1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Chiến tranh biên giới phía Bắc 1979 và 1984 (phần 3)

Chủ đề trong 'Giáo dục quốc phòng' bởi Su35Fk, 15/02/2009.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. Cong_tu_ho_Hua

    Cong_tu_ho_Hua Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    27/10/2012
    Bài viết:
    325
    Đã được thích:
    0
    he he >:) để xem tối nay thời sự VTV có đưa tin gì về CTBG 1979 ko là biết liền ha ha ha :))
  2. Tran-Trung

    Tran-Trung Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    17/11/2010
    Bài viết:
    1.437
    Đã được thích:
    563
    Bớt sủa chút đi công tử hãm ***, dù bao nhiêu năm đã trôi qua nhưng sự kiện Thiên An Môn vẫn còn in hằn trong tâm trí mỗi người dân TQ thậm chí cả cộng đồng quốc tế mặc chính quyền TQ vẫn cố gắng bưng bít mặc dù ở Hong Kong giới trẻ vẫn biểu tình, lôi sự kiện Thiên An Môn ra để đả kích chính quyền TQ. Mà tao phải giải thích nhiều với mấy thằng lợn giả Tàu làm gì nhỉ.
  3. Cong_tu_ho_Hua

    Cong_tu_ho_Hua Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    27/10/2012
    Bài viết:
    325
    Đã được thích:
    0
    Chú cmt chả liên quan gì tới bài và chủ đề của thớt này cả [-(, để xem tối nay tin tức có khơi lại quá khứ như đã từng với ĐBP trên không, Mậu Thân...blah blah hay không he he >:), cả VN chỉ còn lác đác vài kẻ tầm thần như chú chống "Tàu Khựa" thôi [-X
  4. shamanking_quang

    shamanking_quang Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    10/02/2007
    Bài viết:
    1.591
    Đã được thích:
    360
    Trên facebook có bài thơ hay quá, gửi lên cho các bác cùng xem :D
    . . . Nói nghe này mưu đồ Trung Quốc
    . . . Chớ làm càn cướp nước của tao
    . . . Dân nước tao chẳng nhiều là bao
    . . . Nhưng mày muốn thì tao quyết tử
    . . . Tao nói rõ từng câu từng chữ
    . . . Biển đông giờ sóng dữ lắm con
    . . . Đừng có đi theo lối xe mòn
    . . . Nghe sử cũ vẫn còn ghi đó
    . . . Ngô Quyền ơi chúng con thấu tỏ
    . . . Trung Quốc quỳ máu đỏ thành sông
    . . . Hưng Đạo Vương khí phách lạc hồng
    . . . Lũ giặc cỏ chất chồng khiếp sợ
    . . . Lời Quang Trung tiếp thêm hơi thở
    . . . Thoát Hoan bò run sợ dưới chân
    . . . Ta khuyên ngươi hãy giữ lấy thân
    . . . Đừng đánh thức tinh thần bất tử!
    [r2)][r2)][r2)][r2)][r2)][r2)][r2)][r2)][r2)][r2)]
  5. Tran-Trung

    Tran-Trung Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    17/11/2010
    Bài viết:
    1.437
    Đã được thích:
    563
    ĐỒNG CHÍ LÊ DUẪN VÀ "TẬP ĐOÀN ********* TRUNG QUỐC"
    ( Bài tuy dài , nhưng rất hay , còn là tài liệu để các bạn tranh luận với các nhà hành nghề rân chủ )

    [​IMG]

    Để hiểu thêm thực chất mối quan hệ Việt-Trung trong mấy chục năm nay, không còn chút mơ hồ nào nữa, đặc biệt trước rất nhiều hành động gây hấn trắng trợn của Trung Quốc trong thời gian gần đây, xin giới thiệu đoạn trích Hiến pháp 1980 liên quan tới Trung Quốc, một tư liệu cá nhân nho nhỏ của cố TBT Lê Duẩn khi sinh thời, cùng với một bản dịch từ tư liệu nước ngoài Bài phát biểu của ông về “tập đoàn ********* Trung Quốc”.


    --------------------------

    1) HIẾN PHÁP NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM NĂM 1980

    Lời nói đầu (Trích): “Vừa trải qua ba mươi năm chiến tranh giải phóng, đồng bào ta thiết tha mong muốn có hoà bình để xây dựng Tổ quốc, nhưng lại phải đương đầu với bọn bá quyền Trung Quốc xâm lược cùng bè lũ tay sai của chúng ở Cam-pu-chia. Phát huy truyền thống vẻ vang của dân tộc, quân và dân ta đã giành được thắng lợi oanh liệt trong hai cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc chống bọn ********* Cam-pu-chia ở biên giới Tây Nam và chống bọn bá quyền Trung Quốc ở biên giới phía Bắc, bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của mình.”

    2) Bản chụp vài dòng bút ký cá nhân, như tự dặn với riêng mình, của cố Tổng bí thư Lê Duẩn năm 1978, một năm trước khi Trung Quốc đưa quân tấn công 6 tỉnh biên giới phía Bắc VN, được lưu trữ trong kho tư liệu riêng của gia đình ông. Đoạn này đề cập tới quan hệ với Trung Quốc.

    Ông viết: “Phải xây dựng hạnh phúc cho nhân dân. Muốn có hạnh phúc cho nhân dân phải giàu mạnh và hùng cường. Đó là vì vị trí lịch sử và địa dư của Việt Nam. Không thể khác được. Vì chúng ta ở bên cạnh một nước mà lịch sử của nước đó chưa ra khỏi cuộc sống người ăn thịt người”.
    (Trang bút ký: https://fbcdn-sphotos-f-a.akamaihd.net/hphotos-ak-prn1/734245_489713164403319_819199493_n.jpg)

    -------------------------
    BÀI PHÁT BIỂU CỦA TBT LÊ DUẪN VỀ "TẬP ĐOÀN ********* TRUNG QUỐC"

    (Tài liệu lưu tại thư viện quân đội, Hà Nội. Tài liệu do Christopher E. Goscha phát hiện và dịch sang tiếng Anh, Nhóm nghiên cứu Việt Nam đương đại, Trường Khoa học Chính trị, Paris. Bùi Xuân Bách lại chuyển ngữ ngược lại từ Anh sang Việt.- Dấu ngoặc vuông [ ] là của Christopher E. Goscha.)

    -----------------------

    ...Nói chung, sau khi chúng ta đánh bại Mỹ, không đế quốc nào dám đánh chúng ta nữa. Chỉ có những người nghĩ rằng họ vẫn có thể đánh chúng ta và dám đánh chúng ta là những kẻ ********* Trung Quốc. Nhưng người dân Trung Quốc hoàn toàn không muốn thế. Tôi không biết những kẻ ********* Trung Quốc này sẽ tiếp tục tồn tại thêm bao lâu nữa. Tuy nhiên, miễn là họ tồn tại, thì họ sẽ tấn công chúng ta như họ vừa thực hiện (nghĩa là đầu năm 1979).

    Nếu chiến tranh đến từ phương Bắc, thì các tỉnh [Bắc Trung Bộ] Nghệ An, Hà Tĩnh và Thanh Hóa sẽ trở thành cơ sở cho toàn bộ đất nước. Các tỉnh này tốt nhất, là các căn cứ mạnh nhất, tốt nhất và hiệu quả nhất. Vì nếu vùng đồng bằng [Bắc Bộ] tiếp tục là vùng liên tục căng thẳng, thì tình hình sẽ rất phức tạp. Vấn đề không đơn giản chút nào. Nếu không phải là người Việt Nam, thì sẽ không có người nào đánh Mỹ, bởi vì lúc Việt Nam chiến đấu chống Mỹ, cả thế giới còn lại đều sợ Mỹ …


    Khi chúng ta ký Hiệp Định Geneva, rõ ràng là Chu Ân Lai đã chia đất nước ta làm hai [phần]. Sau khi nước ta bị chia thành hai miền Nam – Bắc như thế, một lần nữa ông ta gây sức ép lên chúng ta, không được làm gì đối với miền Nam Việt Nam. Họ ngăn cấm chúng ta đứng lên [chống lại Việt Nam Cộng hòa do Mỹ hậu thuẫn]. [Nhưng] họ, [người Trung Quốc,] không thể làm gì để ngăn cản chúng ta.

    Sau khi chúng ta chiến đấu và Trung Quốc nhận ra rằng chúng ta có thể chiến đấu hiệu quả, đột nhiên Mao có suy nghĩ mới. Ông ta nói rằng, vì Mỹ đánh chúng ta, ông ta sẽ đưa quân đội [Trung Quốc] đến giúp chúng ta xây dựng đường xá. Mục tiêu chính của ông ta là tìm hiểu tình hình đất nước ta để sau này ông ta có thể tấn công chúng ta và từ đó mở rộng xuống khu vực Đông Nam Á. Không có lý do nào khác.

