1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Những trận hải chiến lịch sử và quá trình phát triển của hải quân

Chủ đề trong 'Kỹ thuật quân sự nước ngoài' bởi Su35Fk, 19/08/2009.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    [​IMG]
    Ảnh đồ họa tả lại phần đầu của trận Narvik lần 1, tầu Anh bất ngờ tiến vào khi các tầu khu trục Đức chưa kịp chuẩn bị chiến đấu, đùng đùng đoàng thế là đi đời hai chiếc Wilhelm Heidkamp, và Anton Schmidt
    [​IMG]
    Ảnh chiếc tầu khu trục Wilhelm Heidkamp của Đức, chiếc này đã bị phá hủy nặng nề và bị đắm trong ngày 11 tháng 4 năm 1940
    [​IMG]
    Ảnh chiếc tầu khu trục Hermann Künne của Đức, Nó đã được đưa về bãi biển bởi các thủy thủ đoàn của nó vào ngày 13 tháng 4 sau khi nó hết đạn. Xác con tàu này nằm ở Herjangfjord và khi thủy triều xuống chiếc mũi tầu bị vỡ của nó nổi lên trên mặt nước, kích thước của nó (chiều dài / chiều rộng) : 125m x 12m
    [​IMG]
    Chiếc Dieter von Roeder là một tầu khu trục Đức bị đánh chìm trong trận thứ hai vào ngày 13 tháng 4 trong khi neo đậu tại cảng Narvik. Nó có kích thước (chiều dài / chiều rộng) : 123m x 12m
    [​IMG]
    Ảnh chiếc khu trục hạm của Đức - Hermann Künne bị bốc cháy trong trận chiến Narvik
    [​IMG]
    Ảnh chiếc tầu khu trục Bernd von Arnim bị tự đánh chìm tại Rombaksfjord
    [​IMG]
    Ảnh chiếc thiết giáp hạm HMS Warspite, chiếc này là một chiếc TGH cổ lỗ sĩ từ WWI, nó có trọng tải 32.000 tấn ( gấp 10 lần 1 chiếc tầu khu trục Đức). Tuy to xác nhưng chiếc này cũng chỉ bắt nạt được các tầu khu trục Đức khi đám này hết đạn, hết nhiên liệu
    [​IMG]
    Chiếc TSB HMS Glorious, chiếc này tham gia vào giai đoạn cuối của chiến dịch Narvik, nó bị đánh chìm khi đang trên đường quay về Anh cùng 02 tầu hộ vệ, 1.500 lính thủy làm mồi cho cá biển
    [​IMG]
    Chiếc HMS Eskimo sau khi bị bắn bể mũi nhưng không chết chìm
    Được hongsonvh sửa chữa / chuyển vào 17:44 ngày 19/08/2010
  2. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Một số trận hải chiến nổi tiếng ở chiến tranh thế giới II - Khu vực châu Á Thái Bình Dương

    Trong chiến tranh thế giới II đa số những trận Hải chiến lớn đều nổ ra ở mặt trận châu Á Thái Bình Dương, em xin giới thiệu với các bác một số trận đánh tiêu biểu lấy nguồn từ các quấn Chiến tranh Thái Bình Dương 1941 -> 45, Sấm sét Thái Bình Dương, Yamato con rồng châu Á và những tài liệu dịch từ tiếng nước ngoài trên mạng internet khác. Mời các bác đón đọc và góp ý




    Tóm tắt về cuộc chiến Thái Bình Dương

    Chiến tranh Thái Bình Dương là tên gọi một phần của Chiến tranh thế giới lần thứ hai diễn ra trên Thái Bình Dương, các hòn đảo thuộc Thái Bình Dương và vùng Đông Á, Đông Nam Á từ ngày 7 tháng 7 năm 1937 đến 14 tháng 8 năm 1945.




    [​IMG]
    Bản đồ diễn biến của chiến tranh Thái Bình Dương năm 1941 -> 45



    Lịch sử tên gọi

    Trong suốt giai đoạn chiến tranh tại các nước Đồng Minh, nói chung không có sự tách biệt với chiến tranh thế giới thứ hai, hoặc đơn giản được xem là cuộc chiến tranh với Nhật Bản. Tại Mỹ, thuật ngữ chiến trường Thái Bình Dương được sử dụng rộng rãi, nhưng không bao gồm cuộc chiến tại Trung Quốc hay Nam Á.

    Nguời Nhật sử dụng tên gọi chiến tranh Đại Đông Á (大東亜戦争, Dai Tō-A Sensō), như được nội các Nhật Bản chọn vào ngày 10 tháng 12 năm 1941, bao gồm cả cuộc chiến với quân Đồng Minh phương Tây và cuộc chiến tại Trung Quốc đang tiếp diễn. Tên gọi này được công bố rộng rãi vào ngày 12 tháng 12 với lời giải thích bao hàm cả cuộc chiến giành độc lập cho các quốc gia châu Á khỏi sự cai trị của các quốc gia phương Tây nhằm thành lập Khối Thịnh vượng chung Đại Đông Á. Quan chức Nhật Bản đã kết hợp cái mà họ gọi là Sự kiện Nhật-Trung (日支事変, Nisshi Jihen) vào cuộc chiến tranh Đại Đông Á.

    Sau chiến tranh, trong giai đoạn Nhật Bản bị chiếm đóng, những thuật ngữ này bị cấm sử dụng trong các văn bản chính thức, cho dù vẫn được sử dụng trong các trường hợp thông thường. Tên gọi chính thức là Chiến tranh Thái Bình Dương (太平洋戦争, Taiheiyō Sensō), và tên gọi này trở nên phổ biến bên ngoài nước Nhật. Ngoài ra người Nhật còn một tên gọi khác là Chiến tranh mười lăm năm (十五年戦争, Jūgonen Sensō), muốn nói đến giai đoạn từ khi xảy ra sự kiện Mãn Châu năm 1931 cho đến năm 1945.


    Thành phần tham chiến

    Phe trục: bao gồm Đế quốc Nhật Bản, chính quyền độc tài Thái Lan (tham gia liên minh với Nhật vào năm 1942, với sự kiện gửi quân xâm lược Đông Bắc Miến Điện, chính quyền bù nhìn Mãn Châu Quốc (cai trị Mãn Châu và một phần Nội Mông) và chính phủ Đài Loan (kiểm soát đảo Đài Loan). Chính phủ Nhật còn cho phép một số người Triều Tiên và Đài Loan gia nhập quân đội của Nhật hoàng. Ngoài ra còn có sự tham gia của một số nhóm quân sự khác như chính phủ Vichy của Pháp, quân đội quốc gia Ấn Độ và quân đội quốc gia Miến Điện, Hải quân ĐứcÝ cũng tham chiến tại Thái Bình DươngẤn Độ Dương.

    Lực lượng Đồng Minh: Hoa Kỳ (bao gồm cả lực lượng quân đội Philippines), Trung Quốc, Liên hiệp Anh (bao gồm cả Ấn Độ), Úc, Hà Lan, New Zealand, Canada, Mexico, nước Pháp tự do và nhiều quốc gia cũng tham chiến, đặc biệt là các thuộc địa của Anh.
    Liên Xô cũng tham gia chiến đấu trong hai khoảng thời gian ngắn, chiến tranh biên giới với Nhật vào năm 1938 và 1939, sau đó họ giữ vai trò trung lập cho tới tháng 8 năm 1945, sau khi tham gia khối đồng Minh và đánh bại quân Nhật tại Mãn Châu.

    Trong chiến lược của quân đội Nhật Bản có sự mâu thuẫn về quan điểm giữa Lục quân và Hải quân: trong khi phái Lục quân chủ trương "Bắc tiến" (Hokushin) nhằm tấn công Liên Xô thì ngược lại phái Hải quân chủ trương "Nam tiến" (Nanshin) với mục tiêu là vùng Đông Nam Á giàu tài nguyên thiên nhiên (dầu mỏ, cao su, quặng sắt, lúa gạo,...) đang là những thuộc địa của Anh, Pháp, Hoa KỳHà Lan. Tuy nhiên, thất bại của quân Nhật tại Chiến tranh biên giới Xô-Nhật đã khiến kế hoạch "Bắc tiến" gần như phá sản.

    Tháng 11 năm 1936, Nhật Bản đã kí với Đức "Hiệp ước chống Quốc tế cộng sản". Với hiệp ước này, Nhật Bản muốn khống chế ảnh hưởng của Liên Xô ở Viễn Đông đồng thời ngăn chặn khả năng chính phủ Tưởng Giới Thạch nhờ Liên Xô giúp đỡ để chống Nhật. Tuy nhiên, trên thực tế, khi hiệp ước này được kí kết, không những Liên Xô mà cả các cường quốc phương Tây khác như Anh hay Hoa Kỳ bắt đầu có lập trường cứng rắn hơn đối với Nhật. Ngày 6 tháng 11, đến lượt Ý cũng gia nhập vào hiệp ước này.

    Từ tháng 9 năm 1939 đến tháng 6 năm 1940, tại Châu Âu, Đức Quốc xã liên tục giành chiến thắng, lần lượt chiếm được Ba Lan, Na Uy, Đan Mạch, Hà Lan, Bỉ và Pháp. Trước sự kiện Pháp đầu hàng Đức, tháng 9 năm 1940, Nhật bắt đầu cho tiến quân vào miền Bắc Đông Dương. Ngoài ra, ngày 1 tháng 3 năm 1941, họ cho quân đổ bộ lên đảo Java của Indonesia. Ngày 27 tháng 9, Đức-Ý-Nhật đã cùng nhau kí kết "Hiệp ước Tam cường" công nhận địa vị lãnh đạo của Nhật ở Châu Á và cũng để bảo vệ lẫn nhau trong trường hợp một trong ba nước bị tấn công.

    Nhật Bản bành trướng xâm lược ở Châu Á đã làm cho mối quan hệ giữa họ với Anh và Hoa Kỳ ngày càng trở nên gay gắt. Tháng 9 năm 1940, đại sứ Hoa Kỳ ở Nhật đã nhấn mạnh: "Quyền lợi của Hoa Kỳ bị chính sách "Nam tiến" của Nhật đe dọa trầm trọng... chúng ta phải cố gắng bằng mọi cách duy trì nguyên trạng ở Thái Bình Dương, ít ra cho đến khi chiến tranh ở Châu Âu ngã ngũ". Tháng 7 năm 1940, Hoa Kỳ tuyên bố hủy bỏ điều ước thông thương Nhật-Mỹ, hạn chế xuất khẩu nhiên liệu, xăng máy bay và sắt phế thải cho Nhật. Đến tháng 10, Hoa Kỳ lại tuyên bố cấm toàn diện về sắt phế thải đối với Nhật. Từ tháng 3 năm 1941, tại Washington D.C, đại sứ Nhật Kichisaburō Nomura đã đàm phán với ngoại trưởng Hoa Kỳ Cordell Hull nhưng vì lập trường hai bên quá khác biệt nên cuộc đàm phán đi vào bế tắc.

    Sau khi kí hiệp ước đồng minh với Ý-Nhật, tháng 3 năm 1941, Bộ trưởng ngoại giao Yōsuke Matsuoka đã kí "Hiệp ước trung lập Nhật-Xô" với Liên Xô ở Moscow. Trong khi đó, về vấn đề Đông Dương, Nhật tiếp tục ép Pháp nhượng bộ, kí kết các hiệp ước có lợi cho Nhật. Tất cả các động thái trên đều nhằm phục vụ cho chủ trương "Nam tiến". Tuy nhiên, ngày 22 tháng 6 năm 1941, Đức Quốc xã bất ngờ tấn công Liên Xô mà không thông báo cho Nhật biết trước. Không những thế, Đức còn đề nghị Nhật tấn công Liên Xô từ phía đông. Trước tình hình đó, Nhật không biết nên tôn trọng Hiệp ước Tam cường với Đức hay Hiệp ước trung lập Nhật-Xô. Ngày 2 tháng 7, trong "Hội nghị ngự tiền" (Gozen kaigi) có sự hiện diện của Thiên Hoàng, sau một cuộc thảo luận dữ dội giữa các cấp lãnh đạo quân đội Nhật, chủ trương "Nam tiến" đã được tiếp tục thực hiện, theo đó người Nhật sẽ bỏ qua yêu cầu của Đức, tôn trọng Hiệp ước trung lập Nhật-Xô và tiến quân xuống miền Nam Đông Dương. Mặt khác, hội nghị cũng đặt vấn đề tiếp tục bí mật chuẩn bị cho cuộc tấn công lên phía bắc chống Liên Xô, nếu Liên Xô bị Đức đánh bại. Biên bản của hội nghị ghi rõ: "Nếu cuộc chiến tranh Xô-Đức phát triển theo hướng thuận lợi cho đế quốc thì Nhật sẽ dùng lực lượng vũ trang để giải quyết vấn đề phương Bắc".

    Cuối tháng 7 năm 1941, ngay sau khi quân đội Nhật tiến xuống miền Nam Đông Dương và chiếm đóng những căn cứ quân sự tại đây, Hoa Kỳ đã ngay lập tức có sự phản ứng. Ngày 26 tháng 7, Hoa Kỳ tuyên bố phong tỏa tài sản của Nhật tại nước này, cấm xuất khẩu dầu mỏ sang Nhật. Tiếp theo đó, Anh hủy bỏ hiệp định thông thương giữa Nhật với Ấn ĐộMiến Điện, Hà Lan cấm xuất khẩu dầu hỏa và bauxite sang Nhật. Quyết định đình chỉ xuất khẩu dầu hỏa sang Nhật của Hoa Kỳ đã có ảnh hưởng quyết định đối với bộ máy chiến tranh Nhật Bản. Theo tính toán của Bộ tư lệnh Hải quân, lượng dầu mỏ dự trữ của Nhật chỉ dùng đủ trong hai năm và nếu không có cách giải quyết vấn đề này thì hải quân Nhật chẳng sớm hay muộn sẽ bị tê liệt. Do đó, từ khuynh hướng ôn hòa, hải quân Nhật lại trở thành phe chủ chiến.

    Trong tình thế bị bao vây bởi thế bao vây ABCD - American (Hoa Kỳ), Britain (Anh), China (Trung Hoa), Dutch (Hà Lan) - Nhật muốn tiếp tục thương lượng với Hoa Kỳ bằng cách đề nghị một tạm ước là Hoa Kỳ và Nhật sẽ không sử dụng vũ lực ở Đông Nam Á và Nam Thái Bình Dương; hai bên sẽ cùng khai thác các dự trữ tự nhiên ở Indonesia; quan hệ kinh tế Mỹ-Nhật sẽ được khôi phục, trong đó Hoa Kỳ phải tiếp tục xuất khẩu dầu hỏa sang Nhật, hủy bỏ phong tỏa tài sản của Nhật và không can thiệp vào việc Trung Quốc. Phía Nhật còn bổ sung thêm rằng, sau khi kí hiệp ước hòa bình Trung-Nhật, quân đội Nhật sẽ rút khỏi Đông Dương. Tổng thống Franklin D. Roosevelt tỏ ra có thiện cảm với đề nghị này nhưng ngoại trưởng Hull lại cực lực phản đối vì sợ các đồng minh của Hoa Kỳ sẽ hoang mang. Hull nhất quyết giữ lập trường ban đầu của Hoa Kỳ, đòi Nhật rút khỏi phe Trục, kí hiệp ước bất tương xâm với Hoa Kỳ, Anh, Liên Xô, Trung Quốc, Hà Lan đồng thời rút hết quân ra khỏi Đông Dương và toàn lãnh thổ Trung Quốc-kể cả Mãn Châu. Trước khi trao cho người Nhật công hàm nói trên, Hull đã thông báo cho chính phủ Anh: "Các cuộc đàm phán ngoại giao của chúng ta với Nhật Bản thực tế đã chấm dứt, và từ đây công việc sẽ được chuyển giao vào tay Bộ chỉ huy các lực lượng vũ trang". Yêu sách này của Hull làm cho đàm phán Mỹ-Nhật đổ vỡ do lập trường hai bên quá khác biệt. Ngày 16 tháng 10, Konoye từ chức và bộ trưởng lục quân Hideki Tojo lên thay.

    Mục tiêu của hải quân Nhật là chiếm đóng Indonesia, khu vực nhiều dầu hỏa nhất Đông Nam Á. Nhưng trước khi chiếm Indonesia, Nhật phải chiếm được SingaporePhilippines. Tuy nhận thức được về tiềm lực yếu kém của mình không thể chiến thắng Hoa Kỳ, nhưng người Nhật hi vọng rằng một cuộc chiến lâu dài và nhiều tổn thất sẽ làm suy yếu ý chí chiến đấu của dân Mỹ và sau đó giúp Nhật thỏa thuận một hòa ước. Trong hội nghị ngự tiền ngày 1 tháng 12, Nhật quyết định chính thức tuyên chiến với Hoa Kỳ và ngày khai chiến được ấn định là ngày 8 tháng 12. Trong khi đó, tại Washington D.C, cuộc đàm phán giữa ngoại trưởng Hoa Kỳ Cordell Hull với đại sứ Nhật Nomura vẫn tiếp tục kéo dài, khiến người Mỹ lơ là cảnh giác và không tin rằng Nhật Bản dám tấn công Hoa Kỳ lúc hai bên còn đang trong quá trình đàm phán



    Vấn đề của người Nhật

    Vấn đề đầu tiên mà bạn đọc sẽ đặt ra là vấn đề sau: tại sao, trong mùa đông năm 1941 ấy, lúc chiến tranh đang tàn phá Âu châu, Nhật Bản lại từ bỏ một chủ trương trung lập vốn rất có thể đảm bảo cho xứ ấy một sự hội nhập vĩnh viễn trong mối tương quan hoà nhịp với các đại cường mà không phải đánh chác gì cả? Ta nên nhắc lại cho bạn đọc rõ là Quốc gia này vốn đã hoàn tất một công cuộc canh tân chưa từng có trong lịch sử trong vòng 50 năm, đã cho rằng mình là nạn nhân của một bao vây kinh tế, chính trị và quân sự, một cảm nghĩ bị mặc cảm chủng tộc làm trầm trọng thêm. Nhật Bản đã thử phá vỡ vòng vây ấy bằng một kế hoạch bành trướng tại Mãn Châu và Trung hoa, nhưng sau chiến thắng sáng chói, quân Nhật bị sa lầy năm 1939 tại ngã tư các đường giao thông. Quân đội Nhật đã bị thương vong khoảng 500.000 người và một số vật liệu khổng lồ để chiếm tài nguyên của bốn tỉnh nơi mà cuộc chiến tranh du kích liên tục đã ngăn cảm mọi sự khai thác. Chỉ có các quần đảo Đông Nam Á châu là có thể cung cấp cho Nhật các nguyên liệu cần thiết cho 72 triệu dân Nhật đang bị ngộp thở trên một mảnh đất nghèo nàn và nhỏ thua một phần tư lãnh thổ nước Pháp.

    Vậy thì khối thịnh vượng chung Đại đông Á đặt dưới quyền giám hộ của Nhật, đối với các nhân vật chính trị và quân sự của vương quốc Mikado, có vẻ là con đường chiến thắng duy nhất của các dân tộc Viễn Đông. Khối thịnh vượng chung này đã bắt đầu được hình thành trong thời gian giữa hai cuộc thế chiến bằng các cuộc thương thuyết theo đường lối ngoại giao tại khu vực trung ương Thái Bình Dương. Nhưng nếu việc đặt chân lên các quần đảo hoang vu kết thành chuỗi trên đại dương mênh mông là chuyện dễ dàng, thì sự bành trướng đến các quần đảo lớn về phía Nam đang bị các cường quốc Tây phương kiểm soát chỉ có thể được thực hiện bằng sức mạnh.

    Chính vì nhắm vào viễn ảnh không thể tránh được đó mà Bộ tham mưu Hải quân Nhật đã bí mật phát triển hạm đội vô địch bằng cách cấp cho nó - mà không cần đếm xỉa gì đến các hiệp ước quốc tế về Hải quân - những thiết giáp hạm hùng mạnh nhất thế giới và một hạm đội liên hợp độc nhất vô nhị, chủ yếu là gồm các hàng không tầu sân bay.

    Năm 1939, khi sự thất bại ở Trung Hoa bắt buộc Nhật Bản tính đến chuyện dùng vũ lực đánh chiếm thuộc địa của Đồng minh trong vùng Đông Nam Á. Nhật bèn gia nhập khối Trục, nghĩ rằng trong trường hợp có xung đột tại Âu châu, lực lượng hải quân Pháp-Anh đủ mệt tại Bắc Hải và Địa Trung Hải để dành cho Nhật rảnh tay tại Viễn Đông. Theo dự tính, Nhật chỉ còn phải đối phó với hạm đội Mỹ, chắc chắn là đáng sợ rồi, nhưng lúc đó đang bỏ neo ở xa và có vẻ kém huấn luyện đến nỗi Nhật có thể tính chuyện vô hiệu hoá được.

    Hải quân Nhật được chuẩn bị tỉ mỉ cho viễn ảnh này trong thời gian 2 năm đầu tiên của chiến tranh Âu châu, và trong mùa hè năm 1941, khi cuộc tiến quân sấm sét của Đức tại Liên xô cho phép hy vọng khối Trục chiến thắng trong một thời gian ngắn, thì cơ hội tỏ ra quá hẹp để Nhật Bản thực hiện mộng ước bành trướng của mình.

