1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Súng bộ binh!!!

Chủ đề trong 'Kỹ thuật quân sự nước ngoài' bởi 272chip272, 04/08/2009.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. mrhungdo

    mrhungdo Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    06/05/2011
    Bài viết:
    1.121
    Đã được thích:
    22
    hê hê bác Phúc thông cảm!!! với lại em có lèo lái đông năng với đông lượng đâu
    tại em học thì bài toán va đập thì dùng bảo toàn động lượng còn bài toán đạn xuyên thế kia thì em phải dùng bảo toàn năng lượng
    bác giải thích em hiểu rồi cám ơn bác!!
  2. huyphuc1981_nb_aaaj

    huyphuc1981_nb_aaaj Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    25/02/2011
    Bài viết:
    52
    Đã được thích:
    14
    =))=))=))
    Trong chuyện súng ống thì có thể thấy rõ con đường khoa học kỹ thuật chảy ra từ Đông Âu, truyền đến Tây Âu, trong khi đĩ điếm bợm chạ lừa gạt từ Tây Âu truyền ra Mèo Hoang chẳng hạn =))=))=))=)).

    Ví dụ thế này. Pháp có quả Chauchat, ừ nó là trung liên, nhưng cái wiki, máy ăn cắp não mọi nơi mọi chỗ bào nó là súng trường xung phong. Chúng ta thì ai cũng công nhận súng trường xung phong nhẹ hơn súng trường đối kháng thời Chauchat, nhưng Chauchat là 10kg, cái 10kg này thì cũng như các trung liên khác, nhưng cương quyết không phải là súng trường xung phong. Thôi, cái mắy ăn cắp não nó không ngu thì nó đã không phải máy ăn cắp não wiki.

    Chauchat là trung liên, công nhận rồi nha, nhưng tối đa chỉ có băng 20 viên =))=)). Của đáng tội, bây giờ chúng ta xây lò hạt nhân và đường cao tốc nhật bản cũng thế, lại như Nhật, tương lai nợ công 200% GDP, suốt đời in triền trả nợ Vinashin =))=)), Vinashin 1 chưa in tiền trả nợ xong lại sắm thêm máy in tiền cho Vinashin 3 rồi. Tức là, Chauchat phải trả nợ cho ông cha ăn mặn mà không uống nước. Năm 1886 Lebel ăn mặn dùng băng dọc M1869, M1872 của người ta, năm 1892 Berthier đã cho Lebel cơ hội uống nước, chỉ tốn 6 năm, không uống thì con cháu cõng 22 năm, rồi 24 năm. Hài hước, năm 1866-1874 mẹ ghẻ ta quyết sửa sai, quá ngu, thì năm 1886-1892, mẹ ghẻ ta quyết bảo thủ, lại ngu quá :)):)):)). Cái này thì không phải băng dọc hay băng ngang, Chauchat có băng ngang như Berthier, nhưng là băng liên thanh, tức là phần thay nhanh có cả vỏ, lò xo, lắp sẵn, chứ không chỉ thay mỗi cái kẹp mà các cụ nhà ta gọi là giáp 3, giáp 5.Vì ảnh ở link Chauchat không đọc được khi đặt trộm đường dẫn, nên xem tạm ,


    Nguyên nhân băng Chauchat chỉ có 20 viên, đó là đạn Lebel quá côn lại có gờ móc
    [​IMG]
    [​IMG]



    Cũng là chauchat, nhưng đây là phiên bản bán cho Mỹ, dùng đạn ".30-06", quá dễn để thấy, cái giới hạn 20 viên quá dễ để leo. Đạn G88 đã format nhìn xa trông rộng để bắt đầu thời đại liên thanh, nó không quá côn và không gờ móc, được ".30-06" học theo, trừ việc đạn Mỹ to như con voi =)), to như thế vì đòi ăn cả sơ tốc Mosin và vỏ đạn Mauser, =)) , trong khi thuốc nổ cor***e có tính dẻo do vadelin, mà đã là thuốc dẻo thì là thuốc cháy nhanh. Mosin do trình độ gia công thấp đã không làm rãnh móc , để ủng hộ nhà máy Tula lạc hậu có công ăn việc làm lúc đó, báo hại cho đến nay.
    [​IMG]
    [​IMG]





    Thiên hạ này không thiếu chuyện súng máy dùng băng hộp lò xo lắp đạn có gờ móc. Bác mèo Hoang có quả đạn gờ móc 3 tuổi ".30-03", được thay bởi ".30-06", .30 là 0,3 incher, 3 lai, 7,62mm. Còn 03 và 06 là 1903 và 1906. 3 năm sai đạn này có lẽ chả cần so với
    Berthier và lebel 1892-1866 hay Mannlicher 1866-1990 nữa nhể. ở đây là 3 lai anh quốc gần giống 3 lai Mèo Hoang, nhưng 7,7mm.

    Lewis bắn đạn .303 Anh 7,7x 56R không côn lắm, na ná đạn Mosin. Tuy nhiên, giải pháp này Chauchat vẫn dùng tốt. Đạn Mosin cũng ngự trong băng kiểu này ở DP. Nhưng vấn đề Anh Mỹ thì còn nhiều. Thực chất, Lewis là khẩu súng của Bỉ, được bán sang Anh. Cái xuẩn của Mỹ khi sản xuất hay mua lại súng này là vẫn dùng băng kiểu này cho ".30-06" không gờ móc =)). Cái băng kiểu này là nhược điểm lớn nhất của DP, động cong quá lớn của băng gây ra cái này, và cái này là để khắc phục băng 20 viên của Chauchat. Băng hai tầng có thể đạt đến 97 viên.

    Quá dễ để hiểu, người Bỉ định thiết kế Lewis cho ai ?, Pháp ngay cạnh đó =))=))=)). Thế nhưng Chauchat M1915 lại không có băng đĩa.

    [​IMG]

    [​IMG]




    DP. DP phổ biến dùng băng 1 tầng 40 viên, trong khi các nước dùng súng chiến lợi phẩm lại chế băng 2 tầng như Lewis Anh. Chúng ta đã thấy Lewis Mỹ lặp lại băng đĩa đúng kiểu con nhái, con vẹt, khi dùng đạn ".30-06" không có gờ móc =))=))=)). Không thể tưởng tượng dân Mèo Hoang ngu si về súng ống đến mức nèo nữa.
    Cái băng này làm súng không còn dẹt mà thành hình khối, gây dễ va chạm, hỏng hóc, đây là nhược điểm lớn nhất của DP, trong khi các mặt khác là súng dễ làm, rẻ, bắn rất cân và tin cậy bề bỉ (tất cả các súng Tây và Áo-Hung đều không cân như Nga-Đức thời này, gây rung khi bắn loạt). Đây là lỗi của đạn Mosin, mặc dù đạn Mosin không quá côn với gờ móc quá to như Lebel.

    Đây là câu chuyện khá đau. Mosin có cái gờ móc này đến nay, báo hại PK vì sự suy đồi của chính quyền Nga hoàng. Lúc đó, để dùng đạn không gờ móc thì đạn cần định độ sâu trong ổ đạn bằng vai đạn, cần gia công vai buồng đạn trong nòng bằng mũi khoan định hình, mũi khoan định hình cần vật liệu tốt vì nếu không tốn thì nó mòn mất cái định hình. Để Tula lâu không được đầu tư (như đường sắt VN hiện đang dùng kiểu tk19, đi lùi so với năm 1945 cướp được của Tây Phú), không có khoan khiếc hiện đại, mà vẫn làm Mosin, cũng như các nhà máy khác vẫn làm được đạn với dập đít vỏ một chày đơn giản, Mosin đã chọn đạn có gờ móc. Đạn có gờ móc định độ sâu vỏ đạn trong ổ bằng gờ móc đặt lên đáy nòng, vỏ đạn có sai số thì ginã nở khi nổ bởi đồng thau, với băng một hàng chưa nhiều vấn đề, nhưng băng trống, 2 hàng... sau này và nhất là cửa băng cúi lên ngỏng xuống của AK thì Mosin chết đứng. Cũng vì thế mà PK chưa bao giờ có ý định dùng băng hộp lò xo, tuyền băng dây các kiểu. Điều đau lòng nhất là, sau khi nhất trí đạn có gờ móc, thì những hợp đồng gia công súng đầu tiên vẫn sang Pháp Mỹ, báo hại gia đình Romanov, tất cả bác học về vũ khí của họ theo Hồng Quân sạch bách năm 1917, thậm chí đã tổ chức nhà máy Kovrov từ trước 1917 xa, Degtiarev, một trong những người có 3 đời làm ở Tula bị phản bội năm đó, sau này trở thành cần vụ của ngài sỹ quan Fedorov và hai hông lãnh đạo ngành súng ống Liên Xô cho đến khi Fedorov mất, cả về khoa học và sản xuất.
    [​IMG]
    [​IMG]


    Chauchat
    [​IMG]






    Thế thì chúng ta đã biết, vào năm 1815, thì đã có nhiều súng trung liên có hơn 20 viên. Thế nhưng tại sao Chauchat có 20 viên, và BAR sau này cũng có 20 viên.
    Có hai vấn đề, tại sao Pháp lại dùng Chauchat và tại sao Mỹ lại lặp lại băng Chauchat.Trong khi cả Pháp và Mỹ đều có thể dùng những súng tốt hơn, như Lewis. Lewis có thể có nòng, có máy lạc hậu hơn BAR, nhưng hơn Chauchat, và dĩ nhiên băng Lewis hơn băng BAR 20 viên .

    À, câu chuyện là vì bức tranh cổ động trên. Các bạn thấy, chú lính Phú kia trông có ngầu không, chú ta xắn quần coi quân Đức như cỏ. =))=))=))=))

    Cái tính điên rồ, hạ đẳng, ngu ngốc, son phấn, đồng bóng, nó lây như dịch chó dại y như cảm giác chú Phú này. Chuyện thế này.

    Các bạn đã biết, Lewis không phải súng Anh-Mỹ, mà là súng Bỉ, một vùng lai chuyên có trò xuất khẩu lậu các tiến bộ kỹ thuật Đông Âu. Ngoài ra, Đông Âu còn có loại khác, là Madsen Đan Mạch, khẩu trung liên đầu tiên của châu Âu, và dĩ nhiên là của thế giới. Chauchat cũng không ra đời từ 1915. Chuyện súng lùi nòng dài đến nay vẫn dùng trên súng ngắn và pháo, nhưng ít súng lùi dài bắn đạn viên súng trường như Chauchat, các súng khác lùi ngắn, Chauchat được người Phú thông thái phát triển từ khi súng ngắn lùi dài phát triển, sau 1903-1908, súng đã hoàn thành thiết kế, được quảng cáo ầm ỹ 1909 và đắp chiếu đến 1915. Nó bị đắp chiếu vì gia công chính xác, đắt, mà lại dễ hỏng, bắn nhanh nóng... đủ tội, và không thiếu cái tội băng tối đa 20 viên. Ưu tiên của nước Pháp lúc đó là Madsen, thứ súng dễ làm, bền, tin cậy...

    Ấy nhưng, bùm, chiến tranh nổ ra. Các súng Đông Âu bị cấm vận. Công ty Pháp
    Hotchkiss cũng có trung liên, nhưng lại không có phiên bản bắn đạn... Pháp (Hotchkiss Portative bán cho Anh-Mỹ). Vickers-Berthier là thiết kế Pháp cũng thế, bắn đạn Anh- Mỹ, khẩu này có cái hay là phát triển từ cùng một mẫu nguyên thuỷ với ZB 26 Tiệp Khắc sau chiến tranh WW1, Tiệp bán license cải tiến ZB 30 cho Anh Quốc để dễ cải tiến đạn, trong đó có việc bỏ trích khí xiên ngược tiền thân của AK 7,62mm, các nước Anh và Thuỵ Điển khi thay đạn đều gặp rắc rối với trích khí khí động rất ưu việt nhưng khó tính toán này. Bản thân Brno chế ZB cũng chưa hoàn thiện việc tính toán, nên kéo dài giá thành và thời gian khi chuyển đổi đạn, cũng như bất khả thi với nhiều loại đạn, ZB 30 có trích khí tiết lưu thông thường.

    Vickers-Berthier đã cho thấy, ở Pháp và Anh, người ta dễ dàng nhái một mẫu súng Đông Âu, nhưng chớ dại nhái một khẩu súng đang phát triển. Lewis cũng đã định hình rồi mà, có nhiều lý do kết hợp để có hiện tượng súng trường xung phong Chauchat, Lewis đáng tiếng lại giống Hotchkiss Portative, đã bán license cho Anh hoặc Anh mua từ nguồn khác, các công ty Pháp không có sức cạnh tranh. Và vì nhiều lý do khác nhau, người ta quyết định dùng bản thiết kế đắp chiếu Chauchat.

    Để dùng súng lởm, thì phải quảng cáo át đi, đó, bắc bức tranh chú Phú xắn quần lừng danh kia lên.