    Chúng tôi biết rõ ý đồ này, nhưng phải cho phép họ (sự xâm nhập của quân đội Trung Quốc). Thôi thì cũng được. Nhưng họ quyết định đưa quân vào. Tôi yêu cầu họ chỉ gửi người, nhưng quân lính của họ đã đến cùng với súng đạn. Tôi cũng phải chịu điều này.

    Sau đó, ông ta (Mao Trạch Đông) bắt chúng ta phải nhận 20.000 quân của ông ta đến xây một con đường từ Nghệ Tĩnh vào Nam Bộ (thuật ngữ tiếng Việt chỉ miền Nam Việt Nam). Tôi từ chối. Họ tiếp tục yêu cầu nhưng tôi không nhượng bộ. Họ gây áp lực với tôi cho quân của họ vào nhưng tôi đã không chấp thuận. Họ tiếp tục gây sức ép nhưng tôi vẫn không chịu.

    Tôi đưa ra những ví dụ này để các đồng chí thấy họ có âm mưu cướp nước ta từ lâu và âm mưu đó ác độc như thế nào.


    - Trước khi Nixon đi Trung Quốc, [mục đích chuyến đi của ông ta là] giải quyết vấn đề Việt Nam bằng cách đó, để phục vụ lợi ích của Mỹ và giảm bớt thất bại của Mỹ, cũng như cùng lúc cho phép ông ta lôi kéo Trung Quốc về phía Mỹ. Chu Ân Lai đã đến gặp tôi. Chu Ân Lai nói với tôi: “Lúc này, Nixon đến gặp tôi chủ yếu là thảo luận về vấn đề Việt Nam, do vậy tôi phải đến gặp đồng chí để thảo luận điều đó với đồng chí“.

    Tôi trả lời: “Đồng chí, đồng chí có thể nói bất cứ điều gì đồng chí thích, nhưng tôi không nghe theo đồng chí. Đồng chí là người Trung Quốc, tôi là người Việt. Việt Nam là của tôi (đất nước của tôi), hoàn toàn không phải của các đồng chí. Các đồng chí không có quyền nói [về vấn đề Việt Nam] và các đồng chí không có quyền thảo luận [các vấn đề đó với Mỹ]. Hôm nay, các đồng chí, chính tôi sẽ nói với các đồng chí điều mà thậm chí tôi chưa hề nói với Bộ Chính trị, rằng đồng chí đã nêu ra vấn đề nghiêm trọng và vì thế tôi phải nói.


    – Nếu Liên Xô và Trung Quốc đã không mâu thuẫn với nhau, thì Hoa Kỳ không thể tấn công chúng ta quyết liệt như họ đã tấn công. Khi hai [cường quốc Trung Quốc và Liên Xô] xung đột, người Mỹ đã không bị [phe đối lập là khối xã hội chủ nghĩa] cản trở. Mặc dù Việt Nam có thể thống nhất và đoàn kết với cả Trung Quốc lẫn Liên Xô, để đạt được điều này rất phức tạp, lúc đó chúng ta phải dựa vào Trung Quốc nhiều thứ. Lúc đó, hàng năm Trung Quốc cung cấp viện trợ 500.000 tấn thực phẩm, cũng như súng ống, đạn dược, tiền bạc, chưa kể đến viện trợ đô la. Liên Xô cũng đã giúp bằng cách này. Nếu chúng ta không thể làm điều đó (đoàn kết và thống nhất với Trung Quốc và Liên Xô), mọi thứ sẽ rất nguy hiểm.

    Mỗi năm tôi đã phải đi Trung Quốc hai lần để nói chuyện với họ (lãnh đạo Trung Quốc) về [các sự kiện] ở miền Nam Việt Nam. Về phía Liên Xô, tôi không phải nói gì cả (về tình hình ở miền Nam Việt Nam). Tôi chỉ nói một cách chung chung. Khi giao thiệp với Trung Quốc, tôi đã phải nói rằng cả hai [nước] đang đánh Mỹ. Tôi đã đi một mình. Tôi phải có mặt về vấn đề này. Tôi đã đến đó và nói chuyện với họ nhiều lần bằng cách này, mục đích chính là để xây dựng quan hệ gần gũi hơn giữa hai bên (nghĩa là Trung Quốc và Việt Nam). Chính xác là vào thời điểm đó Trung Quốc gây áp lực với chúng ta để xa lánh Liên Xô, cấm chúng ta không được đi với Liên Xô.

    Họ đã làm rất căng. Đặng Tiểu Bình, cùng với Khang Sinh đã đến và nói với tôi: “Đồng chí, tôi sẽ giúp đồng chí vài tỷ[có lẽ là nhân dân tệ] mỗi năm. Đồng chí không thể nhận bất cứ thứ gì từ Liên Xô“.

    Tôi không đồng ý điều này. Tôi nói: “Không, chúng ta phải đoàn kết và thống nhất với toàn bộ phe [xã hội chủ nghĩa]“.

    Năm 1963, khi Khrushchev phạm sai lầm, ngay lập tức [Trung Quốc] ban hành một tuyên bố 25 điểm và mời đảng chúng ta đến cho ý kiến . Anh Trường Chinh và tôi đã đi cùng với một số anh em khác.

    Trước khi chúng tôi ra về, Mao gặp anh Trường Chinh và tôi. Mao ngồi xuống trò chuyện với chúng tôi và cuối cùng ông ta tuyên bố: “Các đồng chí, tôi muốn nói cho các đồng chí biết điều này. Tôi sẽ là chủ tịch của 500 triệu nông dân đang thiếu đất, và tôi sẽ mang một đạo quân tiến xuống khu vực Đông Nam Á“. Đặng Tiểu Bình cũng ngồi ở đó, nói thêm: “Chủ yếu là vì nông dân nghèo, trong tình cảnh khó khăn cùng cực!”

    Khi chúng tôi ra ngoài, tôi nói với anh Trường Chinh: “Đó anh thấy đó, âm mưu chiếm nước ta và Đông Nam Á. Bây giờ đã rõ rồi“. Họ dám tuyên bố điều đó như thế. Họ nghĩ chúng ta không hiểu. Đúng là không lúc nào họ không nghĩ đến đánh Việt Nam!

    Tôi sẽ nói với các đồng chí nhiều hơn để các đồng chí có thể thấy thêm về tầm quan trọng quân sự trong vấn đề này.

    Mao hỏi tôi: Ở Lào, có bao nhiêu cây số vuông đất?
    Tôi trả lời: Khoảng 200.000 cây số vuông.

    Mao hỏi: Dân số của họ bao nhiêu?
    Tôi trả lời: Khoảng 3 triệu!
    Mao nói: Như vậy là không nhiều! Tôi sẽ đưa dân tôi đến đó, thật mà!

    Mao hỏi: Có bao nhiêu cây số vuông đất ở Thái Lan?
    Tôi trả lời: Khoảng 500.000 cây số vuông.

    Mao hỏi: Có bao nhiêu người?
    Tôi trả lời: Khoảng 40 triệu!
    Mao nói: Tỉnh Tứ Xuyên của Trung Quốc có 500.000 cây số vuông, nhưng có tới 90 triệu người. Tôi cũng sẽ đưa một số người dân của tôi tới Thái Lan!

    Đối với Việt Nam, họ không dám nói về việc đưa người tới theo cách này. Tuy nhiên, ông ta (Mao) nói với tôi: “Đồng chí, có đúng là người của các đồng chí đã chiến đấu và đánh bại quân Nguyên?” Tôi nói: “Đúng“. Ông ta hỏi: “Có phải cũng chính người của đồng chí đã đánh bại quân Thanh?” Tôi nói: “Đúng“. Ông ta nói: “Và quân Minh nữa, phải không?” Tôi nói: “Đúng, và cả các ông nữa. Các ông có biết điều đó không?“

    Tôi đã nói với Mao Trạch Đông như thế. Ông ta nói: “Có, có!” Ông ta muốn chiếm Lào, cả Thái Lan, cũng như muốn chiếm tất cả các nước Đông Nam Á. Đưa người dân đến sống ở đó. Quan điểm đó thật là phức tạp.

    Trong quá khứ (nói đến vấn đề có thể xuất phát từ mối đe dọa của Trung Quốc trong thời gian này), chúng ta đã chuẩn bị rất nhiều, không phải là chúng ta không chuẩn bị. Nếu chúng ta không chuẩn bị, tình hình gần đây sẽ rất nguy hiểm. Không phải là vấn đề đơn giản.


    Khi tôi đến Liên Xô, Liên Xô cũng làm khó tôi về Trung Quốc. Liên Xô đã triệu tập một cuộc họp gồm 80 đảng [cộng sản] để hỗ trợ Việt Nam, nhưng Việt Nam không tham dự hội nghị này, vì [buổi hợp này] không chỉ đơn giản chỉ nhằm giúp Việt Nam, mà còn có mục đích lên án Trung Quốc. Nên Việt Nam đã không đi.