    Về phía người Mỹ

    Người Mỹ có kiểu sống rất khác với người châu Á, có thể nói là họ không có lịch sử và truyền thống của họ thì còn quá mới mẻ. Họ tiến hoá trong một xứ vô cùng rộng lớn và giàu có hơn xứ sở chúng ta với một dân tộc đông hơn chúng ta gấp năm lần. Tất cả những yếu tố đó đã có ảnh hưởng đến cách hành động và cách suy nghĩ, nhưng dầu sao họ cũng chính là người Tây phương, một thứ hậu duệ của người Âu châu và các phản ứng của họ về căn bản, cũng không khác chúng ta. Họ không ưa chiến tranh và chỉ đánh nhau khi không thể nào làm khác hơn, nhưng dòng máu của các chiến binh hung dữ của cuộc chiến tranh dành độc lập và của cuộc nội chiến chảy trong huyết quản của họ và có thể bị đánh thức mau lẹ. Một khi nhào vào cuộc ẩu đả, họ chơi hết sức mình. Cùng với lòng can đảm tự nhiên còn có thêm sự tức giận vì bị quấy rầy cuộc sống yên vui. Mạnh thế vì quyền chính đáng của mình, lúc ấy họ xông tới như một chiếc xe ủi đất mà không cần quan tâm đến xương máu lẫn sự mệt nhọc.

    Do vậy, chúng ta sẽ không thấy sự khác biệt nơi tầm mức một chiến binh đơn thuần, mà chính là nơi các cấp lãnh đạo. Công luận đóng một vai trò rộng lớn tại Mỹ vì kiến trúc xã hội của xứ ấy. Ở tại mọi cấp bậc của hệ cấp cầm quyền, các lãnh tụ chính trị và cả quân sự cũng vậy đều bị bắt buộc lưu tâm đến công luận, và mối ưu tư bất di dịch này đè rất nặng lên các quyết định của họ. Dân chúng Mỹ vẫn luôn luôn lý tuởng một cách ngây thơ và bằng mọi giá tìm cách hội nhập các lợi ích của mình vào các nguyên tắc luân lý. Chính vì vậy mà kể từ cuộc chiến tranh dành độc lập, một và danh từ như “chủ nghĩa cô lập hoá”, “chủ nghĩa giải thực và nền dân chủ” đã mang một ý nghĩa thần bí thật sự. Hơn thế nữa, dân Mỹ chống chủ nghĩa quân sự hoá từ trong căn bản. Nhất là trong thời kỳ giữa hai cuộc Thế chiến vì nhớ lại kỷ niệm nhọc nhẵn của chiến trường năm 1917 và vì người Âu châu có ý xấu không chịu trả nợ. Tuy thời ấy quân đội Mỹ không làm gì khác hơn là bay qua tiếp cứu sự chiến thắng, nhưng đối với nhân dân Mỹ, kinh nghiệm này cũng đã quá đủ. Toàn dân Mỹ đã thề là sẽ không tái diễn hành động ấy nữa.

    Khi một cuộc chiến tranh mới lại bùng nổ tại Âu châu và các đồng mình cũ đã đến lúc tận số, Mỹ quốc không thể và không muốn tiếp cứu họ chút nào. Các nhà lãnh đạo của châu Âu chắc phải u mê một cách khó tin mới nuôi dưỡng ảo tưởng ấy trong một thời gian. Hơn một năm sau khi nước Pháp sụp đổ, và mặc dầu kỹ nghệ vũ khí Mỹ đã đột khởi một bước tiến khổng lồ, Winston Churchill-tuy bị săn đuổi dữ-cũng không thể nào lôi kéo từ Tổng thống Roosevelt điều gì khác hơn là công thức: “ALL BUT WAR” (tất cả, trừ chiến tranh). Gần như chắc chắn rằng, nếu không có cuộc tấn công của Nhật vào Trân Châu Cảng, nước Mỹ sẽ còn giữ lâu dài công thức này vốn thỏa mãn được đồng thời lý tưởng dân chủ lẫn sự thận trọng phát sinh từ chủ thuyết cô lập hoá. ( thực chất người Mỹ lúc này còn tự ti là mình chưa đủ mạnh để tiến vào châu Âu nên tập trung để chén mấy chú Mỹ La tinh trước)

    Nếu Franklin D.Roosevelt đã có thể chế ngự được nền chính trị của xứ ông trong suốt cuộc chiến tranh ấy là vì ông đã nhân cách hoá mình đúng y như người Mỹ điển hình. Ông để ra một nửa thì giờ để dò dẫm dư luận và mở các cuộc tiếp xúc liên miên tại phòng khách hình bầu dục trứ danh của toà Bạch Ốc mọi khuynh hướng chính trị và từ mọi tầng lớp xã hội

    Một vài quyết định chiến lược không áp đặt trên bình diện quân sự, có lẽ đã được hình thành tiếp theo sau những cuộc tham khảo rộng rãi mà một phần không khác gì các cuộc trưng cầu dân ý. Quyết định quan trọng nhất trong số đó, “Germany First” (Đức quốc trước đã), đã không được hình thành do ảnh hưởng thuyết phục của Winston Churchill. Mặc cho sự lăng-nhục tại Trân Châu Cảng, Mỹ quốc vẫn bị ám ảnh bởi bóng ma của sự tiêu diệt các nền dân chủ Âu châu, một sự tiêu diệt mà hậu quả là đưa kẻ thù Quốc Xã ở phía Đông đến quá gần bờ biển Hiệp chủng quốc hơn là các địch thủ da vàng ở phía tây nhiều. Mỹ quốc hy vọng tránh được một cuộc chiến thắng của Đức bằng cách cung cấp cho Anh quốc và Liên xô bất kỳ bao nhiêu chiến cụ được đòi hỏi, nhưng khi các biến cố đã đẩy Mỹ quốc vào cuộc chiến tranh, xứ này lại bằng lòng ưu tiên khu trừ mối hiểm nguy này trước hết.

    Roosevelt lại càng có nhiều công đức hơn nếu tuân theo áp lực chính trị này, khi mà nhiều người trong số cố vấn quân sự của ông lại có ý kiến trái ngược lại. Đặc biệt là Hải quân, một binh chủng mà sự kiện hạm đội Thái Bình Dương bị tiêu diệt đã làm ô nhục tận cùng tâm hồn, và đòi hỏi tất cả mọi quyền hạn để huy động mọi phương tiện và phục thù sự mạo phạm. Vốn là người từng nắm giữ ghế Bộ trưởng Hải quân rất lâu, Roosevelt yêu thích thuỷ quân và chiến hạm. Tham mưu trưởng nhân viên của ông - Leahy là một đô đốc. Chắc chắn là ông rất khổ tâm nếu biếm trích xuống hàng thứ yếu, công cuộc tái tạo hạm đội này, một hạm đội mà ông yêu mến nhất đời và sự tái lập ưu thế trên Thái Bình Dương cho đến lúc đó vốn là một trong phần chính trong chính sách của ông. Có lẽ chưa bao giờ ông phải lấy một quyết định đau đớn như vậy nếu không phải vì ông thấy nó đáp ứng đúng với ý nguyện sâu xa của đồng bào.

    Bạn đọc có lẽ sẽ phán đoán rằng dưới ánh sáng của các biến cố mà chúng tôi sẽ kể lại, thì quyết định này không hoàn toàn vững chắc hay ít ra nó cũng không chấp nhận một vài biện pháp tạm thời. Chúng ta hãy nhắc lại rằng vạch các lỗi lầm của một người đánh bài khi ta đứng ngoài nhìn vào thì bao giờ cũng là việc dễ dàng cả. Chúng ta đành nói rằng, dù tốt hay xấu, giải pháp “Germany First” đã tạo ra một sự vận hành đứt đoạn cho công cuộc điều khiển các cuộc hành quân trên Thái Bình Dương. Chúng ta sẽ cố gắng lưu tâm đến những biến cố phức tạp để giải thích những sự do dự và chậm trễ đánh dấu diễn tiến của cuộc chiến.

    Trong cuộc tiến quân của Nhật tháng 12 năm 1941, Hải quân Mỹ đã chịu những thất bại não lòng. Tại Trân Châu Cảng, hạm đội Thái Bình Dương của Đô Đốc Kimmel đã mất gần như toàn diện các thiết giáp hạm của mình. Tại Phi Luật Tân, hạm đội Á chấu của Đô Đốc Hart đã phải chạy trốn mãi tận Úc châu. “Chỉ có đạo quân của Tướng Douglas Mac-Arthur gồm có 80.000 binh sĩ Phi Luật Tân và 28.000 quân Mỹ là còn cố chống cự lại quân xâm-lược bằng cách rút lui về bán đảo Bataan, phía bắc Vịnh Manile. Viên tướng này vẫn ở lại để chỉ huy binh sĩ vừa kêu ca om sòm-giống y như Paul Reynaud năm 1940-xin quân tăng viện mà Tổng thống Mỹ không có phương tiện lẫn không muốn gửi cho ông. Mac Arthur lại càng tức tối hơn vì sự bỏ rơi này khi ông là Tổng tư lệnh của quân đội xứ Liên hiệp Phi Luật Tân từ nhiều năm qua và khi mà sự tái hội nhập vào quân đội Mỹ của ông chỉ mới được có vài tháng. Từ sự kiện này, ông được quyền tự trị rộng rãi và đã không quên sử dụng quyền hạn ấy. Điên tiết vì sự từ chối các yêu cầu giúp đỡ của ông, ông bèn trở nên liều lĩnh đến mức khuyến khích Tổng thống Quenzon, người lãnh đạo chính quyền Phi Luật Tân, doạ Roosevelt là sẽ thương thuyết với người Nhật vốn sẵn sàng dâng hiến cho ông ta “sự tôn trọng nền trung lập của xứ sở ông”. Chắc Roosevelt không bao giờ tha thứ cho ông (Mac Arthur) hành động điên rồ này và sự bất hoà này giữa hai người đã gây ra biết bao là hậu quả đáng buồn.

    Chiến trường Thái Bình Dương chủ yếu là của Hải quân, chính Hải quân Mỹ phải chịu trách nhiệm chống trả hải quân Nhật và đảm bảo các điểm tựa cần thiết để chiến đấu với hạm đội địch một cách hữu hiệu. Các Tư lệnh Hải quân rất khó mà chịu đựng nổi một quyền lực từ bên ngoài lại cứ xía vào các kế hoạch hành quân của mình.

    Sau này ta sẽ thấy sự xung đột quyền lực này lại có mức độ tệ hại như thế nào. Chỉ cần nói rằng trong lịch sử, ít khi người ta thấy những ý chí cá nhân của một viên tướng lại đóng một vai trò quan trọng như thế nào trong diễn tiến của các cuộc hành quân.

    Bằng vào tinh thần tôn trọng kỷ luật một cách vô điều kiện của người Nhật, chắc chắn người ta sẽ rất ngạc nhiên khi biết rằng những mối bất hoà tương tự cũng đã xảy ra trong guồng máy chiến tranh đáng sợ của họ mặc dầu guồng máy ấy đã được cho chạy thử kỹ càng. Tất nhiên là các mối bất hoà ấy được thể hiện một cách bí mật hơn, nhưng chúng đã tồn tại trong suốt thời gian cuộc chiến.

    Mối tương đồng này có lẽ đã phát sinh từ sự tương tự của các khu vực địa lý do các phe đối nghịch chiếm đóng, sự tương tự dẫn đến cách phân địch khu vực gần như đối xứng với nhau. Cùng nguyên nhân tất sinh cùng hậu quả. Lục quân Nhật kiểm soát các đảo lớn vùng tây nam Thái Bình Dương nhờ quân số lớn lao của lực lượng chiếm đóng, hải quân thì phụ trách tất thảy các quần đảo nhỏ phía đông và đông nam. Không có một Bộ Tư lệnh duy nhất và sự phối hợp được thực hiện ở cấp bậc Tổng hành Dinh Hoàng gia.

    Dưới sự lãnh đạo theo danh nghĩa của Thiên Hoàng, Tổng hành Dinh này là cơ cấu chủ yếu cả Bộ Tổng tư lệnh tối cao của lục quân. Các Tổng trưởng Chiến tranh và Bộ trưởng Hải quân được tham dự vào cơ cấu này cũng như các tham mưu trưởng thuộc các bộ Tổng tham mưu binh chủng. Các cơ quan tối yếu cũng có đại diện trong đó. Vậy thì kiến trúc có tính cách quân bình. Các cuộc thảo luận xảy ra giữa binh chủng được thể hiện hoàn toàn bình đẳng và nếu có tranh chấp xảy ra, Thiên Hoàng và các cố vấn của ông có mặt tại chỗ để giải quyết.

    Rủi thay, các biến cố chính trị, ngay từ trước khi chiến tranh với Mỹ bùng nổ, đã đưa chính quyền Nhật bản vào tay một nhóm tướng lĩnh hiếu chiến. Tướng Tojo, người mặc dầu đã trở thành Thủ-tướng nhưng vẫn kiêm giữ chức Tổng trưởng Chiến tranh và Nội vụ. Cùng lúc ông là người lãnh đạo quân đội và thêm vào đó, lãnh đạo chính phủ. Do đó ông có uy quyền tuyệt đối trên các thành phần cấu tạo Tổng hành Dinh. Và vì ông quyết tâm nắm quyền chỉ huy Quân đội, Quân đội vào thời đó đã hòa nhập vào đời sống của xứ sở này đến mức trở thành một chính đảng mạnh nhất, cho nên ông bắt buộc phải hy sinh tất cả cho Quân đội. Hải quân đã lên án ông “đưa xứ sở vào chỗ bị sa lầy trong vụ Trung Hoa” và hiểu biết một cách sai lầm về “ năng lực của hải quân và không quân trong cuộc chiến tranh chống lại nước Mỹ”. Những sự bất đồng quan điểm này tồn tại trong tất cả các bộ thuộc chính phủ. Về phía Hải quân, các viên Đô đốc thường lên án vị Bộ trưởng của mình đã không chịu đương đầu với Tojo khi ông ta cắt xén ngân sách của Hải quân và từ chối không cấp nhiên liệu cho Hải quân.

    Bên cạnh các lời than phiền của Hải quân, còn có thêm lời than phiền của Không quân với cũng như tại Hoa Kỳ, chưa được tự trị và luôn luôn là lực lượng bị bạc đãi nhất.
  3. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    ( tóm tắt về cuộc chiến Thái Bình Dương tiếp theo)

    Tuy nhiên tại Nhật, ngay từ trước chiến tranh, nhân cách sung mãn hiếu chiến nổi bật của Tướng Tojo đã được cân bằng bởi nhân cách kín đáo hơn, nhưng chói sáng hơn nhiều của Đô đốc Isoroku Yamamoto, Tổng tư lệnh Hạm đội liên hợp (Danh hiệu này có từ năm 1904 trong trận chiến chống Nga và có nghĩa là vị Tư lệnh hạm đội cũng có thẩm quyền đối với lính thủy đánh bộ và không quân cần thiết cho cuộc hành quân). Kể từ thời cuộc chiến tranh Nga-Nhật, thời mà vị tiền bối xa xưa của ông, Đô đốc Togo (Đông Điều), tạo được những chiến công vang dội, chức vụ Tư lệnh Hạm đội Nhật Bản luôn luôn được giao cho một nhân vật hàng đầu, vượt hẳn ra khỏi binh chủng Hải quân. Năm 1938, Thiên Hoàng chọn lựa Đô đốc Isoroku Yamamoto, một nhân vật mà trí nhớ kỳ dị và trí thông minh bén nhọn của ông ta được hậu thuẫn bởi một cá tính sống động một cách đặc biệt.

    Tính cách này của ông đã đã tạo ra nhiều thành quả vang dội, tiếng tăm của ông trong dân chúng đã cho phép ông đương đầu với Tojo. Ông là bậc thầy thật sự về chiến lược Hải quân Nhật trong năm đầu tiên của cuộc chiến và cái chết của ông vào tháng 4 năm 1943 đã ảnh hưởng trầm trọng đến sự các biến cố tiếp theo.

    Nếu ông còn sống lâu hơn, tất nhiên Nhật Bản cũng không thể chiến thắng, nhưng có thể nỗi thống khổ ê chề sẽ được thu ngắn nhiều hơn. Tất cả mọi kế hoạch tấn công của Yamamoto đều căn cứ trên định đề một chiến thắng chớp nhoáng. Ông biết rằng tài nguyên kỹ nghệ yếu kém không cho phép Nhật Bản theo đuổi một cuộc chiến tranh lâu dài. Khi các chiến thắng của Đồng minh tại Âu châu đã triệt tiêu một viễn ảnh hoà bình sắp đến, ông đã dùng ảnh hưởng của mình để bắt Tổng hành Dinh Hoàng gia chấp nhận sự cần thiết để tính đến một giải pháp điều đình. Tojo đã vùng lên chống đối lại ý tưởng này đến cùng và cái chết của đô đốc đã chấm dứt mọi cuộc tranh luận. Không một người nào kế vị ông có đủ sức mạnh, cá tính và uy tín cần thiết để cân bằng được với ưu thế hoàn toàn của Thủ-tướng và chiến tranh vẫn tiếp diễn một cách khốc liệt mà không có lấy một cơ may thành công nào cả. Sự phát triển kinh khủng của công cuộc sản xuất vũ khí của Hoa Kỳ quả thật đã phá vỡ thế quân bình tạm bợ trên Thái Bình Dương, và một thời gian ngắn đột ngột đủ làm lệch cán cân có lợi về phía Mỹ. Tình trạng căng thẳng giữa các lực lượng đối nghịch làm cho diễn tiến cuộc chiến ngày càng mau lẹ và rõ ràng là hồi chung cục của cuộc chiến không còn bao xa nữa. Tuy nhiên nếu nó còn trì hoãn thêm được một năm nữa bởi vì quân đội và nhân dân Nhật Bản đã chứng tỏ một khả năng đề kháng tập thể vô tiền khoáng hậu trong lịch sử. Nhưng chúng ta khoan nói trước. Câu chuyện về các hành động dũng cảm này sẽ được kể ở phần tiếp theo. Trước khi phân tích các yếu tố tâm lý khiến cho cuộc đề kháng dũng cảm ấy được thực hiện, tôi sẽ đề cập đến các dữ kiện trọng yếu của các biến cố để làm bạn đọc hiểu rõ.

    Nếu cách sống và cách suy nghĩ đã làm cho người Nhật và người Mỹ khác nhau một trời một vực, thì xứ sở của họ lại cách nhau bởi một đại dương rộng lớn nhất hoàn cầu: 9.000 cây số trên một mặt biển tuyệt đối trống trải giữa Tokyo và San Francisco, hơn 6.000 cây số giữa Oahu, đảo căn cứ xa nhất của Hải quân Mỹ, và Nội hải, nơi tập tập trung các căn cứ hải quân chính yếu của Nhật. Trước chiến tranh, người Mỹ nắm quyền sở hữu các đảo Wake và Guam và chiếm đóng trong thực tế quần đảo Phi Luật Tân trên Thái Bình Dương, nhưng vì các điểm tựa ấy được phòng thủ rất kém cỏi cho nên chúng bị quét sạch ngay từ khi cuộc chiến mở màn như rơm rác trong cơn bão tố. “Thế giới thịnh vượng chung Đại Đông Á ” đã được thiết lập vững chắc từ đầu năm 1942, đảm bảo cho Nhật Bản quyền kiểm soát một vùng mênh mông, rải rác vô số đảo nhỏ, với một bán kính trung bình 5.000 cây số chung quanh Tokyo.

    Để mọi người có một ý niệm về sự táo bạo của kế hoạch chinh phục của Nhật và đồng thời điều kiện thực hiện mang tính chất bó buộc đến từng giây phút, chúng ta cần chú ý rằng các hàng không tầu sân bay tham dự trận tấn công Trân Châu Cảng phải mất đi 11 ngày mới đến chiến trường, phải mất 8 ngày để lực lượng chính yếu của hạm đội lúc ấy đang còn ở Nhật chờ kết quả cuộc oanh tạc, để tập trung đến căn cứ tiền phương ở Palau (quần đảo Carolines) và 10 ngày khác để đến Java và tiêu diệt một số chiến hạm của Đồng minh đang tập họp tại đó.

    Một khi “chu vi” của khối thịnh vượng chung Đại Đông Á được đảm bảo, công việc tiếp tế bằng tàu chở hàng cho các đạo binh Nhật đồn trú trên các đảo xa nhất (Mã Lai, Sumatra, Java, quần đảo Bismarck) đòi hỏi tối thiểu mười hai ngày hành quân.

    Tình trạng của các chiến hạm Mỹ được giao nhận sứ mạng ngăn chặn các mũi tiến quân của Nhật Bản lại càng khẩn trương hơn. Khi mối đe doạ nhắm vào Nam Dương đã được xác định, người Mỹ hấp tấp gửi đến Java chiếc tầu sân bay cũ kỹ Langley chở các phi cơ P-38 để tăng cường bảo vệ cho không phận của hòn đảo này. Chiếc tầu sân bay khốn khổ này phải mất đúng bốn mươi ngày để băng qua đại dương: nó bị phi cơ trên các tầu sân bay Nhật đánh chìm trước khi đến đích. Khi đạt được tất cả các mục tiêu, người Nhật dừng lại để củng cố vòng đai chu vi, người Mỹ phải tiếp tế cho những gì còn lại của các lực lượng Không - Hải - Lục quân và tìm cách rút họ về Úc và Tân Calédonie. Một tàu hàng phải mất 23 ngày để đi từ San Francisco đến Sydney. Các chuyến tiếp tế đi và về cộng với thời gian ghé vào những hải cảng nơi bị thiếu thốn những thiết bị bốc giỡ, đòi hỏi hơn hai tháng trời. Riêng đối với một vài chiến hạm cao tốc còn lại trong tay người Mỹ (như tầu sân bay và tuần dương hạm) thì chúng phải mất 5 ngày mới đi được từ Trân Châu Cảng đến Nouméa.