    Chauchat bắn nhanh nóng, Chauchat có 20 viên đạn. ~X~X~X À, đây, Chauchat không phải trung liên, mà Chauchat là súng trường, thứ súng trường chưa từng có, đó là súng trường xung phong. =)):))[:D]

    Chauchat nặng 10 kg :((:(( Ôi trời SK-39 Đức và AK-47 Nga còn khướt mới bảo vệ được học thuyết súng trường xung phong

    Nhưng Fedorov Avtomat 1915 đã là súng trường xung phong nặng 4-5 cân , kiêm chức năng như AK và RPK ? Ôi trời, bọn Nga lúc ấy còn Ngố, đã thắng WW2 đâu mà bảo súng nó đáng để Pháp nể mặt. =D>=D> Chúng ta biết, cái chuyện Pháp bị Nga đánh bại và nối tiếp các triều đại Đông Âu cưỡng bức sinh lý suốt tk19, từ Nã Phá Luân I ở Nga, đến Nã Phá Luân III với Phổ, Nã Phá Luân II lại là cháu ngoại Áo, ba đế quốc Đông ÂU thay nhau cưỡng bức mặt sinh sống lý và mặt danh dự quý bà Phú Lãng Sa... không dám đối đầu mà thầy dùi đánh hôi cũng bại trận ở Krưn, nên ông Đù Má mới có câu là "Nga là trung gian giữa dã man và văn minh", ấy tức là Pháp là văn minh nhất, Đức văn minh vừa vừa, Ba Lan văn minh yếu, Nga chỉ ở cạnh văn minh =))=))=)). (quên béng, cái này là Đù Má hay Hu Gâu).

    Đức MG13 , chúng ta biết súng máy Nga-Đức coi trọng cân rung trong loạt bắn thế nào, MG13 đã có băng trống đối kép để giảm rung lệch khi khi đẩy băng, tức là giảm tối đa vì băng trống đơn như RPK không gây rung lệch bao nhiêu cả. À, như trên, Đức nó cách văn minh một tẹo, chỉ một tẹo thôi, nhưng chưa đến văn minh . =))=))=)). Đến nay, bị liên minh Đông Âu cưỡng bức hấp diêm tưng bừng về kinh tế, Pháp đĩ vẫn vậy.




    Tóm lại, Fedorov và MG13 ở quá xa văn minh. Lewis dễ dàng cải tiến để bắn Lebel 8mm nhưng lại lệch sang bên kia văn minh, chúng đều chỉ là trung liên tầm thường, không phải súng trường xung phong chưa từng có. =))=))=)).

    Thật ra, quá dễ để hiểu, Fedorov đã trình bầy học thuyết về súng trường sung phong từ rất lâu khi Đức đặt tên SK-39 (sturm karabinen cạc bin xung phong kiểu 1939). Bởi vì, học thuyết là trình bầy đầu tiên của Fedorov Avtomat, có rất lâu trước khi mẫu thử súng bắt đầu chế tạo và thử nghiệm, Fedorov Avtomat có thành công cũng lại chỉ là thử nghiệm của học thuyết súng trường xung phong. Fedorov đã trình bầy học thuyết về bài học chiến tranh Nga-Nhật 1905 của Mosin, trình bầy rõ ràng rằng, khi xung phong Mosin chỉ là cây giáo cắm lê, để khắc phục điều này cần đến hiệu chỉnh những khả năng có sẵn của kỹ thuật, chỉ với đúng điều kiện kỹ thuật năm đó, đã có cái súng trường xung phong Fedorov, Fedorov Avtomat được giải thưởng lớn ngay sau Mosin, nên người Nga đã chính thức công nhận đó là thế hệ súng trường thay thế Mauser, Mosin, rất lâu trước khi AK thực hiện điều này.

    Rõ ràng, cũng thuốc đó, thép đó, máy gia công đó, đạn đó, Fedorov Avtomat 1915 chỉ hiệu chỉnh lại năng lực súng, đã được khẩu súng trường xung phong đúng nghĩa, mặc dù quá yếu so với AK sau này. Nó dùng băng tháo rời thay nhanh, nhưng băng có 1 hàng để dùng đạn có gờ móc , nhưng chỉ cần băng thẳng, chưa cuốn trống, đã có 25 viên. Fedorov 4,4 kg rỗng, cũng chỉ nhỉnh hơn AK ban đầu một chút và nhẹ hơn MP44 Đức nhiều. Fedorov Avtomat có nòng lùi, nhưng là lùi ngắn và lúc đó là chấp nhận được (MG13 là lùi ngắn khoá xoay). Cái thay đổi mặt này chuyển sang mặt nọ là Fedorov Avtomat không cần bắn xa 2000 mét quá sức ngắm xạ thủ, đổi lấy súng nhẹ và ít giật để bắn trên tay lâu nóng nòng, chính xác là súng trường xung phong.


    Thế nhưng ngày đó chưa có internet. Vậy nên, cái thằng Fedorov Avtomat và học thuyết của nó dek cần in ra là chẳng ma nèo biết. GM13 có tính năng đúng như Chauchat, nhưng nó không xưng là súng trường tối tân, mà MG là súng máy.


    Vì là súng trường, nên 20 viên là quá nhiều, bắn phát một tự động là quá tốt. Nhưng các chiến binh thì biết bắn phát một cần khoá nòng đóng, mà chauchat bắn lúc khoá nỏng mở. MG13 bắn phát một từ khoá nòng đóng. Ôi trời, nhìn thấy bạn bè chết là khối đứa khôn ra, không cần dạy dỗ.



    Tóm lại, vì hụt hẫng mà Pháp lôi một bản vẽ đắp chiếu đã 7 năm ra chế, rồi quảng cáo át đi. Có lẽ, Tây Phú quen kiểu này rồi nên ít chú xắn quần đi chết, mà lính Mỹ cảm nhiều. Thế là Colt, vua buôn vua bên Mèo Hoang thuê ngay nhà thiết kế súng lừng danh Browning làm ra BAR. Đương nhiên, BAR chưa phải đắp chiếu ngay từ khi ra đời, nên nói chung là tin cậy đúng như người ta yêu cầu, tức là khi làm súng trường xung phong 10kg thì nó rất chi tốt, rất chi đúng concept. =))=))=)) BAR là súng trích khí khoá chèn nghiêng như ZB 26 sau này, tức cùng có nguồn gốc Áo-Hung như Vickers-Berthier. Nhưng lúc đó Mỹ chưa thể thiết kế một máy đơn giản tin cậy, nên BAR có thêm bản lề gập như FM sau này, không seo, chỉ đắt thêm chút, với Mèo đang hoà bình thì tiền là muỗi.

    BAR cũng bắn phát một từ khoá nòng mở. BAR cũng có băng 20 viên. Dĩ nhiên là BAR không dùng đạn có gờ móc. Lewis dùng băng đĩa ngang cơ mà, BAR seo lại không 20 viên.:)):)):)):))

    BAR có concept giống hệt Chauchat, cụ thể hơn là giống hệt bản Chauchat M19018 Pháp bán cho Mèo bắn đạn ".30-06" dùng băng cắm như trên.


    Thế theo các bạn, BAR và Lewis Mỹ là con nhái hay là con vẹt =))=))=))
  3. mrhungdo

    mrhungdo Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    06/05/2011
    Bài viết:
    1.121
    Đã được thích:
    22
    đây là bar
    [​IMG]

    thật ra nó không quá tệ nếu như nó có cái băng đạn tử tế chút
    còn súng trường xung phong mà nặng tới 10 cân lận thù đúng là tai hại
    thành ra các ông cầm bar luôn bắn áp chế, đương nhiên là bắn về phía đối phương những viên đạn có thể gọi là mạnh nhưng...
    bắn áp chế với 20 viên đan!!?!??!?!? buồn kinh. bác nào mà vớ dc khẩu mg-34 là vứt luôn thứ này cười như địa chủ dc mùa

    [​IMG]


    khẩu cảu ông Fedorov đây
    em không biết gì về khẩu này


    [​IMG]


    mg-13 đây

    [​IMG]

    madsen đây

    bác phúc có gì thì chăm cho ảnh vô chút chứ cũng có người lười hỏi gúc lắm
  4. huyphuc1981_nb_aaaj

    huyphuc1981_nb_aaaj Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    25/02/2011
    Bài viết:
    52
    Đã được thích:
    14
    Fedorov Avtomat là súng liện thanh Fedorov, khẩu súng trường xung phong đầu tiên của thế giới. tên súng là Vladimir Grigoryevich Fedorov. Súng có máy lùi nòng ngắn, nòng lùi một đoạn ngắn thì mở khoá nòng, sau đó khoá nòng lùi tiếp tháo vỏ lên cò lên đạn, còn nòng được hãm lại rồi tất cả đẩy về. Đặc trưng là súng có các chi tiết rất dễ gia công thủ công, mài dũa rèn, trong khi những bộ phận thông dụng như nòng thì nhờ làm máy Mosin chẳng hạn vẫn được. Súng có chọn chế độ bắn, bắn phát một từ khoá nòng đóng, bắn liên thanh 600 phát / phút, nặng 4,4kg, động năng đầu đạn 2800 J và như thế bắn được trên tay khá tốt. Đường đạn súng không được như AK do đầu đạn dài hơn, chóng thò đuối hơn, vì đạn này không được chế tạo và thử nghiệm cho súng có concept hoàn toàn mới, mà là súng trường phát một Nhật bản.


    Súng có nòng dài 520mm

    Fedorov lúc nghiên cứu dùng đạn riêng 8,5 gram, sơ tốc 860, động năng đầu 3143 J . động lượng đầu 7,31. Rõ ràng là, vì là đạn riêng, nên người ta dễ dàng làm động lượng đầu tăng lên cho phiên bản chuyên trung liên, bắn tỉa và giảm đi cho phiên bản chuyên xung phong, súng không trích khí và không có bất cứ cản trở gì khi tăng giảm chiều dài nòng.

    Phiển bản thực tế dùng đạn Nhật Arisaka 6,5x50mm SR (SR là sơmi rimed, vừa có rãnh vừa có gờ móc), sơ tốc 700 m/s, đầu nặng 9 gram. 2205 J. 6.3 ms. Các tài liệu nói rằng phiên bản này có sơ tốc 770 m/s, động năng 2700 j là sai, vì súng trường Arisaka chỉ đạt vận tốc này với phiên bản nòng dài 80mm. Đây là một loại đạn tồi, Nhật Bản và Anh nhái lại Mauser và như nnhững con nhái khác, khi thay đổi tham số thì mọi sự trở lên tệ hại. Sau khi bên Nga Đức phát triển thuốc đạn (bắt đầu vào đầu 1900), phát triển thuốc hình viên cho mỗi loại đạn, thì cho đến sau WW2, Pháp Anh Mỹ vẫn dùng các thứ thuốc nổ lạc hậu như thuốc cor***e có tính dẻo do phụ gia vadelin dùng để đùn. Tính dẻo làm phản ứng nổ truyền sâu vào trong viên-sợi, phản lại việc điều khiển tốc độ cháy bằng thay đổi tổng diện tích mặt ngoài, dẫn đến việc chúng chỉ là thuốc nổ cổ như thuốc nổ đen, cháy tức thời và quá áp ở phần cuối nòng, trong khi kléo dài nòng tăng sơ tốc rất tốn. Thuốc tốt là thuốc điều khiển tốc độ cháy bằng dùng viên cứu, không truyền nổ vào trong, nên tốcv độ cháy tỷ lệ thuận với diện tích mặt ngoài, các dạng trụ rỗng, dẹt... làm diện tích mặt ngoài ít thay đổi, nên áp lực trong nòng đều hơn, dễ dàng kéo dài nòng, sơ tốc lớn.

    Có thể so sánh với các súng trường xung phong khác. AK lúc được chấp nhận năm 1949 nặng 4,3kg không đạn, động năng đầu 2044J, động lượng đầu 5,72 ms. Sơ tốc AK 715, đầu 8 gram.


    Súng được bộ ba Filatov, Fedorov, Degtiarev thiết kế chế tạo từ sau chiến tranh Nga Nhật 1906 , các vai trò chính là Fedorov thực hiện chiến lược, phương hương thiết kế, vẽ cụ thể. Filatov thực hiện tính toán. Degtiarev thực hiện mẫu thử. Sau này, súng được sản xuất ít ỏi đến 1924, trước khi nó chuyển thành DP. Một phần Fedorov Avtomat được sản xuất theo concept trung liên-tự động phát một, do bắn đạn Mosin, được dùng đến chiến tranh Phần Lan.

    Khẩu có máy DP đầu tiên được trình lên hội đồng quốc gia khoảng 1915-1917 như là một thiết kế sơ cua của Fedorov Avtomat. Sau 1917, Degtiareev là thành phần giai cấp công nhân (thợ 3 đời Tula), nên làm xếp nhà máy Kovrov, ngày nay nhà máy mang tên ông. Fedorov làm viện sỹ hàn lâm, trưởng phát triển của nhà máy, đứng đầu khoa học súng bộ binh Liên Xô và chính ông mới là người thực hiện chương trình AK, Kalashnikov chỉ là một thí sinh được đỗ trạng nguyên rồi nhận chức tổ chức sản xuất, với các nghiên cứu của nhiều khẩu súng khác trong cuộc đua, được gộp lại trong AK năm 1949.

    Năm 1911 đến 1913 thực hiện các bước thử nghiệm, chuyển từ phiên bản phát một sang liên thanh. Năm 1915 súng được chấp nhận. Phiên bản đầu tiên là bắn đạn Mosin, chỉ tự động lên đạn, băng cố định như Mosin-Mauser-Mannlicher (thay nhanh mỗi cái kẹp đạn rẻ tiền). Sau thử nghiệp trước hội đồng 1911, súng được đặt hàng 150 khẩu để thử nghiệm quy mô tiếp năm 1912. Năm 1913 hoàn thành bước thử này và Fedorov tiến một bước mới là liên thanh trên tay, tức concept của súng trường xung phong.