    Liên Xô nói: “Bây giờ các đồng chí bỏ rơi chủ nghĩa quốc tế [hay] là cái gì? Tại sao các đồng chí làm điều này?” Tôi nói: “Tôi hoàn toàn không bỏ rơi chủ nghĩa quốc tế. Tôi không bao giờ làm điều này. Tuy nhiên, để là người quốc tế, trước tiên phải đánh bại Mỹ. Và nếu một nước muốn đánh bại Mỹ, thì phải có sự thống nhất và đoàn kết với Trung Quốc. Nếu tôi đến hội nghị này, thì Trung Quốc sẽ gây nhiều khó khăn lớn với chúng tôi. Các đồng chí, hãy hiểu cho tôi“.


    Khi tôi đi Trung Quốc lần cuối, tôi dẫn đầu phái đoàn, và tôi đã gặp phái đoàn Trung Quốc do Đặng Tiểu Bình đứng đầu. Khi nói về vấn đề lãnh thổ, gồm cả việc thảo luận về một số hòn đảo, tôi nói: “Hai đất nước chúng ta ở gần nhau, Có một số vùng lãnh thổ của chúng ta vẫn chưa được xác định rõ ràng. Hai bên nên thành lập các cơ quan để xem xét vấn đề này. Các đồng chí, làm ơn đồng ý với tôi [về vấn đề này]”. Ông ta (Đặng Tiểu Bình) đồng ý, nhưng sau khi làm như vậy, ngay lập tức ông ta bị nhóm lãnh đạo khác xem như là người theo chủ nghĩa xét lại.

    Nhưng bây giờ ông ta (Đặng Tiểu Bình) điên rồi. Bởi vì ông ta muốn cho mọi người thấy rằng ông ta không phải là người theo chủ nghĩa xét lại, cho nên ông ta đã tấn công Việt Nam mạnh hơn. Ông ta để cho họ tiếp tục tấn công Việt Nam.

    Sau khi đánh bại Mỹ, chúng ta giữ lại hơn một triệu quân, các đồng chí lãnh đạo Liên Xô hỏi chúng tôi: “Các đồng chí định đánh với ai mà giữ lại một đội quân thường trực lớn như vậy?” Tôi nói: “Sau này, các đồng chí sẽ hiểu“. Lý do duy nhất chúng ta giữ quân đội thường trực như thế là vì mối đe dọa của Trung Quốc đối với Việt Nam. Nếu không có [một mối đe dọa như thế], thì điều này (quân đội thường trực lớn) sẽ không cần. Gần đây, bị tấn công trên hai mặt trận, [chúng ta có thể thấy rằng] rất nguy hiểm nếu chúng ta đã không được duy trì một đội quân lớn.

    (B) (Ý nghĩa của chữ “B” này trong văn bản gốc không rõ ràng) – Sau Đệ nhị Thế chiến, tất cả mọi người tin rằng tên sen đầm quốc tế là đế quốc Mỹ. Họ có thể tiếp quản và bắt nạt cả thế giới. Tất cả các nước, gồm các nước lớn đều sợ Mỹ. Chỉ có Việt Nam là không sợ Mỹ.

    Tôi hiểu vấn đề này vì công việc đã dạy tôi. Người đầu tiên sợ [Mỹ] là Mao Trạch Đông. Ông ta nói với tôi, đó là, Việt Nam và Lào, rằng: “Ngay lập tức, các ông phải chuyển giao hai tỉnh của Lào đã được giải phóng cho chính phủ Viêng Chăn. Nếu các ông không làm như vậy, thì Mỹ sẽ sử dụng điều đó làm lý do tấn công. Đó là mối nguy lớn”. Về phía Việt Nam, chúng tôi đã nói: “Chúng ta phải chiến đấu chống Mỹ để giải phóng miền Nam Việt Nam“. Ông ta (Mao) nói: “Các ông không thể làm điều đó. Miền Nam Việt Nam phải nằm đợi trong một thời gian dài, đợi một đời, 5-10 đời hoặc thậm chí 20 đời kể từ bây giờ. Các ông không thể đánh Mỹ. Đánh Mỹ là nguy hiểm“. Mao Trạch Đông đã sợ Mỹ đến mức độ đó…

    Nhưng Việt Nam không sợ. Việt Nam đã tiếp tục chiến đấu. Nếu Việt Nam không đánh Mỹ thì miền Nam Việt Nam sẽ không được giải phóng. Một đất nước chưa được giải phóng sẽ vẫn là một đất nước lệ thuộc. Không ai có được độc lập nếu chỉ có một nửa đất nước được tự do. Không có được độc lập cho đến năm 1975, đất nước chúng ta cuối cùng có được độc lập hoàn toàn. Có độc lập, tự do sẽ đến. Tự do phải là tự do cho cả nước Việt Nam …

    Engels đã nói về chiến tranh nhân dân. Sau đó, Liên Xô, Trung Quốc và chính chúng ta cũng đã nói [về vấn đề này]. Tuy nhiên, ba nước rất khác về nội dung [chiến tranh nhân dân]. Không đúng là chỉ vì các bạn có hàng triệu người, thì các bạn có thể làm bất cứ điều gì các bạn muốn. Trung Quốc cũng nói đến chiến tranh nhân dân, tuy nhiên, [họ cho rằng] “khi kẻ thù tiến lên, thì chúng ta phải rút lui“. Nói cách khác, phòng thủ là chính, và chiến tranh được chia thành ba giai đoạn, vùng nông thôn được sử dụng để bao vây thành thị, trong khi [các lực lượng chính] chỉ ở lại trong rừng núi… Người Trung Quốc ở thế phòng thủ và rất yếu [trong Đệ nhị Thế chiến]. Ngay cả với 400 triệu người đọ sức với quân đội Nhật Bản có 300.000 – 400.000 quân, Trung Quốc vẫn không thể đánh bại họ.

    Tôi phải lặp lại điều này như thế, vì trước khi Trung Quốc gửi cố vấn cho chúng ta, một số anh em Việt Nam chúng ta không hiểu. Họ nghĩ rằng [Trung Quốc] rất có khả năng. Nhưng họ không có kỹ năng và do đó chúng ta đã không làm theo [những lời khuyên của Trung Quốc].

    Năm 1952, tôi rời miền Bắc sang Trung Quốc vì tôi bị bệnh và cần điều trị. Đây là lần đầu tiên tôi đi nước ngoài. Tôi đặt câu hỏi cho họ (Trung Quốc) và thấy nhiều điều rất lạ. Có những khu vực [đã bị] quân Nhật chiếm đóng, mỗi khu có dân số khoảng 50 triệu người, nhưng không có lấy một chiến binh du kích…
    Khi tôi từ Trung Quốc trở về, tôi đã gặp Bác [Hồ]. Bác hỏi tôi:

    -
    Đây là lần đầu tiên chú đi ra nước ngoài, phải không?

    Vâng, đây là lần đầu tiên tôi đi ra nước ngoài.


    - Chú đã thấy gì?

    Tôi thấy hai điều: Việt Nam rất dũng cảm và họ (Trung Quốc) không dũng cảm chút nào.

    Tôi hiểu điều này kể từ ngày đó. Chúng ta (Việt Nam) hoàn toàn khác với họ. Lòng can đảm vốn có trong con người Việt Nam và do đó chúng ta chưa bao giờ có một chiến lược phòng thủ (ý nói ở thế thủ). Mọi người dân chiến đấu.

    Gần đây, họ (Trung Quốc) đã mang hàng trăm ngàn quân vào xâm chiếm nước ta. Hầu hết, chúng ta đã sử dụng lực lượng dân quân và quân đội trong vùng để tấn công họ. Chúng ta không ở thế thủ và do đó họ phải lùi bước. Họ không thể quét sạch dù một trung đội Việt Nam, trong khi chúng ta đã xóa sổ vài trung đoàn và hàng chục tiểu đoàn của họ. Có được như vậy là vì chiến lược tấn công của chúng ta.

    Đế quốc Mỹ đã đánh với chúng ta trong một cuộc chiến kéo dài. Họ rất mạnh, nhưng họ đã thua. Nhưng có một yếu tố đặc biệt, đó là những mâu thuẫn gay gắt giữa Trung Quốc và Liên Xô. [Vì điều này,] họ đã tấn công chúng ta mạnh như thế này.

    … Việt Nam đã chiến đấu chống Mỹ, và đã chiến đấu rất quyết liệt, nhưng chúng ta biết rằng Hoa Kỳ là một nước rất lớn, khả năng tích lũy hơn 10 triệu quân và đưa tất cả các loại vũ khí được xem là mạnh của họ vào để đánh chúng ta. Vì vậy, chúng ta đã phải chiến đấu trong một thời gian dài để làm cho cho họ giảm leo thang. Chúng ta là những người có thể làm được điều đó, Trung Quốc thì không thể. Khi quân đội Mỹ tấn công Quong Tre (Quảng Trị?), ngay lập tức Bộ Chính trị ra lệnh đưa quân đội vào chiến đấu. Chúng ta không sợ.