    Mặc dầu các con số trên đây rất khô khan nhưng rất cần ghi vào trí nhớ. Chúng giúp ta hiểu một vài ý nghĩa của việc điều khiển các cuộc hành quân và sự khó khăn - nếu không phải là vô phương - trong việc thay đổi kế hoạch chiến đấu một khi chúng đã được khởi động rồi.

    Vì các khoảng cách vĩ đại đó, vấn đề bảo trì chiến hạm và sửa chữa các chiếc bị hư trong trận đánh đã đặt ra cho hai bên tham chiến một mối quan tâm trầm trọng. Trước chiến tranh rất lâu, người Nhật đã tổ chức các căn cứ sửa chữa lưu động trên các đảo làm điểm tựa. Họ đã chú tâm thiết lập phía Tây và phía Đông quần đảo Carolines các căn cứ Palau và Truck. Phần người Mỹ thì chẳng có gì cả. Sự tổ chức các căn cứ bất chợt chung quanh 40.000 hải lý của vòng đai chu vi phòng thủ Nhật Bản, đối với họ là cả một công việc nặng nhọc. Đô đốc King, Tư lệnh các cuộc hành quân biển đã viết trong một phúc trình: ”Trong tất cả các yếu tố của sức mạnh quân sự, chính sự thiếu hụt căn cứ là yếu điểm lớn nhất của Hoa Kỳ. Chiến tranh trên Thái Bình Dương là một trận đánh dành căn cứ”. Ông ta nói thêm rằng đó cũng là một trận đánh dành phi trường, bởi vì các đảo nhỏ trong Thái Bình Dương, các “ tầu sân bay không bao giờ bị đánh chìm” ấy đã giữ một vai trò ngang với, nếu không nói là hơn, vai trò của các hạm đội chiến đấu.

    Vấn đề căn cứ xuất phát của Không quân trên bộ, ngay từ đầu đã được đặt ra một cách cấp bách vì khoảng cách và tầm hoạt động của nó. Các trận chiến đấu đầu tiên tại quần đảo Salomon đã được tung ra và theo đuổi với tất cả khốc liệt là để chiếm hữu các phi đạo sơ sài được đôi bên tham chiến sửa soạn hấp tấp. Tình trạng cũng tương tự như thế trong suốt cuộc chiến và vài cuộc hành quân đổ bộ cực kỳ đắt giá về người cũng như vật liệu như tại quần đảo Marianne năm 1944 cũng không nhằm mục tiêu nào khác hơn là cung ứng các căn cứ xuất phát cho những siêu pháo đài bay của Mỹ. Cuộc chinh phục đẫm máu đảo Iwo Jima bị bắt buộc bởi sự cần thiết phải thay phiên các khu trục cơ hộ tống vốn không đủ sức chu toàn sứ mạng từ đầu đến cuối. Các oanh tạc cơ B-29 Enola-Gay cất cánh từ Tinian (quần đảo Mariannes) để ném bom nguyên tử xuống Hiroshima đã được hộ tống trên chặng đường thứ hai bởi các khu trục cơ cất cánh từ Iwo Jima.

    Sự phân cách ngay từ đầu giữa các căn cứ và các phi trường đã gây trở ngại lớn cho hạm đội Mỹ, nhưng loại chiến cụ bị gây khó nhiều nhất là hạm đội tàu ngầm. Trong các cuộc đổ bộ lên Phi Luật Tân, Mã Lai và thuộc địa Hà Lan tại Ấn, hạm đội xâm lược Nhật phô bày cho các tàu ngầm Mỹ những tấm bia cực kỳ dày đặc và dễ dàng. Thế nhưng, mặc dầu tiếp theo sau một phản ứng tuyệt đối bất ngờ, Tổng thống Roosevelt đã cho phép “một cuộc chiến tranh tàu ngầm không hạn chế” (điều mà cả Hitler cũng chưa dám làm), hạm đội tàu ngầm Hoa Kỳ cũng chỉ đánh chìm được chừng 10 dương vận hạm địch. Con số không đáng kể này bên cạnh thành tích của tàu ngầm Đức đã chứng tỏ tỏ “có cái gì không nổn nơi các quả thuỷ lôi”. Sự xa cách với căn cứ mẹ tại Mare Island trong vịnh San Francisco đã ngăn cản việc sửa chữa “cái gì” đó. Các phúc trình của những hạm trưởng tàu ngầm chỉ nhận được các câu trả lời diên kỳ. Các nhân viên đã đổ lỗi cho những người sử dụng tàu ngầm và ngược lại. Nhiều sự bổ khuyết lẽ ra chỉ cần vài tuần lễ là xong lại phải mất hàng năm mới thực hiện nổi. Hậu quả của tình trạng rắc rối tơ vò này là Bộ Tư lệnh Tối cao Mỹ-vốn đang có những bận tâm khác trong đầu-rốt cuộc tin tưởng và không ra sức khẩn nài tổ chức một cuộc hành quân ăn khớp dưới mặt biển để chống lại một địch thủ ở trên các đảo mà tất cả hệ thống thần kinh cũng như bộ máy tuần hoàn vẫn lệ thuộc vào biển cả.

    Cũng có thể là bộ tư lệnh đã không muốn việc đó. Đã khuất phục Nhật Bản bằng cách dùng tàu ngầm phong toả bờ biển, Bộ Tư lệnh phải biết làm phép tính lạnh lùng của người chỉ huy hạm đội tàu ngầm U-Boote của Đức Quốc, chấp nhận mất 20 tàu ngầm mỗi tháng nếu các công xưởng cung cấp được cho ông ta 30 chiếc. Một phép tính như thế rõ là không thể nào thích nghi được với tâm trạng của vị Đô Dốc thuộc Hạm đội Thái Bình Dương.

    Tại Nhật, trái lại, nó không nêu lên một sự chống đối nào. Các tàu ngầm bỏ túi, do lời thỉnh nguyện khẩn bách của các hải đoàn đã được phái đi tấn công Trân Châu Cảng mà không có một hy vọng gì trở về, là một bằng chứng. Ta có thể trích dẫn nhiều ví dụ tương tự khác. Nếu các Đô Đốc Nhật tin tưởng có thể mang chiến thắng tức thời về bằng cách hy sinh các đoàn thuỷ thủ như vậy thì họ làm ngay, không do dự. Một sự hy sinh như vậy rất phù hợp với luật Bushido, bộ luật danh dự quân đội của Nhật vốn qui định rằng chết cho Thiên Hoàng là một “nghĩa vụ vinh quang và dễ dàng”. Nếu họ không làm, chỉ vì chiến tranh tàu ngầm không tương hợp với định đề một chiến thắng chớp nhoáng. Đừng nên quên rằng đó cũng là một giáo điều căn bản, song song với giáo điều về sức mạnh vô địch của Nhật Bản. Sự kiện nó có thể điều khiển chiều hướng các cuộc hành quân theo điểm này và tồn tại cho đến phút chót ngày nay vẫn còn là một bí mật đối với tinh thần tây phương chúng ta.

    Nếu muốn hiểu nguyên nhân sâu xa các hiện tượng đánh dấu phong thái của người Nhật trong suốt quá trình chiến đấu vĩ đại của họ, chúng ta phải cố gắng xuyên nhập vào tánh khí của họ, hay hơn nữa, và sự bí mật tâm hồn của họ. Một nhiệm vụ khó khăn vì thiếu dữ kiện, bởi vì họ rất ít bộc lộ và cả những người Âu hoá nhiều nhấy trong số đó cũng dành cho người tây phương chúng ta một sự e dè khinh miệt. Chúng tôi không giấu giếm những thiếu sót trầm trọng liên hệ đến bức chân dung mà chúng tôi sắp vẽ nhưng thà nói lên đôi chút những điều mình biết còn hơn là chẳng nói gì. Sự yếu kém của kết quả gặt hái được ít ra cũng cho ta một ý niệm về tầm rộng lớn của sự dốt nát của chúng.

    Người Nhật là một mẫu người nhỏ bé bình tĩnh và đầy suy tư, có một truyền thống giữ lễ độ mà sự tinh tế giống như của chúng ta, và lời nói cũng như văn viết đều chìm ngập trong một niềm xúc động nên thơ liên tục. Họ có ý thức là được ở trên một xứ sở đẹp nhấy hoàn vũ và đã thiết lập trên đó một trật tự xã hội hoà điệu nhất. Phong cảnh bao quanh mái nhà, mảnh vườn, hoa cỏ, tập quán cả họ khiến cho đời sống gia đình trở nên như ở thiên đàng mà họ không ngừng dùng công việc và tài năng khéo léo để to đắp thêm mãi. Đối với mảnh đất nơi sinh ra đời, đặt dưới sự che chở thần thánh của Thiên Hoàng, Tổng tư lệnh quân đội, họ có một niềm say mê phấn khích đến mức độ thần thánh hoá. Không bao giờ họ quan niệm được rằng người ta lại có thể dám tranh luận điều đó với họ. Họ càng không quan niệm được rằng có một dân tộc nào đó lại có thể toan tính chống đối sự bành trướng lãnh thổ tối cần thiết cho dân tộc tăng gia không ngừng của họ. Họ đau khổ vì cảm nghĩ bị giam cầm vĩnh viễn trên mấy hòn đảo chật hẹp, và họ không chấp nhận rằng các nông dân, anh em của họ, những người có sức chịu đựng dẻo dai và đức tính bình dị điển hình lại bị mai một đi vì những nỗ lực vô vọng. Những cảm nghĩ nổi loạn đột ngột khi tình thế ấy trầm trọng thêm, lại càng dữ dội hơn, khi mà bộ luật tinh tế về sự lễ độ đã cấm họ bộc lộ ra bên ngoài. Hiếm khi họ nói lên điều đó với các chính khách hay chính phủ của họ, mà thường với người ngoại quốc hay đúng hơn những người da trắng mà họ cảm thấy đầy ích kỷ, ngu dốt và cố chấp. Niềm say mê của họ dành cho Tổ quốc đã lên đến cực điểm, khi họ xét thấy nó bị áp bức, đến nỗi sự tinh tế đầy tính chất nghệ thuật, và sự tử tế gần như của trẻ thơ vốn chi phối phong thái của họ đột nhiên tiêu tán để nhường chỗ cho một sự giận dữ và tàn bạo đến phi nhân. Đấy là một thứ hiện tượng thăng hoa (khoảng cách không tiếp chuyển giữa hai cực đoan) rất lạ lùng bối rối đối với người Tây phương.

    Một khi bị niềm tức giận thiêng liêng khích động, người Nhật càng trở thành một chiến binh dễ sợ hơn khi chiếm được một chỗ được chỉ định từ lúc còn bé trong tổ chức Quân đội Hoàng gia tuyệt vời, thừa kế các truyền thống cổ xưa, và một chỗ được dành riêng cho mình trong cõi vô mình, bên cạnh tiền nhân và các đấng anh hùng bảo vệ Tổ quốc. Vậy thì người Nhật là một hạng người sinh ra đã là lính rồi, và vẫn còn là lính ngay cả khi qua bên kia thế giới. Họ sẵn sàng hy sinh cho Thiên Hoàng, biểu tượng thần thánh của dân tộc, bất kỳ trong trường hợp nào và không hề có một chút do dự nào cả.

    Sự đồng nhất hoá có tính cách bí ẩn giữa tổ quốc và cá nhân Hoàng đế có vẻ quá xưa cũ đối với tâm trí người tây phương vốn khó mà tưởng tượng được rằng nó lại có thể tồn tại trong một dân tộc tiến hoá đến như vậy về mặt trí thức. Tuy vậy nó đã bén rễ sâu xa trong lòng người Nhật thuộc tất cả mọi giai tầng xã hội. Để có một ý tưởng về vấn đề này chúng ta hãy trích dẫn trước câu chuyện sau đây, chuyện xảy ra sau cuộc không tập trứ danh xuống Tokyo của Tướng Mỹ, Doolittle. Trong cuộc oanh tạc ngoạn mục nhưng chẳng có lợi ích quân sự nào nơi đây, một quả bom đã rơi trúng khu vườn thuộc Hoàng cung mà không nổ. Vị tướng lãnh Nhật chỉ huy hệ thống phòng không lập tức xin Tổng hành dinh cho phép tự mổ bụng, vì không thể chịu đựng nổi sự hổ thẹn đã để xảy ra một sự xúc phạm như thế vào sự tôn quí của Hoàng gia. Ông đã không được phép vì người ta e rằng một hành động như thế có thể kéo theo một sự bắt chước đồng loạt… Vị tướng này kiên nhẫn chờ cho đến lúc chiến tranh kết thúc mới mang dự định của mình ra thực hiện.

    Đối với người phương Tây, ý định tự sát này có vẻ lố-bịch, nhất là khi do một lỗi lầm tưởng tượng và do sự sám hối tưởng tượng, thì đối với một sĩ quan Nhật lại là một viễn tưởng tuyệt đối bình thường. Bộ luật danh dự quân đội, luật Bashido trứ danh, vẫn luôn luôn lấy đó làm trọng. Đây là sự trừng phạt một vài sự kiện một vài lỗi lầm, hay sự tham dự dầu cho không cố ý vào các biến cố xâu xa. Trong những điều kiện đó, tự nhiên người chiến binh Nhật chấp nhận không than vãn những sứ mệnh tự sát và tự nhiên là Bộ Tư lệnh tối cao đã nghĩ đến việc tổng quát hoá sự sử dụng khi cảm thấy cần thiết.

    Một tổ chức quân sự căn cứ trên những hiệu lệnh quyết liệt như thế, bắt buộc phải có tính cách cứng rắn. Quân đội Nhật được tổ chức thuần nhất. Trong đó sáng kiến gần như không được biết tới ngoại trừ ở cấp bậc tối cao. Các mệnh lệnh ban đầu luôn luôn được thiết lập trước từ lâu và ấn định các sứ mạng trong từng chi tiết nhỏ. Vả lại ngôn ngữ phức tạp và không chính xác của Nhật không sẵn sàng để giúp thay đổi mệnh lệnh lúc chúng đang được thi hành. Trong các câu chuyện sắp được thuật lại sau đây, ta sẽ thấy Bộ Tư lệnh Nhật vẫn khăng khăng cứng đầu trong những cuộc hành quân vô vọng, lý do là vì họ không thể nào hướng thuộc hạ các cấp theo một đường lối khác. Một vài sự thất bại mà chúng ta hay có khuynh hướng quy trách nhiệm cho những lầm lỗi chiến thuật, thật ra là hậu quả của sự bất lực căn bản này. Một Tư lệnh Hạm đội hay Tư lệnh Không đoàn chỉ thấy mình ở trong vị thế của một tài công đầu máy xe lửa trông thấy dấu hiệu và nghe tiếng pháo báo động nhưng không còn có phương tiện nào nữa để đảo ngược hơi nước được nữa.

    Đổi lại, so với tất thảy mọi quân đội khác trên thế giới, quân đội Nhật Bản có một ưu thế không thể chối cãi được: giá trị tinh thần của người chiến binh. Thái độ tàn khốc của người binh sĩ Nhật trên chiến trường thật khác xa với thái độ của binh sĩ thuộc các dân tộc khác. Sự tận tuỵ, tinh thần tôn trọng kỷ luật, sự bình dị, sự chấp nhận vô điều kiện mọi thử thách khổ nhọc nhất về phương diện thể chất của anh ta, cũng khác biệt như vậy. Với một chén cơm, một ít rượu Sake và một phần nước uống không đáng kể, anh ta có thể sống và chiến đấu trong nhiều ngày không nghỉ ngơi và gần như không ngủ. Anh ta đề kháng một cách đáng ngưỡng mộ với thời tiết khắt khe dù cho đó là cái lạnh hay sức nóng kinh hồn. Anh ta chiến đấu xuất chúng trong rừng rậm, di chuyển như con mèo trong rừng cây dày đặc nhất mà không gây một tiếng động nhỏ và có khả năng ngồi chồm hỗm trong thế bất động tuyệt đối hàng giờ để rồi đột ngột xuất hiện như ma quỷ khi thời cơ thuận lợi. Tính lãnh đạm di truyền được triển khai rất mạnh mẽ do một công cuộc huấn luyện liên tục giúp anh ta không bao giờ chùn tay phạm vào điều mà ta gọi là sự tàn ác.


    Cuối cùng thì người Nhật bản vẫn thua trận, nhưng cái thua trận của người Nhật làm cho ta phải xuy nghĩ nhiều điều. Một đất nước Nhật bản nhỏ bé nghèo tài nguyên thiên nhiên mà dám đương đầu và đánh bại hàng loạt Đế quốc già giơ như Anh, Pháp, Hà Lan … về Hải quân họ chỉ chịu thua Hoa kỳ sau khi đã dạy cho tên Đế quốc này những bài học nhớ đời, về lục quân thì họ chỉ chịu thua lực lượng Lục quân vô địch thiên hạ của nước Nga Xô Viết mà thôi. Có thể nói rằng tuy Việt Nam ta đứng về phía Đồng minh để chống quân phiệt Nhật, nhưng nếu không có sự kiện người Nhật tràn vào Đông dương đánh bại và đè bẹp người Pháp, thậm chí mang người Pháp ra bỏ tù và làm nhục … rồi chính họ lại ngã gục trước lực lượng Đồng minh thì liệu chúng ta có được những cơ hội và khoảng chống quyền lực để phất cờ khởi nghĩa giành chính quyền vào ngày 19 tháng 8 năm 1945 không?


    [​IMG]
    Ảnh lính Nhật hành hình tù binh Đồng minh trước công chúng, ngoài việc thể hiện sự tàn bạo việc hành hình này còn cho thấy người châu Âu không còn là vô địch thiên hạ như nhiều người Á châu lúc đó vẫn nghĩ vậy
    -----------------------------Tự động gộp Reply ---------------------------

    Một số trận Hải chiến tiêu biểu trên chiến trường Thái Bình Dương năm 1941 -> 45


    Trận đánh mở màn - Trận đột kích Trân Châu Cảng


    Nếu bàn về trận Trân Châu Cảng mà đầu tiên không nói về người kiến trúc sư trưởng của trận đánh này, cũng còn là người anh cả của Hải quân Đế quốc Nhật bản - Đô đốc Yamamoto thì quả là có những thiếu sót lớn. Em xin giới thiệu đôi nét về Đô đốc Yamamoto, vị đô đốc lừng danh nhất của nước Nhật ở chiến tranh thế giới thứ II



    Yamamoto - Ðại Ðô Ðốc Thái Bình Dương

    Yamamoto Isoroku (kanji: 山本五十六, Hán Việt: Sơn Bản Ngũ Thập Lục; 4 tháng 4 năm 1884 - 18 tháng 4 năm 1943) là một đô đốc tài ba của Hải quân Đế quốc Nhật Bản trong Đệ nhị Thế chiến. Người ta nhớ nhiều tới ông vì thành tích tấn công hạm đội Hoa Kỳ ở Trân Châu Cảng. Ông được sách Thập Đại Tùng Thư - 10 Đại Tướng Soái Thế Giới coi là một trong 10 viên tướng xuất sắc nhất trong lịch sử quân sự thế giới. Ông cũng cùng với Đô đốc Togo Heihachiro, người đập tan hạm đội Nga ở trận Hải chiến Tsushima năm 1905 được hưởng vinh dự làm lễ quốc tang khi qua đời.



    [​IMG]
    Ảnh đại đô đốc Yamamoto của Nhật bản



    Thân thế và sự nghiệp


    Tên thật của ông là Takano Isoroku (高野五十六, Cao Dã Ngũ Thập Lục), quê ở Nagaoka, Niigata; ông là con trai thứ 6 của Takano Sadayoshi (高野貞吉, Cao Dã Trinh Cát) - một samurai cấp thấp đồng thời giữ chức giáo học cho phiên chủ (daimyō) phiên Nagaoka (Trường Cương). Lúc đầu, chỉ được hưởng bổng lộc 30 thạch, về sau lớp cha ông có người tinh thông nho học, cổ học, binh học nên được phiên chủ trọng thị và cho giữ chức Gia Lão, cai quản các sự vụ trong gia đình võ sĩ và hưởng bổng lộc 160 thạch. Do Takano Sadayoshi sinh ông lúc 56 tuổi nên ông được gọi là Isoroku (Ngũ Thập Lục). Ông tham gia hải quân từ năm 1901 cho tới khi ông qua đời năm 1943.

    Lớn lên, ông theo học tại trường Trung học Nagaoka và tỏ ra có năng khiếu về các môn thể thao và quân sự. Ông cũng theo học Anh văn với 1 phái bộ truyền giáo Hoa Kỳ và ngoài ra, cha ông cũng đã dạy cho ông Hán văn và làm thơ.

    Isokoru ngay từ nhỏ đã được gia đình giáo dục rất nghiêm khắc, thấm nhuần tinh thần võ sĩ đạo truyền thống của Nhật Bản. Hơn nữa, gia đình Cao Dã dù là võ sĩ nhưng cũng không giàu có gì, chính cuộc sống thanh bạch đó đã trui rèn Isokoru thành một con người cứng rắn, có chí tiến thủ. Và khi ông tham gia các khóa huấn luyện quân sự ngay từ cấp tiểu học, thì "nọc độc của chủ nghĩa quân quốc Nhật Bản đã ngấm vào tận xương tủy của Yamamoto". Năm 1901 sau khi tốt nghiệp bậc trung học, Isokoru với thành tích hạng hai đã thi đậu vào trường sĩ quan đảo Giang Điền, nơi đào tạo các sĩ quan hải quân của Nhật Bản.