    Phương thức xung phong là bắn liên thanh được trên tay, để diệt những mực tiêu xuất hiện đột ngột. Còn phương thức súng trường là bắn xa, các súng liên thanh bắn đạn Mosin-Mauser nếu không nặng đến 7,5kg và giá 2 chân thì rất rung giật, cái này thì học thuyết động năng của bạn trên là đúng, khi vai không đệm hồi lại chuyển động của mỗi phát bắn thì phát tiếp đã bồi, vai tích năng và đẩy cả xạ thủ lùi, do cùng động lượng, nhưng súng càng nặng càng ít động năng, nên súng cần nặng. Theo Fedorov và điều đó đã được thế kỷ qua công nhận là chính xác, thì đường đạn sát thương đến 200 mét của Mauser, Mosin là thừa, do đó bớt đi vẫn được, đổi lấy bắn liên thanh trong tư thế ít nhất là tỳ vai trên tay, đứng bắn. Sau này, AK vẫn chủ yếu tiến theo bước đó, các phương án sau này là hoàn thiện đạn để đạn cả vỏ nhẹ hơn, mang được nhiều hơn.

    Do đó, Fedorov đã cải đạn Mosin, nhưng theo hướng dễ nhất, không thu ngắn đầu đạn, nhờ đó tăng gia tốc, thu ngắn nòng, trong khi vẫn thu ngắn vỏ. Hướng thu ngắn đầu cần những thử nghiệm hình dáng đầu mới, sau đó mới là thử nghiệm đến nòng với các chiều dài và kiểu xoắn khác nhau, khá tốn kém mà sau này AK sẽ dùng. Việc thu nhỏ đường kính , giữ phần lớn sơ tốc, sẽ làm nòng mới gần như cũ, rãnh xoắn dễ tính do gia tốc đạn trong nòng như cũ, nhưng đầu nhẹ mà đạn vẫn dài ( [-X[-X như la to 5,56x45), vì thế đạn nhanh giảm tốc mà đuôi đạn lại dài chóng thò ra khỏi buồng áp thấp, tầm bắm chính xác trong thuật chống trên mũi nhọn giảm. Điều này được Fedorov chấp nhận với ước tính của ông, rằng concept mới có hai nhiệm vụ, xung phong chỉ cần 300 mét, trung liên và bắn phát một chỉ cần 600 mét, như tính toán ngày nay. Nhưng trong thực tế, các loại đạn Fedorov Avtomat đều có động lượng-động năng khá lớn, nói đi phải nói lại, khẩu súng rất nhanh được chấp nhận so với các súng khác như Tokarev, một là nhờ tài gia công của Degtiarev trong khi các súng khác chỉ có bản vẽ, hai là phương án cải đạn này rất dễ thực thiện thử nghiệm.

    Ban đầu, Fedorov cải đạn từ Mosin, giữ nguyên chiều dài vỏ và kiểu thuốc, thay đổi chút ít chiều dài đầu (như la to 5,56x45 có đường kính nhỏ nhưng dài ngoẵng ngày nay), được đạn có động năng đầu 3140 so với 4000 của Mosin và 2000 J của AK. Đạn có sơ tốc 840 m/s, đầu đạn nặng 8,5 grram, chiều dài vỏ gần như Mosin (chiều dài khoang chứa), đầu đạn ngắn và nòng ngắn hơn Mosin, đường kính nòng 6,5mm. Có thể thấy, đây là chiến lược thử nghiệm đúng của Fedorov nếu tính đến nây. Ngày đó chưa có máy tính, nghiên cứu khoa học dựa nhiều vào thử nghiệm, nhà khoa học giời hơn sẽ tìm ra các công thức có thể tính được nhưng gần đúng, cái đúng sẽ được tiếp tục bằng thử nghiệm và lựa chọn cái đúng nào cần trước để thử nghiệm trước là điều quyết định ông bác học nào đi đến đích trước. Cụ thể hơn, thì với các tham số trên, dễ dàng kéo dài thu ngắn đầu-vỏ-nòng để có đầu đạn từ 6,5 grram đến 8,5 gram, sơ tốc 700-900 m/s, mặc dù có thể vỏ đạn và súng hơi nặng hơn AK nhưng ngày đó chấp nhận được. Quá dễ để ước lượng một loại đạn cỡ 6-6,5mm, nặng 6 gram-7 gram, sơ tốc 800-900 m/s, động lượng mạnh gần như AK 7,62mm mà cả súng và đạn cả vỏ đều chỉ ngang hoặc nặng hơn AK 7,62mm chút. Có khả năng kiểu súng đạn này có nòng và máy dài hơn AK các đời, nhưng ngầy đó là chấp nhận được khi súng còn ít, có thể kén loại lính 1/3 hay 1/9 (A trưởng), dùng súng 5 cân như lính thường dùng 3 cân AK.

    Cái hay là, khi súng được chấp nhận đoạn đầu, thì có tiền để thu ngắn kéo dài nòng vỏ đầu.[:D]

    Cái sai của Fedorov là Nga Hoàng quyết định dùng 6,5x50SR Arisaka khi súng được chấp nhận năm 1915, 6,5x50SR Arisaka là đạn cùng cỡ 6,5mm nhưng là cho súng Nhật đang thuê Anh Quốc đồng minh chế tạo, dễ mua lúc đó, nhưng giết chết đường thử nghiệm đạn, và dài hơn giết luôn tương lai súng vì sau 1917 không nhập được đạn. Đơn đặt hàng 25 ngàn súng ban đầu rút ngắn mãi đến 1917. Sau đó, Fedorov, Degtiarev về Kovrov xây dựng nhà máy, nhà máy vừa đánh nhau vừa hoạt động dặt đà dặt dẹo ốm đói đến 1927, đến nay vẫn là một trong những nhà máy cơ khí lớn nhất Nga và thế giới, trước WW2 là nhà máy súng máy chủ chốt của Liên Xô, ngày nay đang làm B41 và AK 7,62mm cho ... Mỹ, cũng như AT-14, cho Vịt chẳng hạn.

    [​IMG]






    Fedorov Avtomat là khẩu súng trường xung phong đầu tiên được chấp nhận 1915. Trước đó, Modragon là khẩu súng trường xung phong đầu tiên nỗ lực, nhưng dừng ở mức bắn phát một tự động, Modragon là khẩu súng do ông tướng cùng tên Moxico thiết kế cho nước ông, được thực hiện ở Thuỵ Sỹ và Đức sau thời gian ông sang đó tìm cách sản xuất súng, súng ra đời muộn, nhưng nó được nghiên cứu từ đầu 189x. Madsen có phiên bản đầu tiên là súng trường phát một tự lên đạn , nhưng nó chỉ thích hợp với concept trung liên, phiên bản phát một chỉ là tạm thời, nên mặc dầu được chấp nhận trước Mondragon trong thực tế, thì Madsen không bao giờ xưng nó là súng trường tự lên đạn đầu tiên. Các súng Mondragon, Fedorov và RSC Model 1917 hay được nhắc đến như những tổ tiên của súng trường tự động. RSC Model 1917 có ruột để ngoài da như Modragon, nhưng đã là trích khí, trong khi lùi nòng các loại dẫn đến nhanh vỡ mẻ chi tiết trong súng cá nhân có số phát bắn lớn hơn pháo rất nhiều (thường pháo chỉ bắn 500 viên / nòng). M1 Garand cũng thừa kế cái ruột để ngoài da này, tức là cần piston để ngoài bên thành súng, nhưng lại có cái khoá nòng và cửa băng tiền thân của AK. Trong khi đó, khoá nòng nhiều tai xếp ngang của Mondragon là thuỷ tổ khoá nòng dở hơi dòng M16, bỏ đi nguyên tắc dựa trên 3 điểm của tự nhiên.

    Đây chỉ là một câu chuyện nhỏ, câu chuyện lớn hơn là, đó là thời kỳ "hy sinh toàn diện", các nhà chế súng Nga không được hỗ trợ của chính quyền, quân đội và các nhà công nghiệp, đã tự nuôi nhau và chế súng, sau này trở thành những chuyên gia chủ chốt như Tokarev và những người khác. Filatov thì đến 1917 già và hình như tẻo rồi. Degtiarev là con cái nhà thợ 3 đời Tula, ông nối nghiệp cha anh đi làm thợ từ năm 11 tuổi, hồi đó nghề thợ cần những kỹ xảo như làm xiếc, kiểu như tung hứng những đinh tán nặng nửa cân nóng đỏ bằng kìm trên cầu long biên không dây lưới bảo hiểm, nên cần đi làm thợ sớm. Nghề trí thức lúc đó cũng vậy, cần làm tích phân vi phân bằng bàn tính, chứ không bằng mathlab, nên cũng phải rèn thành quái vật từ nhỏ. Tất nhiên đó là công nhân trí thức thật sự chứ không phải đám hồng vệ binh phá sạch đình chùa Phú Thọ, chó điên giả danh + sản. Khi lớn đủ tuổi, Degtiarev (đọc là Degtriarev) đi lính, được ông sỹ quan Fedorov lôi về làm cần vụ, nuôi ăn dạy học.


    Vladimir Grigoryevich Fedorov đã phấn đầu cả đời vì học thuyết súng trường xung phong của ông. Cũng thời gian đó (192x), bên Đức, súng trường xung phong cũng được phái Mauser đề nghiệm và sau này thử nghiệm nhiều cỡ đạn. SK39, tức Sturm Karabinen 1939 là khẩu đầu tiên có tên súng trường xung phong (sturm là bão=xung phong, karabin là cạc bin, carbine tiếng Anh, chỉ súng trường ngắn). Nhưng SK39 là lần cuối cùng súng được thử nghiệm. Bên Đức , lần lượt các lãnh tụ công nghiệp chiến tranh của đả?ng Nazi đều là dân súng ngắn liên thanh, và do đó MP thắng cuộc. MP là giải pháp xung phong dung dị ai cũng làm được, được tìm ra tình cờ khi người Ý dùng khẩu VPO trên núi, nó dễ thực hiện nhưng tầm qúa ngắn. Bên Liên Xô thì còn tệ hơn, không ai đồng ý cho Fedorov thử nghiệm đạn mới.

    Vào đại chiến biết tay nhau ngay. MP Liên Xô là PP, ban đầu là PPD40 bị Suomi Phần Lan đánh re kèn. Suomi là khẩu súng đặc biệt, nó được thiết kế cực kỳ thông minh, để kết hợp những giải pháp tốt nhất có thể có. Trừ nòng, súng được làm từ phối thép không rỉ và rất cứng, bền, phôi mua Thuỵ Điển, được pha ra và làm phần lớn bằng.... mài, rất ít cần máy móc cắt gọt tinh xảo mà thông thưởng phải dùng cho loại thép cứng, súng có đệm không khí, nòng thay nhanh và do đó dùng nòng nhập khẩu rỉ cũng được, tốc độ bắn lấy từ khẩu PP Tokarev thử nghiệm dở với loạt cực nhanh mà sau này M16 xài trong điều kiện băng ít đạn =)). Suomi cũng có đầu nòng giảm nẩy như Ak 7,62 năm 1973. Nhờ những tính năng đó, Suomi có thể nhẩn nha mối năm làm một ít cất kho, đến đại chiến không rỉ, và chất lượng rất tốt. Cũng trong chiến tranh Phần Lan Fedorov Avtomat hết thời vì quá thiếu đạn dược, băng ít đạn... những đặc trưng của thiết kế quá cổ mà lâu không được nuôi.

    Liên Xô cấp tốc học nguyên si cái băng của Suomi, sau này sẽ lắp vào cửa băng cải chút từ M1 Garand thành AK. Cũng như việc Liên Xô tự thiết kế ra kiểu máy có phương thức sản xuất rất hợp với chính Liên Xô, là vật liệu rẻ, nhiều rèn, nhờ rèn mà bớt thời gian máy... tin cậy, đường đạn đã có Tokarev mạnh mẽ mà không quá áp, thích hợp cho nhiều loại nòng... mà cho phép nòng lâu nóng (bên Đức phát triển tính tương thích đời đến mức dở hơi, đạn có hình học bằng đạn súng ngắn bắn phát một, nhưng có ghi chỉ dùng cho MP vì cải tiến quá áp, đây là do kém tổ chức và đấu đá triền biên, coi khing Mauser của phái Hitler). Thế là PPSh mạnh hơn MP Đức một cách dễ dàng, sau khi MP đã làm cả châu Âu kinh khiếp (châu Âu thật ra là tây Âu, ngu xuẩn thẩm du không biết đến Suomi).

    Thế là Đức vội vàng kéo dài bỏ đạn, đầu đạn và giảm áp MP, nhưng giảm áp không được bao lại quá áp vì vỏ đạn ngắn nhất định không chịu dài ra, đỉnh cao là MP44 (StG44), nó có vỏ 33mm, vỏ SK39 là 40mm, StG44 bắn đầu đạn bằng AK sau này 8gram, lại cũng nhồi 1,67 grram mặc dù loại đạn này ít được dùng, nên khoang vỏ đạn nhỏ, rất quá áp, và thật ra trình độ chung lúc đó chưa có thuốc AK cháy chậm, quá trình cháy dồn vào thời gian đầu nên dù có vỏ như AK thì vẫn quá quá áp rồi, đừng nói vỏ ngắn. Vỏ ngắn không dài ra cũng lây bệnh thẩm du tây Âu , nếu dài ra thành súng trường SK39 thì chẳng lẽ lại vẽ tranh Chauchat xắn quần =))=)), còn đâu là MP. StG44 giữ nguyên các đặc điểm súng ngắn như không có ốp lót đặc trưng của súng trường và dập lên vỏ cái tên MP44, nhưng rất hài, các liệt não nhiều đời cố chứng minh nó là súng trường :)). Vì vậy, StG44 có khối lượng khá nặng, chưa nói nòng nhanh nóng, nhanh hỏng, súng nặng hơn 5kg bằng trung liên RPK, tập trung lại là người Đức lúc đó không giải quyết được bài toán giảm áp đặc trưng của súng trường.

