hội Thừa Sai Paris trong nỗ lực vận động Vatican và hoàng gia Pháp (Napoleon III) xâm chiến Việt Nam hầu thực hiện hai mục tiêu vừa truyền giáo vừa xâm chiếm thuộc địa.
    Sáng kiến đầu tiên đưa đến việc thành lập hội Thừa Sai Paris là do Alexandre de Rhôde (xem thêm http://ttvnol.com/forum/tiengviet/1084815/trang-1.ttvn). Vào năm 1652 và 1653, Alexandre de Rhôde về Âu châu vận động Vatican và Pháp thành lập hội Thừa Sai gồm toàn giáo sĩ người Pháp để gửi sang Viễn Đông truyền đạo và mở rộng ảnh hưởng của Pháp tại vùng này. Tuy nhiên, vào thời điểm đó, ảnh hưởng của Bồ Đào Nha tại Châu Á còn mạnh. Đại sứ Bồ Đào Nha bên cạnh Vatican cực lực phản đối việc thành lập Hội Thừa Sai Pháp và hăm dọa sẽ bắt bỏ tù các giáo sĩ đến Châu Á mà không có phép của hoàng gia Bồ. Phải đợi đến năm 1658, khi hoàng gia Bồ suy yếu mọi mặt và không còn đủ sức tài trợ cho cuộc truyền giáo tại Á Châu, nên đã bị Tòa Thánh chính thức thu hồi ?ođộc quyền truyền giáo? (Padroado).
    Việc thành lập hội Thừa Sai Paris năm 1663 không phải là một hành vi tôn giáo thuần túy mà là một nhu cầu cần thiết của chủ nghĩa thực dân Pháp thời đó, vì hội này do chính phủ Pháp thành lập và tài trợ để làm công cụ thực hiện tham vọng bành trướng thuộc địa ở Viễn Đông. Danh từ ?ogiáo sĩ thừa sai? (missionaries) được định nghĩa là người được cử ra nước ngoài để thực hiện những công việc do cấp trên sai phái. Cấp trên ở đây không hẳn chỉ là Toà Thánh La Mã mà chủ yếu là quốc gia đã lập ra hội Thừa Sai. Tự Điển Bách Khoa Hoàn Vũ (Encyclopedia Universallis) của Pháp xuất bản năm 1990 cũng thêm định nghĩa Hội Thừa Sai (Mission) như sau: ?oHội Thừa Sai cũng tiến hành nhiệm vụ thực dân, cũng chinh phục và tiêu diệt, tham gia các cuộc chinh phạt để đoạt lấy quyền uy vinh quang và lợi tức. Điều quan trọng nhất của Hội Thừa Sai là đồng hóa văn hóa của các xứ bản địa? (SDN, trang 302).
    Hội Thừa Sai Paris được chính thức thành lập năm 1663 gồm toàn các giáo sĩ người Pháp thuộc ngành triều (secular), tức là các tu sĩ chuyên việc trông coi giáo dân tại các giáo xứ. Kể từ đó, mỗi khi thiết lập một giáo phận mới tại Châu Á, Vatican đều giao các giáo phận mới cho các giáo sĩ thừa sai Pháp cai quản. Mặc dầu hoạt động của các thừa sai đều thuộc về tôn giáo, nhưng chính quyền Pháp đã ra lệnh cho bộ Ngoại Giao, bộ Thương Mại và nhất là bộ Hải Quân và Thuộc Địa phải tích cực yểm trợ cho các giáo sĩ thừa sai (TSCG, trang 27). Ông Bonifacy, tác giả cuốn ?oLes Debuts du Christianisme en Annam? xuất bản tại Hà-Nội năm 1930 đã viết: ?oVai trò của Alexandre de Rhôde trong việc thành lập hội Thừa Sai Paris đã đưa giáo hội Công giáo Đàng Trong và Đàng Ngoài ra khỏi vòng kiểm soát của người Bồ Đào Nha, và đem lại cho người Pháp vai trò quan trọng nhất ở bán đảo Đông Dương? p. 16-17 (SDN, trang 123).
    Các giáo sĩ thừa sai Paris giao du thân mật với hoàng hậu Eugénie, họ đã lợi dụng hoàng hậu xúi giục Napoleon III xâm chiếm Việt Nam từ năm 1852. Do đó, Napoleon III đã đích thân ra lệnh cho phái bộ ngoại giao Pháp tại Trung Quốc phải thâu thập các tài liệu về công cuộc truyền giáo tại Đông Dương (TSCG, trang 53).
  8. dinhphdc