    Khi trưởng thành, Yamamoto thi đậu hạng nhì trong số 300 học sinh và được vào học tại Trường Hải quân nhật tại Etajima. Sau khi tốt nghiệp, ông được điều động phục vụ trên thiết giáp hạm Nisshin và có vinh dự được tham gia trận Tsushima năm 1905, nơi mà Hải quân Nhật đã nhấn chìm toàn bộ hạm đội của Nga và kết thúc chiến tranh Nga-Nhật. Trận này ông bị trọng thương, bàn tay trái cụt mất 2 ngón và đôi chân bị hơn mười vết thương, do đó ông được tặng kỉ niệm chương vinh dự của quân nhân. Mẹ ông trước sự kiện này hết sức xúc động, đã viết hai câu thơ: "Vì nước vì vua toàn tâm quyết, tỏa hương bát ngát võ sĩ hoa.". Một điều thú vị là bàn tay trái mất hai ngón lại là một biểu tượng nổi tiếng của Isokoru. Các ca kỹ khi làm móng tay cho khách trong ca lâu thường lấy tiền công một đồng, nhưng họ lại ưu đãi chỉ lấy tám cắc của Isokoru vì hai tay ông chỉ có tám ngón. Ông mang biệt danh "anh chàng tám cắc" từ đó.

    Năm 1916 ông trở về nhà. Năm 1924, ông vào đại học Hải quân. Đồng thời, dòng họ Yamamoto (Sơn Bản) danh tiếng ở phiên Nagaoka do không có con thừa kế nên nhận Isokoru làm con nuôi (1926), vì vậy ông đổi tên là Yamamoto Isoroku (Sơn Bản Ngũ Thập Lục). Vợ ông là Reiko (Thiên Đại Tử), con gái một trại chủ bò sữa; hai người kết hôn năm 1918 và có 4 mặt con.

    Ngoài việc hay đến chơi ở các ca lâu, Isokoru cũng là một người nghiện các sòng bạc và rất thích cá cược. Ông sành sỏi cách chơi tất cả các loại bài, ông còn giỏi chơi cờ vua, cờ tướng. Tài nghệ của ông trong 2 môn này nổi danh trong giới Hải quân Nhật. Người ta nói rằng ông chơi bài lão luyện tới mức chỉ cần nhìn sắc mặt đối thủ là ông biết ngay y cầm những con bài gì trong tay. Tuy nhiên, ông lại không biết uống rượu.


    Cải cách Hải quân


    Một trong những công lao to lớn của Yamamoto Isokoru đối với quốc phòng của Nhật Bản cũng như nghệ thuật quân sự thế giới chính là ông đã phát hiện ra vai trò tối quan trong của lực lượng không quân và tầu sân bay trong hải chiến hiện đại. Thật vậy, trên mặt biển hiện này những chiếc hàng không tầu sân bay và lực lượng không quân có một vị trí cực kì to lớn và không thể thiếu vắng được. Ông cũng là người đóng vai trò chủ đạo trong việc xây dựng lực lượng không quân trong hải quân Nhật Bản. Ngay từ năm 1915, ông đã có những tiên đoán rất chính xác khi cho rằng "Chiến hạm quan trọng nhất trong tương lai là loại chiến hạm mang theo được phi cơ"


    Tháng 4 năm 1919, ông được cử giữ chức sĩ quan ngoại giao của tòa đại sứ Nhật. Ông học tại Đại học Harvard từ năm 1919 đến năm 1921 và sau đó làm Tùy viên Quân sự tại Washington D.C. Sau đó Trong thời gian này ông nhanh chóng tiếp xúc và nắm bắt được những dòng tư tưởng về việc sử dụng không quân trong nghệ thuật quân sự (dù các dòng tư tưởng ấy vẫn còn là thiểu số). Tháng 6/1923, khi cùng với đại tướng Tỉnh Xuất đi khảo sát ở Mỹ và các quốc gia Tây phương, Yamamoto càng kiên định quan điểm của mình. Năm 1921, khi trở về, ông đã góp phần xây dựng lực lượng tàu sân bay của Nhật Bản.


    Tuy nhiên ở Nhật Bản, những tài nguyên cần thiết để chế tạo một phi cơ tân tiến lại rất hiếm, ví dụ như dầu mỏ. Kỹ thuật chế tạo phi cơ Nhật cực kì thô lậu: đa phần máy bay Nhật làm bằng gỗ và bọc vải, còn động cơ cũng hết sức kém. Hơn nữa, đa phần người Nhật vẫn còn giữ tư tưởng "tàu to súng lớn" đã từng bộc lộ sức mạnh khủng khiếp trong các cuộc chiến tranh trước đó. Những người này cho Yamamoto là kẻ lập dị. Chịu hết nổi, tháng 9/1924, ông xin chuyển sang làm phó đội trưởng kiêm sĩ quan huấn luyện tại đội không quân thuộc hải quân Hà Phố để ông tự do thực hiên ý tưởng của mình !


    Cũng như tình trạng chung của không quân Nhật Bản lúc bấy giờ, tình hình bộ đội không quân Hà Phố rất là khủng hoảng. Bộ máy điều hành và kỷ luật còn trong quá trình xây dựng, hết sức lỏng lẻo và rời rạc. Kỹ thuật máy bay hết sức thô lậu khiến tai nạn phi cơ rơi, pilot chết không phải là hiếm, kéo theo hiện tượng binh sĩ đào ngũ ngày một nhiều. Hơn nữa, Yamamoto Isokoru, một sĩ quan xa lạ mới 40 tuổi đến chỉ huy bộ đội không quân là một đề tài cho mọi người bàn tán. Mặc dù vậy, Yamamoto vẫn không sờn lòng, trái lại ông đã tìm được cách khắc phục những khó khăn. Ông lập những nơi thờ cúng các pilot đã hi sinh khi làm nhiệm vụ. Ông thường trò chuyện, chơi bài, chơi cờ với các binh sĩ dưới quyền để thu phục cảm tình và nắm bắt các nguyện vọng tâm tư của họ. Ông dùng tinh thần đảo Giang Điền, tư tưởng Hoàng Đạo, Võ Sĩ Đạo, Thần Đạo để hun đúc cho các binh sĩ cảm tử. Bản thân ông cũng tự học cách lái máy bay, và, cùng với các nhân viên phi hành đã vượt qua những khó khăn về kỹ thuật.


    Những nỗ lực của Yamamoto cuối cùng đã thu được một số kết quả khả quan. Năm 1928 ông được bổ nhiệm làm hạm trưởng hạm Isuzu. Năm 1929, được thăng hàm thiếu tướng, chuẩn đô đốc. Năm 1930 ông được cử giữ chức Bộ trưởng Bộ Kỹ thuật Hàng không hải quân. Và, ngay từ lúc này, ông đã lợi dụng địa vị mới của mình, tập trung mọi sức mạnh phát triển bộ đội không quân và hàng không tầu sân bay Nhật, nhất là việc nâng cao kỹ thuật phi cơ. Ông hợp tác với các xưởng đóng phi cơ Nhật để chế tạo những mẫu phi cơ tân tiến nhất. Các loại phi cơ Nhật ra đời trong nửa cuối thập nhiên 30 như Type 94, Type 96, và nhất là kiểu máy bay số 0 (zero) lừng danh ra đời năm 1940 đã trở thành những mẫu máy bay tốt nhất thời đó. Tháng 11/1934 ông được thăng hàm trung tướng, phó đô đốc. Năm 1935 ông làm tư lệnh lực lượng không quân của Hải quân Đế quốc Nhật Bản.


    Sau đó ông tham gia cuộc Chiến tranh Trung-Nhật. Ngày 14 tháng 9 năm 1937, các máy bay Nhật trong hai đội hàng không hải quân Mộc Cánh Tân và Lộc Ốc đã bay từ Đài Bắc và Cao Hùng đển ném bom hai phi trường Quảng Đức và Hàng Châu. Việc này đã khiến các chuyên gia hàng không giật mình trước chất lượng của các máy bay Nhật tham gia trận oanh tạc đó. Tiếp đó các máy bay của Yamamoto lại tham gia vụ tấn công ở Nam Kinh và chiến dịch Thượng Hải, nhờ đó Yamamoto được tặng huân chương Húc Nhật.

    Năm 1936, ông làm thứ trưởng Bộ Hải quân theo lời mời của hải quân đại thần Vĩnh Dã Thân. Tuy nhiên, công việc sự vụ này hoàn toàn không phù hợp với một quân nhân và một người đang dốc sức xây dựng ngành hàng không hải quân như Yamamoto. Ông đã từng thừa nhận với viên thư kí Thực Tùng Nhượng là ông cứ đóng dấu bừa các văn kiện mà không xem kỹ Cuối cùng ngày 31 tháng 8 năm 1939 ông lại được cử giữ chức tư lệnh hạm đội liên hậm kiêm tư lệnh đệ nhất hạm đội đúng như sở trường của mình. Năm 1940, ông được thăng hàm đại tướng, đô đốc. Vừa đáo nhiệm là ông lập tức sắp xếp hàng loạt những cuộc huấn luyện nghiêm ngặt và căng thẳng như khi chiến đấu thật sự. Yamamoto hiểu rằng, ông cần phải chuẩn bị kỹ lưỡng cho một cuộc chiến ác liệt sắp tới.

    Sự khác biệt giữa Hải quân và Lục quân Nhật Bản

    Kể từ sau năm 1936, lục quân Nhật phát động một phong trào cách mạng chính trị và kiểm soát được chính phủ. Ðây là thời kỳ vàng son của lục quân sau những chiến thắng tại Trung Hoa. Lục quân còn có tham vọng làm bá chủ chính trường Nhật Bản và đô hộ cả Á Châu. Trái lại hải quân Nhật vẫn tuân theo lệnh của Minh Trị Thiên Hoàng, phải khuất phục trước một chính quyền dân sự. Trong khi lục quân lộng hành thì hải quân vẫn trung thành với đường lối cổ truyền, và do đó dần dần lép vế trước lục quân. Tuy nhiên Yamamoto quyết tâm không để lục quân bảo sao nghe vậy. Yamamoto thường cảnh cáo lục quân rằng họ có thể chiến thắng Trung Hoa một cách dễ dàng, nhưng một cuộc chiến tranh với Anh Mỹ thì không thể chấm dứt trong chiến thắng được. Với tư cách là thứ trưởng hải quân, Yamamoto đã ra công làm một công việc mà ông gọi là "cố ngăn chặn một dòng nước mạnh chảy sai đường."

    Thái độ quá khích của lục quân dần dần lan tràn sang hải quân. Ngay từ năm 1938, nhiều sĩ quan hải quân trẻ đã công khai chống đối các đô đốc Yonai và Yamamoto. Họ đả kích quan điểm của Yamamoto về việc Nhật gia nhập khối Trục và thái độ của Yamamoto đối với quyền lợi của Nhật Bản. Yamamoto bắt đầu nhận được rất nhiều thư công kích thù nghịch. Thoạt đầu ông chăm chú đọc những lá thư này, nhưng về sau ông hiểu rằng đây chỉ là một phần chiến dịch của phe quá khích muốn lung lạc tinh thần ông, nên ông không thèm quan tâm đến những lá thư này nữa. Nhưng sau đó, những lá thư công kích chuyển thành những lá thư hăm dọa giết ông. Sự hăm dọa này cũng không làm Yamamoto thay đổi quan điểm. Vốn là một quân nhân can trường, thấm nhuần truyền thống dũng khí của võ sĩ đạo, ông coi cái chết vì sự công chính đẹp như những cánh hoa anh đào. Ông đã viết:

    "Chết cho Nhật Hoàng và tổ quốc là hy vọng cao cả nhất của một quân nhân. Sau một trận chiến đấu khó khăn và can đảm, những cánh hoa sẽ bay tả tơi trên chiến trường. Nhưng nếu một người ái quốc bị ám sát, thì người chiến sĩ ấy sẽ vẫn đi tới sự bất diệt trường cửu cho Nhật Hoàng và đất nước. Sự sống hay cái chết của một con người không quan hệ. Ðiều quan hệ là Ðế Quốc Nhật Bản. Khổng Tử đã viết: "Người ta có thể đập vỡ thần sa nhưng người ta không thể lấy đi được mầu son của nó; người ta có thể đốt một cây cỏ thơm, nhưng người ta không thể diệt được hương thơm của cỏ." Những kẻ bất đồng quan điểm có thể hủy diệt được thân xác tôi, nhưng họ không thể lấy đi được ý chí của tôi."

    Yamamoto đã thất bại không xoay chuyển được khuynh hướng hiếu chiến của lục quân, và để lục quân đưa nước Nhật vào vòng chiến, một phần vì những biến cố sau đây:

    Biến cố đầu tiên là quyết định của tổng thống Roosevelt ra lệnh tập trung hải quân Hoa Kỳ tại Trân châu cảng, thay vì tại bờ biển phía tây của Hoa Kỳ như trước. Việc thay đổi này khiến người Nhật tin tưởng rằng Hoa Kỳ đang sửa soạn gây hấn với Nhật Bản. Người Nhật coi việc tập trung hải quân Hoa Kỳ tại quần đảo Hawaii như là một "mũi dao chĩa vào trái tim Nhật Bản." Việc tấn công vào căn cứ hải quân Mỹ tại Trân châu cảng bỗng trở thành một nhiệm vụ cần thiết, nhưng bộ tư lệnh hải quân Nhật nghiên cứu, và đi đến kết luận đây là một công cuộc mạo hiểm vô cùng khó khăn.

    Trong lúc đó thì hai nhà độc tài Hitler của Ðức và Mussolini của Ý ra công thúc giục Nhật Bản tham gia khối Trục của ba cường quốc Ðức Ý Nhật để đương đầu với khối Anh Mỹ Nga. Chính phủ Nhật lúc đó nằm trong sự kiểm soát của lục quân và lục quân lúc nào cũng hoan nghênh việc liên kết với Ðức và Ý. Trong khi đó hải quân Nhật phản đối việc Nhật đi chung đường với Ðức và Ý, để phải đương đầu với các hạm đội hùng mạnh của Anh và Mỹ. Nhưng hải quân không có tiếng nói mạnh trong những quyết định của chính phủ. Hai đô đốc Yonai và Yamamoto liên tục chống lại việc thành lập trục Ðức-Ý-Nhật. Mặc dầu bị áp lực nặng nề của lục quân, nhưng cả Yonai và Yamamoto cương quyết phản đối bất cứ một sự thống nhất hành động nào với Hitler và Mussolini. Yamamoto lý luận rằng bất cứ một sự liên minh nào với Ðức và Ý cũng sẽ đẩy Nhật phải xung đột với Anh và Mỹ, ngay cả với Liên xô nữa. Yamamoto tận dụng mọi khả năng để ngăn cản sự xáp lại gần hai nước Phát xít Âu châu. Lúc nào ông cũng lập lại quan điểm của mình: "Nhật Bản có thực điên rồ mới trở thành kẻ thù của Anh và Mỹ."

    Sự hăng say chống lại khuynh hướng của lục quân đã đem lại cho Yamamoto nhiều kẻ thù, đặc biệt là trong nhóm quốc gia cực đoan. Kẻ thù của ông gọi ông là một kẻ thân Mỹ và phản bội tổ quốc. Họ hăm dọa sẽ ám sát ông. Tuy thế ông vẫn không hề nao núng. Khi đô đốc Yonai khuyên ông nên mang theo vệ sĩ, ông từ chối ngay. Càng ngày Yamamoto càng trở thành một người cô đơn chống lại trào lưu của thời đại, chống lại chủ trương gây chiến với tây phương. Ông có lý do chính đáng của ông. Ông không phải là người thân Mỹ như kẻ thù gán cho ông, trái lại ông là một người yêu nước Nhật và tôn thờ Nhật Hoàng không kém gì kẻ thù của ông. Ðiều khác biệt duy nhất là không một kẻ thù nào của ông, và không một người hiếu chiến quá khích nào hiểu rõ khả năng của hải quân Nhật bằng ông. Mặc dù hải quân có vẻ hùng mạnh và càng ngày càng có thêm tầu sân bay và chiến hạm, nhưng Yamamoto hiểu rất rõ rằng hải quân của Nhật vẫn còn quá yếu kém, nếu phải đương đầu với lực lượng hải quân hỗn hợp của Anh và Hoa Kỳ.

    Yamamoto còn biết rõ rằng nếu chiến tranh xảy ra thì tám mươi phần trăm gánh nặng sẽ đè xuống vai hải quân, mà theo ông thì hải quân của ông chưa sẵn sàng gánh vác bổn phận nặng nề ấy. Thái độ thực tế của ông càng làm lục quân căm giận ông hơn. Phe lục quân hỏi thẳng ông: "Ông không nghĩ rằng hải quân oai hùng của chúng ta không chiến thắng được hay sao?" Yamamoto trả lời thẳng thắn: "Không, tôi không tin hải quân sẽ thắng." Câu trả lời của Yamamoto không những chọc giận lục quân, mà còn làm phe ôn hòa phải kinh ngạc. Họ tự hỏi tại sao người cha đẻ của một hải quân kiêu hùng, một người đã tạo ra được một hệ thống không quân phối hợp chặt chẽ với hải quân lại có thể trả lời bi quan như thế.


    Khi có những lời buộc tội ông là kẻ phản quốc gia tăng, vì lời tuyên bố trên của ông thì ông chỉ trả lời, "Tôi đang phục vụ tổ quốc tôi đúng như lúc lâm chiến. Tôi đang phải nỗ lực lôi các đồng bào của tôi trở lại với một lối suy nghĩ sáng suốt. Họ có thể giết được tôi, nhưng họ không thể giết được sự sai lầm của họ." Ông biết ông đang gặp hung hiểm; kẻ thù quá khích có thể ám sát ông bất cứ lúc nào, nhất là ông là một khuôn mặt nổi tiếng ai cũng biết, nhưng ông vẫn không tỏ ra khiếp nhược. Hàng ngày ông vẫn đi bộ từ Bộ Hải quân ra các tiệm sách để tìm mua sách. Bất cứ ai đến thăm ông, dù là rất khuya, ông vẫn ra mở cửa cho họ, không quan tâm rằng những người khách ban đêm đó có thể là những thích khách tới ám sát ông.

    Ðầu năm 1939 nội các Konoye đổ vì vấn đề gia nhập khối Trục. Hiranuma đứng ra lập chính phủ và đô đốc Yonai và Yamamoto vẫn được mời ở lại giữ Bộ Hải quân. Ðến đây dường như không còn cách gì ngăn được phe lục quân hiếu chiến liên kết với Ðức và Ý nữa. Càng ngày sự hăm dọa ám sát Yamamoto càng nhiều hơn.

    Vào giữa năm 1939, tình hình chính trị càng tồi tệ hơn. Chính phủ vẫn cân nhắc lời cám dỗ của Hitler và Mussolini. Yamamoto nhận thức rằng quan điểm chống lại chiến tranh của mình sẽ đưa đến một cuộc ám sát. Ông viết một lời trăn trối, bỏ vào trong một cái hộp. Cái hộp này chỉ mở ra khi ông bị giết chết. Lời nhắn nhủ của ông chỉ có vắn tắt một câu: "Tôi coi cái chết của tôi là một vinh dự khi tôi chết cho một điều mà tôi nghĩ là đúng." Yamamoto là một người thấy xa trông rộng, nhưng tiếc thay nhóm quân phiệt mù quáng không nhận thấy, và đã đẩy nhiều dân tộc trên thế giới vào một cuộc chiến tàn phá nhất.

    Cuối cùng đô đốc Yonai thấy tình thế quá nguy hiểm nên bắt buộc Yamamoto phải có vệ sĩ, ngay tại văn phòng cũng như tại tư gia. Dù Yamamoto đi đâu, lúc nào chung quanh ông cũng có một tiểu đội cảnh sát mặc thường phục hộ vệ. Rồi đến một lúc đô đốc Yonai thấy rằng sự bảo vệ như thế cũng không đủ, Yonai liền tìm cách đẩy Yamamoto ra khỏi nơi chính trường hiểm nghèo, bằng cách bổ nhiệm Yamamoto vào chức vụ Tư lệnh Liên Hạm đội Nhật, và thăng Yamamoto lên chức đô đốc. Về sau Yonai phải thú nhận bổ nhiệm Yamamoto vào một chức vụ ngoài biển cả là cách duy nhất để cứu sinh mạng cho Yamamoto.

    Chức vụ và cấp bậc của Yamamoto là tột đỉnh trong hải quân Nhật, và dĩ nhiên Yamamoto cũng không từ chối vinh dự lớn lao này, mặc dầu ông hơi ngạc nhiên. Khi được báo tin, Yamamoto vốn là một người không thích rượu mà cũng uống cả ly la de một hơi để dằn sự khích động to lớn. Thực tình Yamamoto muốn đô đốc Yonai làm Tư lệnh Liên Hạm đội và Yamamoto sẽ là tư lệnh lực lượng xung kích, trực tiếp chỉ huy những trận đánh, nhưng Yonai không muốn trở lại chức Tư lệnh Liên Hạm đội một lần nữa.

    Hai tuần lễ sau khi Yamamoto nhận chức Tư lệnh hải quân thì quân Ðức xâm chiếm Ba Lan và đệ nhị thế chiến bắt đầu. Bây giờ công việc cấp bách của Yamamoto không còn là chống chiến tranh nữa vì đã quá trễ, trái lại ông lao mình vào nhiệm vụ sửa soạn cho chiến trường Thái Bình Dương, vì ông biết rằng ông không còn nhiều thì giờ nữa trước khi phải quần thảo với hạm đội Mỹ. Ngay khi ông tiếp nhận soái hạm Nagato, ông đã đưa ra đường lối chỉ đạo mới cho hạm đội:

    1. Ưu tiên thứ nhất là huấn luyện pilot cho hải quân.
    2. Nếu chiến tranh xảy ra, phải dụ hạm đội Hoa kỳ tại quần đảo Hawaii vào một trận đánh quyết định càng sớm càng tốt.