    StG44 lần đầu được thử nghiệm năm 1942 ngoài chiến trường. Liên Xô cũng có đạn M43 về sau là tên đạn AK 7,62mm. Đạn StG44 sau khi fix cũng là M43, nên rất nhiều chú nói StG44 là mấu AK =)). Thật ra, thì chính SK39 và các phiên bản tiền thân MKb35 (cạc bin liên thanh 35), mới là giống đạn M43. Vỏ đạn M43 Nga ban đầu dài 41mm, đạn MKb và SK là 40mm. Sau năm 1948 mới là 39mm. Phiên bản đầu tiên của phong trào đua AK là AS-44, Sudaev moden 1944, súng có khoá nòng đơn sơ kiểu chèn nghiêng, cũng chỉ lúc này Nga Đức mới chấp nhận khó chèn nghiêng bắn liên thanh vì rung, là StG44 và AS-44, nên có thể coi đó là các thử nghiệm vội vàng. AS-44 được đánh giá khá nặng, Sudaev lại mất sớm năm 1945-1946. Sau đó AK tập hợp các giải pháp tốt nhất và chiếm quyền hoàn thiện, tổ chức sản xuất, xây dựng nhà máy mới. Tokarev bật bãi gần như ngay tức khắc với phiên bản sau này là FN FAL, lúc đó Sudaev đãn ốm gần mất và khoá chèn nghiêng cũng vì thế mất thiêng, mà cái thiêng lớn nhất của nó là đơn giản cũng đã hết cần vì chiến tranh cũng dứt. Phiên bản gần như cuối cùng, chung kết với AK là Bulkin, cùng kiểu khoá nòng cải từ M1 Garand như AK.


    Các giải pháp đặc trưng của AK như khoá nòng cũng đã được chính Klashnikov thiết kế từ lâu trong phiên bản cạc bin bắn phát một, cũng ngăy từ đó súng đã bỏ cái ruột để ngoài da M1 thừa kế từ bàn cổ Mondragon, nhưng chưa thấy trích khí AK. Trích khí AK có từ 1946 là cải từ trích khí ZB 26 Tiệp Khắc , ZB không bao giờ hoàn thiện lý thuyết nên khi cải đạn có ngay các dị hình Thuỵ Điển với Brren Anh. Bulkin AB-46 là phiên bản khoá nòng quay gần giống nhưng tai quay nằm trên chuôi . AK-46 lại có cần piston rời như SVT, nhưng không có lò xo đẩy về piston rời. Bulkin AB-46 cũng có trích khí kiểu AK, cấu tạo khung rất giống AK 1949, cần piston liền nhưng lắp lỏng giống thế... và trừ cái tai quay thì nó giống AK hơn AK-46.

    [​IMG][​IMG]

    Опытный автомат Булкина АБ-46

    [​IMG][​IMG]


    Khoá nòng AK
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    1 là khoang chứa đuôi vỏ đạn
    2 hố cắm cái móc vỏ đạn C
    3 là guide plug, tai quay, tai này tương tác với với rãnh xoắn trên bệ khoá nònng để quay, điều này làm khoá, bệ liền khối, không có các rãnh rỗng gây nặng yếu ở phần chịu lực thân bệ chuối khoá như FN FNC hay Bulkin, đây là đặc trưng chỉ có ở M1 Garand và AK. Rất hài là các chó điên kiểu sa mạc ngu xuẩn ít khi biết điều đó.
    4 là lỗ chốt cái móc vỏ đạn C, chốt này là cái 8
    5 là tai khoá locking plug, tức lai mắc vào vỏ máy súng để chịu lực đạn nổ, vì đường kính lớn nên kích thước tai lớn mà góc quay nhỏ, đường chuyển động của bệ ngắn mà vẫn khoẻ, lại không phải nhiều tai vi phạm nguyên tắc 3 điểm như M16. Đây cũng là đặc trưng của M1, nhưng M1 chưa có bệ khoá nòng. AK có 2 tai, tai bên kia đối diện chỉ nhìn thấy trước mặt như hình
    6 là móc đạn trong băng, ejecter plug. Phía trước là móc đạn trong băng, nó móc đạn trong băng khi klhoá tiến lên, phía sau là đường trượt êm làm những viên đạn đầu tiên trên đầu băng chuyển động ngỏng lên cúi xuống êm ái, tránh cả hàng đạn trongh băng lên xuống, làm chậm tốc độ bắn m,à khi khắc phục điều này cần lò xo khoẻ= 1 nhược điểm kinh điển của M16.


    Airsoft, cái rãnh xoắn tương tác với tai quay và cửa lắp tai quay trên bệ
    [​IMG]


    Tai quay và cửa lắp trên bệ, hình trên cùng là tai quay đã lắp và chuyển động về vị trí khoá nòng mở. hình sau là tai quay lộn ngược ở ngoài. Hình cuối là tai quay đang mắc ở vị trí ngoài nhưng ngược với của vào nhìn thấy, tai chịu lực locking lug bé hơn tai quay chuyển động tự do khi quay khoá nòng ở tư thế chuôi cắm vào bệ, còn tai quay chỉ chạy ở ngoài bệ hoặc rãnh trên có cửa dưới đây, bán kính lớn hơn, khe cạnh tai móc đạn trong băng là khe cho móc vỏ đạn trên vỏ máy súng hất vỏ ra ngoài khi khoá kép vỏ về sau
    [​IMG]




    Khoá nòng với tai quay trên chuôi của AB-46 . Khoá nòng AK muốn gia công cạnh tranh cần máy chuyên dụng, còn kiểu AB chỉ cần máy đa năng, mà sau này là máy gia công số CNC. Máy tai chuôi không thoáng, bệ khoá nòng nặng và yếu (M16 và G36 là ví dụ về máy tai chuôi), so với cũng cùng khoá nòng đó nhưng dùng tai trước.

    như FN FNC dùng một tai quay trên chuôi là một mẩu liền chuôi khoá nòng, G36 là cái chốt xỏ ngăng khoá nòng. Nhưng Bulkin là cái chốt, không xỏ cố định bào khoá, mà xỏ cố địngh vào bệ, xoắn Bulkin ở chuội xoắn G36 ở bệ.
    [​IMG]

    Chốt khoá nòng Bulkin
    [​IMG]

    FN FNC, AK5 Thuỵ Điển
    [​IMG]
    [​IMG]




    M1 Garand
    chưa có bệ khoá nòng, tai quay thò ra ngoài để tương tác với rãnh quay của cái ruột để ngoài da, tức cần đẩy lùi bên ngoài nối với piston, trong hình là tai quay nằm dưới, phần còn lại của khoá nòng trượt trên các rãnh của vỏ máy súng, tha hồ thích khi thu tiền gia công tính theo giờ máy phay đa năng, trong khi bệ AK là đúc áp lực với 1 lỗ khoan là cắp gọt đáng kể nhất, vỏ máy súng dập (rèn) hàn.
    Chi tiết khoá nòng
    Phác thảo hoạt động

    [​IMG]
    [​IMG]
    Cái ruột để ngoài da đã lắp vào tai quay, gọi nó là bệ khoá nòng, cần đẩy về, cần piston... đều không đúng , biết gọi là hề, nên mình gọi là cái ruột để ngoài da
    Ruột đã để ngoài da thì tất nhiên khó nòng, có thể hiểu là vùng kín, máy móc, ... xyz... không cần sịp cũng chả sao, không cần bệ, không cần vỏ máy, phía sau là cái mấu lồi để chạy và quay trong các rãnh của vỏ máy súng
    [​IMG]


    để lắp đạn
    [​IMG]
    [​IMG]


    Dưới là tai quay tương tác với cái ruột để ngoài da
    [​IMG]
    [​IMG]

    Trong hình là mũi khoan định hình vai đang nằm ở vị trí viên đạn
    [​IMG]


    Chi tiết hơn cửa băng
    [​IMG]


    Dễ hiểu, của băng M1 tuy là tiền thân của AK nhưng mơía có ý tưởng thu ngắn chiều dài của để đạn chóng ngổng đầu, chứ chưa tưởng tượng ra hết chuyển động đó để chau chuốt, càng chưa có và chưa cần đến việc giảm chuyển động của cả hàng đạn dưới chuyển động của khoá nòng mà m16 không giải quyết được. lò xo băng phải mạnh và do đó găp một trong những bệnh kinh điển của nó là kẹt băng.
    cửa băng AK
    [​IMG]







    Như thế, có lẽ, phải nói rằng người thiết kế AK là Fedorov, hay chí ít Fedorov là nhà chỉ huy, tổng công trình sư AK, còn Klashnicov chỉ là thí sinh đỗ đầu cuả Fedorov.
    Cái dở của AK 5,45 là sau khi Fedorov mất, thì cỡ đạn 6-6,5 mm không được thử nghiệm, nó có thể có đạn cả vỏ nặng hơn AK 5,45 chút, nhưng cỡ nhà ta dùng thả cửa vì không cải nhiều kỹ thuật mãy móc chế tạo so với AK 7,62mm, vẫn là đầu đạn đơn giản lõi thép vỏ đồng.


    Cái khác biệt của AK là một thiết kế từ cấu tạo súng đến máy làm ra chúng, với các chuyển động rất tinh tế khó nhiểu, ví dụ như việc ngỏng lên cúi xuống của những viên đạn nằm trên cùng của băng, làm giản chuyển động lên xuống của cả hàng đạn khi khoá nòng đi về, cả hàng đạn thì nặng, chuyển động chậm, muố đủ tốc độ lại cần lò xo khoẻ như M16 gây tắc, đây là các điểm súng máy nhỏ khác súng máy do, mà nhỉ nữa như MP PP lại không cần khoá nòng (blow back, lùi thẳng).

    Khóa nòng của AK có hình dáng rất phức tạp khó hiểu, nhưng lại liền cùng cục có mỗi khối với vài chi tiết =)). Cái kim hoả không có lò xo đẩy lùi của nó đã là đặc biệt, Mèo Hoang cho rằng, không có lò xo đẩy lùi, có thể kim hoả kẹt ở vị trí thò đầu ra, chọc nổ đạn gây ra loạt bắn liên thanh kghi búa không đập :)), nhưng AK cóc cần =)), đấy là sự phúc tạp của kết cấu bắt nguồn tự sự đơn giả ngu si của lập luận, đối lập với cái khoá nòng có cả tai xuay chốt lắp (lắp khoá vào bệ) liền một cục, là sự phức tạp của hình dáng lập luận đưa đến kết cấu lắp ráp một cục tin cậy. Nhiều súng dùng đạn AK cũng không dùng kim hoả có lò xo đẩy lìu, đơn giản là vì cái hạt nổ có đe Berdan Type, kim hoả to ít kẹt, không lò xo càng ít bẩn ít kẹt, và cái đe lồi ấn kim hoả về sau với lực hàng tấn nếu kẹt >:)>:)>:)>:) AK bắn độ 2 ngàn viên, bằng M16 bỏ nòng, thì mới cần lau kỹ khoá và bệ khoá.

    Đầu băng và móc vỏ của M1 Garand chỉ làm giảm chuyển động của bệ, khi thu hẹp chiều dài cửa bằng (chiều này là nói hướng theo chiều viên đạn nằm trong băng), làm đạn trên cùng trong băng chóng ngóc , khác với các MP đi thẳng. AK thừa kế đoạn đó, nhưng Garand chưa lo cả hàng đạn nhún nhảy trong băng vì băng nó chưa đến 10 viên, đừng nói 30 70 viên. Cùng khoá có 3 tai tập trung ở đầu to, nhưng M1 Garand chưa có bệ khoá nòng =)). Bulkin làm bệ cho M1 Garand, lại phải thu xếp đưa một tai ra khỏi đầu to.



    Như thế, sáng tạo của Klashnikov rất tinh tế, phức tạp, và là cả hệ thống máy gia công lớn chứ không chỉ cái khẩu AK làm trên máy CNC nào cũng ra. Cũng cười, cái "
    khẩu AK làm trên máy CNC nào cũng ra" có thể không hoàn toàn có, mà cần một bộ máy CNC , những đương nhiên các máy CNC ấy không phái là "chuyên dùng làm AK", mà chỉ ghép phần mềm, thì chính là FN FNC, còn có các biến thể khác là AK 5 Thuỵ Điển, Pindad SS1 Indinexia. INSAS Án Độ thì khoá nòng giống AK hơn, nhưng lai FN FAL cái trích khí. Sau khi bại trận ở Vịt 1979, tầu khựa quyết chí làm súng hơn hẳn đại bá Nga Xô, nhái lại đạn la to thành đạn 5,8 khựa, đương nhiên là cấu tạo đơn giản như la to và quay về tk19 cũng vì thế. Nhưng 81 thức vẫn còn trông bề ngoài và khoá nòng giống AK. À, 95 thức trở đi có khoá nòng khác hẳn, giống như bọn chuyên trị chông Nga Xô là Indo theo Mèo, FN phương Tây, có lẽ bên khựa có quá ít người không liệt não để biết đấy là kiển FN FNC, AK Tây hay AK của máy gia công số CNC. AK nhái thì nhiều, nhưng AK nhái tiến bộ từ AK xịn thì chỉ có khà khựa có, đặc sản thế giới. Khổ thân nhái khựa, quyết chí hơn hản AK mà cũng không dám làm M16. G36 thì có lẽ khựa lượng sức thấy còn... hẻo xiền.