    Sau đó tôi đi Trung Quốc gặp Chu Ân Lai. Ông ta nói với tôi: “Điều đó (cuộc tấn công vào Quảng Trị) có lẽ là chưa từng có, có một không hai. Chỉ có một [cơ hội] trên đời này, không có cơ hội thứ hai. Không ai dám làm những điều các đồng chí đã làm“.

    … Chu Ân Lai là người đứng đầu Bộ Tham mưu. Ông ta dám nói, ông ta thẳng thắn hơn. Ông ta nói với tôi: “Nếu tôi biết trước cái cách mà các đồng chí sử dụng, chúng tôi không cần Vạn lý Trường chinh“.

    Vạn lý Trường chinh là gì? Vào đầu cuộc hành quân có 300.000 quân, đến cuối Vạn lý Trường chinh chỉ còn 30.000 quân. 270.000 người đã chết. Thực sự ngu ngốc khi thực hiện cách này. Nói như vậy để các đồng chí biết chúng ta đang đi trước họ như thế nào. Trong tương lai không xa, nếu chúng ta chiến đấu chống lại Trung Quốc, chúng ta chắc chắn sẽ giành chiến thắng … Tuy nhiên, sự thật là nếu một nước khác [không phải Việt Nam] chiến đấu chống lại Trung Quốc, không rõ họ có giành được chiến thắng như thế này không (như Việt Nam).


    … Hiện tại, chúng ta có biên giới với một nước rất mạnh, một nước với ý đồ bành trướng mà nếu muốn được thực hiện, phải bắt đầu với một cuộc xâm lược Việt Nam. Vì vậy, chúng ta phải chung vai gánh vác, vai trò lịch sử khác nhau. Tuy nhiên, chúng ta chưa bao giờ trốn tránh trách nhiệm lịch sử. Trước đây, Việt Nam đã thực hiện nhiệm vụ của mình, và lần này Việt Nam xác định không cho phép họ bành trướng. Việt Nam giữ độc lập riêng mình và làm như vậy cũng là để bảo vệ nền độc lập của các nước Đông Nam Á. Việt Nam kiên quyết không để Trung Quốc thực hiện âm mưu bành trướng. Trận đánh gần đây [với Trung Quốc] chỉ là vòng một. Hiện họ vẫn còn chuẩn bị nhiều lĩnh vực. Tuy nhiên, bất kể họ chuẩn bị đến mức độ nào, Việt Nam cũng sẽ thắng …

    Tiến hành chiến tranh không phải là đi bộ thong thả trong rừng. Gửi một triệu quân vào cuộc chiến chống lại một nước ở bên ngoài liên quan đến vô số khó khăn. Gần đây họ đưa 500.000 – 600.000 binh lính để đánh chúng ta, nhưng họ đã không có thiết bị vận tải đầy đủ để cung cấp lương thực cho quân đội của họ. Trung Quốc hiện đang chuẩn bị 3,5 triệu quân, nhưng họ phải để lại một nửa số quân đó ở biên giới [Trung-Xô] để ngăn chặn Liên Xô. Vì lý do đó, nếu họ đưa 1 hoặc 2 triệu quân vào để đánh chúng ta, chúng ta sẽ không sợ bất cứ điều gì. Chúng ta chỉ có 600.000 quân tham gia, và trong tương lai gần, nếu chúng ta phải đánh với 2 triệu quân, sẽ không có vấn đề gì cả. Chúng ta không sợ.

    Chúng ta không sợ bởi vì chúng ta biết cách đánh. Nếu họ đưa 1 triệu quân, họ sẽ chỉ giành được một chỗ đứng ở miền Bắc. Đi xuống vùng trung du, vùng đồng bằng và Hà Nội và thậm chí xuống dưới sẽ khó khăn hơn nữa.

    Các đồng chí, như các đồng chí biết, bọn Hitler tấn công quyết liệt theo cách này, nhưng khi họ (Đức Quốc xã) đến Leningrad, họ không thể vào được. Với thành phố, người dân và các công trình phòng thủ, không thể nào thực hiện các cuộc tấn công hiệu quả chống lại mỗi người và mọi người. Thậm chí đánh trong hai, ba hoặc bốn năm, họ vẫn không thể vào. Mỗi làng ở đó (ở miền Bắc) thì giống như thế. Đường lối của chúng ta là: mỗi huyện là một pháo đài, mỗi tỉnh là một chiến trường. Chúng ta sẽ chiến đấu và họ sẽ không thể nào vào được cả.

    Tuy nhiên, không bao giờ đủ khi chỉ đánh kẻ thù ở tiền tuyến. Phải có một đội quân hậu tập trực tiếp mạnh mẽ. Sau trận đánh gần đây kết thúc, chúng tôi đánh giá rằng, trong tương lai không xa, chúng ta phải đưa thêm vài triệu người đến mặt trận phía Bắc. Nhưng kẻ thù đến từ phía bắc, hậu phương trực tiếp cho cả nước phải là Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh … Hậu phương trực tiếp bảo vệ thủ đô phải là Thanh Hóa và Nghệ Tĩnh. Chúng ta có đủ người. Chúng ta có thể đánh chúng bằng nhiều cách … Chúng ta có thể sử dụng 2-3 quân đoàn để giánh một cú mạnh vào chúng, sẽ làm cho chúng lảo đảo, trong khi chúng ta tiếp tục giữ đất của chúng ta. Để đạt được mục đích này, mỗi người lính phải là một người lính thực và mỗi đội phải là một đội hình thực sự.

    – Bây giờ đã đánh xong một trận rồi, chúng ta không nên chủ quan. Chủ quan và đánh giá thấp kẻ thù là sai lầm, nhưng thiếu tự tin cũng sai. Chúng ta không chủ quan, chúng ta không đánh giá thấp kẻ thù. Nhưng chúng ta cũng tự tin và vững tin vào chiến thắng của chúng ta. Chúng ta cần phải có cả hai điều này.

    – Bây giờ Trung Quốc có âm mưu đánh [chúng ta] để mở rộng xuống phía Nam. Nhưng trong thời đại hiện nay họ không thể đánh và dọn dẹp một cách dễ dàng. Trung Quốc chỉ đánh Việt Nam có vài ngày mà cả thế giới đã hét lên: “Không được đụng đến Việt Nam“! Thời đại hiện nay không giống như thời xưa. Trong những ngày này, không chỉ có chúng ta và họ (muốn nói Trung Quốc). Bây giờ cả thế giới đang gắn chặt với nhau. Loài người vẫn chưa hoàn toàn đi vào giai đoạn xã hội chủ nghĩa, nhưng đây là lúc mọi người đều muốn độc lập và tự do. [Ngay cả] trên các đảo nhỏ, người dân cũng muốn độc lập, tự do.

    Cả nhân loại hiện nay như thế. Điều đó là rất khác với thời xưa. Thời đó, người dân chưa nhận thức rõ những điều này. Do đó, câu của Bác Hồ: “Không có gì quý hơn độc lập tự do” là một ý tưởng của thời đại hiện nay. Đụng đến Việt Nam là đụng đến nhân loại và xâm phạm độc lập, tự do … Việt Nam là một quốc gia tượng trưng cho độc lập và tự do.

    - Khi phải chiến đấu chống Mỹ, anh em chúng ta trong Bộ Chính trị đã thảo luận với nhau về vấn đề này, cân nhắc liệu chúng ta có dám đánh Mỹ hay không. Tất cả đều đồng ý đánh. Bộ Chính trị đã bày tỏ quyết tâm: để chiến đấu chống Mỹ, chúng ta không sợ Mỹ. Tất cả đều đồng tâm. Khi tất cả đã đồng ý đánh Mỹ, không sợ Mỹ, chúng ta cũng không sợ Liên Xô. Tất cả đều đồng ý. Chúng ta cũng không sợ Trung Quốc. Tất cả đều đồng ý. Nếu chúng ta không sợ ba điều này, chúng ta có thể đánh Mỹ. Đó là cách chúng tôi đã thực hiện trong Bộ Chính trị hồi đó.


    – Chúng ta không sợ ai cả. Chúng ta không sợ bởi vì chúng ta có lẽ phải. Chúng ta không sợ ngay cả anh trai của chúng ta. Chúng ta cũng không sợ bạn bè của chúng ta. Dĩ nhiên, chúng ta không sợ kẻ thù của chúng ta. Chúng ta đã đánh họ rồi. Chúng ta là con người, chúng ta không sợ bất cứ ai. Chúng ta độc lập. Cả thế giới biết chúng ta độc lập.

    Chúng ta phải có một quân đội mạnh mẽ, bởi vì đất nước chúng ta đang bị đe dọa và bị bắt nạt … Không thể khác được. Nếu không, thì sẽ nguy hiểm vô cùng, nhưng đất nước chúng ta nghèo.