    Tư Lệnh Hạm Ðội Liên Hợp Nhật Bản


    Sau 6 tháng trong chức vụ và chương trình huấn luyện hải quân tiếp tục tốt đẹp, Yamamoto cảm thấy tin tưởng vào binh sĩ hải quân nhiều hơn. Hải quân dường như đang đi đúng con đường Yamamoto muốn, trái hẳn với chính trường bị lục quân chi phối đã đi ngược lại ước muốn của Yamamoto. Nhật Bản càng lúc càng sẵn sàng gia nhập khối Trục của Ðức và Ý. Việc ký kết Hiệp Ước Liên Kết giữa ba quốc gia vào tháng 9-1940 không có nhiều bó buộc cho Nhật Bản. Nhật Bản chỉ đồng ý tham chiến với Ðức và Ý khi nào Hoa Kỳ liên kết với Anh quốc đánh lại Ðức và Ý. Hitler muốn Nhật ngăn cản Hoa Kỳ không cho Hoa Kỳ can thiệp vào Âu Châu để cứu Anh quốc. Tuy nhiên nhiều nhân vật Nhật rất không đồng ý với lời cam kết có giới hạn này, trong đó có Nhật Hoàng và Thủ-tướng Konoye. Các đô đốc Yonai, Yamamoto và phần đông sĩ quan hải quân kịch liệt chống lại lời cam kết đó, nhưng lục quân đang nắm quyền và không thèm để ý tới sự phản đối của hải quân.
    Người chống đối hiệp ước nặng ký nhất là Yamamoto thì lại ở xa ngoài khơi, nên cuối cùng hiệp ước đã được ký với sự phản đối yếu ớt của tân thứ trưởng hải quân thay thế Yamamoto. Khi còn là Thủ-tướng, Konoye lo sợ trước viễn ảnh chiến tranh có thể đưa Nhật Bản tới chỗ sụp đổ. Ông biết khi chiến tranh xảy ra với Hoa Kỳ thì thắng hay bại phần lớn do hải quân, nên ông cho mời Yamamoto vào tham khảo ý kiến. Konoye hỏi Yamamoto nếu chiến tranh bùng nổ giữa Nhật và Anh Mỹ thì Nhật Bản có bao nhiêu hy vọng chiến thắng.

    Yamamoto trả lời thẳng thắn, "Tôi có thể tung hoành gây tàn phá cho hải quân Anh Mỹ trong một năm hoặc nhiều lắm là 18 tháng. Sau đó tôi không có một bảo đảm nào hết." Lời tuyên bố của Yamamoto trở thành một lời tiên tri rất đúng sau này. Hải quân Nhật làm mưa làm gió tại Thái Bình Dương trong suốt gần hai năm, chạy từ chiến thắng này tới chiến thắng khác mà Anh Mỹ không thể làm gì được, cho tới lúc Yamamoto tử trận. Thủ-tướng Konoye là một người hiểu rõ tiềm năng chiến tranh của Anh và Mỹ nên công nhận lời tuyên bố bi quan của Yamamoto rất có lý. Nếu Nhật Bản phải tham dự một cuộc chiến lâu dài với Hoa kỳ thì các đô đốc Nhật trông thấy cuộc chiến cuối cùng chỉ đem lại thất bại cho Nhật Bản.


    Một đô đốc đã quy lỗi cho hải quân để mặc cho lục quân dẫn dắt vào vòng chiến khi ông viết:

    "Trách nhiệm hàng đầu đưa Nhật Bản vào vòng chiến là tại hải quân. Chúng tôi không trách gì lục quân vừa ngu dốt vừa làm càn. Công luận và Nhật Hoàng đã không thể ngăn cản được cuộc lao đầu vào chiến tranh của họ -- nhưng hải quân có thể làm được điều đó. Chỉ mình hải quân đã có một thế chống lại Ðông Ðiều. Nếu hải quân đã làm như vậy thì Nhật Bản đã không tham chiến. Hải quân đã biết rõ tình thế mà vẫn cứ nhường nhịn phe lục quân thiển cận. Hải quân phải chịu trách nhiệm đã để chiến tranh xảy ra mà không ngăn lại."

    Ðúng ra hải quân đã bị lục quân lôi vào chiến tranh vì các lãnh tụ hải quân tại Ðông Kinh không có dũng khí và tự tin như Yamamoto. Hải quân Nhật chưa sẵn sàng đi vào một cuộc chiến lâu dài. Vào tháng 1-1940, hải quân chỉ mới có 3,500 pilot. Một sĩ quan hải quân đề nghị huấn luyện thêm 15,000 pilot nữa cho hải quân, nhưng ý kiến này bị coi là điên rồ và bị bác bỏ. Ðề nghị của viên sĩ quan huấn luyện viên này không tới được bàn giấy của Yamamoto. Ðến năm 1941, hải quân đòi hỏi hàng năm phải đào tạo thêm 15,000 pilot nữa mới đủ cung ứng cho nhu cầu chiến trường, nhưng lời yêu cầu này đã quá trễ. Lúc ấy chiến tranh đã sắp xảy ra rồi, và không thể đào tạo một số đông pilot trong lúc đó. Ðây là một lỗi lầm sinh tử của Nhật Bản.

    Vào mùa hè năm 1941, cuộc xung đột vũ trang giữa Nhật và Hoa Kỳ là điều không thể tránh khỏi được, thế mà phần lớn các nhà lãnh đạo hải quân Nhật vẫn không muốn lâm chiến, vì họ có những lý do để hoài nghi chiến thắng. Sức mạnh không lực của Anh Mỹ thực là khủng khiếp, mặc dầu Nhật bản có những phi đội Zero rất hữu hiệu. Người ta có thể so sánh một phi cơ Zero mạnh bằng hai tới năm lần phi cơ Anh Mỹ. Hầu hết các đô đốc đã về hưu rồi đều lên tiếng phản đối chiến tranh. Các đô đốc già này quả quyết rằng các chiến thắng của hải quân Nhật trong quá khứ, kể cả trận hải chiến Ðối Mã, không hoàn toàn tốt đẹp như sự mô tả của các sử gia.

    Yamamoto đứng về quan điểm của các đô đốc già. Không ai biết rõ sức mạnh của hải quân cũng như tiềm năng quốc gia bằng Yamamoto. Yamamoto một lần nữa lớn tiếng nhắc lại lời cảnh cáo của ông đã nói với cựu Thủ-tướng Konoye:

    "Nếu cần thiết phải tham chiến, trong sáu tháng đầu cho tới một năm trong cuộc chiến với Hoa Kỳ, tôi sẽ chiến thắng rất ngoạn mục. Tôi sẽ đem về cho quý vị hàng loạt chiến thắng. Nhưng tôi cũng phải cảnh cáo quý vị rằng nếu chiến tranh kéo dài hai hoặc ba năm thì tôi không tin tưởng vào chiến thắng cuối cùng của chúng ta."

    Trong tư cách là Tư lệnh hải quân, Yamamoto mài miệt thảo một kế hoạch mà ông nghĩ nếu thành công sẽ có thể cho Nhật Bản một cơ hội đứng vững. Dù ông rất ghét chiến tranh, nhưng ông biết rằng ông không thể từ chức được. Ông phải sửa soạn hạm đội Nhật sẵn sàng khi trường hợp khẩn cấp xảy tới. Con đường sinh tồn duy nhất của Nhật phải là đánh gục hạm đội Mỹ tại Thái Bình Dương càng mau lẹ càng tốt. Nếu hải quân Nhật có thể đánh cho hạm đội Mỹ một đòn chí tử thì sẽ có cơ hội thương thuyết hòa bình trước khi Nhật bị đánh quỵ.

    Một hôm ông đọc một bài diễn văn tại trường trung học Nagaoka. Trong bài diễn văn, vị đô đốc nổi tiếng nhất của Nhật Bản phát biểu lần cuối cùng quan điểm của ông về người Mỹ:

    "Nhiều người nghĩ rằng người Mỹ yêu thích xa hoa và văn hóa của họ nông cạn và vô nghĩa. Thực là sai lầm khi cho rằng người Mỹ yếu đuối, chỉ biết yêu những sự xa hoa. Tôi có thể bảo cho các bạn biết rằng người Mỹ đầy tinh thần công bằng, tranh đua và mạo hiểm. Hơn nữa cách suy nghĩ của họ rất tiến bộ và khoa học. Chuyến bay một mình băng qua Ðại Tây Dương của Lindbergh là loại hành động hào hùng thông thường của họ. Ðó là một sự mạo hiểm tiêu biểu đặt căn bản trên khoa họcem của người Mỹ."

    "Ðừng quên rằng kỹ nghệ của Mỹ phát triển hơn kỹ nghệ của Nhật Bản nhiều - và không như chúng ta, họ có đủ dầu lửa họ cần dùng. Nhật Bản không thể thắng được Hoa Kỳ. Chính vì thế, Nhật Bản không nên gây chiến với Hoa Kỳ."


    ( quay trở lại trận đột kích Trân Châu Cảng - phần này em chỉ xin giới thiệu phần chuẩn bị còn diễn biến trận đánh em sẽ link sang bài viết của bác Ecoxet, bài bên đó chi tiết hơn)
  4. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Những Sửa Soạn Cho Trận Trân Châu Cảng


    Người Mỹ ngày càng mất dần tin tưởng vào thiện chí của người Nhật, và do đó đã có những sự phối trí mới về hạm đội Mỹ. Tháng 2-1941, hạm đội tại Trân châu cảng được đổi tên là Hạm đội Thái Bình Dương do đô đốc Kimmel chỉ huy. Một lực lượng hải quân nhỏ khác tại Viễn Ðông do đô đốc Hart chỉ huy được gọi là Hạm đội Hoa Kỳ Á Ðông. Ðầu năm 1941, tầu sân bay Yorktown từ Thái Bình Dương được chuyển qua Ðại Tây Dương, mặc dù lúc đó Mỹ chưa tham chiến tại Âu Châu, để đương đầu với một hạm đội nhỏ của Ðức. Tổng số lực lượng tầu sân bay của Hoa kỳ lúc đó gồm bốn tầu sân bay tại Ðại Tây Dương và ba tầu sân bay tại Thái Bình Dương, trong khi Nhật có tới mười tầu sân bay

    Tình hình thế giới năm 1941 rất tồi tệ và dễ dẫn tới đại chiến, vì cuộc tiến quân liên tục của Nhật tại Á Châu và của Ðức tại Âu Châu. Tháng 7-1941 Nhật tuyên bố chính phủ Vichy của Pháp đã đồng ý cho Nhật đồng bảo hộ Ðông Dương và quân Nhật tiến vào bán đảo này. Hành động của Nhật tiến vào Ðông Dương như là giọt nước cuối cùng làm tràn ly, khiến Hoa Kỳ không thể nhân nhượng mãi và phải có thái độ. Hoa Kỳ phong tỏa các tài sản trương mục của Nhật tại Hoa Kỳ. Ðiều này có nghĩa là Nhật không thể mua dầu hỏa được nữa. Nếu không có dầu hỏa thì bộ máy chiến tranh của Nhật sẽ bị tê liệt.

    Hoa Kỳ cùng với Anh và Hòa Lan áp dụng những biện pháp kinh tế trừng phạt Nhật Bản. Nhưng cuộc trừng phạt kinh tế này hơi trễ vì Nhật đã mua của Hoa Kỳ rất nhiều dụng cụ quốc phòng rồi và cũng đã mua dự trữ nhiều thép cần thiết cho việc chế tạo vũ khí. Tuy nhiên việc phong tỏa dầu hỏa là một đòn sinh tử cho Nhật, vì Nhật phải nhập cảng nhiên liệu ngoại quốc. Ðô đốc Yamamoto đòi kiểm kê số tồn trữ dầu hỏa và được biết Nhật lúc đó có 6 triệu 450 ngàn tấn dầu, đủ dùng cho 18 tháng. Dù Nhật hết sức tiết kiệm thì cũng chỉ đủ dùng trong ba năm.

    Do đó việc cấm bán dầu cho Nhật đã là một tối hậu thư. Nhật Bản phải tuân theo ý muốn của Hoa Kỳ để có dầu hay phải khai chiến? Lục quân có một kế hoạch chiếm các mỏ dầu tại Nam Dương, nhưng Yamamoto lo ngại rằng trong lúc Nhật tung quân chiếm các mỏ dầu Nam Dương mà hạm đội Mỹ tại Trân châu cảng mở cuộc tấn công vào lãnh thổ Nhật thì sao? Tham mưu trưởng hải quân Nhật, đô đốc Nagano, đề nghị tung hết lực lượng hải quân Nhật ra chiếm Nam Dương thật mau lẹ để hải quân Mỹ không kịp trở tay. Hải quân Nhật tin tưởng rằng trong trường hợp có chiến tranh, hạm đội Mỹ sẽ phải tiến tới phía tây Thái bình dương, và như thế hải quân Nhật có lợi điểm được nghênh địch ngay tại vùng biển quen thuộc gần nhà.

    Vào thời kỳ đó các tư lệnh hải quân Nhật chưa hề nghĩ tới việc đem hạm đội Nhật tới tận vùng biển Hawaii để tấn công hạm đội Mỹ. Ðô đốc Yamamoto luôn luôn lo lắng hạm đội Mỹ sẽ tấn công trong lúc phần lớn hạm đội Nhật bận đi đánh chiếm Nam Dương, và trong trường hợp ấy, ông không nghĩ ông có thể đương đầu với hạm đội của Mỹ được. Yamamoto muốn ra tay trước để ngăn chặn hiểm họa bị tấn công. Yamamoto muốn tấn công tiêu diệt hạm đội Mỹ ngay tại căn cứ Trân châu cảng, đặc biệt là phải diệt cho bằng được lực lượng tầu sân bay địch. Ðây là một ý tưởng thật táo bạo. Yamamoto nghĩ rằng nếu không hạ được hạm đội Mỹ tại Hawaii thì cán cân sức mạnh dần dần sẽ nghiêng về phía Hoa Kỳ. Yamamoto cũng học được bài học trong trận Trung Nhật chiến tranh đã kéo dài, dai dẳng bất phân thắng bại, và gây hao tổn quá nhiều cho Nhật Bản. Chắc chắn Nhật Bản không thể tham gia một cuộc chiến kéo dài như thế được nữa. Nhật Bản cần phải ra tay bất thần và tạo được một chiến thắng thật mau lẹ ngoạn mục, đánh một đòn chí tử khiến địch thủ không hy vọng quật khởi lại được.

    Ðối với đa số các đô đốc Mỹ thì vị trí của căn cứ hải quân Trân châu cảng thực là bảo đảm, địch quân không thể tấn công được. Nhưng Yamamoto đang âm thầm tính toán một cuộc tấn công bất thần, làm tê liệt hải quân Mỹ tại Thái bình dương



    Một Kế Hoạch Quá Táo Bạo


    Kế hoạch tấn công căn cứ Trân châu cảng đã lóe sáng trong tâm trí Yamamoto, ít nhất hơn một năm rưỡi trước khi cuộc tấn công bắt đầu. Sau khi nắm chức Tư lệnh Liên Hạm đội, Yamamoto gia tăng các công cuộc thực tập không tập phóng thủy lôi. Cuộc không tập có kết quả đến nỗi Yamamoto nghĩ ngay đến việc dùng thủy lôi tấn công hạm đội Mỹ, nhưng một vài đô đốc khác cho rằng việc tấn công Trân châu cảng thực là liều lĩnh, khó thành công.

    Nhưng sáu tháng sau đó, một biến cố xảy ra tại chiến trường Âu Châu giúp Yamamoto quả quyết hơn. Tháng 11 năm 1940, một phi đoàn gồm 21 oanh tạc cơ của Anh từ một tầu sân bay đã dùng thủy lôi tấn công hạm đội Ý tại căn cứ an toàn Taranto. Kết quả là ba chiến hạm Ý bị đánh chìm trong khi Anh chỉ mất có hai phi cơ. Yamamoto lập tức yêu cầu các tùy viên hải quân Nhật tại Âu Châu phải gửi ngay các báo cáo về vụ tấn công này cho ông ngay. Ông đã nghiên cứu thận trọng từng chi tiết của cuộc không tập Taranto.

    Theo các báo cáo thì quân cảng Taranto rất cạn, chỉ sâu 44 bộ và chiều sâu đó là một trở ngại cho việc phóng thủy lôi, thế mà các pilot chiến đấu của Anh đã chứng minh thủy lôi có thể hữu hiệu tại những vùng biển cạn. Yamamoto nghĩ nếu các đội bay Anh thành công tại Taranto thì tại sao pilot Nhật lại không thể thành công dùng thủy lôi tại Trân châu cảng, một nơi mực sâu lên tới 45 bộ.

    Chính người Mỹ cũng lo ngại cho Trân châu cảng qua bài học của Taranto, và bộ trưởng hải quân Mỹ đã cảnh giác giới chỉ huy tại Trân châu cảng phải đề phòng một cuộc tấn công bất ngờ của Nhật, bằng cách thiết lập những hàng rào cản thủy lôi, nhưng độ đốc Kimmel, tư lệnh Hạm đội Thái bình dương, phản đối việc thiết lập màng lưới cản thủy lôi, vì như thế sẽ làm chật hẹp đường thủy lưu vào căn cứ.

    Ðúng lúc Kimmel từ chối thiết lập màng lưới chống thủy lôi thì đô đốc Yamamoto nói một cách tin tưởng với đô đốc Fukudome rằng cuộc không tập bằng thủy lôi của pilot Nhật vào căn cứ Trân châu cảng chắc chắn sẽ thành công. Ðây là lần đầu tiên Yamamoto công khai nêu ý kiến tấn công Trân châu cảng. Yamamoto chọn đô đốc Onishi, một pilot giỏi nhất của hải quân, để bàn luận chi tiết cuộc tấn công. Chính Onishi sau này thành lập đội pilot Thần Phong danh tiếng trong một nỗ lực cuối cùng, mong cứu Nhật thoát khỏi cảnh bại trận. Yamamoto cho biết ý định muốn đánh một đòn chí tử bất ngờ, đánh gục hạm đội Mỹ tại Thái bình dương.

    Ðây là một kế hoạch hết sức bí mật. Lúc đầu chỉ có ba người biết, Yamamoto, đô đốc Fukudome tham mưu của Yamamoto và đô đốc Onishi, người soạn thảo chi tiết cuộc tấn công. Onishi xin phép tham khảo ý kiến trung tá Genda, một pilot nhiều kinh nghiệm đã từng tham chiến tại Trung Hoa và làm tùy viên tại Luân Ðôn. Lúc đó Nhật Bản có 6 tầu sân bay, là Akagi, Kaga, Hiryu, Soryu, Shokaku và Zuikaku. Theo ý kiến của Genda thì tất cả 6 tầu sân bay này phải dùng vào cuộc tấn công. Genda cũng còn nêu ra hai điểm quan trọng: Phải thận trọng lựa chọn những tư lệnh và pilot giỏi nhất cho cuộc tấn công, và phải bảo mật kế hoạch đến tối đa.

    Thoạt đầu Yamamoto dự định dùng các tầu sân bay chở phi cơ tới cách Hawaii trên 600 dặm thì dừng lại, từ đó các pilot sẽ cất cánh, oanh kích mục tiêu tại Trân châu cảng. Ðây là một phi vụ xa 1200 dặm, nếu tính cả đường về. Trên đường về, các pilot sẽ nhảy dù xuống biển và được tiềm thủy đỉnh hoặc diệt ngư lôi hạm vớt lên. Kế hoạch này của Yamamoto nhắm bảo vệ các tầu sân bay Nhật không bị các phi cơ Mỹ phản công một khi kế hoạch tấn công bị lộ. Các tầu sân bay Nhật sẽ được an toàn nếu ở xa căn cứ Mỹ trên 600 dặm. Yamamoto cũng muốn gây kinh hoàng cho người Mỹ bằng cách biểu dương sự can đảm của pilot Nhật, vì chỉ có pilot Nhật mới dám thi hành một sứ mạng nguy hiểm, nguy hiểm ngay cả trên đường về.

    Dụng ý sâu xa của Yamamoto là cho người Mỹ thấy người Nhật sẽ là những kẻ thù dũng cảm đáng sợ nhất, không hề sờn lòng trước cái chết, để người Mỹ phải suy nghĩ trước khi khai chiến với Nhật. Có lẽ chỉ có dân tộc Nhật và Việt Nam mới có được những tướng lãnh can đảm, khi bại trận đã tự tử chứ không chịu cái nhục phải đầu hàng. Rồi khi Nhật sắp sửa bại trận, hàng loạt pilot trẻ, tranh nhau xin gia nhập đoàn pilot Thần Phong trong một hùng tâm đem cái chết của mình ngăn cản địch quân. Những pilot này tuổi xuân mới bừng nở nhưng đã biết coi cái chết nhẹ như một cánh hoa anh đào. Họ đã lái phi cơ chở đầy bom nhào xuống các chiến hạm Mỹ, và chết tan xác theo sau những tiếng nổ kinh hồn. Nhiều pilot đã làm những bài thơ hài cú trước khi lên chuyến bay cuối cùng:

    Ước gì cho tôi rơi xuống
    Như những bông anh đào mùa xuân
    Thật trong sạch và rạng rỡ.

    hoặc
    Hôm nay còn là bông hoa
    Ngày mai tan tác trong gió
    Ðó là đời một bông hoa
    Liệu hương thơm còn mãi mãi?

    hoặc
    Bây giờ nhiệm vụ hoàn thành
    Tôi sẽ ngủ giấc triệu năm.

    Người Nhật đã biết thua trận một cách hào hùng cao thượng. Những cái chết kinh hoàng của các tướng lãnh mổ bụng, các pilot Thần Phong tan xác trên chiến hạm Mỹ đã không vô ích. Cả thế giới và kẻ chiến thắng họ phải nghiêng mình khâm phục, và quân đội chiếm đóng Mỹ không dám coi thường dân Nhật bại trận. Ai có thể khinh thường một quốc gia có những con dân dũng cảm phi thường như thế?