    Một lập luận tính toán phức tạp lớn lao đến nhiều hãng lớn trên thế giới phải thua ấy, lại đem lại khoá nòng có mỗi cục và bệ cũng mỗi cục, không có chốt nối, khe xẻ cho tai quay làm yếu bệ. Vỏ máy súng không phải chịu lực bắn, vì cái tai khoá locking lug khoá luôn vào cổ súng, tức chỗ gắn cái nòng, nên vỏ máy súng làm bằng rèn như là dập cán (chỉ khác là làm thép cứng nhiệt độ cao, tiếng Anh ngọng dịch từ gia công áp lực ở nhiều thứ tiếng khác nên nhầm). Tiếp theo đời đầu, liền sau đó là AK bỏ ren nòng vặn vào cổ nòng, chỉ đóng chốt đơn giản.
  5. huyphuc1981_nb_aaaj

    huyphuc1981_nb_aaaj Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    25/02/2011
    Bài viết:
    52
    Đã được thích:
    14
    Như các bạn thấy, Fedorov thuy không có máy tính hiện đại, nhưng ông đã thiên tài ước lượng được một cỡ nòng hết sức đúng. Điều đáng tiếc là cả đời ông đã không thực hiện được cỡ nòng đó. Ban đầu, AK thật ra là format đạn sai, các nhà khoa học đã chọn một đường kính chung cho súng ngắn, súng vừa và súng dài, điều này là hợp lý trong chiến tranh khốc liệt, như thế, đạn súng ngắn Tokarev, đạn súng vừa AK và đạn súng dài Mosin với các nòng của chúng sẽ được sản xuất chung trên các máy móc mà không thay đổi nhiều. Nhưng điều hợp lý này sẽ đúng với AK nếu như nó tham gia tích cực vào chiến tranh như Mosin và PPSh, thực tế là, AS-44 chỉ được thử nghiệm số lượng nhỏ trong chiến tranh, AK được chấp nhận năm 1949 và các bạn thấy ngay nhược điểm, với kỹ thuật và kiểu máy ưu việt hơn nhiều, nhưng AK vẫn nặng xấp xỉ người nguyên thuỷ Fedorov. Sau khi Fedorov mất, các nhà khoa học Liên Xô đã quyết định chọn cỡ nhỏ 5,45x39mm, điều này làm cho đạn cả vỏ nhẹ (nhẹ hơn tây dùng đạn dài nhiều, la to và M16A1 quá lệch tỷ số chiều dài-rộng, nên đương nhiên tốn vỏ).

    AK-74 có đạn nhỏ và nếu dùng loại đầu đạn súng trường đơn giản như cũ thì nó quá yếu. Hoặc quá dài như M16Á (la to), mà vẫn không khoẻ. Vì vậy, đạn AK-74 cần có cấu tạo phức tạp như loại đạn Mosin của Tokarev chuyên dùng bắn tỉa. Tokarev và các Sudaev là nhưng bậc thầy về đường đạn, bao gồm cả thuốc, vỏ, đầu, thuật phóng... Việc làm đạn súng trường có cấu tạo phức tạp là một cuộc cách mạng các bạn biết rồi. Oai như la to với khựa nhưng đến nay vẫn là đầu lõi thép vỏ đồng truyền thống =))=))=)).

    Các bạn có thể ước lượng như thế này. Nếu như chỉ thay đổi đường kính, giữ nguyên chiều dài các bộ phạn vỏt, đầu, nòng, liều nhồi tính theo mật độ thể tích khong vỏ không đổi. Thì sơ tốc không đổi và khối lược đạn cả vở với đầu giảm đi theo bình phương đường kính. Ví dụ, nếu như những thử nghiệm đầu tiên của Fedorov chẳng hạn, ông làm như thế, thì đạn Mosin lúc đó có đầu gần 12gram, bắn trên nòng 800mm có sơ tốc 850-900 m/s, khi dùng đường kính 6,5mm sẽ có đầu 8,5 gram và giữ nguyên sơ tốc. Chúng ta đã biết, cả các tham số động năng và động lượng của đạn này quá cao so với AK, nhưng đạn có sơ tốc lớn tốt hơn, vậy thì đến đây, bước 2 của thử nghiệm là rút ngắn đầu và nòng, đầu nhẹ hơn, gia tốc lớn hơn và vì thế nòng cần ngắn hơn, chiều dài nòng tỷ lệ nghịch với chiều dài đầu. Bước thứ 3 là hoàn thiện xoắn, ban đầu gia tốc được tính bằng bắn thử các nòng dài ngắn khác nhau, đo vận tốc bằng máy ảnh chuyên dụng, từ đó có xoắn. Loại đạn mới định hình này nặng cả vỏ lớn, điều này sẽ được khắc phục bằng thuê Tokarev làm thuốc, vỏ... mới, cụ thể hơn là loại vỏ thử nghiệm trên rất dài, diện tích ngoài vì thế lớn, nặng, được co ngắn lại và dùng loại thuốc cháy nhanh hơn, còn vỏ thử nghiệm sẽ dùng toàn bộ thuốc cũ.

    Để có động năng như AK, thì cỡ đầu của 6,5mm với sơ tốc 860 m/s là 5,5 gram. tính bằng động lượng là 6,5 gram. Tương ứng là nòng dài 400mm và 450mm, xấp xỉ nòng AK 410mm. Đường đạn này dĩ nhiên tốt hơn nhiều đường đạn AK do vận tốc lớn hơn, và về nguyên tắc, nó vẫn là loại đầu đạn có cấu tạo đơn giản như ngày đó và NATO ngày nay. Như thế, một nước nghèo yếu như ta hay ngu xuẩn như khựa sẽ có một loại đạn cực tốt mà vẫn đơn giản. Mosin ngày đó nặng cả vỏ là 28 gram, tương ứng với đạn mới là 13 gram, tính năng này xấp xỉ AK 5,45x39 hiện đại mà đầu đạn vẫn đơn giản. Và thật ra, AK 74 nhẹ hơn loại đạn tưởng tượng này vài grram một phần do kỹ thuật gia công vỏ hiện đại, thay thép bằng đồng, nhẹ khoẻ hơn, điều này có từ trước AK-74 và vẫn dùng đại trà trên AK 7,62mm. Như thế, thì ngày nay loại đạn tưởng tượng trên nặng cả vỏ 11 hay 12 gram là điều đương nhiên, như AK-74, điều đó có thể hiểu do vỏ ngắn hơn, cỡ vỏ của loại đạn tưởng tượng này là 30mm. Ta gọi là đạn tưởng tượng 6,5x30mm. Tỷ lệ chiều dài / rộng càng nhỏ thì đương nhiên càng ít tốn diện tích vỏ, làm vỏ đạn nhẹ đi. Trong viên đạn AK 7,62mm, đầu nặng 8 gram, thuốc 1,67 gram, còn lại là vỏ. Với cùng cỡ tỷ lệ chiều dài, thì đạn tưởng tượng 6,5x30mm nặng 11 gram là hợp lý, cùng tỷ lệ với AK 7,62mm.

    Điều trên thì dễ nghĩ ra, nhất là bên cạnh Fedorov, nhóm "hy sinh toàn diện" có Filatov và Tokarev là những bậc thầy về đường đạn. Cái thiên tài của Fedorov là đưa ra lộ trình thử nghiệm rất thuyết phục, từng bước đều được Nga Hoàng ngu hơn mọi loại ngu gật lấy gật để, trong khi các súng trường khác như Tokarev (phôi thai của SVT sau này), thì đắp chiếu ở mức bản vẽ. Loại đạn đầu tiên của ông là loại nhồi quá áp từ cấu tạo Mosin, điều này là hợp lý vì Mosin từ đó đến nay luôn là súng có thuốc tốt nhất, sơ tốc mạnh mẽ nhất cùng loại, áp lực cáo nhất (lúc đầu mởi chuyển động một ít) thấp, áp lực giảm chậm, cho phép kéo dài nòng và nòng rất bền, nòng lại bền hơn với cấu tạo đầu đạn nở chấp nhận nòng sai nhiều. Từ quan điểm đó, nếu làm các súng không bền như MP thì có thể nhồi quá áp thuốc Mosin lên gấp rưỡi. Trong khi đó, Fedorov có đường kính nhở hơn, quá áp chút thì vẫn bền như Mosin. Vì điều này, ông không mất quá nhiều thử nghiệm để cắt ngắn nòng Mosin xuống 520mm, gần bằng phiên bản K44 540mm sau này, trong khi vẫn giữ nguyên chiều dài đầu đạn giữ nguyên vì chưa thử nghiệm được nhiều.

    NHư thế, các bạn biệt sau khi Fedorrov mất thì ước mơ cả đời cảu ông suýt thành sự thật đã bị đanh cắp, đó là đạn xung phong 6,5x30mm. Việc này các bạn chắc đã đoán ra, đó là Khrushov làm đảo chính ăn cắp chính quyền của nhưng người giỏim, thay vào các phương án dốt náy. Một trong nhưng người giỏi ra đi là Mikoyan cùng với dòng đạn tự hành




    Bên la to, sau khi Liên Xô dùng đạn AK 74 thì các bạn đã biết tình huống rồi. Lúc đó, châu Âu dùng đạn NATO 7,62x51 và cắt ngắn nòng đi để xung phong. Làm đạn to rồi cắt ngắn nòng đi là điều ngược đời, nhưng điều ngược đời ấy là hợp lỳ vì NATO có chiến lược chính là dự phòng một cuộc tấn công từ Liên Xô, khi đó phải thuê anh Mèo anh ấy làm đạn, nhưng anh Mèo Hoang này ngu quá là ngu, chỉ làm được những loại đạn đơn giản. Đạn M16 A1 (định hình năm 1967) không thể chấp nhận được.
  6. GT13E1

    GT13E1 Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    29/01/2011
    Bài viết:
    493
    Đã được thích:
    0
    La liếm không thua các tiền bối желтый русский
    Hôm trước phán đạn nga nặng hơn hôm sau len lén đi sửa bài lên đây eng éc
    Lại còn lòng vòng lôi về vn [-(

    Còn @ FarmerTadien ở trên bảo đạn m16 động năng kém hơn thì đọc bài của @hungdo lại đi nhé
    Đồng bọn không nên tự tát nhau như kiểu fukov-gà què, thiên hạ lại có trò cười:P
  7. xinloiemyeu

    xinloiemyeu Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    16/01/2011
    Bài viết:
    1.249
    Đã được thích:
    1
    nói như bác phúc thì kt đường đạn của súng trường tấn công đã sai trong đường đạn ngay từ khi kỷ nguyên của súng trường tấn công bắt đầu.vậy sao ng ta lại ko sửa sai nó?
  8. mrhungdo

    mrhungdo Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    06/05/2011
    Bài viết:
    1.121
    Đã được thích:
    22
    thông cảm đê tại hôm đó bật hai ba trang lên cùng lúc để so sánh nên lẫn 47 với 74
    lúc viết bài sau thấy mình lộn tung phèo rồi phải sửa thôi
    sai đâu thì bác Phúc chỉ ra hết rồi còn gì
    giờ thì chỉ "ráo" hộ cái M-16 hơn Ak-74 ở điểm nào đi!!!
    tại hạ xin tiếp thu
  9. huyphuc1981_nb_aaaj

    huyphuc1981_nb_aaaj Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    25/02/2011
    Bài viết:
    52
    Đã được thích:
    14

    Sai đâu có dễ sửa, gối đầu là 20 năm, nếu đổi tiêu chuẩn phải chấp nhận ném 20 năm sản xuất gối đầu dự phòng chiến tranh đi.
    Đạn AK 7,62mm được chọn theo nguyên tắc giữ nguyên đường kính của hồi chiến tranh khốc liệt, không phá hoại sản xuất sẵn có, cả Nga và Đức đều thế, chứ không phải sai. Còn sau khi Fedorov chết là sai, nhưng không dễ sửa. Người ta chỉ đổi tiêu chuẩn súng khi đã tích luỹ rất nhiều tiến bộ, các bài học Lebel Pháp, MLE 1866 Pháp, Mannlicher M1886 Áo-Hung, ".30-03" Mỹ còn đấy. Chính vì thế, quyết định format đạn trước khi nó phát triển là quyết định rất cần tính bác học, nhiều kẻ đã vấp phải điều đó.


    ==


    Như các bạn thấy, Fedorov thuy không có máy tính hiện đại, nhưng ông đã thiên tài ước lượng được một cỡ nòng hết sức đúng. Điều đáng tiếc là cả đời ông đã không thực hiện được cỡ nòng đó. Ban đầu, AK thật ra là format đạn sai, các nhà khoa học đã chọn một đường kính chung cho súng ngắn, súng vừa và súng dài, điều này là hợp lý trong chiến tranh khốc liệt, như thế, đạn súng ngắn Tokarev, đạn súng vừa AK và đạn súng dài Mosin với các nòng của chúng sẽ được sản xuất chung trên các máy móc mà không thay đổi nhiều. Nhưng điều hợp lý này sẽ đúng với AK nếu như nó tham gia tích cực vào chiến tranh như Mosin và PPSh, thực tế là, AS-44 chỉ được thử nghiệm số lượng nhỏ trong chiến tranh, AK được chấp nhận năm 1949 và các bạn thấy ngay nhược điểm, với kỹ thuật và kiểu máy ưu việt hơn nhiều, nhưng AK vẫn nặng xấp xỉ người nguyên thuỷ Fedorov. Sau khi Fedorov mất, các nhà khoa học Liên Xô đã quyết định chọn cỡ nhỏ 5,45x39mm, điều này làm cho đạn cả vỏ nhẹ (nhẹ hơn tây dùng đạn dài nhiều, la to và M16A1 quá lệch tỷ số chiều dài-rộng, nên đương nhiên tốn vỏ).