    – Chúng ta có một quân đội mạnh, điều đó không có cách nào làm nhụt chí chúng ta. Có một số chính sách của Trung Quốc đối với chúng ta: xâm lược và chiếm đóng nước ta, tìm cách làm suy yếu chúng ta về kinh tế và làm cho điều kiện sống của chúng ta khó khăn. Vì những lý do này, để chống lại Trung Quốc, trước hết, chúng ta phải, không những chiến đấu, mà còn làm cho chúng ta mạnh mẽ hơn. Để đạt được mục đích này, theo tôi, quân đội của chúng ta không nên là một lực lượng lãng phí nguồn lực của nhà nước, mà nên là một lực lượng sản xuất mạnh mẽ. Khi kẻ thù đến, họ (những người lính) cầm súng ngay lập tức. Khi không có kẻ thù, thì họ sẽ sản xuất đàng hoàng. Họ sẽ là biểu tượng tốt nhất và cao nhất trong sản xuất, sản xuất nhiều hơn bất cứ người nào khác. Dĩ nhiên, đó không phải là một câu chuyện mới …

    – Hiện nay, trên vai quân đội của chúng ta đang gánh vác một nhiệm vụ lịch sử: bảo vệ độc lập và tự do của chúng ta, trong khi cùng lúc bảo vệ hòa bình và độc lập trên toàn thế giới. Nếu chính sách bành trướng của bè lũ ********* Trung Quốc không thể thực hiện được nữa, sẽ là lợi ích của cả thế giới. Việt Nam có thể làm điều này. Việt Nam có 50 triệu người rồi. Việt Nam có những người bạn Lào và Campuchia và có địa thế vững chắc. Việt Nam có phe [XHCN] và tất cả nhân loại đứng về phía ta. Rõ ràng là chúng ta có thể làm điều này.

    … Các đồng chí có biết người nào trong đảng chúng ta, trong nhân dân của chúng ta, nghi chúng ta sẽ thua Trung Quốc? Dĩ nhiên là không có ai cả. Nhưng chúng ta phải duy trì các mối quan hệ bạn bè của chúng ta. Chúng ta không muốn hận thù dân tộc. Tôi lặp lại: tôi nói điều này bởi vì tôi chưa bao giờ cảm thấy căm thù Trung Quốc. Tôi không cảm thấy như thế. Đó là họ đánh chúng ta.

    Hôm nay tôi cũng muốn các đồng chí biết rằng trong thế giới này, người đã bảo vệ Trung Quốc là chính tôi! Đó là sự thật. Tại sao vậy? Bởi vì trong hội nghị tháng 6 năm 1960 tại Bucharest, 60 đảng đứng lên chống lại Trung Quốc, nhưng chỉ có mình tôi là người bảo vệ Trung Quốc. Việt Nam chúng ta là thế. Tôi sẽ tiếp tục lặp lại điều này: Tuy họ cư xử tồi tệ, chúng ta biết rằng người của họ là bạn của chúng ta. Về phía chúng ta, chúng ta không cảm thấy xấu hổ với Trung Quốc. Tuy nhiên, âm mưu của một số lãnh đạo (Trung Quốc) là một vấn đề khác. Chúng ta coi họ chỉ là một bè lũ. Chúng ta không nói tới đất nước họ. Chúng ta không nói người dân Trung Quốc xấu với chúng ta. Chúng ta nói bè lũ ********* Bắc Kinh. Tôi nói lại điều này một lần nữa một cách nghiêm túc như thế.

    Vì vậy, chúng ta hãy kiểm soát tình hình chặt chẽ, trong tư thế sẵn sàng chiến đấu, và không bao giờ nới lỏng sự cảnh giác. Về mối quan hệ với Trung Quốc cũng vậy. Tôi tin rằng trong 50 năm, hoặc thậm chí trong 100 năm, chủ nghĩa xã hội có thể thành công, và lúc đó chúng ta sẽ không bị vấn đề này nữa. Nhưng sẽ mất một thời gian [dài] như thế. Vì vậy, chúng ta phải chuẩn bị và sẵn sàng trên mọi phương diện.

    Hiện nay, chắc chắn không ai còn nghi ngờ nữa. Nhưng cách đây năm năm, tôi dám chắc rằng [không có] đồng chí nào nghi ngờ Trung Quốc có thể đánh chúng ta. Nhưng có. Đó là vì các đồng chí [này] không có kiến thức về vấn đề này. Nhưng đó không phải là trường hợp của chúng tôi (Lê Duẩn và ban lãnh đạo). Chúng ta biết rằng Trung Quốc đã và đang tấn công chúng ta [cách đây] mười năm hoặc hơn. Vì vậy chúng ta không ngạc nhiên [về cuộc tấn công của Trung Quốc vào tháng 1 năm 1979]....
  6. Tran-Trung

    Tran-Trung Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    17/11/2010
    Bài viết:
    1.437
    Đã được thích:
    563
    Tivi có người bận không xem được nhưng báo chí thì ngày nào cũng có người đọc, và những tấm gương liệt sĩ hy sinh trong trận chiến chống bọn ********* Trung Quốc báo chí đều có đăng đầy đủ cả thằng con ngu à.

    Vào thời điểm năm 1978, tình hình biên giới Việt - Trung, đặc biệt là ở khu vực các cửa khẩu cực kỳ căng thẳng khi dòng người Hoa từ Việt Nam về nước ngày một nhiều. Ngày 12.7.1978, phía Trung Quốc bất ngờ ra lệnh đóng cửa biên giới, dẫn đến việc hàng ngàn người Hoa bị dồn ứ ở cửa khẩu Hữu Nghị. Họ dựng lều bạt ngay trong khu vực cấm, sinh hoạt làm náo loạn cả một vùng biên giới, gây rất nhiều khó khăn cho ta trong việc giữ gìn an ninh và trật tự xã hội ở vùng biên.

    Trước tình hình trên, tỉnh Cao Lạng (gồm Lạng Sơn và Cao Bằng ngày nay) đã huy động lực lượng liên ngành tiến hành vận động, giải tỏa số người Hoa đang ùn ứ tại cửa khẩu. Ngày 25.8.1978, đoàn liên ngành của tỉnh Cao Lạng, với nòng cốt là Hội Phụ nữ tỉnh, đã đến đồi Pù Tèo Hào ở khu vực giáp biên động viên những người Hoa trở về nơi ở cũ làm ăn sinh sống. Để bảo đảm an toàn cho đoàn cán bộ liên ngành, ta huy động 25 cán bộ, chiến sĩ đồn Hữu Nghị và 20 cán bộ, chiến sĩ công an vũ trang nhân dân thuộc Trung đoàn 12 tăng cường tại Km số 0. Tuy vậy, khi đoàn cán bộ liên ngành lên đồi Pù Tèo Hào đã bị một toán người Trung Quốc dùng gậy gộc, dao quắm, gạch đá hành hung. Trước tình huống trên, lực lượng của Đồn biên phòng Hữu Nghị vừa tay không chống đỡ vừa mở đường cho các cán bộ trong đoàn công tác xuống chân đồi. Thế nhưng, lúc này hàng chục công an biên phòng Trung Quốc mặc thường phục lập tức từ bên kia biên giới kéo sang tấn công ta. Một cuộc chiến không cân sức giữa những chiến sĩ biên phòng tay không chống lại kẻ thù hung hãn với gậy gộc, dao quắm trong tay đã diễn ra ác liệt trên sườn đồi Pù Tèo Hào.

    Trước tình thế hiểm nghèo trên, anh Lê Đình Chinh - Tiểu đội trưởng Tiểu đội 2, Đại đội 6, Tiểu đoàn 2, Trung đoàn 12 khi đó ở dưới chân đồi đã cùng đồng đội xông lên giải vây. Chỉ bằng tay không, anh và đồng đội đánh gục hàng chục tên địch hung hãn, cứu được một cán bộ phụ nữ tên Thuận đang nằm ngất xỉu trên đồi. Vừa đưa chị Thuận xuống phía dưới, Lê Đình Chinh lại nghe tiếng kêu cứu của đồng đội Lê Xuân Tước. Anh liền quay lại, xông vào cứu Tước thoát khỏi vòng vây của kẻ địch. Mặc dù bị ném đá vào đầu, máu chảy lênh láng, nhưng Lê Đình Chinh vẫn xông lên bắt được một tên và truy kích địch chạy về sát đường biên. Trên đường truy kích, anh bị kẻ địch phục kích sau lán trại dùng gậy vụt ngang ống chân khiến anh ngã sấp xuống đất. Ngay lập tức, 4 công an biên phòng Trung Quốc từ bên kia biên giới lao sang, dùng dao quắm chém tới tấp xuống đầu, cổ anh. Lê Đình Chinh đã anh dũng hy sinh lúc 10 giờ 30 phút trên đồi Pù Tèo Hào, gần sát Km số 0 như thế.