    Tuy nhiên đô đốc Onishi bác bỏ quan điểm của Yamamoto vì các pilot nhảy dù xuống biển rất dễ bị nguy hiểm, và hy vọng được các tiềm thủy đỉnh hoặc các tầu nhỏ khác vớt lên sẽ rất mong manh. Khi phải thi hành một cuộc tấn công quá nhiều nguy hiểm, nguy hiểm cả trong lúc tấn công địch và nguy hiểm cả trong lúc làm xong phận sự trở về căn cứ như thế, nhiều pilot có thể mất tinh thần và kết quả có thể không được mỹ mãn. Ngoài ra còn là một sự phí phạm một số lớn phi cơ và pilot Nhật nữa. Onishi chủ trương các tầu sân bay Nhật sẽ tới gần mục tiêu hơn, khoảng 200 dặm, và các pilot sẽ trở về tầu sân bay sau khi hoàn thành công tác.

    Onishi cũng trình bầy những khó khăn của kế hoạch. Trước hết là khó khăn kỹ thuật: Trân châu cảng rất cạn nên thủy lôi sẽ trúng vào đáy tầu nếu được phóng theo đường lối thông thường; sau đó là khó khăn chiến thuật: cuộc tấn công có đủ yếu tố bất ngờ không, vì nếu không có yếu tố bất ngờ, kế hoạch này không thể thực hiện được. Sau khi nêu ra những khó khăn trên, Onishi phỏng đoán kế hoạch có 60% cơ may thành công. Trái lại đô đốc Fukudome bi quan hơn, ông cho rằng kế hoạch này chỉ có 40% thành công và chủ trương nên hủy bỏ kế hoạch.

    Ðường tiến quân của hải quân Nhật cũng có nhiều khó khăn. Hải quân Nhật chỉ có thể chọn một trong ba lộ trình sau đây:
    1. Ðường phía bắc. Ðây là hải lộ ngắn nhất cho các tầu sân bay Nhật, nhưng những cơn bão mùa đông tại Bắc Thái Bình Dương sẽ làm cho việc tiếp tế nhiên liệu cho các tầu sân bay khó khăn, nhất là những tầu hộ tống nhỏ cần phải được tiếp tế nhiên liệu tới hai lần trong chuyến đi.
    2. Hải lộ xuyên giữa Thái Bình Dương đi qua ngang phía nam đảo Midway.
    3. Hải lộ phía nam qua quần đảo Marshalls.

    Hai hải lộ sau sẽ đưa các tầu sân bay qua những vùng biển lặng, ít bão tố và việc tiếp tế nhiên liệu sẽ dễ dàng hơn. Nhưng hai hải lộ này lại là nơi có nhiều thương thuyền đi qua và cũng là đường tuần thám của các phi cơ Mỹ từ các đảo Wake, Midway và Johnston Islands và do đó việc tiến quân bí mật của các hạm đội Nhật sẽ dễ bị bại lộ. Cuối cùng Yamamoto quyết định chọn hải lộ phía bắc Thái Bình Dương, chạy qua các quần đảo Aleutians và Midway. Tại những vùng biển băng giá đó sẽ không có các thương thuyền, và những diệt ngư lôi hạm sẽ đi trước dò đường, nếu thấy thương thuyền thì sẽ báo động cho các tầu sân bay chuyển hướng.

    Mặc dầu cả hai đô đốc Onishi và Fukudome tỏ vẻ bi quan, nhưng các báo cáo của hai đô đốc này cho Yamamoto tin tưởng rằng việc dùng tầu sân bay tấn công Trân châu cảng là một việc có thể thực hiện được. Yamamoto vẫn chống đối chiến tranh, nhưng khi thấy chiến tranh không tránh được thì ông quyết tâm với kế hoạch tấn công Trân châu cảng hơn. Cuối tháng 7-1940, khi thảo luận với đô đốc Shimizu, tư lệnh hạm đội tiềm thủy đỉnh, Yamamoto đã nói: "Hiện tình thế giới mỗi lúc một đen tối và chiến tranh không tránh khỏi. Nếu chúng ta phải chiến đấu với cả Anh và Mỹ thì chúng ta sẽ thảm bại. Tôi muốn không đụng tới Anh quốc, và dùng Anh quốc làm người môi giới nhưng tôi biết Anh quốc không thể làm như thế được. Nếu chiến tranh xảy ra thì cơ hội duy nhất của chúng ta là phải triệt hạ hạm đội Mỹ tại Trân châu cảng và phái tiềm thủy đỉnh tới tận bờ biển phía tây của Hoa kỳ."

    Ðể cuộc tấn công thành công, Yamamoto phải có tin tức chính xác về căn cứ Trân châu cảng và hoạt động của hạm đội Mỹ tại đây. Việc đầu tiên Yamamoto đòi hỏi là tùy viên hải quân tại Hoa thịnh đốn, và các văn phòng lãnh sự tại Honolulu phải gửi các báo cáo về những tin tức mà báo chí Mỹ viết về các hoạt động của hải quân Mỹ. Việc thứ hai là phái thiếu úy Yoshikawa, một sĩ quan tình báo trẻ, sang Hawaii để thu thập tin tức. Tháng 8-1941, Yoshikawa tới Honolulu với chức vụ giả là phó lãnh sự. Yoshikawa có nhiệm vụ thu thập tin tức về hoạt động của Hạm đội Thái Bình Dương. Yoshikawa thường đi tắm biển để tìm hiểu tính chất của bờ biển tại Hawaii và chiều cao của sóng biển, vị trí của các tầu chiến Mỹ. Yoshikawa còn cố tâm tìm xem căn cứ Trân châu cảng có màng lưới chống thủy lôi không. Yoshikawa còn được lệnh phân chia Trân châu cảng làm 5 khu vực, và phải báo cáo chi tiết từng khu vực một. Yoshikawa tránh không bao giờ chụp hình, mà chỉ quan sát và ghi nhớ thật kỹ.

    Ðể tránh các báo cáo của Yoshikawa có thể bị nghi ngờ, Yamamoto ra lệnh cho tất cả các nhân viên lãnh sự tại các nơi khác, như Vancouver, Portland, San Diego, San Francicso, Manila và Panama cũng phải gửi những báo cáo tương tự. Vì thế khi Hoa Thịnh Ðốn khám phá được mật mã của hải quân Nhật và đọc được các báo cáo hàng ngày của Yoshikawa mà vẫn không hề nghĩ rằng Nhật sẽ tấn công Trân châu cảng. Ðó là kế hoạch che giấu của Yamamoto, và kế hoạch này đã thành công.

    Nhưng ngay tại bộ tham mưu hải quân Nhật, không ai hưởng ứng kế hoạch tấn công Trân châu cảng của Yamamoto. Ðiều quan tâm nhất của bộ tham mưu là bao nhiêu tầu sân bay Nhật sẽ bị tổn thất trong trận tấn công, và tất cả các đô đốc khác của Nhật đều cho rằng kế hoạch của Yamamoto quá liều lĩnh nguy hiểm. Trong khi đó bộ tham mưu đã hoàn thành kế hoạch mở cuộc hành quân chiếm các mỏ dầu tại Ðông Nam Á. Tham mưu trưởng hải quân, đô đốc Nagano, không muốn gây chiến với Hoa Kỳ vì ông cũng từng sống tại Hoa kỳ và hiểu sức mạnh của Hoa Kỳ. Ông chủ trương mở chiến dịch chiếm đảo dầu hỏa Java, và nếu hạm đội Mỹ tiến vào hải phận Nhật để tấn công thì hải quân Nhật có lợi điểm được nghênh địch ngay tại chiến trường quen thuộc gần căn cứ nhà.

    Yamamoto cũng kính trọng sức mạnh của Hoa Kỳ như Nagano, và cũng chính vì thế ông cần phải đánh gục hạm đội Mỹ ngay bằng cú đánh thần tốc đầu tiên. Nếu hạm đội Mỹ còn nguyên vẹn thì làm sao Nhật có thể khai thác được các chiến thắng tại Ðông Nam Á. Vấn đề của Yamamoto là phải huấn luyện các đội bay cho thực thuần thục trong chiến dịch này. Tháng 9, Yamamoto chọn vịnh Kagoshima ở vùng cực nam của quần đảo Kyushu làm nơi thực tập, vì địa hình của vịnh Kagoshima khá giống địa hình của Trân châu cảng. Hàng trăm phi cơ nhào xuống từ núi Shiro, xuống thung lũng Iwasaki, rồi bay sát mặt nước và thả những trái thủy lôi. Các đội baycòn phải tập hạ cánh và cất cánh trên tầu sân bay bốn lần một ngày. Ðiểm đặc biệt của cuộc huấn luyện là tập cho đội bay quen với việc xuất quân và trở về phải bay sát mặt nước, để tránh không bị các phi cơ Mỹ tấn công. Mỗi đội bay phải tập ít nhất là 50 phi xuất

    Trong lúc các pilot thực tập vất vả cho cuộc tấn công sắp tới thì bộ tham mưu hải quân vẫn còn nghi ngờ sự thành công của kế hoạch. Bộ tham mưu gửi cho Yamamoto 5 lý do dưới đây, phản đối kế hoạch của Yamamoto:

    1. Sự thành công hoàn toàn tùy thuộc vào yếu tố bất ngờ. Ðây là một chiến dịch lớn xử dụng tới 60 chiến hạm. Các chiến hạm này phải lên đường một tháng trước cuộc tấn công và rất dễ bị khám phá. Các hệ thống tình báo của Anh, Mỹ và Nga có tầm hoạt động rất rộng rãi. Bộ tham mưu không tin kế hoạch này có thể bảo mật được.

    2. Bộ tham mưu không đồng ý Mỹ sẽ tấn công thẳng vào Nhật ngay, nếu chiến tranh xảy ra. Bộ tham mưu ước tính Mỹ sẽ lập căn cứ tiền phong tại quần đảo Marshalls trước, rồi sẽ chiếm dần từng quần đảo tới gần Nhật Bản hơn. Như vậy cuộc tấn công vào Trân châu cảng không cần thiết đến nỗi phải thực hiện trong những điều kiện nguy hiểm. Nếu không mở cuộc tấn công này, Nhật Bản sẽ có thời giờ tập trung tất cả sức mạnh vào một trận đánh quyết định mà từ lâu hải quân vẫn được huấn luyện sẵn sàng. Ðiều khôn ngoan nhất là chỉ nên giao chiến tại những vùng biển quen thuộc.

    3. Hầu hết các chiến hạm tham dự cuộc tấn công Hawaii đều phải tiếp tế nhiên liệu giữa đường, nhất là các diệt ngư lôi hạm phải tiếp tế tới hai lần. Theo thống kê thời tiết thì mỗi tháng chỉ có 7 ngày là có biển lặng sóng êm tại bắc Thái Bình Dương để có thể tiếp tế nhiên liệu dễ dàng. Nếu việc tiếp tế nhiên liệu không thực hiện được, chiến dịch tấn công sẽ thất bại và như thế các chiến hạm trở thành vô dụng mà đáng lẽ được xử dụng hữu hiệu hơn trong các chiến dịch khác. Sự bế tắc này sẽ đưa tới bế tắc khác. Nếu việc tiếp tế nhiên liệu giữa biển gặp khó khăn thì phải dùng tới radio, và do đó sẽ không giấu được bí mật của cuộc hành quân bí mật nữa.

    4. Theo tin tình báo của ta thì hàng ngày phi cơ Mỹ bay tuần thám xa Trân châu cảng tới 600 dặm. Ðiều này có nghĩa là lực lượng Nhật sẽ bị phi cơ Mỹ khám phá. Vì các tầu sân bay phải tiến tới cách mục tiêu 200 dặm, và do đó rất dễ trở thành mục tiêu cho các phi cơ Mỹ phản công.
    5. Bất cứ một tin tức nào về kế hoạch tấn công này bị tiết lộ cũng sẽ làm tan vỡ cuộc thương thuyết giữa Mỹ và Nhật đang diễn ra tại Hoa Thịnh Ðốn.

    Lúc đó Nhật đã mời đô đốc Nomura đang về hưu ra nhận chức đại sứ tại Mỹ với hy vọng thương thuyết hòa bình với Mỹ, vì Nomura đã từng là bạn của tổng thống Roosevelt khi Roosevelt là bộ trưởng hải quân. Nomura đang cố gắng dàn hòa với Mỹ về việc quân Nhật tiến vào Việt nam và vụ phong tỏa dầu hỏa của Mỹ. Ðô đốc Nagano luôn luôn xác quyết với Yamamoto rằng Nomura sẽ thành công trong sứ mạng giao phó, và không muốn kế hoạch của Yamamoto phá vỡ kế hoạch hòa bình với Mỹ của Nhật Bản.

    Nhưng theo nhiều sĩ quan cao cấp khác thì Mỹ không có hảo ý gì với Nhật Bản. Mỹ cũng cảm thấy bất ổn nên cũng đang mở rộng các hoạt động hải quân. Nhưng vào lúc đó Mỹ không thể nào mở hai chiến dịch cùng một lúc được, một tại Ðại Tây Dương và một tại Thái Bình Dương. Trong lúc đó thì hải quân Nhật đã sửa soạn và đang ngứa ngáy muốn ra tay ngay, bất cứ khi nào tình thế đòi hỏi.

    Như thế kế hoạch tấn công của Yamamoto vẫn chưa được sự đồng ý của hầu hết các đô đốc tư lệnh. Cuối tháng 10, khi nhận được 5 điểm phản đối của bộ tham mưu, Yamamoto rất bất bình. Yamamoto liền phái sĩ quan hành quân của mình là phó đề đốc Kuroshima đem lá thơ dưới đây đến bộ tham mưu hải quân tại Ðông Kinh:

    "Sự hiện diện của hạm đội Mỹ tại Hawaii là một lưỡi dao găm kề vào cổ họng chúng ta. Nếu Nhật chính thức tuyên chiến với Mỹ thì chiến dịch Ðông nam á sẽ rất dễ bị tấn công vào cạnh sườn."

    "Chiến dịch Hawaii vô cùng cần thiết. Nếu không thực hiện cuộc tấn công này thì đô đốc Yamamoto không tin rằng ông sẽ có đủ tin tưởng có thể làm tròn nhiệm vụ giao phó. Các khó khăn dầy dẫy của chiến dịch này không có nghĩa là không thực hiện nổi. Ðiều kiện thời tiết làm chúng ta lo ngại nhất, nhưng ít nhất cũng có bẩy ngày trong một tháng chúng ta có thể tiếp tế nhiên liệu được thì cơ hội thành công cũng không phải là nhỏ. Nếu cơ may đến với chúng ta thì chắc chắn chúng ta sẽ thành công."

    "Nếu vì bất cứ lý do gì chiến dịch tấn công Hawaii mà thất bại, thì điều đó có nghĩa là cơ may không thuộc về chúng ta. Ðó cũng là lúc mà chúng ta chấm dứt vĩnh viễn mọi chiến dịch. Nếu chiến dịch này thất bại thì đó là thất trận hoàn toàn."

    Mặc dầu các đô đốc khác bất bình câu nói cuối cùng trong lá thư của Yamamoto, nhưng lá thư này đã nâng cao lòng tin tưởng vào Yamamoto. Bộ tham mưu cảm thấy rằng nếu Yamamoto không hoàn toàn tin tưởng vào chiến thắng thì ông sẽ không bao giờ phiêu lưu mạo hiểm.

    Yamamoto ra lệnh cho đề đốc Kuroshima không được quay về mà không đạt được sự chấp thuận của bộ tham mưu. Trong lúc bộ tham mưu đang lưỡng lự cân nhắc thì Kuroshima gọi điện thoại cho Yamamoto đang đi bách bộ trên soái hạm. Yamamoto căn dặn Kuroshima: "Hãy bảo cho họ biết tôi sẽ từ chức Tổng Tư lệnh Liên Hạm Ðội và sẽ thân hành chỉ huy các tầu sân bay và lực lượng xung kích trong cuộc tấn công vào Trân châu cảng."

    Khi Kuroshima bước trở lại phòng họp và thông báo ý định mới của Yamamoto thì bộ tham mưu hoảng hốt nhưng vẫn không nhượng bộ. Sau một giờ bàn cãi nữa, Kuroshima bước sang phòng bên cạnh và báo tình hình cho Yamamoto. Kuroshima cho biết bộ tham mưu rất cứng rắn, nhất định dùng các tầu sân bay cho chiến dịch chiếm đảo dầu lửa Java. Cuộc điện đàm này rắt ngắn ngủi. Kuroshima mặt tái nhợt bước vào phòng họp và nói với các đô đốc trong phòng họp: "Tôi được lệnh của Tổng Tư lệnh Liên Hạm đội để thông báo cho quý vị hay nếu quý vị không đồng ý với kế hoạch tấn công Hawaii của ông ta thì ông ta sẽ từ chức và giải ngũ trở về đời sống dân sự."

    Ðó là một giây phút đầy xúc động và đó cũng là giây phút quyết liệt nhất. Yamamoto đã đem tất cả cuộc đời binh nghiệp của mình và tương lai hải quân Nhật lên bàn cân. Một đô đốc chảy nước mắt nói: "Trường hợp này phải trình lên đô đốc tham mưu trưởng ngay lập tức."

    Kuroshima được đưa vào phòng phó đô đốc Ito, tham mưu phó hải quân. Khi Ito nghe được những gì xảy ra, ông liền bước vào phòng tham mưu trưởng của đô đốc Nagano mà không phê bình gì cả. Bên ngoài mọi người chờ đợi một cách căng thẳng và nghe thấy những tiếng xì xào to nhỏ bên trong. Một lát sau đô đốc Nagano bước ra khỏi phòng, một tay ôm lấy vai Kuroshima và nói, "Tôi rất hiểu các cảm nghĩ của Yamamoto. Nếu ông ta tin tưởng đến như vậy thì ông ta được phép thực hiện kế hoạch của ông ta. Tôi chấp thuận kế hoạch của Yamamoto."

    Ðây chỉ là một sự đồng ý bất đắc dĩ, nhưng như thế là Yamamoto đã thắng. Kuroshima bay ngay về soái hạm với tin mừng: tham mưu trưởng hải quân đã bật đèn xanh cho Yamamoto. Hôm đó là ngày 3-11-1941. Chỉ còn lại 35 ngày nữa trước khi cuộc tấn công bắt đầu



    Những Chuẩn Bị Cuối Cùng


    Yamamoto vội xúc tiến chuẩn bị cho cuộc tấn công vì ông không còn nhiều thì giờ nữa. Ông cho thiết lập ngay trên tầu sân bay Akagi một mô hình rất giống vị trí của Trân châu cảng và các khu vực phụ cận. Mô hình này có mục đích giúp cho các pilot quen thuộc địa hình để cuộc tấn công đạt được kết quả đến tối đa.

    Tất cả các pilot tham dự chiến dịch Trân châu cảng được lệnh tập họp quanh mô hình này. Trung tá Genda, người phụ trách công cuộc huấn luyện cuối cùng, trình bầy cho các đội bay mục đích của việc thực tập. Từ trước các pilot tham dự các cuộc thực tập không tập những mục tiêu cố định, rất thắc mắc không hiểu cuộc thực tập có mục đích gì. Nay trung tá Genda nói thẳng cho họ biết họ sẽ tham dự cuộc tấn công các chiến hạm của Mỹ tại Trân châu cảng, và mục tiêu của họ là những tầu sân bay và chiến hạm bỏ neo trong quân cảng. Ðứng về phương diện quân sự thì nhiều chiến hạm lớn của Mỹ tập trung trong một quân cảng nhỏ hẹp như Trân châu cảng là một mục tiêu rất hấp dẫn cho các phi cơ oanh tạc.

    Genda trình bầy chi tiết các khu vực của đảo Oahu và Trân châu cảng. Khi Genda tiếp tục cuộc trình bầy một cách lạnh lùng thì nhiều pilot cũng cảm thấy một sự hồi hộp pha thêm chút e ngại trước chiến dịch quá táo bạo này. Genda cho biết nếu cuộc tấn công giữ được bí mật thì các phi cơ phóng thủy lôi sẽ đi tiên phong trong cuộc tấn công. Trái lại nếu kế hoạch bị bại lộ thì các oanh tạc cơ sẽ phải làm nhiệm vụ đầu tiên. Vừa phấn khởi vừa lo ngại, các pilot Nhật theo dõi các lời giải thích chỉ dẫn cặn kẽ của Genda cho họ trong lúc thi hành nhiệm vụ.

    Ngày 5-11, Yamamoto ra nhật lệnh hành quân số 1. Ðây là một lệnh tối mật và bao gồm những nét chính của cuộc tấn công bất ngờ vào Trân châu cảng. Kể từ sau nhật lệnh số 1 thì việc tấn công Trân châu cảng không còn là một giấc mơ của Yamamoto nữa, mà đã là một thực tế, một cơ hội nhổ đi con dao găm đâm vào trái tim Nhật Bản. Dưới đây là nguyên văn nhật lệnh đầu tiên:

    Sửa soạn khai chiến.
    Phải tiêu diệt hạm đội Mỹ tại phía đông.
    Phải cắt các đường hoạt động và tiếp tế của Mỹ tới Á đông.
    Phải ngăn chặn và tiêu diệt lực lượng địch.
    Phải khai thác chiến thắng để hủy diệt ý chí chiến đấu của địch quân.