    AK-74 có đạn nhỏ và nếu dùng loại đầu đạn súng trường đơn giản như cũ thì nó quá yếu. Hoặc quá dài như M16A2 (la to), mà vẫn không khoẻ. Vì vậy, đạn AK-74 cần có cấu tạo phức tạp như loại đạn Mosin của Tokarev chuyên dùng bắn tỉa. Tokarev và các Sudaev là nhưng bậc thầy về đường đạn, bao gồm cả thuốc, vỏ, đầu, thuật phóng... Việc làm đạn súng trường có cấu tạo phức tạp là một cuộc cách mạng các bạn biết rồi. Oai như la to với khựa nhưng đến nay vẫn là đầu lõi thép vỏ đồng truyền thống =))=))=)).

    Các bạn có thể ước lượng như thế này. Nếu như chỉ thay đổi đường kính, giữ nguyên chiều dài các bộ phạn vỏt, đầu, nòng, liều nhồi tính theo mật độ thể tích khong vỏ không đổi. Thì sơ tốc không đổi và khối lược đạn cả vở với đầu giảm đi theo bình phương đường kính. Ví dụ, nếu như những thử nghiệm đầu tiên của Fedorov chẳng hạn, ông làm như thế, thì đạn Mosin lúc đó có đầu gần 12gram, bắn trên nòng 800mm có sơ tốc 850-900 m/s, khi dùng đường kính 6,5mm sẽ có đầu 8,5 gram và giữ nguyên sơ tốc. Chúng ta đã biết, cả các tham số động năng và động lượng của đạn này quá cao so với AK, nhưng đạn có sơ tốc lớn tốt hơn, vậy thì đến đây, bước 2 của thử nghiệm là rút ngắn đầu và nòng, đầu nhẹ hơn, gia tốc lớn hơn và vì thế nòng cần ngắn hơn, chiều dài nòng tỷ lệ nghịch với chiều dài đầu. Bước thứ 3 là hoàn thiện xoắn, ban đầu gia tốc được tính bằng bắn thử các nòng dài ngắn khác nhau, đo vận tốc bằng máy ảnh chuyên dụng, từ đó có xoắn. Loại đạn mới định hình này nặng cả vỏ lớn, điều này sẽ được khắc phục bằng thuê Tokarev làm thuốc, vỏ... mới, cụ thể hơn là loại vỏ thử nghiệm trên rất dài, diện tích ngoài vì thế lớn, nặng, được co ngắn lại và dùng loại thuốc cháy nhanh hơn, còn vỏ thử nghiệm sẽ dùng toàn bộ thuốc cũ.

    Để có động năng như AK, thì cỡ đầu của 6,5mm với sơ tốc 860 m/s là 5,5 gram. tính bằng động lượng là 6,5 gram. Tương ứng là nòng dài 400mm và 450mm, xấp xỉ nòng AK 410mm. Đường đạn này dĩ nhiên tốt hơn nhiều đường đạn AK do vận tốc lớn hơn, và về nguyên tắc, nó vẫn là loại đầu đạn có cấu tạo đơn giản như ngày đó và NATO ngày nay. Như thế, một nước nghèo yếu như ta hay ngu xuẩn như khựa sẽ có một loại đạn cực tốt mà vẫn đơn giản. Mosin ngày đó nặng cả vỏ là 28 gram, tương ứng với đạn mới là 13 gram, tính năng này xấp xỉ AK 5,45x39 hiện đại mà đầu đạn vẫn đơn giản. Và thật ra, AK 74 nhẹ hơn loại đạn tưởng tượng này vài gram một phần do kỹ thuật gia công vỏ hiện đại, thay thép bằng đồng, nhẹ khoẻ hơn, điều này có từ trước AK-74 và vẫn dùng đại trà trên AK 7,62mm. Như thế, thì ngày nay loại đạn tưởng tượng trên nặng cả vỏ 11 hay 12 gram là điều đương nhiên, như AK-74, điều đó có thể hiểu do vỏ ngắn hơn, cỡ vỏ của loại đạn tưởng tượng này là 30mm. Ta gọi là đạn tưởng tượng 6,5x30mm. Tỷ lệ chiều dài / rộng càng nhỏ thì đương nhiên càng ít tốn diện tích vỏ, làm vỏ đạn nhẹ đi. Trong viên đạn AK 7,62mm, đầu nặng 8 gram, thuốc 1,67 gram, còn lại là vỏ. Với cùng cỡ tỷ lệ chiều dài, thì đạn tưởng tượng 6,5x30mm nặng 11 gram là hợp lý, cùng tỷ lệ với AK 7,62mm.

    Điều hợp lý là, khi cải đạn thì súng sẽ ưu việt nhất khi cải đồng bộ cả dài, rộng, thuốc... Việc AK chỉ cải dài mà giữ nguyên rộng không thể cho ra điểm tốt nhất.

    Điều trên thì dễ nghĩ ra, nhất là bên cạnh Fedorov, nhóm "hy sinh toàn diện" có Filatov và Tokarev là những bậc thầy về đường đạn. Cái thiên tài của Fedorov là đưa ra lộ trình thử nghiệm rất thuyết phục, từng bước đều được Nga Hoàng ngu hơn mọi loại ngu gật lấy gật để, trong khi các súng trường khác như Tokarev (phôi thai của SVT sau này), thì đắp chiếu ở mức bản vẽ. Loại đạn đầu tiên của ông là loại nhồi quá áp từ cấu tạo Mosin, điều này là hợp lý vì Mosin từ đó đến nay luôn là súng có thuốc tốt nhất, sơ tốc mạnh mẽ nhất cùng loại, áp lực cáo nhất (lúc đầu mởi chuyển động một ít) thấp, áp lực giảm chậm, cho phép kéo dài nòng và nòng rất bền, nòng lại bền hơn với cấu tạo đầu đạn nở chấp nhận nòng sai nhiều. Từ quan điểm đó, nếu làm các súng không bền như MP thì có thể nhồi quá áp thuốc Mosin lên gấp rưỡi. Trong khi đó, Fedorov có đường kính nhở hơn, quá áp chút thì vẫn bền như Mosin. Vì điều này, ông không mất quá nhiều thử nghiệm để cắt ngắn nòng Mosin xuống 520mm, gần bằng phiên bản K44 540mm sau này, trong khi vẫn giữ nguyên chiều dài đầu đạn giữ nguyên vì chưa thử nghiệm được nhiều.

    Như thế, các bạn biệt sau khi Fedorrov mất thì ước mơ cả đời cuả ông suýt thành sự thật đã bị đánh cắp, đó là đạn xung phong 6,5x30mm. Việc này các bạn chắc đã đoán ra, đó là Khrushov làm đảo chính ăn cắp chính quyền của nhưng người giỏi, thay vào các phương án dốt nát, chương trình nguy xuẩn, toàn bộ là băng nhóm của những kẻ bị triều đại Stalin toàn những người giỏi đè nén mà điển hình là chính viên tướng quân Khrushov đánh đâu chạy đấy, không biết cả gài mìn. Băng đả?ng này liên minh các viên tướng ngoài mặt trận WW2 đang ức chế vì thất nghiệp bị bỏ rơi, mất quyền bính, mà điển hình là Jukov và Breznhev. Chúng tranh thủ lúc Stalin gần mất làm đảo chính lật đổ cơ cấu thay thế mà đứng đầu là Beria và Kusyghin, những bậc thầy về lãnh đạo kinh tế-khoa học. với Một trong nhưng người giỏi ra đi là Mikoyan cùng với dòng đạn tự hành dùng động cơ máy bay như KS-2, được thay bởi dòng động cơ đơn giản, cùng với hệ thống tầu sân bay và máy bay trên tầu đang đóng dở bị tháo sắt vụn.

    Các bạn có thể thấy, người ta đã dùng đến đầu phức tạp làm đầu thông thường, mà AK-74 5,45x39 không thể tốt hơn rõ rệt loại đạn tưởng tượng 6,5x30mm. Có thể hiểu, súng dùng 6,5x30mm sẽ nặng hơn AK-74 một chút vì cùng chiều dài nòng mà nòng AK bé hơn, nhưng khác biệt này không nhiều. Thay vào đó, loại 6,5x30mm sẽ như Mosin, có những loại đạn phức tạp cho các mục tiêu chuyên dụng. Và đương nhiên, 6,5x30mm có đường đạn tốt hơn nhiều AK-74. Việc thử nghiệm các cỡ 6,x mm kéo dài đến 1991, sắp được chấp nhận làm lại súng trường, thì lại đình lại vì 1991. Tất nhiên, phương án cải từ AK-74 sang 6,5x30mm nếu không đi kèm những vấn đề khác sẽ không đem lại giá trị lớn về chất lượng, mà phải trả giá lớn về dự trữ gối đầu. Nhưng càng dùng, thì AK-74 càng chứng minh rằng nó yếu trong nhiều tính huống chiến đấu, như chức năng trung liên là đáng ngại nhất. Tất nhiên, đó là người Nga đanh giá, còn AK-74 vẫn là thứ đầu đạn hơn xa vời so với la to.








    Bên la to, sau khi Liên Xô dùng đạn AK 74 thì các bạn đã biết tình huống rồi. Lúc đó, châu Âu dùng đạn NATO 7,62x51 và cắt ngắn nòng đi để xung phong. Làm đạn to rồi cắt ngắn nòng đi là điều ngược đời, nhưng điều ngược đời ấy là hợp lỳ vì NATO có chiến lược chính là dự phòng một cuộc tấn công từ Liên Xô, khi đó phải thuê anh Mèo anh ấy làm đạn, nhưng anh Mèo Hoang này ngu quá là ngu, chỉ làm được những loại đạn đơn giản. Và như thế, khi AK-74 ra đời thì NATO 7,62x51 quá chênh lệch khối lượng đạn cả vỏ, phải cải. Vì Mèo Hoang đòi bắn được đạn mới cũ trên súng cũ mới, nên cỡ nòng đúng cũng không thể được áp dụng. Khi NATO thống nhất dùng đạn FN SS109, thì chấu Âu ôm bụng cười. Cái kho súng đạn cũ Mèo định làm giầu ấy, súng cũ bắn đạn mới không đủ quay, hầu hết các viên quay ngang đến trên 90 độ ở 91 mét. Súng mới bắn đạn cũ thì đạn lột vỏ, biến dạng và cũng vậy =)). Cả hai trường hợp đều có tầm bắn hiệu quả.... 70 mét, quá giống súng kíp cổ truyền :)).

    Cười thế thôi, chứ các bạn cũng biết, chọn cỡ đường kính sai, lại thoả mãn kỹ thuật gia công lạc hậu của Mèo, nên NATO 5,56x45 không thể là thứ đạn tốt. NATO tốt hơn M16A1, nhưng quá chênh lệch với AK 5,45x39 (AK-74 về sau). Súng bắn đạn này dài, nặng vì lại quá áp. Không có các kỹ thuật chuyển trọng tâm về sau như AK đầu rỗng đuôi chì. Đạn NATO xoát quá mạnh , lột cả vỏ đạn cũ, lại quá áp, nên nòng rất nhanh hỏng. Đánh giá chung là tuổi thọ dưới 3000 viên và thực chất, để theo tiêu chuẩn khắt khe như bên AK, thì chỉ 1 ngàn viên. Độ chính xác nòng mới của NATO đúng bằn điểm AK bỏ nòng, tức là các viên đạn chui vào vòng 508mm ở 250 mét (ở wiki thì M16 có tầm bắn hiệu quả 500 km, nên nước Mỹ hễ cứ đánh nhau là thua chạy). AK mới thì vô cùng, AK-74 cho 3 viên chui vào một lỗ 18mm ngoài trời ở 250 mét. Nói chính xác ra, NATO chỉ là súng trường khi mới cứng khựa, sau đó NATO là MP loại cồng kềnh =)).






    Đạn M16 A1 (định hình năm 1967) không thể chấp nhận được, nó dùng thuốc NATO 7,52x51 vì Mỹ không thể thiết kế ra thuốc riêng cho súng của mình và các bạn thấy, một đời châu Âu không chấp nhận đạn này. Nếu so tỷ lệ bình phương đường kính, thì nếu chỉ thu lại đường kính, NATO 7,62x51 khi co lại 5,56 sẽ có đầu 5 gram, nòng dài 630mm (lợn wiki thì bắn Mk14 nòng ngắn 475mm có sơ tốc cao hơn cả súng ÂU nòng dài cùng một loại đạn =))=)), cái đám lợn này ăn cắp não mọi nơi mọi chỗ, đứa nào dây phải chúng mà không liệt não mới là lạ.) Thực chất, cỡ nòng dài nhất của NATO 7,62mm như FN MAG có sơ tốc 840m/s, thấp hơn cỡ nòng 540 mm của Mosin, như thế, thuốc NATO 7,62x51 đã yếu hơn nhiều thuốc Mosin cổ và trên đời này, Mèo Hoang là nước dốt nát về quân sự , dốt nhất quả đất, dốt ngu điên đến mức đánh đâu chạy đấy ở tất cả những nơi đến đánh, nhưng vẫn tưởng mình là siêu cường số một hoàn cầu. Với cỡ thu giả tưởng trên, thì vỏ dài 51mm và sau đó là bước thu chiều dài đạn, còn 4gram, vỏ 45mm, nòng tương ứng thu còbn 4/5 chính là cỡ nòng 20" của M16A1.=)) Như thế, đây là bắt chước máy móc ngu xuẩn của NATO 7,62x51, bắt chước y hệt và như thế đạn nhẹ, dài như cũ và nhanh giảm tốc để thò đuôi ra khỏi buồng ấp thấp, cũng như nòng rất tệ vì cần xoáy mạnh ở đường kính nhỏ, quan tính xoáy yếu, phải xoáy mạng hơn, làm nòng nhanh đai hơn, trong khi ngu xuẩn không biết dùng lõm đuôi, không biết đổ chì để chấp nhận nòng sai.