    Cái chết của Lê Đình Chinh lúc ấy như một tiếng sấm giữa trời quang, khiến hơn 4.000 người Hoa hoảng loạn, sợ hãi cực độ. Họ xông về phía cửa khẩu, phá cổng biên giới, vượt qua sự trấn áp, ngăn chặn của Công an biên phòng Trung Quốc. Đến 8 giờ tối, trên khu vực biên giới thuộc lãnh thổ Việt Nam không còn một người Hoa nào…

    Anh hùng

    Ngay sau khi Lê Đình Chinh hy sinh, các cơ quan chức năng của Việt Nam đã yêu cầu Đồn trưởng Trương Văn Tự của Đồn biên phòng Nam Quan bên Trung Quốc sang làm việc. “Cuộc đấu tranh chính trị giữa ta và họ diễn ra hết sức căng thẳng, kéo dài từ 11 giờ trưa đến 4 giờ chiều 25.8.1978. Cuối cùng, phía Công an biên phòng Trung Quốc đã phải ký vào biên bản, thừa nhận việc Công an biên phòng Trung Quốc vượt biên giới sang sát hại Lê Đình Chinh ngay trên đất Việt Nam. Biên bản này sau đó được chuyển đến cấp trên để chúng ta tiếp tục đấu tranh với họ ở tầm mức cao hơn”, đại tá Hiệu nói. Cũng theo ông Hiệu, nếu không có sự thừa nhận này, chắc chắn tình hình biên giới còn diễn biến hết sức nguy hiểm, bởi phía Trung Quốc đã tận dụng triệt để sự kiện được gọi là “nạn kiều” để gây áp lực lên phía ta.

    Thi hài Lê Đình Chinh sau đó được an táng tại khu vực hang Muối, xã Hồng Phong, H.Văn Lãng, gần với đồi Pù Tèo Hào nơi anh hy sinh. Đến năm 1979, anh được đồng đội quy tập về Nghĩa trang liệt sĩ H.Cao Lộc. Ông Cao Việt Bắc, Phó ban liên lạc đoàn Thanh Xuyên, nguyên Trưởng ban chính sách Trung đoàn 12 vào những năm 1978 -1979, nhớ lại: “Ngay sau khi Chinh hy sinh, tôi và một đồng chí nữa được đơn vị cử về gia đình ở tận Nông trường Sông Âm, H.Ngọc Lặc (Thanh Hóa) để báo tin, đồng thời đón người thân của anh ra Hà Nội tham dự Lễ tuyên dương công trạng do T.Ư Đoàn tổ chức và đón nhận danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân do ************* truy tặng. Đó là buổi lễ vinh danh một cá nhân hoành tráng và xúc động nhất mà tôi được tham dự. Người dân các tỉnh đã cắm cờ đỏ rực dọc hai bên QL1A từ Hà Nội lên đến tận cửa khẩu Hữu Nghị, Lạng Sơn để đón đoàn xe của đơn vị. Bấy giờ cả nước đều hướng lên biên giới phía bắc, thanh niên cả nước đều học tập tấm gương anh dũng của Lê Đình Chinh”.
  7. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    Có dư luận cho rằng bài nói trên thiếu trung thực, có nhiều điều vu khống>>>không phải bài nói của ông LD

    Ví dụ như đoạn này:

    "Mao hỏi tôi: Ở Lào, có bao nhiêu cây số vuông đất?
    Tôi trả lời: Khoảng 200.000 cây số vuông.

    Mao hỏi: Dân số của họ bao nhiêu?
    Tôi trả lời: Khoảng 3 triệu!
    Mao nói: Như vậy là không nhiều! Tôi sẽ đưa dân tôi đến đó, thật mà!

    Mao hỏi: Có bao nhiêu cây số vuông đất ở Thái Lan?
    Tôi trả lời: Khoảng 500.000 cây số vuông.

    Mao hỏi: Có bao nhiêu người?
    Tôi trả lời: Khoảng 40 triệu!
    Mao nói: Tỉnh Tứ Xuyên của Trung Quốc có 500.000 cây số vuông, nhưng có tới 90 triệu người. Tôi cũng sẽ đưa một số người dân của tôi tới Thái Lan!"

    Mao là một người thông minh, giỏi giang không lẽ lại đi hỏi LD mấy câu thường thức địa lý thế giới. Nếu cần hỏi ông sẽ hỏi người trợ lý của mình vì LD làm ếch gì nghe nói được tiếng Tàu. Tiết lộ âm mưu di dân xuống ĐNA (nếu có) cho một người không đủ thân thiết như LD là việc Mao không thể làm vì con người Mao cực kỳ nham hiểm và kín đáo.

    Những câu hỏi đáp còn lại của Mao trong bài trên cũng nhảm không kém: không rõ Mao lẩn thẩn hay người được Mao hỏi lẩn thẩn?
  8. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    Nhìn lại chiến tranh biên giới 1979

    17/02/2013 2:30
    Đúng vào ngày này 34 năm trước (17.2.1979), Trung Quốc bất ngờ tung hơn 60 vạn quân nổ súng xâm lược Việt Nam trên toàn tuyến biên giới phía bắc, nhưng đã phải rút quân sau hơn một tháng gặp sự kháng cự mãnh liệt của quân và dân ta, chịu nhiều tổn thất nặng nề.

    Tuy vậy cuộc chiến tranh xâm lược này cũng mở màn cho cuộc xung đột vũ trang tại biên giới giữa VN và Trung Quốc (TQ) kéo dài suốt 10 năm sau đó. Theo thiếu tướng Lê Văn Cương, nguyên Viện trưởng Viện Chiến lược - Bộ Công an, với độ lùi về thời gian, việc nhìn nhận lại cuộc chiến tranh này là hoàn toàn cần thiết.

    [​IMG]
    Thiếu tướng Lê Văn Cương
    Kể từ sau khi VN và TQ bình thường hóa quan hệ (1991), hai bên dường như đều không muốn nhắc lại cuộc chiến này. Từ hơn 30 năm qua, cuộc chiến chống quân xâm lược Trung Quốc gần như không được nhắc tới. Theo ông tại sao cuộc chiến lại bị rơi vào lãng quên như vậy?
    Để trả lời câu hỏi này có lẽ cần cả một hội thảo khoa học. Tôi chỉ xin lưu ý như sau, vào những năm kỷ niệm chẵn 10, 15... hay gần đây nhất là 30 năm sau cuộc chiến tranh chống TQ xâm lược (2009), báo chí, truyền hình của VN gần như không đưa tin gì về sự kiện này. Đây là một sự thiếu sót lớn trên góc độ Nhà nước. Hơn thế nữa, đó là một sự xúc phạm đến linh hồn của những đồng bào, chiến sĩ đã bỏ mình để bảo vệ Tổ quốc trong cuộc chiến tháng 2.1979 và gần mười năm sau đó. Họ nằm dưới mộ có yên không? Gia đình vợ con bạn bè và những người thân thích của họ sẽ nghĩ gì về chuyện này? Đã có ý kiến cho rằng nhắc đến những chuyện này cũng có nghĩa là kích động chủ nghĩa dân tộc. Tôi có thể khẳng định rằng nói như vậy là ngụy biện.
    Trong khi chúng ta im lặng thì những dịp đó chúng tôi đã thống kê hệ thống phát thanh, truyền hình báo chí của TQ tung ra trung bình từ 600-800 tin, bài với những cái tít gần như có nội dung giống nhau về cái mà họ gọi là “cuộc chiến tranh đánh trả tự vệ trước VN”. Có thông tin cho rằng hiện tại có tới trên 90% người dân TQ vẫn quan niệm rằng năm 1979 Quân đội VN đã vượt biên giới sang tấn công TQ và bắt buộc TQ phải tự vệ đánh trả. Từ hàng chục năm nay, hệ thống tuyên truyền của TQ đã nhồi nhét vào đầu người dân TQ rằng cuộc chiến 1979 chỉ là cuộc phản công trước sự xâm lược của VN.
    Theo tôi nghĩ, trong tuyên truyền đối nội và đối ngoại, cả ở kênh nhà nước, nhân dân và trên truyền thông, chúng ta phải làm rõ và góp phần làm cho nhân dân thế giới hiểu rõ bản chất của cuộc chiến tranh Việt - Trung 1979. Đồng thời góp phần làm cho hơn 1,3 tỉ người TQ biết được sự thật rằng vào ngày đó hơn 60 vạn quân TQ đã vượt biên giới xâm lược VN. Việc chúng ta im lặng hàng chục năm qua, theo tôi là không đúng. Việc nói ra cũng không liên quan gì chuyện kích động chủ nghĩa dân tộc. Hãy thử so sánh chuyện đó với việc TQ tung ra hàng nghìn bài báo xuyên tạc lịch sử từ hàng chục năm qua.