    dinhphdc Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    19/09/2008
    Bài viết:
    2.086
    Đã được thích:
    7

    Đầu tháng 5/1857, giám mục Pellerin và linh mục Huc đến Paris trình bày kế hoạch đánh chiếm Đông Dương tại Ủy Ban Thuộc Địa Pháp. Ngày 21/5/1857, giám mục Pellerin và linh mục Huc được Napoleon III tiếp kiến tại hoàng cung. Sau đó, vào tháng 6 và tháng 8 năm 1857, Pellerin và Huc lại được Napoleon tiếp kiến thêm hai lần nữa. Toàn bộ kế hoạch xâm lược Việt Nam do hai giáo sĩ thừa sai này đề nghị đều được giáo hoàng Pio IX và Napoleon III tán thành (TSCG, trang 554).

    Giám mục Pellerin sinh tại Pháp năm 1813, được cử làm giám mục tại Saigon năm 1844. Năm 1857, về Pháp vận động chiếm Việt Nam. Năm 1859, Pellerin trở lại Việt Nam trên chiếm hạm của Rigault de Genouilly, nhân dịp này, Pellerin xúi giục đô đốc Genouilly đánh chiếm Đà Nẵng, nhưng Genouilly không chịu vì Genouilly muốn chiếm Saigon trước đã. Sau đó, Pellerin được hội Thừa Sai đổi về Penang dạy học, chết tại đó năm 1862, thọ 49 tuổi (TSCG, trang 554).
    Linh mục Huc sinh tại Pháp năm 1814. Trong các năm 1844-1846, linh mục Huc mạo hiểm đến giảng đạo tại Tây Tạng và miền Tân Cương (Trung Quốc). Năm 1850, linh mục Huc xuất bản mấy cuốn sách kể chuyện mạo hiểm giảng đạo tại các xứ huyền bí Châu Á, đồng thời viết sách kêu gọi chính quyền Pháp xâm chiếm Triều Tiên, Madagascar và Việt Nam làm thuộc địa. Napoleon III đã đọc và rất chú ý đến các sách của linh mục Huc. Do đó, sau khi tiếp xúc với linh mục Huc năm 1857 tại hoàng cung, Napoleon II đã cho thành lập ?oỦy Ban Brenier? để nghiên cứu đề nghị của linh mục Huc. Trong khi đó, giám mục Pellerin đến thuyết giảng tại nhà thờ Notre Dame de Paris và vận động tờ báo L?TUnivers ủng hộ việc xâm chiếm Việt Nam làm thuộc địa.
    Tháng 5/1857, ủy ban Brenier lập bản phúc trình đề nghị hoàng đế Napoleon III áp đặt chế độ bảo hộ lên Việt Nam để phục vụ lợi ích của nước Pháp. Ủy ban này đề nghị thực hiện một cuộc viễn chinh với một hạm đội gồm 6 tàu chiến và 2.600 thủy quân, kinh phí 4 triệu quan. Quân viễn chinh sẽ được sự yểm trợ của hải quân Pháp đang đóng tại Trung Quốc và sự hỗ trợ tích cực của 600.000 giáo dân công giáo bản địa.Hoàng đế Napoleon III chấp thuận đề nghị của ủy ban Brenier ngày 21-9-1857. Mấy tháng sau, Napoleon III giao nhiệm vụ cụ thể cho đô đốc Rigoult de Genouilly để thực hiện cuộc bảo hộ của Pháp trên toàn lãnh thổ Việt Nam (TSCG, trang 57-61). Cuộc chiến tranh xâm lược kéo dài từ cuối 1857 đến tháng 2/1861, Pháp chiếm trọn Côn Đảo, Biên Hòa, Bà Rịa, Vĩnh Long và toàn miền Đông Nam Kỳ.
    Cơ quan tối cao điều hành cuộc viễn chinh xâm lược Việt Nam là bộ Hải Quân và Thuộc Địa Pháp, trụ sở tại Paris, do Chasseloup Laubat làm bộ trưởng. Chasseloup Laubat công khai tuyên bố phải biến xứ Nam Kỳ thành một Philippines thứ hai tại Châu Á. Nói cách khác, biến Nam Kỳ thành một xứ Công giáo là một giải pháp tốt nhất để ổn định thuộc địa một cách lâu dài.
    Rõ ràng là quan điểm của bộ Hải Quân và Thuộc Địa của chính quyền Pháp coi việc Công giáo hóa Nam Kỳ là một nhu cầu chính trị (TSCG, trang 123). Để thực hiện mục tiêu này, bộ Hải Quân và Thuộc Địa Pháp đã đưa ra hai quyết định sau đây:
    1. Chính quyền Hải Quân Pháp nhận trách nhiệm thành lập một hệ thống các giáo xứ Công Giáo tại Nam Kỳ.
    2. Các giáo sĩ thừa sai Pháp được coi là những công chức phục vụ nhà nước nên họ được hưởng lương hàng năm. Năm 1864, nhà nước thuộc địa Pháp đã trả cho các giáo sĩ thừa sai 40.000 Francs; năm 1879 tăng lên 145.000 Francs. (TSCG, trang 134-135).