    Chúng ta đã biết, thuốc NATO 6,52x51 là cuộc đại cách mạng thuốc với Mèo Hoang, lần đầu tiên súng trường Mỹ dùng thuốc có hình viên điều khiển tốc độ cháy, cháy chậm và đều. Thuốc này có dạng viên dẹt tròn cắt từ sợi đùn tròn. Thuốc viên các bạn biết rồi, nó phải cứng không vỡ khi bắn, chỉ cháy ở mặt ngoài vì chấn động không truyền vào trong viên thuốc chắc chắn, viên dẹt và viên trụ rỗng ít thay đổi diện tích ngoài, tốc độ cháy tới hạn tỷ lệ thuận với diện tích ngoài, như thế tốc độ cháy ít thay đổi, so với thuốc bột thuốc dẻo dùng cho mìn cháy tức thời, áp lựcc ao vọt lúc mới cháy và giảm nhanh, tạo ra thứ nòng gù lưng ngắn tũn thời cổ. Chắc các bạn đã biết, súng cổ dài vì nó dùng làm cán lê, nạp đạn lâu, phải dùng lê, chứ không phải là dài ra đẩy đầu đạn.

    Trước đó, Mèo Hoang dùng thuốc cor***e, người ta trộn vadelin vào cho dẻo để dễ đùn và là chấy chống thấm nước, bảo quản thuốc sau này. Vì đây là phụ gia dẻo, nên đây là... thuốc nổ dẻo, truyền phản ứng cháy vào sâu trong viên thuốc. Thực chất, nó không thể điều khiển tốc độ cháy, nên người ta làm chung một thứ thuốc cho tất tần tật pháo lớn cho đến súng ngắn. Và như thế, nó là thuốc bom thuốc mìn, thuốc súng cổ như thời thuốc nổ bom mìn chung với thuốc súng, là thuốc nổ đen.

    Đấy là điểu các bạn cũng hiểu, khi Đông Âu bỏ thuốc nổ đen, thì họ tìm các vật liệu dễ tạo hình, bền chắc khi bắn không vỡ, là nitro celluloz và TNT. nitro celluloz có thể hiểu là gỗ đúc không xốp, TNT yếu hơn nhưng lại dễ đúc hơn. Việc tạo hình vật liệu chắc làm viên thuốc chỉ cháy ở mặt ngoài và tốc độ cháy tới hạn tỷ lệ thuận với tổng diện tích mặt ngời các viên thuốc. Đạn pháo dài, gia tốc thấp, cần cháy chậm, và dùng viên trụ rỗng to như ngón chân đến cỡ cổ tay, viên trụ rỗng vừa cháy trong ra vừa cháy ngoài vào, nên diện tích mặt ngoài ít thay đổi. Đạn súng trường ngắn, gia tốc lớn, cần cháy nhanh, thì dùng viên dẹt nhỏ, hình dẹt không ổn định diện tích như trụ rỗng, nhưng dễ làm. Vào thời WW2 thì kỹ thuật gia công viên thuốc chưa cao minh, nên phổ biến là dùng thuốc viên hình trụ đặc cho súng trường, saui đó thấm chất làm chậm ở vỏ ngoài, hết chất này thì diện tích nhỏ đi nhưng viên cháy nhanh hơn.

    Nhưng Tây Âu thì thất rằng, súng Đông ÂU mạnh do dùng thuốc có năng lượng cháy cao =))=)). Đấu là lý luận cuả giống lợn. Ví dụ, đạn AK 6,62mm cả vỏ nặng 16 gram, nhồi 1,65 gram, nếu như dùng thuốc nổ cổ nhất là thuốc nổ đen làm đạn AK thì cần nhồi 6 gram, vẫn thừa chỗ, và có viên đạn AK nặng 21,5 gram, không phiền toái gì. Sự ngu xuẩn đó các bạn quá dễ hiểu, thuốc súng chỉ chiếm khối lượng nhỏ so với đạn, người ta không cần tìm thuốc có năng lượng cháy / khối lượng cao. Và như thế, trừ tính không khói, cor***e và các thuốc Anh-Mỹ chỉ là thuốc nổ cổ, thuốc nổ cổ đen không khói.

    Sau WW2, Mèo Hoang ngu xuẩn mới vỡ não ra hiểu điều đó. Năm 1967, sau nhiều nỗ lực không thành công, M16A1 ra đời bằng cách bắt chước y đúc NATO 7,62x51mm trên, và là khẩu súng trường nhục nhất thế giới. Thậm chí đến các đồng minh thân cận nhất là Nhật, Anh, Canada, Úc cũng ném miẹ đi. Thật ra, Nhật ANh có nhập làm cạc bin quân cảnh. Tất cả các đồng minh Mỹ trừ những nô tỳ như Nam Hàn Vịt đều dùng NATO 7,62x51 cắt nòng đi xung phong. Dùng đạn to, rồi cắt nòng đi là ngược đời, là hành động làm nhục đạn M16A1.





    Đạn NATO 7,62x51 là bản sao đường đạn của Mosin , nhưng yếu hơn một chút vì phái Hitler ghét bác học già nhà Mauser, cực kỳ ngu xuẩn về đường đạn. Các bạn đã biết, phái Hitler là dân MP đem súng ngắn đi đánh nhau với súng trường. Đạn súng ngắn liên thanh MP được cải tiến những giữ nguyên hình dáng để tương thích cổ. Cải tiến duy nhát đáng kể là quá áp liên miên, quá áp là không có thuốc đúng, chỉ việc nhồi các thứ thuốc lởm có tính năng cháy như thuốc nổ đen cổ trên, nhưng nhồi nhiều, áp lực tăng cao giảm nhanh, nòng chóng hỏng, súng nặng. Quá áp ngu xuẩn đến mức không bắn được trên súng cũ nữa, và ghi "chỉ dùng cho MP" trên hộp giấy đựng đạn. =))=))=))=))=)) Bây giờ thì cái tương thích cũ lại thành họa vì không phải ai cũng cả đời không nhầm phát nào trước khi mù mắt cụt tay. :))

    Có thể so Tokarev, nhà thiết kế đường đạn chính của Liên Xô với Đức. Đạn Tokarev của K54 và PPSh cho đường đạn PPSh hiệu quả đến 200 mét (tức bắn phát một 200 mét vẫn trúng người), Đức quá áp hết cỡ cũng chỉ được 150 mét. Dĩ nhiên là Thompson SMG Mèo Hoang đã kính trọng Đức lắm rồi, vì có 50 mét, 50 mét nhưng 400 đô, 5 đô 150 mét :)):)):)). Vì những cái như wiki trên nên không ai ngu xuẩn về súng ống như Mèo Hoang.

    Vì phát khiếp PPSh nên Đức mới cho ra qủa MP44,=StG4, lại co đường kính về bằng cỡ súng trường bắt chước Liên Xô, nhưng vẫn quá áp hết cỡ và súng ngắn ấy nặng hơn trung liên RPK :))

    Đạn Mosin ban đầu yếu, thật ra, súng ra đời trước ban đầu bắn đạn chì đúc. Đạn M1908 là phiên bản đầu đạn hiện đại đầu tiên của Nga và ưu việt nhất châu Âu cho đến nay (tất nhiên chỉ tính trong các đạn cùng vị trí), tất cả đều tốt trừ cái gờ móc hy sinh toàn diện cho Tula mà Tula không được hưởng :)). M1908 có đầu đạn 9,5 gram, sơ tốc nòng dài 800mm khoảng 880-900m/s. Sau đó, thời WW2 súng máy đã nhiều, chức năng lên không còn cần, co nòng về 540mm (K44 tức Mosin model 1944 nói tiếng Việt), sơ tốc 840-860mm. Sơ tốc này vẫn nhỉnh hơn FN MAG một chút mặc dù MAG nòng dài 630mm. Tất nhiên các sơ tốc này thua xa Mk14 Mèo Hoang bắn cùng NATO 7,62x51 với nòng ngắn 475mm =)). Hài vãi cái độ lợn của dân Mèo Hoang.

    Đạn cũ của Mosin khoảng gần 12 gram, sau này cỡ đạn này vẫn được dùng cho súng máy. Mauser "anh em" giữ cỡ đầu 13 gram đến khi chết 1945 vì phái Hitler ngu về súng ống. Đạn to có tầm chính xác xa, phá mạnh, xuyên sâu... nhưng vì người bắn súng trường chỉ chính xác được đến 600 mét nên người ta dùng đạn nhẹ, bay nhanh, chính xác hơn trong khoảng đó nhưng kém hơn trong khoảng sau, trong khi súng máy dùng đạn nặng. Mauser cùng một đầu có sơ tốc thấp hơn Mosin, 800m/s.







    Chương trình súng trường xung phong đầu tiên của Đức là MKb35, đạn GECO 8x40mm. Con số 8 nào là nói ngắn, mình vẫn không hiểu đó là 7,92 tiêu chuẩn Đức hay đúng là 8, có cả 2 loại đạn ấy và điều này cũng không quan trọng cho lắm. Năm 1939, lần đầu tiên súng có tên "súng trường xung phong" là SK39, SK- Sturm Karabinen, Sturm là bão lúc đó dùng để chỉ xung phong. SK39 chỉ có ý nghĩa thử nghiệm đường đạn, Đức yếu về máy súng tự động nhỏ nhưng có khoá nỏng, mà ví dụ chính G43 sao chép ngay lập tức trích khí của địch SVT, thành chìa khoá để G41 được chấp nhận là súng chủ lực. SK30 có kiểu máy rất yếu, đầu nòng có một cái piston có lỗ giữa cho đạn chui, klhí thuốc đẩy piston này về trước, kéo cần giật một đòn bẩy đẩy máy súng lùi về, máy này quá kém cộng hưởng thêm là cấu tạo khoá nòng. Nhưng nguyên nhân SK39 chết không phải thế, mà so phái Hiler trong chính trị toàn là dân MP. Sau đó, các nhà chế súng mới đưa ra các MKB khác mà thực chất là dùng cỡ đạn 7,92x33mm của thử nghiệm súng ngắn, gọi là MKB42, đây là chuyện cười trong làng chế súng Đức và nó trở lại với tên MP42/44 được dập trên vỏ.


    Như vậy, nói Liên Xô format đạn M43 vì bắt được MKb42 hay MP44 là láo toét. Đạn M43 AK ban đầu là 7,62x41mm, súng AS-44 được đánh giá là hơi nặng, nên co về 7,62x39mm (khoảng 1947-1948). Rõ ràng, cả Liên Xô và Đức đều chọn một phương ấn, không phải MP44 dở người, mà là MKb35 với phiên bản hoàn thiện nhất SK39. Cũng có thể liên xô hay đước có số liệu thử đường đạn của nhau, nhưng không khó để thấy, khi cùng chọn một phương án giữ nguyên tiêu chuẩn đường kính, Liên Xô và Đức đều dễ dàng ước lượng cỡ vỏ-đầu. Vẫn đề động năng-động lượng thì cả hai nước đều có súng trường liên thanh bắn đạn Mauser, Mosin như AVT-40, đều có các súng nhỏ hơn AVT như Fedorov và đều có các súng ngắn MP, PP, không khó đều họ quyết định chọn lực giật mạnh hơn MP-PP và yếu hơn AVT-40.

    Sau quyết định giữ nguyên đường kính M43 so với Mosin, có thể dễ dàng ước lượng các tham số ban đầu của AK để fomat tiêu chuẩn đạn trước khi phát triển và hoàn thiện. PPSh bắn đạn Tokarev 7,62x25mm, có nòng dài 270mm, sơ tốc 488m/s, đầu nặng 5,5 gram (đúng bằng loại đạn tưởng tượng 6,5x30mm trên, cho thấy, chọn đường kính đúng sẽ dễ dàng cho đạn ưu việt giá rẻ). Động năng 655 J. Động lượng 2,7ms. AVT đầu 9,5 gram sơ tốc 820 m/s, 3120 J và 7,79 ms, nòng AVT 630 m/s nhưng sau các cải tiến đạn 194x thì M1944 Mosin 540mm cho sơ tốc như vậy. Sức phá sức giật mỗi phát lệ thuộc động lượng, nhưng trong loạt liên thanh, do năng lượng tích luỹ ở điểm tỳ vai, nên người ta thường lấy con số động năng để ước lượng sức giật. Cả Nga và Đức đều đã có các con số quan trọng là tầm bắn hiệu quả 250-600 mét, 250 phát một và 600 liên thanh. 250 vì phần lớn xạ thủ chỉ làm được thế, quá 600 thì đạn nặng hơn trong khi cần rất nhiều đạn như súng đại đội, không hợp cho trung liên cá nhân (wiki tầm bậy, tầm 250 là tầm bắn hiệu quả tối đa của M16A2 và NATO 5,56x45, bằng tầm bắn hiệu quả tối thiểu của AK, tức điểm bỏ nòng, Mỹ dùng bia 508mm coi như bia số 4 nhà ta, bán thân người, tượng trưng người trong công sự, ít nhất 3/4 số đạn phải trúng vào đó).