    Yamamoto ra lệnh phải hoàn tất các chuẩn bị cuối cùng trước khi xuất quân vào ngày được gọi là ngày Y, và giờ khai chiến sẽ được công bố trong một Nhật Lệnh của Bộ Tư Lệnh Hoàng Gia. Hai ngày sau Yamamoto lại ra một nhật lệnh thứ hai nữa như sau: "Lực lượng xung kích phải giữ cực kỳ bí mật và sẽ điều động tập hợp tại vịnh Tankan ngày 22-11 để tiếp tế nhiên liệu."

    Vịnh Tankan nằm trong quần đảo Kuriles ở về phía bắc Nhật Bản. Trong lúc Yamamoto thận trọng thi hành kế hoạch tấn công thì lục quân không quan tâm tới Trân châu cảng. Ðiều lục quân mong đợi nhất là phải mở các cuộc hành quân ở phương nam. Lục quân dự định cuộc hành quân miền nam sẽ khởi sự vào ngày 1-12. Ngay từ đầu tháng 11, Yamamoto đã về Ðông Kinh để gặp tướng Terauchi, người chỉ huy cuộc hành quân phía nam, nhằm tấn công Tân gia ba, Nam dương, Miến điện, và Phi luật tân. Yamamoto đề nghị với Terauchi sẽ mở cuộc tấn công Trân châu cảng vào ngày chủ nhật thứ hai của tháng 12, để cho hạm đội Nhật Bản có thêm thời giờ sửa soạn. Terauchi và bộ tổng tư lệnh đồng ý. Như vậy cuộc chiến tại Thái Bình Dương được chính thức ấn định vào lúc 8:30 sáng ngày chủ nhật 7-12, giờ tại Hawaii.

    Tại sao Yamamoto chọn ngày chủ nhật để tấn công? Ðó là kết quả của một tin từ Honolulu gửi về. Vài ngày trước khi Yamamoto quyết định ngày tấn công, Yamamoto phái trung tá hải quân Suzuki giả trang làm một người hầu bàn trên chiếc thương thuyền ghé Hawaii để gặp tổng lãnh sự Nhật Nagao Kita. Suzuki lén đưa cho Kita một loạt gồm tới 97 câu hỏi, trong đó có câu hỏi "Ngày nào phần lớn chiến hạm Mỹ sẽ tập trung tại Trân châu cảng?"

    Khi câu hỏi này được chuyển cho Yoshikawa, thì Yoshikawa trả lời ngay không do dự là ngày chủ nhật. Khi bị hỏi vặn thêm tại sao lại là ngày chủ nhật, Yoshikawa cho biết ngay chủ nhật nào đô đốc Kimmel cũng đem cả hạm đội vào quân cảng.

    Sau khi ấn định ngày tấn công rồi, Yamamoto bổ nhiệm phó đô đốc Chuichi Nagumo vào chức Tư lệnh Lực lượng Xung kích trực tiếp tấn công Trân châu cảng. Nagumo có một lực lương bao gồm 23 chiến hạm trong đó có 6 tầu sân bay: Akagi, Kaga, Soryu, Hiryu, Zuikaku và Shokaku. Ðể bảo vệ sáu tầu sân bay mới tân trang này là hai tuần dương hạm lớn Hiei và Kirishima, hai tuần dương hạm nhỏ Tone và Chikuma, một tuần dương hạm nhẹ và chín diệt ngư lôi hạm mới.

    Trên sáu tầu sân bay sẽ có 423 phi cơ đủ loại. Ba mươi phi cơ dùng để tuần tiễu làm thành một cái dù lớn bảo vệ bên trên các tầu sân bay. Bốn chục phi cơ làm lực lượng trừ bị. Còn lại 353 phi cơ có nhiệm vụ tấn công quân cảng Trân châu cảng. Trong số các phi cơ có nhiệm vụ tấn công thì có 100 phi cơ loại Kates, trang bị súng 16 cm để oanh kích ở tầm cao, 40 phi cơ Kates khác dùng để phóng thủy lôi, 131 oanh tạc cơ và 79 chiến đấu cơ Zero. Các tuần dương hạm và chiến hạm khác cũng có một số phi cơ nổi để thám thính và để trợ giúp các phi đội chiến đấu.

    Ngày 10-11, đô đốc Nagumo ra nhật lệnh đầu tiên trên chiếc soái hạm Akagi đang bỏ neo tại Biển Inland. Cũng ngày hôm ấy tân Tham mưu trưởng của Liên Hạm đội là đô đốc Ukagi, đã đọc một bài diễn văn quan trọng, trong đó ông kêu gọi lòng ái quốc của các đội bayNhật trong một nhiệm vụ thiêng liêng cho tổ quốc:

    "Một hạm đội địch hùng hậu tập trung tại Trân châu cảng. Chúng ta phải diệt tan hạm đội này ngay khi cuộc chiến xảy ra. Nếu kế hoạch này thất bại ở bất cứ giai đoạn nào của cuộc hành quân, thì hải quân của chúng ta sẽ chịu số phận thảm hại sẽ không bao giờ có thể đứng lên được nữa."

    "Sự thành công của cuộc tấn công này vào Trân châu cảng sẽ chứng tỏ là một trận tương tự như trận Waterloo cho cuộc chiến sau đó. Vì lý do này, hải quân Hoàng gia sẽ tập hợp tất cả sức mạnh về chiến hạm và phi cơ để bảo đảm chiến thắng."

    "Hiện nay các kỹ nghệ nặng của Hoa Kỳ đang chuyển sang chế tạo chiến hạm, phi cơ và các khí cụ chiến tranh khác. Phải mất nhiều tháng mới đủ cho sức mạnh nhân lực của Hoa Kỳ động viên được để đương đầu với chúng ta. Nếu chúng ta bảo đảm được sự siêu việt chiến lược ngay từ lúc khởi đầu, bằng cách tấn công và chiếm được những yếu điểm bằng một cú đánh bất ngờ trong lúc Hoa Kỳ chưa sẵn sàng, thì chúng ta làm cho các cuộc hành quân sau này thuận lợi cho chúng ta. Hoàng thiên sẽ chứng giám cho sự chính đáng của chúng ta trong cuộc chiến này."
  5. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Diễn biến của trận đánh Trân Châu Cảng


    Mời các bác tham khảo các bài viết chi tiết về trận Trân Châu Cảng - Walter Lord - của bác Excocet theo đường link http://ttvnol.com/quansu/1207783



    Một số bức ảnh về trận Trân Châu Cảng




    [​IMG]
    Bản đồ cho thấy Hải lộ của quân Nhật khi tấn công Trân Châu Cảng và khi rút về nước




    [​IMG]
    Bản đồ trận Trân Châu Cảng cho thấy Hạm đội đặc nhiệm Nhật Bản tiến quá về phía Bắc đảo Oahu rồi mới tung phi cơ ra không tập căn cứ Hải quân Hoa kỳ. Tầu ngầm bỏ túi Nhật thì tấn công ở phia Nam nhưng đa số trường hợp đã không thành công

    Người Nhật tấn công thành hai đợt. Đợt đầu tiên bị phát hiện bởi radar của quân đội Mỹ ở khoảng cách 136 hải lý ( 252 km), nhưng lại bị nhầm thành máy bay ném bom của Không lực Mỹ đến từ lục địa Hoa Kỳ

    Diến giải các điểm đánh dấu trên bản đồ
    A. Ford NAS Island B. Hickam Field C. Bellows Field D. Wheeler Field
    E. Kaneohe NAS F. Ewa MCAS R- 1 . Radar Opana Station R- 2 . Kawailoa RS R- 3 . Kaaawa RS
    G. Haleiwa H. Kahuku I. Wahiawa Kaneohe J. K. Honolulu
    0 . B -17 bay tới từ lục địa 1 . Nhóm tấn công đầu tiên 1-1 . Máy bay ném bom 1-2 . Máy bay phóng ngư lôi 1-3 . Máy bay ném bom bổ nhào 2. Nhóm tấn công thứ hai 2-1. Máy bay ném bom 2 -1F . Máy bay tiêm kích 2-2 . máy bay ném bom bổ nhào

    Dưới:
    A. Wake Island B. Midway Islands C. Johnston Island D. Hawaii
    D-1. Oahu 1. USS Lexington 2. USS Enterprise 3. First Air Fleet





    [​IMG]
    [​IMG]
    Bản đồ mực nước của căn cứ Trân Châu Cảng cùng các địa điểm trọng yếu như vị trí của 08 chiếc thiết giáp hạm chủ lực, sân bay Hickam, sở chỉ huy, khu chứa dầu dự trữ, căn cứ tầu ngầm, xưởng đóng tầu Hải quân ...





    [​IMG]
    Căn cứ Trân Châu Cảng chụp từ một chiếc máy bay Nhật khi họ vừa mới đến được nơi này, cột nước là do một quả ngư lôi đầu tiên được phóng từ máy bay và nhằm vào chiếc thiết giáp hạm USS Virginia



    [​IMG]
    Bản đồ các ô thiết giáp hạm của Hoa kỳ khi Nhật bản bắt đầu tấn công




    [​IMG]
    Ảnh chụp chi tiết tàu chiến Hoa kỳ trong căn cứ Trân Châu Cảng khi quân Nhật bắt đầu nổ súng









    [​IMG]
    Ảnh máy bay chiến đấu Zero của Hải quân Nhật bản chuẩn bị cất cánh khỏi TSB Agaki để đi tấn công Trân Châu Cảng ngày 7 tháng 12 năm 1941


    [​IMG]
    Các máy bay Nhật chuẩn bị xuất phát từ tầu sân bay Shōkaku để tấn công Trân Châu Cảng



    [​IMG]
    Một máy bay phóng ngư lôi Nakajima B5N2 "Kate" Nhật bản cất cánh từ Tàu sân bay Shōkaku



    [​IMG]
    Máy bay ném bom bổ nhào Aichi D3A1 " Val " của đợt tấn công thứ hai chuẩn bị cất cánh từ tàu sân bay Sōryū




    [​IMG]
    Ảnh máy bay Nhật khi bắt đầu không kích Trân Châu Cảng - ảnh có vẻ như lấy từ trong phim nên không thật lắm, chiếc máy bay Nhật còn không thèm co hai càng lên he he




    [​IMG]
    Mặc dù bom đã được thả vào các ô thiết giáp hạm nhưng lính thủy Mỹ vẫn cứ ung dung vì tưởng rằng đây chỉ là tập trận




    [​IMG]
    Ảnh chiếc thiết giáp hạm USS Pennsylvania đằng sau những đống đổ nát của hai chiếc khu trục hạm USS DownesUSS Cassin. Chiếc này còn may mắn lắm he he






    [​IMG]
    Thiết giáp hạm USS California bị đánh chìm



    [​IMG]
    Thiết giáp hạm USS Arizona bị phát nổ



    [​IMG]
    Thiết giáp hạm USS Nevada đang cố gắng để thoát khỏi cảng


    [​IMG]
    Thiết giáp hạm USS West Virginia trúng hai quả bom ném trên không̉ và trúng bảy quả ngư lôi




    [​IMG]
    Các chiếc USS West Virginia bị hư hỏng nặng , USS Tennessee hư hỏng , và USS Arizona chìm




    [​IMG]
    Ảnh chiếc thiết giáp hạm Oklahoma bị dính ngư lôi nằm ngửa sườn như một con cá chết




    [​IMG]
    Ảnh căn cứ Trân Châu Cảng tan nát trong trận không kích của Không quân Nhật bản




    [​IMG]
    Ảnh máy bay oanh tạc cơ B17 của Hoa kỳ bị quân Nhật đánh quỵ trên sân bay




    [​IMG]
    Ảnh sân bay Hikcam bị đánh tan nát




    Hải quân Nhật công bố chiến thắng ngoạn mục tại Trân châu cảng như là một kỳ công trong việc bảo vệ hòa bình thế giới. Nhưng khi đô đốc Nagumo yêu cầu thăng thưởng cho 55 pilot tử trận trong cuộc tấn công thì bị từ chối với lý do là số sĩ quan được thăng thưởng quá nhiều. Các pilot của hải quân Nhật rất tức giận khi bộ Tư lệnh Hoàng gia công bố việc đánh đắm chiến hạm Arizona là công của thiếu tá Yokoyama, người chỉ huy các tiểu tiềm thủy đỉnh. Các pilot xác nhận rằng chiếc Arizona bị đợt tấn công của trung tá Shimazaki đánh chìm bằng hai trái bom, nhưng bộ tư lệnh đã cố tình thiên vị làm suy giảm công chiến thắng của các pilot hải quân.

    Cuộc tấn công Trân châu cảng đã đạt được những mục tiêu căn bản của Yamamoto là ngăn cản hạm đội Thái bình dương của Mỹ can thiệp vào các cuộc hành quân tại phía nam để chiếm khu vực dầu lửa. Nhưng cuộc tấn công này cũng không đạt được hoàn toàn các điều mong đợi của Yamamoto, vì các tầu sân bay Mỹ vẫn còn nguyên vẹn. Chính các tầu sân bay Mỹ mới đích thực là mục tiêu khi Yamamoto dự định và đặt kế hoạch tấn công. Các tầu sân bay Mỹ là mối quan tâm lo lắng nhất của Yamamoto vì các tầu sân bay có khả năng đem chiến trường lại gần Nhật bản. Yamamoto vẫn tiếp tục chiến thuật căn bản của ông là kết hợp các đội bay ưu tú trên 6 tầu sân bay. Các tầu sân bay này sẽ tập trung sức mạnh khủng khiếp, dụ các tầu sân bay Mỹ ra khơi giao chiến và tấn công hạm đội địch bằng một sức mạnh đè bẹp. Ðó là lý do của các trận hải chiến ác liệt tại biển San Hô và quần đảo Midway sau này.

    Về phần Mỹ, trận đánh Trân châu cảng là một chiến bại nặng nề, một bài học không thể quên được. Phải một thời gian khá lâu hạm đội Thái bình dương mới phục hồi lại được, trong khi hải quân Nhật tung hoành tại Thái Bình Dương mà không gặp một cản trở nào. Phải mãi sau khi đô đốc Yamamoto bị tổng thống Roosevelt ra lệnh chặn đường phục kích ám sát rồi, Mỹ mới lấy lại được thế thượng phong.

    Trong các chiến hạm Mỹ bị đánh chìm tại Trân châu cảng thì chiếc Arizona là chiến hạm lớn nhất. Ngày nay tại Hawaii có một đài kỷ niệm nơi chiếc Arizona bị đánh chìm. Hàng ngày hàng ngàn du khách được tầu hải quân chở ra đài kỷ niệm để tưởng nhớ các binh sĩ anh dũng của Mỹ đã can đảm chết theo chiến hạm Arizona. Trên đài kỷ niệm, du khách có thể trông thấy chiếc Arizona còn nằm dưới lòng biển, và thỉnh thoảng từng giọt dầu còn sủi lên, mặc dù con tầu đã chìm cách đây hơn một nửa thế kỷ rồi. Thực ra những giọt dầu đó là do một bộ máy người ta đặt ra sau này, cứ vài giây lại nhả ra một vài giọt dầu sủi lên, như là những giọt máu vẫn còn chảy ra từ một vết thương chưa lành, để gây xúc động và khơi dậy lòng ái quốc cho du khách Mỹ.

    Trận tấn công Trân châu cảng là một trận đánh rất đáng chú ý trong chiến sử thế giới. Trong trận đánh lớn nhưng ngắn ngủi này, binh sĩ của cả hai phe thù nghịch đều rất đáng kính trọng và ngưỡng mộ vì tinh thần ái quốc và lòng dũng cảm tuyệt vời của họ. Cả hai bên đều hãnh diện đã hoàn thành được nhiệm vụ mà quốc gia giao phó cho họ. Người Mỹ không hề có mặc cảm khi thua trận đánh đầu tiên này, bởi vì được hay thua một trận đánh trong một cuộc chiến dài bốn năm không quan trọng lắm. Chiến thắng trận đánh cuối cùng mới thực là quan trọng, và người Mỹ cuối cùng đã giành chiến thắng trong những trận đánh cuối cùng trong cuộc chiến tại Thái Bình Dương.
  6. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Trận vịnh Thái Lan hay là trận đánh chìm hai đại chiến hạm của Anh quốc

    Tóm tắt trận đánh


    Ngày 10 tháng 12 năm 1941

    Nơi Biển Đông Nam Á

    Kết quả Nhật Bản chiến thắng quyết định





    Các bên tham chiến


    Phe Đồng minh

    Lực lượng Z:
    Hải quân Hoàng gia
    Hải quân Hoàng gia Australia



    Chỉ huy

    Sir Tom Phillips
    John Leach
    William Tennant



    Sức mạnh

    1 thiết giáp hạm
    1 tàu tuần dương chủ lực
    4 tàu khu trục



    Thương vong

    1 thiết giáp hạm bị đánh chìm
    1 tàu tuần dương chủ lực bị đánh chìm
    840 người bị thiệt mạng



    Quân đội Nhật Bản

    Phi đoàn Không quân số 22: bao gồm
    Phi đội Genzan
    Phi đội Kanoya
    Phi đội Mihoro



    Chỉ huy

    Niichi Nakanishi
    Shichizo Miyauchi
    Hachiro Shoji



    Sức mạnh

    88 máy bay
    ( 34 máy bay phóng ngư lôi ,
    51 máy bay ném bom tiêu chuẩn,
    3 máy bay trinh sát )



    Thương vong

    3 chiếc máy bay bị phá hủy ,
    28 chiếc bị hư hỏng
    2 thủy phi cơ mất tích
    18 phi-công bị giết



    Trận đánh chìm chiếc HMS Prince of Wales và HMS Repulse là một trận chiến Hải quân của Chiến tranh thế giới II, đây là một trận đánh tiêu biểu minh họa hiệu quả của các cuộc tấn công bằng không quân để tiêu diệt một lực lượng hải quân không được bảo vệ tốt bởi hệ thống súng phòng và tầm quan trọng của việc bảo vệ trên không thậm chí được cung cấp từ các tàu sân bay trong bất kỳ hoạt động nào của một hạm đội.

    Trận đánh diễn ra ở phía đông Malaya, gần Kuantan, Pahang nơi mà tàu chiến của Hải quân Hoàng gia - các chiếcHMS Prince of WalesHMS Reulse đã bị tấn công bởi máy bay ném bommáy bay ném bom ngư lôi của Hải quân Đế quốc Nhật Bản cất cánh từ đất liền vào ngày 10 tháng 12 năm 1941. Phía Nhật Bản, trận đánh được gọi là trận Hải chiến ngoài khơi Malaya. Mục tiêu của Lực lượng Z, Trong đó bao gồm một tàu thiết giáp hạm, 1 tàu tuần dương hạm chủ lực và một đội bốn tàu khu trục là để đánh chặn cuộc xâm lược của Hạm đội Nhật Bản ở phía bắc Malaya. Tuy nhiên, lực lượng này không có bất kỳ hỗ trợ nào từ trên không, và họ đã nhận được lệnh đi xuống phía dưới bởi Đô đốc Sir Tom Phillips. Mặc dù người Anh đã có các cuộc chạm trán gần gũi với một vài tàu chiến của đối phương, họ đã thất bại trong việc tìm và tiêu diệt đoàn tầu vận tải chính. Họ đã bị tấn công và sau đó bị đánh chìm bởi nhiều máy bay ném bom tầm trung và tầm xa khi đang cố gắng để trở về Singapore.

    Sự kiện hai chiếc tàu này bị chìm làm suy yếu nghiêm trọng Hạm đội phương Đông đang đóng tại Singapore. Kết quả là xâm lược Hạm đội Nhật bản chỉ bị chặn đánh bởi tàu ngầm cho đến khi xảy ra trận ngoài khơi Endau ngày 27 tháng một năm 1942 .

    Bối cảnh


    Cả hai tàu đã được gửi tới Singapore vào tháng 12 năm 1941 , để phục vụ như là một lực cản trở cuộc xâm-lược của Nhật Bản , vốn đã được chứng minh trong cuộc xâm lược vào Đông Dương thuộc Pháp. First Sea Lord Sir Dudley Pound không cảm thấy Singapore được bảo vệ một cách đầy đủ, trừ khi Hải quân Hoàng gia phải gửi phần lớn tầu chủ lực của nó đến đó, để đạt được sự cân bằng với khoảng chín tàu chiến của Nhật Bản. Đó là không thể chấp nhận vì người Anh đang có chiến tranh với ĐứcItaly. Tuy nhiên, Thủ-tướng Chính phủ Winston Churchill rất lạc quan về tình hình đang được cải thiện ở Bắc Đại Tây Dương và Địa Trung Hải và bố trí ba tàu (bao gồm cả một tàu sân bay ) đến để tham gia bảo vệ thuộc địa được xem như là một thỏa hiệp quan trọng cho sự cần thiết để bảo vệ lãnh thổ của Anh thuộc địa khác nhau của nó trong Malaya, BorneoStraits khu định cư. Churchill của " đáng kể sự thiếu hiểu biết "và" phóng đại niềm tin vào sức mạnh của các " thiết giáp hạm , cùng với " một xu hướng can thiệp vào các vấn đề hải quân ", dẫn đến việc ông đề xuất một phi đội gồm ba chiếc tàu hiện đại: gồm một chiếc tàu thiết giáp hạm (như chiếc King George V hoặc chiếc Prince of Wales) và một chiếc tàu sân bay (như chiếc Formidable), thêm vào chiếc Repulse lúc này đang làm nhiệm vụ ở Ấn Độ Dương. Ông ta tin rằng đội tầu với số lượng nhỏ này có thể đóng vai trò như là một "fleet in being" và có thể ngăn chặn được hành động của Nhật Bản, như chiếc Tirpitz có lần đã làm được ở Biển Bắc, tuy nhiên không có kế hoạch chắc chắn cho hoạt động này. Đề nghị ban đầu của Anh bao gồm cả tàu sân bay HMS Indomitable thuộc lớp mới Illustrious để cung cấp bảo vệ trên không, mặc dù kế hoạch đã bị thay đổi khi chiếc Indomitable bị hư hỏng khi làm nhiệm vụ trong vùng biển Caribbê.