    [​IMG]
    Bộ đội Việt Nam đánh trả quân Trung Quốc xâm lược tại Lạng Sơn năm 1979
    Với độ lùi về thời gian, theo ông chúng ta có thể rút ra những điều gì từ cuộc chiến tranh này? Những điều đó có ý nghĩa thế nào trong bối cảnh hiện tại ?
    Theo tôi, khoảng thời gian 34 năm đã là khá đủ cho chúng ta nhận thức lại những vấn đề xung quanh cuộc chiến 1979. Thế nhưng đến giờ phút này tôi có cảm giác không phải lúc nào chúng ta cũng có được sự nhận thức thống nhất, nhất quán từ trên xuống dưới.
    Vấn đề thứ nhất, phải xác định rõ về mặt khoa học, cuộc chiến 1979 là cuộc chiến tranh chống xâm lược, bảo vệ Tổ quốc. Đây là vấn đề phải nhận thức rõ từ cấp cao nhất. Sự nhận thức ấy cũng phải được thống nhất trong toàn Đảng, toàn quân và toàn dân. Đây là chuyện không được phép mơ hồ.
    Không chỉ nhận thức mà Nhà nước có trách nhiệm đưa câu chuyện này vào sách giáo khoa. Thực tế cho thấy phần lớn học sinh tiểu học, trung học và thậm chí đa số trong 1,4 triệu sinh viên hầu như không biết gì về cuộc chiến tranh này. Nếu để tình trạng này kéo dài, trách nhiệm thuộc về Nhà nước. Chắc chắn chúng ta sẽ không tránh được sự phê phán của thế hệ sau này. Hàng vạn người con ưu tú của chúng ta đã bỏ mình để bảo vệ từng tấc đất biên giới phía bắc của Tổ quốc, tại sao không có một dòng nào nhắc đến họ? Bây giờ đã quá muộn. Nhưng không thể để muộn hơn được. Theo quan điểm của tôi, Nhà nước phải yêu cầu đưa phần này vào lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc. Chúng ta không thể mơ hồ được, không thể lờ đi vấn đề lịch sử này được.

    [​IMG]
    Bệnh viện huyện Trùng Khánh, Cao Bằng bị quân Trung Quốc tàn phá tháng 2.1979 - Ảnh: Tư liệu
    Tôi đã nhiều lần trao đổi với các học giả nước ngoài và họ đã thắc mắc khá nhiều chuyện tại sao sự kiện chiến tranh chống quân TQ xâm lược năm 1979 lại không được nhắc đến trong các giáo trình lịch sử của VN. Tôi đã phải chống chế với lý do rằng người VN muốn quên đi quá khứ và hướng đến tương lai. Nhiều học giả Hàn Quốc, Nhật Bản đã phản bác tôi vì “Lịch sử là lịch sử. Quá khứ là quá khứ. Tương lai là tương lai”. Họ nói rằng: “Chúng tôi biết người VN rất nhân hậu, muốn hòa hiếu với các dân tộc khác. Nhưng điều này không thể thay thế cho trang sử chống ngoại xâm này được”.
    Thứ hai, trong thế giới hiện đại toàn cầu hóa, các quốc gia đều phụ thuộc lẫn nhau. Không có quốc gia nào hoàn toàn độc lập tuyệt đối. Ngay cả Mỹ nhiều lúc cũng phải nhân nhượng các quốc gia khác. Chúng ta không có quan niệm về độc lập chủ quyền tuyệt đối trong thời đại toàn cầu hóa. Nhưng trong bối cảnh này, phải nhận thức rõ cái gì là trường tồn? Theo tôi có 3 thứ là chủ quyền quốc gia, ý thức dân tộc và lợi ích quốc gia. Ở đây chúng ta phân biệt chủ nghĩa dân tộc vị kỷ, chủ nghĩa dân tộc nước lớn với lòng yêu nước chân chính, ý thức tự tôn tự hào dân tộc. Hai cái đó khác nhau. Người VN có truyền thống yêu nước, có tinh thần chống ngoại xâm bất khuất, đó là điều cần được phát huy trong 92 triệu người VN trong và ngoài nước.
    Chủ quyền quốc gia, ý thức dân tộc và lợi ích quốc gia là những cái “dĩ bất biến”, những cái còn lại là “ứng vạn biến”. Những chuyện “16 chữ”, “bốn tốt” trong quan hệ với TQ là “ứng vạn biến”. Bài học từ cuộc chiến chống xâm lược năm 1979 cho thấy nếu không nhận thức được điều này thì rất nguy hiểm.
    Thứ ba, trong bối cảnh quốc tế hiện nay, tiêu chí để phân biệt người yêu nước hiện nay là anh có bảo vệ lợi ích quốc gia hay không. Trên thế giới này không có bạn bè vĩnh viễn hay kẻ thù vĩnh viễn, chỉ có lợi ích quốc gia mới là vĩnh viễn. Năm nay chúng ta chuẩn bị tổng kết Nghị quyết T.Ư 8 (7.2003) về chiến lược bảo vệ Tổ quốc. Tôi thấy có một quan điểm bây giờ vẫn đúng, đó là: "Những ai chủ trương tôn trọng độc lập, chủ quyền, thiết lập và mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với Việt Nam đều là đối tác của chúng ta. Bất kể thế lực nào có âm mưu và hành động chống phá mục tiêu của nước ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đều là đối tượng đấu tranh". Đồng thời, cũng phải có cách nhìn biện chứng về đối tượng và đối tác: trong mỗi đối tượng vẫn có thể có mặt cần tranh thủ, hợp tác; trong một số đối tác, có thể có mặt khác biệt, mâu thuẫn với lợi ích của ta, cần phải đấu tranh.

    [​IMG]
    Tù binh Trung Quốc bị bắt tại Cao Bằng
    Nhìn lại từ câu chuyện của 34 năm trước đến những căng thẳng hiện tại trong vấn đề biển Đông, theo ông có thể hy vọng gì ở tương lai trong quan hệ giữa VN và TQ ?
    Tạo ra lòng tin, sự hữu nghị chân thật giữa hai nước là con đường tất yếu nhưng đòi hỏi thời gian lâu dài và từ cả hai phía. Đây không phải là điều có thể hy vọng có được trong vài ba năm tới đây. Lịch sử mách bảo chúng ta muốn giữ được hòa bình, ổn định, giữ được độc lập tự chủ thì điều quan trọng nhất là giữ được lòng dân. Trên dưới một lòng, có được sự đoàn kết dân tộc thì chắc chắn không có kẻ xâm lược nào dám dại dột động đến chúng ta cả. Lịch sử VN đã cho thấy những lần mất nước đều bắt đầu từ việc chính quyền mất dân. Năm 179 trước CN An Dương Vương để mất nước là do mất dân. Một ông vua đứng đầu quốc gia mà tin vào kẻ thù thì chuyện mất nước là không thể tránh khỏi. Năm 1406, nhà Hồ mất nước cũng vì đã mất dân. Đến mức độ nhà Minh truy bắt cha con Hồ Quý Ly thì chính những người trong nước đã chỉ điểm cho quân Minh. Năm 1788 Lê Chiêu Thống sang cầu viện Mãn Thanh đưa 20 vạn quân sang giày xéo quê cha đất tổ cũng là ông vua đã mất dân. Đó là bài học muôn đời để bảo vệ chủ quyền quốc gia.
    Ng.Phong
    (thực hiện
  9. gepar3.9

    gepar3.9 Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    03/08/2012
    Bài viết:
    198
    Đã được thích:
    8
    Cuộc chiến đấy chẳng có gì bí mật mà công khai cái gì nó cũng rõ như ban ngày ,chỉ có điều mình không hiểu nổi là lúc đầu đánh với bộ đội địa phương và dân quân tự vệ thì người Trung Quốc hùng hổ là vậy nhưng khi nghe tin ta không vận quân đoàn 3 từ Nam ra ,cho một trung đoàn trực thăng HU1A chiến lợi phẩm chuẩn bị chơi trò như săn PÔNPỐT thì phía Trung Quốc lại bảo thắng rồi không đánh nữa SAO KỲ DẬY TA ?
  10. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    Đội du kích ba lần đánh thắng quân xâm lược (*)

    16/02/2013 14:00
    Vào những năm đầu thập niên 80 thế kỷ trước, Tả Ván (thuộc huyện Quản Bạ, tỉnh Hà Giang) không lúc nào yên ổn. Phía bên kia biên giới người ta luôn khiêu khích, gây chuyện. Và từ năm 1980 tới 1984, đã ba lần Trung Quốc xua quân tràn qua biên giới thuộc địa phận Tả Ván.