    Giám mục Puginier (1835-1892): Dựa vào thế lực mạnh của hội Thừa Sai Paris đối với chính quyền Pháp, giám mục Puginier đã tỏ thái độ coi thường các quan chức thuộc địa tại Việt Nam. Vào tháng 7-1874, giám mục Puginier viết thư mắng đô đốc Dupré đã để cho thuộc hạ là Francis Garnier rút quân khỏi Bắc Việt. Tháng 8-1885, giám mục Puginier đòi tướng Courcy phải bắt Nguyễn Văn Tường bỏ tù. Giám mục Puginier đưa ra chủ trương ổn định thuộc địa bằng cách Công giáo hoá thuộc địa. Y tuyên bố: ?o Khi nào Bắc Kỳ biến thành một xứ Công giáo thì nó sẽ là một nước Pháp nhỏ? (TSCG, trang 560-562)Puginier đòi hỏi chính quyền thuộc địa Pháp phải tiêu diệt giới nho sĩ Việt Nam (Văn Thân) vì họ được dân chúng kính trọng, họ không chấp nhận sự đô hộ của Pháp và chẳng ai trong số họ chịu theo đạo.Năm 1886, giám mục Puginier ra lệnh cho linh mục Trần Lục ở Phát Diệm tăng viện cho Pháp 5.000 giáo dân binh để phá chiến lũy Ba Đình của Đinh Công Tráng.Giám mục Puginier là người đã để lại nhiều dấu ấn sâu đậm trên chính sách bình định Việt Nam của thực dân Pháp. Chính ông ta đã cung cấp cho Pháp rất nhiều tin tức tình báo do giáo dân khắp nơi thu thập báo cáo về các cuộc phản công của triều đình Huế và các cuộc binh biến của quân kháng chiến.Puginier chết tại Hà Nội năm 1892. Được chính phủ Pháp truy tặng Bảo Quốc Huân Chương và truy phong Sĩ Quan Danh Dự của quân đội Pháp để xác nhận công lao to lớn của giáo sĩ thừa sai này trong việc Pháp đánh chiếm Bắc Kỳ hồi cuối thế kỷ XIX.
    Giám mục Gauthier (1810-1877) : Gauthier lấy tên Việt là Ngô Gia Hậu, được cử làm giám mục Nam Đàng Ngoài từ năm 1846, có 66.350 giáo dân rải rác trong 346 xứ đạo (TSCG, trg 528-530).Trong bức thư gửi đô đốc Dupré ngày 15-1-1874, giám mục Gauthier và Puginier đã thúc giục chính quyền thuộc địa Pháp thiết lập một chính phủ Công giáo tại Bắc Việt (theo ?oChristianisme et Colonialisme au Vietnam 1857-1914 par Cao Huy Thuần ?" Paris 1960, p. 306).Năm 1874, Gauthier khuyến khích các làng Công giáo tổ chức các đội dân quân võ trang, sau đó ra lệnh cho họ kéo quân đi đánh phá các làng bên lương ở Nghệ An và Hà Tĩnh.Giám mục Gauthier và Puginier có nhiều tên đệ tử trung thành xuất sắc, trong số đó có Nguyễn Trường Tộ (theo hầu Gauthier 10 năm) và hai linh mục Nguyễn Hoằng và Nguyễn Điều.
  9. dinhphdc