    MKb đã phát biểu điểm 600 mét vào đúng năm 1935, yêu cầu của cục vú khí Đức gửi các hãng tham gia đấu thầu. Điểm này của họ thiếu nhưng sau này các hãng tự bổ sung theo các nghiên cứu của Viện Mauser. Còn Nga thì đã có từ thời Fedorov. Với các tham số như thế, thì vẫn đề cuối cùng chỉ là chọn được động năng đầu đạn để bắn được loạt liên thanh trong tư thế tỳ vai, có gì đâu, cứ lấy cái gì đó như một loại PPSh thửa riêng bắn đạn Mosin, súng hơi nặng chút nhưng lắp độ 6 viên thì cũng bằng AK đầy đạn, và việc dừng mức độ năng 2000 J là dễ hiểu, nằm đúng giữa Mosin và PPSh. Sau này 2000 J đương nhiên tăng lên khi hoàn thiện thuốc, tăng một chút. Nòng cũng thế, giữa 540mm và 270mm cũng chính là khoảng 410mm của AK.

    Như vậy, MKB và M43 AK giống như nhau đơn giản là người ta ước lượng chúng nằm đúng giữa súng ngắn và súng trường. Một cái nòng 450mm, vỏ 45mm, bắn cái đầu Mosin co lại 8 gram, cùng thuốc, được cùng sơ tốc, nhưng động năng 2700 J. Co cái nòng ấy còn 410mm, vỏ 41mm là vưà =)). Sau này hiệu chỉnh còn vỏ 39mm nòng 410mm.

    Cùng cỡ AK, có thể thay đổi đầu , đầu nhẹ sơ tốc lớn đầu nặng sơ tốc nhỏ. Vấn đề là, người ta cần còn đường đạn đảm bảo các yêu cầu khác, mà AK nổi trội khả năng sát thương. Sơ tốc của đạn AK 7,62mm khá nhỏ.

    Còn tại sao lại là 5,45. Thật hài hước, sau khi Fedorov mất, phái mới lên đã giữ nguyên các tham số chiều dài toàn bộ súng, nòng dài như cũ súng dài như cũng vỏ dài như cũ. Nếu đầu dài như cũ thì 5,45mmx39mm có đầu nặng đúng 4 gram =)). Cái ước tính trẻ con này có nghĩa là giảm đường đạn và sức phá đi đúng một nửa =))=))=)). Và phải khắc phục bằng chọn đầu khác, sơ tốc lớn, gia công đầu đạn phức tạp như chúng ta đã thấy.




    Tuy ban đầu ước lượng tiêu chuẩn sai, nhưng nhờ dày công nghiên cứu, nên thành phẩm AK -74 ngày càng hoàn thiện. Về độ chính xác, ngoài trời tuyết rơi nó bắn 3 viên chui qua một lỗ 18mm. Ở gần sát, đạn AK-74 bắn thẳng góc xuyên qua thành 2 bên M113 cổ kiểu như ở Vịt. Nhược điểm không thể khắc phục được là đạn giảm sức rất nhanh sau 300 mét.

    Tất cả mọi loại AK đều ngon lành hơn Tây, nhưng điều thường thấy là khi AK vạch áp cho người xem lưng, cãi cọ nhau,thì dân taay thấy AK phở, ví dụ, con voi con bé hơn con voi bố là con kiến tưởng con voi con bé hơn con kiến .:)):)):)) NATO có Mèo Hoang ngu thậm ngu tệ, nhưng Đức Bỉ Thuỵ Sỹ Áo chúng cũng phải biết lo lấy cái mạng sống nhà chúng. Còn khựa thì thì đúng là gái bất ghì, ngựa vô cương, thoả sức ngu xuẩn. Mà cũng như Mèo Hoang, không có gì ngu xuẩn bẩn thỉu bằng bệnh thẩm du. Ở Cam chẳng hạn, AKM nhà ta hơn trội AK khựa (AK khựa vẫn là AK cổ 4kg, đến cuối 199x mình vẫn phải vác 1 khẩu). Thế là khựa quyết chí cao minh hơn đại bá Nga Xô, cho Tiểu Bá Vịt Ngan một bài học =)). Chết cười, đã không có sức làm đầu phức tạp thì dùng 7,62 cổ cho lành, khựa không biết ước lượng, copy tỷ lệ chiều dài của NATO thành 5,8x42mm, thật ra, khựa không dám làm tỷ lệ chiều dài quá cao như NATO vì thiếu khả năng gia công đảm bảo vỏ đạn đồng đều tin cậy. Đầu 4,15 gram, sơ tốc 900m/s đúng bằng NATO. Trong wiki, bọn ăn cắp não thường trộn đều các tham số như sơ tốc tối đa và sơ tốc của M16. Sơ tốc tối đa là sơ tốc của cái nòng trơn dài vô cùng.

    Tất nhiên, bác khựa không hề biết, NATO làm thế để Âu lừa Mỹ cái đám súng đạn cũ rất hài hước =))=))=)). Như thế, thậm chí khựa còn ngu hơn cả Mèo, Mèo con hy vọng cái kho súng đạn cũ trước khi biết rằng 2 loại khác nhau, khựa thì hốc một cách ngu xuẩn nhất.

    Cũng vì dùng loại đầu đạn đơn giản, đầu dài tho đuôi ra không khí đặc, nên cũng như NATO, đạn khựa dùng thuật cố định trục của tk19, bỏ chống trên mũi nhọn, bắn lên cao thì hạ đít xuống.=))

    Chưa hết ngu, quyết chí hơn hẳn đại bá Nga Xô, từ type 95, khựa quyết bỏ khoá nòng truyền thống, nhưng chọn loại ngon nhất khác AK là FN FNC, mà cũng không cần biết hãng FN gia công nghiều loại súng, chứ không chuyên làm AK, nên không dùng máy chuyên dụng, và đó là phương án khoá nòng AK gia công trên máy đa năng CNC=)). Thậm chí là Thuỵ Điển gọi luôn nó là AK, tức ẠK5 cho gọn :)). Cái khó gia công ở AK là cái khe cho tai quay trên bệ khoá nòng, tức cái khe phía dưới ngay sau cần piston của bên khoá nòng, nó cần máy gia công chuyên dụng, dạng máy phay bằng cạnh mũi khoan, phôi di chuyển theo gá có hình đường đi sẵn, phôi có các chuyển động quay quanh trục (là đường trục tâm khoá nòng), tiến lùi... thì cạnh mũi khoan sẽ làm ra cái khe ấy. FN FNC có khe đơn giản thành đứng ở bệ phoá nòng phần chuôi khoá nòng, gia công như khe M16, G36... Cái máy chuyên dụng AK này không đắt, có điều là, hãng như FN sẽ mua nó chỉ để làm AK phần lớn thời gian chỉ đắp chiếu.





    Đối lập với khựa siêu ngu là bác Ấn, INSAS của bác có trích khí FN FAL, còn lại là AK như nguyên bản, chứ không như FN FNC. Ấy là vì, cũng như Thuỵ Điển dùng ZB26 vậy. Các nhà thiết kế ZB26 đã cho ra kiểu trích khi sau này dùng cho AK, là trích khí xiên ngược. Trích khí này có nghuyên tắc khí động khác với nguyên tắc tiết lưu thông thường. Để hạn chế lượng khí trích ở mức vừa đủ, không làm yếu đạn, trích khí tiết lưu dùng lỗ tiết lưu nhỏ, lỗ nhỏ này hay gây tắc nhất vìo khí thuốc rất nhiều hạt thuốc chưa cháy, cũng như các bản vỡ kim loại từ đầu đạn.

    Trích khí khí động xiuên ngược giảm lượng khí vào lỗ trích bằng khí ngoặt, dòng khí 600-700m/s không thể ngay tức khắc lộn lại vào ống xiên ngược, nên khi đạn ra gần hết nòng mới lộn kịp, ống trích to, thằng tưng, rộng rãi, mà lại không tốn khí.

    Điều ưu việt này rất khó tính, các nhà làm ZB26 chưa tính được cho nhiều loại súng, nên khi bắn đạn Thuỵ Điển và ANh (ZB30, ZB33 được ANh mua License thanh brent), thì bỏ đi. Bren quay lại trích khí tiết lưu. Thuỵ Điển dùng ZB26 với tên Kg m/39 thì xiên xuôi cho khí vào nhiều. Sau này chính ZB cũng sang tiết lưu để dễ đổi nòng, thay loại đạn... mà không thay đổi sản xuất nhiều.

    INSAT cũng thế, khi dùng đạn NATO, người Ấn chưa đủ trình tính cái trích khí cực kỳ phức tạ về toán này, nên quay lại tiết lưu FN
    Ngoài điều đó, thì INSAS là AK 100%




    Có thể thấy khó khăn khi đổi đạn trích khí xiên ngược, không phải ông bác học nào cũng lên được kế hoạch thử nghiệm để cho ra cái trích khí này cho mỗi loại đạn, chính các ông ZB cũng thế.
    http://www.gotavapen.se/gota/artiklar/kg/swedish_kg4.htm

    [​IMG]
    [​IMG]

    [​IMG]




    ZB26 và ống trích xiên ngược
    http://www.gotavapen.se/gota/artiklar/kg/swedish_kg3.htm
    [​IMG]




    Còn INSAT. INSAS: INdian Small Arms System
    http://www.defence.pk/forums/india-defence/69212-insas-5-56mm-rifle-close-careful-look.html



    đầu nòng kiểu FN
    [​IMG]

    Trích khí kiểu FN



    [​IMG]


    hiệu chỉnh tiết lưu
    [​IMG]

    [​IMG]




    AK trên và INSAS dưới


    [​IMG]


    Ngay cả chỗ đặt tên cũng copy

    [​IMG]




    [​IMG]
    [​IMG]


    y hệt AK
    [​IMG]


    [​IMG]
    [​IMG]


    [​IMG]



    FN FNC là AK nhưng tai quay ở chuôi để gia công khe quay bằng máy đa năng như cách gia công khe M16, G36. Khe quan AK (trong hìnhg là tai quay đang lắp trong đó) được gia công băng máy phay chuyên dụng có 3 chuyển động phôi (quay quanh trục, tiến lùi trái phải), thích hợp với nhà máy chuyên làm AK của nước lấy AK làm súng chủ lực, FN là hãng làm thuê đủ loại.

    Với lập luận đó, Ấn Độ chọn tai quay AK là hợp lý. CŨng như thế, khựa chuyển sang FN FNC là ngu xuẩn nhất quả đất, không có lý do gì ngoài phục vụ công tác thẩm du.
    [​IMG]



    [​IMG]

    [​IMG]



    [​IMG]


    [​IMG]


    [​IMG]


    [​IMG]







    [​IMG]


    trung liên RPK bắn đạn la to, insas
    [​IMG]


    [​IMG]


    băng làm theo kỹ thuật giống Đức, nhưng không khó để nhận ra đầu băng AK cải từ đầu băng M1 Garand

    [​IMG]




    Gần đây, Ấn Độ đã mua license AK-101 (AK bắn đạn la to), như thế, họ có đúng AK chứ không phải AK nhái. Và dùng trích khí xiên ngược.
    http://world.guns.ru/assault/rus/ak-101-e.html


    Cũng cần nhắc là, bên Nga, trích khí xiên ngược được bỏ ở các đời súng sau vì tìm được một loại trích khí tiết lưu có cách gia công bằng đúc áp lực siêu rẻ. Đây là vẫn đề đi lùi từ 197x. Nhưng sau này, do ưu việt của trích khí xiên ngược, AK quay lại trong tất cả các phiên bản hiện đại trừ 107-108. Đến AK-107/108 (đạn NGa/ la to), thì AK đã có trích khí bù nẩy, rung nầy của bệ khoá nòng được bù bằng một khối chuyển động ngược lại , cái này không thể xiên ngược được và đến đây thì chiính thức xiên ngược chào AK
    http://world.guns.ru/assault/rus/ak-10710-e.html
    [​IMG]
  10. GiaosuGug

    GiaosuGug Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    18/05/2009
    Bài viết:
    465
    Đã được thích:
    0
    Cái trích khí chếch liên quan đến các tính toán về chuyển động dòng khí.

    Ở đạn to như AK 47, trích khí chếch sẽ phân tích véc tơ vận tốc dòng khí thành hai thành phần dọc ống và vuông góc thành ống, với luồng khí mạnh của đạn AK 47 sẽ tạo ra dòng khí tác động vào pít tông có tốc độ ổn định và kết cấu đơn giản. Các công thức cụ thể cũng không được đưa ra cho các sách phổ cập.
    Tuy nhiên khi AK 74 dùng đạn nhỏ ra đời thì dùng trích khí chếch như cũ lại làm súng hay tắc, qua thử nghiệm sử dụng ở Ap thời 8x.
    Vì thế lại điều chỉnh thiết kế về dạng ống thẳng như các đời sau của AK 74.
    http://tantal.kalashnikov.guns.ru/parts1.html
    "Genesis of the stamped receiver gas blocks. Starting with the right side: (1) early AKM with round tube cylinder and solid pin pad; (2) standardized AKM with separated pin pads and flat top; (3) transitional investment cast gas block used on late AKM (very similar to early AK-74 with angled gas port); and far left, (4) the standardized cast AK-74 gas block with straight gas port design. Cast blocks usually have cast numbers on them, as do many other cast parts"

    [​IMG]

Chia sẻ trang này