    Bắt đầu từ một ước muốn... ẩm thực: được ăn món bột ngô đồ danh tiếng của người H’Mông mà lâu nay mới nghe tên chứ chưa thấy. Nhưng rồi tôi đã được “ăn” một món còn ngon hơn cả mèn mén ở cái bản nhỏ bé ấy.
    Xã bản Tả Ván (gọi theo đơn vị hành chính là xã Tả Ván) thuộc huyện Quản Bạ, tỉnh Hà Giang. Xã có hơn 400 hộ dân với hơn 2.000 nhân khẩu, 99% là người dân tộc H’Mông.
    [​IMG]
    Cổng trời Quản Bạ - Ảnh: Thanh Thảo
    Vào giữa tháng 7.2012, lần đầu tiên tôi có dịp lên cao nguyên đá Quản Bạ - Đồng Văn thuộc Hà Giang. Và như một tình cờ tất định, tôi đã tới Tả Ván.
    Từ thành phố Hà Giang, sau khi vượt qua cổng trời Quản Bạ nổi tiếng, trên đường đi Yên Minh - Đồng Văn, xe chúng tôi rẽ theo một con đường nhỏ, khoảng 20 km, dẫn về xã Tả Ván, theo lời mời của anh Ly Thanh Hùng - Chủ nhiệm HTX. Về ăn một bữa cơm trưa của người H’Mông. Rất thú vị với lời mời này, tôi nhắc anh Tuấn - Phó chủ nhiệm Liên minh HTX tỉnh Hà Giang: Tuấn nói với Hùng là cho bọn mình ăn một bữa mèn mén “nhà giồng được” nhé! Anh Tuấn gật đầu: Chắc chắn rồi! Vì ở đây, mèn mén là món ăn chưa bán ngoài quán, chưa “thị trường”.
    Cả nhà Ly Thanh Hùng vồn vã đón chúng tôi. Người H’Mông ít nói, nhưng nhìn gương mặt rạng rỡ của họ khi khách “được mời” tới nhà, có thể đọc rõ những tình cảm anh em thật nồng ấm. Hùng từng đi bộ đội, giờ phục viên làm chủ nhiệm HTX. Nhà của Hùng được dùng luôn làm trụ sở hợp tác xã cho... tiện. Chàng trai H’Mông 30 tuổi này có gương mặt thật sáng, mũi cao và thẳng. Theo đúng đề nghị của chúng tôi, vợ chồng Hùng đã đồ sẵn một chõ mèn mén, kèm dưa nương mới hái và một nồi canh ngan (vịt xiêm). Hùng nói, mèn mén phải ăn kèm dưa nương cho mát, còn để “trôi chảy” hơn thì phải có canh, ngon nhất là canh ngan. Dĩ nhiên tôi hiểu, bữa ăn hằng ngày của người H’Mông thường chỉ có mèn mén với dưa nương, làm sao có canh ngan trong “thực đơn” được. Canh ngan là món đặc biệt mà người H’Mông “nhịn miệng đãi khách”, dù yêu cầu tha thiết của chúng tôi chỉ là mèn mén và dưa nương.

    [​IMG]
    Ông Vàng Xín Dư (phải) - người từng lập kỳ tích ba lần chiến thắng quân xâm lược từ bên kia biên giới
    Tôi đã có một bữa ăn trưa có lẽ là đặc biệt nhất trong đời mình. Bởi ở đây, tôi không chỉ được ăn mèn mén với dưa nương và canh thịt ngan, dù những món ăn này hòa quyện với nhau tạo nên một hương vị thật đậm đà, quyến rũ. Ở nhà Hùng, giữa những chén rượu ngô H’Mông “đặc chủng”, tôi được gặp và hầu chuyện một người đặc biệt: ông bác (bên mẹ, trong nam gọi là cậu) của Ly Thanh Hùng, ông Vàng Xín Dư. Ông Dư nguyên là Phó ban Tổ chức Tỉnh ủy Hà Giang, mới về hưu. Một ông cựu quan chức thì cũng không có gì đặc biệt. Nhưng qua lời giới thiệu của Tuấn và lời kể của Vàng Xín Dư, tôi biết ông từng là người chỉ huy của đội du kích xã Tả Ván, đã lập nên một kỳ tích: ba lần đánh thắng quân xâm lược tràn qua từ bên kia biên giới.
    Tả Ván có 13,5 km đường biên giới với Trung Quốc, là một xã thuộc diện đặc biệt khó khăn. Ông Dư nói đùa: "Xã tôi chỉ có 2 người “dân tộc thiểu số” - là hai bà chị người Kinh lấy chồng người H’Mông ở Tả Ván, khi họ cùng đi thanh niên xung phong với nhau. Hai bà chị này, một quê Nam Định, một quê Thanh Hóa, nói sõi tiếng H’Mông. Nếu tình cờ gặp họ, anh sẽ nghĩ họ là phụ nữ H’Mông thôi". Rồi ông Dư kể chuyện:
    Vào những năm đầu thập niên 80 thế kỷ trước, Tả Ván không lúc nào yên ổn. Phía bên kia biên giới người ta luôn khiêu khích, gây chuyện. Và từ năm 1980 tới 1984, đã ba lần họ xua quân tràn qua biên giới thuộc địa phận Tả Ván.
    Đường sang đây là độc đạo xuyên núi, Tả Ván lại là xã nhỏ bé nghèo nàn, nên quân xâm lược nghĩ chỉ cần vài ba tiểu đoàn đột kích cùng pháo binh yểm trợ dọn đường là có thể “nuốt trôi” những bản làng heo hút của người H’Mông ở đây. Họ nhầm!
    Đội du kích Tả Ván, chỉ được trang bị súng trường K44, súng kíp và lựu đạn chày, dưới sự chỉ huy của thư ký Ủy ban xã Vàng Xín Dư, đã bình tĩnh đón tiếp những “vị khách không mời” này.
    Người H’Mông là những nhà leo núi bẩm sinh, rất giỏi đánh vận động chiến trên địa hình núi đá hiểm trở. Theo con đường độc đạo dẫn vào bản Tả Ván, quân xâm lược liên tục bị phục kích bởi những “con đại bàng H’Mông” thoắt ẩn thoắt hiện trên những ngọn núi và hẻm núi. Chỉ với vũ khí khá thô sơ, nhưng với sự nhanh nhẹn, thông minh và lòng quả cảm, những du kích Tả Ván đã bình tĩnh đẩy lùi mấy tiểu đoàn quân chính quy Trung Quốc. Và đẩy lùi tới... ba lần. Bên đối phương thiệt hại bao nhiêu không rõ, về phía ta, cả xã chỉ mất... 3 con trâu, do đạn pháo bên kia bắn trúng. Ông Vàng Xín Dư kể: “Thung lũng mình đây bị pháo kích không biết bao nhiêu trận. Có lúc, họ bắn pháo suốt cả ngày, dân phải bồng bế đi sơ tán hết. Cơ cực lắm”.
    Cùng trong năm 1984, vào ngày 12.7, tại mặt trận Vị Xuyên - Hà Giang, quân chính quy Việt Nam đụng độ dữ dội với quân chính quy Trung Quốc. Thanh Thủy - vùng núi hiểm trở dọc biên giới - thành chiến địa, nơi những chiến sĩ của chúng ta phải trần lưng chịu pháo, chống những trận tập kích ác liệt, và hy sinh để giữ từng điểm cao, từng hốc núi. Trong bối cảnh ấy, kỳ tích “ba lần đánh thắng quân xâm lược” của những người du kích H’Mông bản Tả Ván thực sự là một điểm son chói lọi tiêu biểu cho cuộc chiến tranh nhân dân, được tiến hành bởi nhân dân và nhằm bảo vệ nhân dân. Ngay sau lần thứ ba đánh thắng quân xâm lược, quân và dân Tả Ván được nhà nước phong tặng danh hiệu “Anh hùng lực lượng vũ trang”. Riêng ông Vàng Xín Dư được “lên chức”, được giao nhiều trọng trách, cho tới khi về hưu là Phó ban Tổ chức Tỉnh ủy. Ông Dư cười khà khà: “Từ đó mình được đi ô tô”.
    Câu chuyện của ông Vàng Xín Dư đã kéo tôi trở lại Tả Ván chỉ 2 tháng sau. Lần này, tôi đi cùng anh chị em Công đoàn ngành dệt may, cùng anh Lê Quốc Ân - nguyên Chủ tịch Tập đoàn dệt may VN, mang theo những món quà đến với trẻ em 2 xã Tả Ván và Tùng Vài. 800 chiếc áo ấm mới cáu cạnh “nhà giồng được”, cùng nhiều món quà khác được Công đoàn ngành dệt may trao tận tay các học sinh mầm non, tiểu học và trung học cơ sở ở 2 xã này.
    Buổi trưa, theo yêu cầu, tôi được gặp những cựu du kích đã góp phần làm nên “hattrick chiến thắng” của Tả Ván. Họ mộc mạc, kiệm lời như đá núi, nhưng có những nụ cười lành sạch tin cậy như… mèn mén. Mỗi người góp vài câu, kể thêm cho tôi nghe về những trận đánh oai hùng cách đây ngót 30 năm. Khi ấy, họ còn rất trẻ. Bây giờ, người nào cũng có cháu nội cháu ngoại. Các cháu đã có mặt ở sân trường buổi sáng để nhận những tấm áo ấm nghĩa tình. Rồi các cháu sẽ lớn lên, sẽ thành những công dân quả cảm giữ gìn phên giậu của Tổ quốc, như ông nội ông ngoại đã làm. Mỗi tấm áo chống rét, mỗi món quà nhỏ đến với các cháu Tả Ván, Tùng Vài hôm nay chính là sự trao gửi niềm tin của chúng ta vào thế hệ tương lai sẽ bảo vệ từng tấc đất nơi địa đầu Tổ quốc.
    Nhà thơ Thanh Thảo
    (*) Bữa mèn mén ở bản nhỏ - Thanh Niên Xuân 2013

Chia sẻ trang này