    dinhphdc Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    19/09/2008
    Bài viết:
    2.086
    Đã được thích:
    7


    Nửa cuối thế kỷ 19, có khoảng 600.000 người Việt Nam đã mù quáng đi theo tôn giáo lạ mang tính chất vong bản. Họ đã dễ dàng lìa bỏ nếp sống văn hóa truyền thống của dân tộc. Tuy nhiên, trước khi Pháp đổ quân xâm chiếm Việt Nam, những người Công giáo được coi là những công dân lầm lạc vì nhẹ dạ và ngu dốt nên Triều Đình và nhân dân Việt Nam không nỡ ra tay tiêu diệt họ. Nhưng kể từ khi Pháp chiếm Đà Nẵng năm 1856, đa số giáo dân Công giáo đã trắng trợn ra mặt theo giặc và phản bội Tổ Quốc.
    Hiện tượng đầu tiên là nhiều ngàn giáo dân rời bỏ Bắc Kỳ kéo vào Đà Nẵng xin đi lính tập cho Pháp. Đô đốc Rigault de Genouilly tiếp nhận họ tại Sơn Trà và huấn luyện họ tại đây. Sau đó, Genouilly đã tuyển chọn 6.000 người trong số họ để nhập vào liên quân Pháp-Tây Ba Nha đánh chiếm Saigon.
    Trong công cuộc xâm chiếm và bình định Việt Nam, thực dân Pháp đã được giáo hội Công giáo Việt Nam hỗ trợ tích cực mọi mặt. Trong số các tín đồ Việt gian, có những nhân vật rất nổi tiếng sau:

    Tổng Đốc Phương, tức Đỗ Hữu Phương, sinh năm 1844 tại Saigon, nguyên chủng sinh tại Penang, thông thạo tiếng Pháp, được Pháp chọn tham gia phái đoàn của Pháp trong cuộc thương lượng với triều đình Huế năm 1868. Sau đó Phương tham gia các cuộc tảo thanh chống Nguyễn Trung Trực tại Rạch Giá. Năm 1872, Phương được Pháp thăng chức tổng đốc Saigon.
    Trần Bá Lộc, sinh năm 1834 trong một gia đình Công giáo tại Long Xuyên. Lộc xin vào đoàn quân Công giáo do Charner tổ chức chuyên việc lùng quét các nhóm quân kháng chiến. Sau khi tham gia nhiều trận đánh tái chiếm Rạch Giá, Lộc được Pháp phong chức tổng đốc Rạch Giá. Y là tên đại Việt gian được Pháp tín nhiệm trao nhiệm vụ triệt hạ phong trào kháng chiến từ Quảng Nam đến Phan Thiết. Với nhiệm vụ này, Trần Bá Lộc đã giết hại khoảng 25 ngàn người Việt yêu nước.
    Trần Tử Ca, nguyên là một người bên lương, sinh trưởng tại Gò Vấp. Lúc đầu đi theo kháng chiến, nhưng sau đó theo đạo, rời bỏ hàng ngũ kháng chiến theo giặc chống lại Tổ Quốc. Năm 1862, Ca được Pháp bổ làm tri huyện Hóc Môn. Năm 1865, y đi theo quân đội Pháp càn quét các tỉnh miền Tây. Đêm 9-2-1885, Ca bị nghĩa quân giết chết .
    Huỳnh Công Tấn là một người Công giáo trong hàng ngũ nghĩa quân của Trương Công Định từ 1861. Ngày 20/8/1864, Tấn phản bội, bất thần phục kích giết chết Trương Định tại Gò Công. Ngày 19/9/1868, Huỳnh Công Tấn cùng với 127 lính tập Công giáo vây bắt Nguyễn Trung Trực tại đảo Phú Quốc. Như vậy, riêng một mình y đã sát hại được hai nhà cách mạng kháng chiến nổi tiếng tại Nam Kỳ. Y được Pháp trao tặng Bắc Đẩu Bội Tinh cho hai chiến công lớn này!
    Tạ Văn Phụng, tức Phêrô Lê Duy Phụng, nguyên chủng sinh tại Penang, lấy danh nghĩa là con cháu nhà Lê dấy binh khởi nghĩa tại Bắc Kỳ chống triều đình Huế năm 1858. Tạ Văn Phụng nhờ các giáo sĩ liên lạc với chính phủ Pháp để xin giúp đỡ. Napoleon III đồng ý, và cử tên gián điệp Duval sang Việt Nam giúp Phụng với mục đích biến Bắc Kỳ thành một xứ Công giáo với một chính quyền Công giáo. Duval đi Macao mua vũ khí và giúp Phụng thành lập những đoàn quân gồm đa số là giáo dân. Trong các tháng 6 và 7/1863, Phụng khởi quân đánh chiếm một vùng rộng lớn ở đồng bằng Bắc Bộ gồn 3 tỉnh Quảng Yên, Hải Dương và Nam Định.Triều đình Huế cử Nguyễn Tri Phương đem quân ra Bắc dẹp loạn. Tạ Văn Phụng bị bắt đem về Huế xử tử.
    Về việc "máu tử đạo làm cho đất phì nhiêu tốt tươi" và làm cho "Công Giáo càng sinh sản đông đúc thêm" là do chính sách diệt đạo của các vua chúa Việt Nam thiếu cương quyết và do thực dân Pháp làm cho Công Giáo phát triển mạnh chứ chẳng phải máu tử đạo có sức mạnh thiêng liêng nào. Nếu các vua chúa Việt Nam noi theo gương người Nhật đã làm vào năm 1638 thì liệu Công Giáo Việt Nam có ngóc đầu lên nổi không? Nếu thực hiện được một chính sách diệt đạo đúng đắn và khoa học thì máu tử đạo có "thiêng" đến mấy cũng không cứu được sự tuyệt chủng của đạo Công Giáo!
    Và sau đó, cho tới tận khi nhà nước Việt Nam Dân Chủ C ộng Hòa ra đời, người Việt Nam dù không theo TCG, đi học đều phải gào rống "Tổ tiên chúng ta là người Gô-loa". Đã có bao nhiêu máu tiền nhân đổ xuống để giờ chúng ta tự hào rằng chúng ta là con Lạc cháu Hồng, là con của MẸ ÂU CƠ (trừ một số nhỏ thờ Đức Mẹ)!
  10. RaiMishima

    RaiMishima Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    26/10/2008
    Bài viết:
    42
    Đã được thích:
    0
    gửi bác kalatnhikop:
    em ko đồng ý với ý kiến của bác là những người khá giả có ăn học thì ít đi lễ nhà thờ, nhà em là dân công giáo gốc bắc, cả nhà em từ chú bác cho tới cô dì đều xuất thân 100% là giáo viên đấy bác ạ, nhưng vẫn đi lễ đều đều, tụi con cháu như em tui đang học ở SG nhưng lễ thì vẫn đi như thường chứ ko có vụ bỏ nhé.
    nếu bác có dịp thì xin mời bác vể quê em ở LK để xem cái trường dòng to đùng ở đấy, nhìn cứ như trường đại học ấy ,

Chia sẻ trang này