    Trong khi hành động của Churchill có thể được xem như là làm một việc làm vô ích và tốn kém , các tàu chiến chủ lực được gửi đến Singapore là một phần của kế hoạch chiến lược của Bộ Hải quân khi căn cứ hải quân được thiết lập. Quy mô của việc triển khai này đã giảm đi trong thập niên 1930, khi Đức và Ý tạo ra các mối đe dọa mới đến lợi ích của Anh ở Đại Tây Dương và Địa Trung Hải. Tuy nhiên, ông ta vẫn cho rằng cần một lực lượng đáng kể các tàu chiến để ngăn chặn sự xâm lược của Nhật Bản. Churchill còn nghĩ ( sai ) là Hoa Kỳ sẽ đồng ý để gửi Hạm đội Thái Bình Dương của họ - bao gồm tám thiết giáp hạm - đến Singapore trong trường hợp chiến sự với Nhật Bản nổ ra, hoặc rằng sự đóng góp của Anh sẽ thêm vào giá trị răn đe của hạm đội Mỹ, nên (Hạm đội Thái Bình Dương) sẽ ở lại Trân Châu Cảng. Chính phủ các nước AustraliaNew Zealand, những quốc gia đã gửi phần lớn các lực lượng vũ trang của họ vào chiến dịch Bắc Phi, cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của Singapore trong việc răn đe sự xâm lược của Nhật Bản. Việc Australia cam kết tham chiến ở châu Âu đã lung lay trong các năm 1939 và 1940, và lại càng lung lay một cách nghiêm trọng sau vụ tấn công của Nhật Bản vào Trân Châu Cảng, Hong Kong, Darwin, và Kokoda Track, vì vậy nỗ lực của Churchill có ý nghĩa ngu xuẩn về quân sự, nhưng về mặt chiến lược có ý nghĩa lại có ý nghĩa cao về chính trị.

    Những gì được lập thành Force G, bao gồm chiếc thiết giáp hạm hiện đại Prince of Wales, chiếc Repulse - chiếc tuần dương thiết giáp hạm được chế tạo từ WWI và bốn tàu khu trục HMS Electra, HMS Express, HMS Encounter, và HMS Jupiter, đã đến Singapore và ngày 2 tháng 12 năm 1941. Chúng sau đó được tái lập thành Lực lượng Z. Chiếc tàu sân bay mới HMS Indomitable được giao cho Force G, nhưng trong khi làm nhiệm vụ tại Jamaica nó đã bị mắc cạn tại lối vào cảng Kingston vào ngày 03 tháng 11 tháng 1941. Chiếc Indomitable cần 12 ngày để sửa chữa tại ụ cạn của nó ở Norfolk, Virginia và có thể sẽ không tham gia phần lớn các hoạt động. Chiếc Indomitable chỉ có thể mang một phi đội Fairey Fulmars và một phi đội Hawker Sea Hurricane, các loại máy bay này kém hơn loại A6Ms của Nhật Bản. Các đội bay trong khi tự tin là có thể không chiến với máy bay Zero, nhưng thực tế lại thiếu đào tạo và kinh nghiệm nếu so sánh với các đội bay của Nhật Bản; có nguy cơ rằng chiếc HMS Indomitable "Cũng sẽ nằm trong hóa đơn của hàng thịt – ý nói cũng tèo nốt " nếu nó có mặt trong trận đánh. Một tàu sân bay nữa – chiếc HMS Hermes (đi cùng với chiếc Prince of Wales tại Cape Town), cũng tới Singapore để tham gia Lực lượng Z, nhưng đã không được triển khai vì thiếu tốc độ.

    Ngày 01 tháng 12 , người ta được thông báo rằng Sir Tom Phillips đã được thăng làm Đô đốc và được bổ nhiệm làm chỉ huy trưởng Hạm đội phương Đông. Vài ngày sau chiếc Repulse bắt đầu một chuyến hành trình tới Úc với các chiếc HMS VampireHMS Tenedos, nhưng lực lượng đã bị thu hồi đến Singapore để tập hợp thành lực lượng có thể chống lại Nhật Bản.


    [​IMG]
    Đô đốc Sir Tom Phillips (phải) , chỉ huy của lực lượng Z và phó của ông, Chuẩn Đô đốc Arthur Palliser, tại kè bến cảng ở căn cứ hải quân Singapore ngày 2 tháng 12 năm 1941.


    Cũng tại Singapore là những chiếc tuần dương hạm hạng nhẹHMS Durban, HMS Danae, HMS Dragon, HMS Mauritius, và các tàu khu trục HMS Stronghold, Encounter và Jupiter. Chiếc tàu tuần dương hạng nặngHMS Exeter, tuần dương hạm hạng nhẹ Java của Hà Lan, thêm hai khu trục hạm của Anh (ScoutThanet), và bốn khu trục hạm Hoa kỳ (Whipple, John D. Edwards, Edsall, và Alden) có thể đến trong vòng ba ngày .

    Mặc dầu các chiếc Durban và Stronghold đã sẵn sàng, Đô đốc Philips đã quyết định để chúng ở Singapore vì chúng không thể chạy nhanh như các chiếc khác. Ngoài ra, các chiếc Danae, Dragon, Mauritius, Encounter và Jupiter cũng tại Singapore nhưng đang được sửa chữa và không sẵn sàng để chiến đấu.


    [​IMG]
    Ảnh chiếc HMS Prince of Wales rời Singapore ngày 8 tháng 12 1941


    [​IMG]
    Ảnh chiếc HMS Repulse rời Singapore ngày 8 tháng 12 1941



    Chuẩn bị của Nhật Bản


    Churchill công bố công khai các chiếc Prince Of Wales và Repulse đã được gửi đến Singapore như là một lực lượng để cản trở người Nhật. Để đáp lại, Đô đốc Isoroku Yamamoto gửi 36 chiếc máy bay ném bom Mitsubishi G4M để tăng cường cho những chiếc Mitsubishi G3M hiện tại đang ở phi đội KanoyaGenzan, và các phi đội này bắt đầu đào tạo phi-công một cách gấp rút cho một trận tấn công vào hai chiếc tàu chiến của Anh. Phi đội Genzan được chỉ huy bởi Trung tá Niichi Nakanishi, phi đội Kanoya được chỉ huy bởi Trung tá Shichizo Miyauchi và Mihoro bởi Trung tá Hachiro Shoji.



    [​IMG]
    Ảnh máy bay ném bom Mitsubishi G4M Betty của Không quân Nhật bản - phi đội Kanoya




    [​IMG]
    Ảnh máy bay ném bom Mitsubishi G3M Nell của Không quân Nhật bản


    Chiến sự bắt đầuVào buổi sáng sớm ngày 08 tháng 12 năm 1941 (giờ địa phương ), khi máy bay ném bom của phi đội Mihoro tấn công Singapore. Các chiếc Prince Of Wales và Repulse bắn trả bằng súng phòng không, không có chiếc máy bay nào bị bắn rơi và các tàu chiến cũng không bị thiệt hại. Người Nhật đã đổ bộ quân của họ lên Kota Bharu, Malaya vào ngày 08 tháng 12 (giờ địa phương ), và lực lượng trên bộ của Anh đã bị áp lực mạnh .

    Trong thời gian đó, tin tức về căn cứ Trân Châu Cảng bị tấn công và tám tàu thiết giáp Mỹ đã bị đánh chìm hoặc bị vô hiệu cũng đến nơi. Kế hoạch lập trước thời chiến là Hạm đội Thái Bình Dương của Hoa kỳ có thể chuyển đến Singapore để củng cố cho người Anh khi chiến tranh nổ ra. Kế hoạch này bây giờ là không thể. Philips đã có kết luận trong một cuộc thảo luận trước đó với Tướng Mỹ Douglas MacArthur và Đô đốc Thomas C. Hart rằng hai tàu chủ lực của ông ta là không đủ sức mạnh để đương đầu với người Nhật Bản. Tuy nhiên, với việc người Nhật đe dọa tràn ngập Malaya, Philips đã bị ép phải sử dụng tàu của mình trong vai trò tấn công và ông tập hợp đội tàu nhỏ của mình để đánh chặn và phá hủy đoàn tầu chở quân cho cuộc xâm lược của Nhật Bản ở Biển Đông.

    Đô đốc Philips biết các đơn vị Không quân Hoàng gia tại địa phương không thể đảm bảo an toàn trên không cho các tàu của mình vì họ chỉ được trang bị với một số lượng ít ỏi các máy bay chiến đấu cũ kỹ (Mặc dù có một phi đội, Phi đội số 453 quân Hoàng gia Australia được trang bị với máy bay Brewster Buffaloes, đóng ở Sembawang để cung cấp bảo vệ tầm gần; cho thấy những chiếc máy bay này hoạt động một cách nghèo nàn như thế nào, giá trị của chúng bị nghi ngờ ) và sân bay của họ bị đe dọa bởi các cuộc tấn công của lực lượng trên mặt đất của Nhật Bản. Ông được tiến cử để chỉ huy tuy nhiên vì ông nghĩ rằng lực lượng Nhật Bản không thể hoạt động quá xa từ đất. Ông ta cũng cho rằng tàu của ông sẽ ít bị thiệt hại khi phải chịu đựng những đợt tấn công chết người từ trên không, đến thời điểm đó không có tàu chiến chủ lực nào từng bị đánh chìm bởi không kích ( tàu lớn nhất bị đánh chìm bằng máy bay trước lúc đó chỉ duy nhất là một chiếc tàu tuần dương hạng nặng ); do đó , "có lẽ ông đã lưỡng lự trong các đánh giá của mình " Hơn nữa, ông lại không biết về trình độ đánh bom và phóng ngư lôi bằng máy bay của Nhật Bản, cả hai kỹ năng này người Nhật đều hơn hẳn so với RN. Ngoài ra, giống như phần lớn các sĩ quan của RN, Phillips đánh giá thấp khả năng chiến đấu của Nhật Bản.

    Báo cáo của chiếc I- 65 xác nhận sự hiện diện của tàu chiến Anh, đến được sở chỉ huy của phi đoàn 22 khoảng hai giờ sau đó. Vào thời điểm đó , máy bay của họ đang trong quá trình nạp bom cho một cuộc tấn công vào Singapore Harbour, nhưng họ ngay lập tức chuyển sang ngư lôi. Các máy bay ném bom đã không thể sẵn sàng cho đến lúc 18:00 giờ.

    Vào khoảng 17:30, chỉ nửa giờ trước khi mặt trời lặn, lực lượng Z lại bị phát hiện bởi ba chiếc thủy phi cơ Aichi E13A, vốn đã được phóng từ các tàu tuần dương Nhật Yura, KinuKumano dùng để hộ tống các tàu vận tải. Những máy bay này tiếp tục tiếp tục theo sát tầu Anh. Vào khoảng 18:30, chiếc Tenedos được lệnh tách ra để trở về Singapore, bởi vì nó đã sắp hết nhiên liệu, với chỉ thị phải liên lạc với Chuẩn Đô đốc AFE Palliser, chi tiết để hoạt động như liên lạc với Không quân Hoàng gia tại Malaya, Phillips không còn ý định tấn công Singora, trong khi đó Phillips tự thay đổi hướng đi vào lúc 1.9:00 đối diện với Singora, để đánh lừa các máy bay theo đuôi, sau đó đi về phía nam Singapore vào lúc 10:15, khi bóng tối bao chùm lên hải đoàn của ông. Chiếc Tenedos nghiêm chỉnh báo cáo vào lúc 0.8:00, qua đó nó giữ gìn được bí mật vị trí của Phillips .

    Một cuộc tấn công ban đêm bằng không quân đã được cố gắng tiến hành bởi người Nhật, vì họ sợ rằng người Anh sẽ tìm thấy những đoàn tầu vận tải, nhưng thời tiết xấu ngăn cản họ tìm kiếm được đoàn tàu này và họ phải quay trở lại sân bay của họ tại Thủ Dầu MộtSài Gòn vào khoảng nửa đêm.


    Quay trở lại Singapore

    Đêm đó , một trong những thủy phi cơ Nhật Bản đã thả một quả pháo sáng vào chiếc tàu tuần dương hạng nặng của Nhật Bản – chiếc Chōkai, nó nhầm lẫn chiếc này với chiếc Prince of Wales. Sau này, lực lượng Nhật Bản gồm sáu tuần dương hạm và nhiều khu trục hạm di chuyển về phía đông bắc. Phát pháo sáng này cũng được nhìn thấy bởi các lực lượng Anh, họ cũng sợ rằng đã bị xác định và sau đó quay lưng chạy về phía đông nam. Tại thời điểm này, các lực lượng chỉ cách nhau khoảng hơn 5 dặm Anh ( 9 km), nhưng không nhìn thấy nhau, và các lực lượng Nhật Bản đã không bị hiện lên trên radar của chiếc Prince Of Wales. Vào lúc 20:55 , Đô đốc Philips hủy bỏ các hành động và nói rằng họ đã mất đi yếu tố bất ngờ và ra lệnh cho lực lượng Z quay trở về Singapore.

    Trên đường về, họ bị phát hiện và báo cáo bởi chiếc tàu ngầm Nhật Bản I- 58 vào lúc 0.3:40. Chiếc I- 58 báo cáo rằng nó đã bắn năm quả ngư lôi và đều bị trượt, và sau đó bị mất đuôi lực lượng Z ba giờ sau đó. Lực lượng Anh đã không nhìn thấy những quả ngư lôi, và không bao giờ biết họ đã bị tấn công. Báo cáo từ chiếc I- 58 đến được sở chỉ huy của phi đoàn 22 vào lúc 0.3:15 và 10 máy bay ném bom của phi đội Genzan được cử đi vào lúc 0.6:00 để tiến hành một tìm kiếm các con tàu trong khu vực. Phi đoàn Genzan cất cánh vào lúc 0.7:55, phi đoàn Kanoya cất cánh vào lúc 0.8:14 và Mihoro vào lúc 0.8:20. Họ nhận được mệnh lệnh tiếp tục tìm vị trí ước tính tốt nhất của các con tàu



    Không quân Nhật Bản tấn công


    Vào sáng hôm sau lúc 0.0:50 ngày 10 tháng 12, Phillips nhận được một báo cáo từ Palliser về việc người Nhật Bản sẽ đổ bộ xuống Kuantan, trên bờ biển phía đông của Malaya, nửa đường giữa Singapore và Kota Bharu. Lực lượng Z tiến lên theo sự chỉ thị chung chung này, mà không có tín hiệu Palliser ý định của ông (mà đã có thể tiết lộ vị trí của mình ). Palliser không thể lường trước điều này và yêu cầu yểm trợ trên không từ F2As của Semabang. Phải cho đến khi tin nhắn được gửi qua radio từ chiếc Repulse một giờ sau khi quân Nhật tấn công thì chiếc máy bay đầu tiên của Không quân Hoàng gia mới được gửi đi. Vào lúc 0.5:15, các mục tiêu đã bị phát hiện ở đường chân trời; suy đoán rằng họ là đội quân xâm lược, lực lượng Z lao về phía họ. Nó hóa ra chỉ là một chiếc trawler kéo xà lan. Vào lúc 0.6:30, chiếc Repulse báo cáo có nhìn thấy một chiếc máy bay bám theo các con tàu. Vào lúc 0.7:18, chiếc Prince Of Wales bắn ra một chiếc máy bay trinh sát Supermarine Walrus, nó đã bay tới Kuantan và không thấy có gì và báo cáo lại cho chiếc Prince of Wales, và lại bay tới Singapore. Chiếc Express được gửi tới khu vực này để điều tra, công việc tìm kiếm không phát hiện ra được điều gì. Vào lúc 10:05, chiếc Tenedos báo cáo nó bị tấn công bởi máy bay Nhật khoảng 140 dặm về phía đông nam của lực lượng Z. Cuộc tấn công được tiến hành bởi chín máy bay ném bom hai động cơ Mitsubishi G3M " Nell " từ phi đội Genzan thuộc phi đoàn Không quân 22, căn cứ tại Sài Gòn, mỗi chiếc trang bị một quả bom xuyên giáp 500 kg ( £ 1.100 ). Họ tưởng lầm chiếc tàu khu trục là chiếc tàu thiết giáp và họ đã lãng phí bom đạn của mình mà không quả bom nào trúng mục tiêu. Vào lúc 10:15, nhiều máy bay Nhật Bản phát hiện ra đội tàu Anh, sau khi quân Z không tìm thấy bất kỳ lực lượng xâm lược Nhật Bản nào và đã được nhóm lại ở phía nam.



    [​IMG]
    Không ảnh của Nhật Bản cuộc tấn công đầu tiên vào chiếc HMS Prince of Wales và Repulse. một chùm khói màu đen có thể được nhìn thấy phát ra từ chiếc Repulse, chiếc này mới bị trúng một quả bom và có ít nhất sáu quả khác được thả xung quanh nó. Chiếc Prince of Wales có thể nhìn thấy là đang vận động . Khói trắng từ ống khói cho thấy con tàu đang nỗ lực để tăng tốc độ.



    [​IMG]
    Ảnh chụp chiếc HMS Prince of Wales và Repulse trong trận chiến từ một chiếc tầu khu trục hộ tống


    Vào lúc 11:13, hải đội bị tấn công bởi ba đợt máy bay Nhật Bản từ 17 máy bay ném bom Nell đầu tiên của phi đội Mihoro, được trang bị bom 500 kg ( £ 1.100 ), cũng như tám chiếc Nell với hai quả bom 250 kg (550 lb). Ngoài những quả bom 250 kg (550 lb) ném sút trúng, họ ném được chỉ một phát trúng vào khu nhà chứa máy bay của chiếc Repulse và tạp ra một đám cháy nhỏ. Con tầu bị giảm tốc xuống còn 25 kt ( 46 km / h, 29 mph ) một lần nữa trong vòng vài phút.

    Khoảng năm 11:40, 16 máy bay ném bom phóng ngư lôi Nell đầu tiên (hai phi đội từ Genzan Group) đã đến nơi và tấn công, bắn bốn quả ngư lôi vào chiếc Prince of Wales. Làn sóng tấn công đầu tiên đã tạo ra một thảm họa khi 1 quả ngư lôi đánh vào chiếc trục chân vịtcánh quạt bên ngoài cửa tầu của nó – làm cho nó bị chạy xoay vòng với tốc độ tối đa, chiếc trục bị xoắn lại và bị vỡ ra thành nhiều đoạn, cũng như miếng đệm dùng để ngăn nước biển chảy vào chiếc hầm có chiếc trục động cơ của con tàu. Nó đã bị ngập khoảng 2.400 tấn nước và tốc độ của nó giảm xuống còn 16 kt ( 30 km / h, 18 mph). Theo ghi chép của Trung úy Wildish, chỉ huy của phòng động cơ B đã chỉ ra rằng các trục đã được ngừng lại một cách thành công, nhưng khi khởi động lại các trục, nước đã đổ xô vào thông qua các đoạn trục bị hỏng, làm ngập các phòng máy. Cũng bị ngập từ phát ngư lôi này và sau đó nước lại làm ngập tiếp phòng nồi hơi Y , các trung tâm máy móc phụ trợ phòng , máy móc thiết bị dự phòng của phòng máy Y, các phòng máy phát điện diesel và một số khoang phía sau .

    Phát ngư lôi đơn lẻ này tạo ra ba hiệu ứng tê liệt. Đầu tiên, nó gây ra cú nghiêng 11,5 độ về bên trái, có nghĩa là tháp súng phòng không 5,25 inch ở mạn phải đã trở nên quá cao để bắn trả những kẻ tấn công. Hơn nữa, tháp súng kép phía sau 5,25 inch của con tầu đã bị cắt ra, làm cho nó không thể tiếp tục bắn trả các đợt tấn công. Mất điện ở khu vực máy bơm của con tầu có nghĩa là không có khả năng bơm nước lũ ra ngoài nhanh hơn số lượng chảy vào phần thân con tàu đang bị ngập nước. Thứ hai, con tầu không thể sử dụng máy phát điện phụ, điều này rất quan trọng đối với hệ thống truyền thông nội bộ, thông gió, bánh lái, máy bơm, việc điều chỉnh súng và nâng hạ các khẩu súng 5,25 inch và súng 2 pounder . Tất cả những tháp pháo S1 và S2 5,25 inch trở nên gần như không thể điều khiển được và tạo ra một yếu tố phức tạp nữa vào danh sách, làm cho thủy thủ đoàn của con tầu thậm chí không thể để kéo các khẩu súng theo cách thủ công bằng cách sử dụng các dây chuyền ở xung quanh. Các thủy thủ cũng gặp khó khăn khi đưa 2 chiếc gía đỡ nặng của súng 2 pounder vào hoạt động theo phương pháp thủ công. Thứ ba, tình trạng ngập lụt bên trong chở nên rất nặng nề và những thiệt hại ở trục mạn trái con tàu làm cho nó chỉ chạy bằng động cơ ở mạn phải và chỉ có thể và chỉ có thể chạy ở tốc độ tối đa 15 knot và hệ thống lại bằng điện của nó cũng trở nên không thể đáp ứng nổi - con tàu trở nên hầu như không thể kiểm soát được. Chiếc HMS Prince of Wales vẫn có thể chống trả các đợt không kích dữ dội bằng các tháp súng S1 và S2 ở trên cao vào lúc 1.2:41 giờ, những quả bom được rải xuốt từ bên này qua bên kia nhưng chúng không thể thâm nhập qua giáp sàn tàu. Một quả bom rơi xuống giữa những người bị thương đang được tập trung tại nhà chứa máy bay của con tầu gây ra thương vong lớn. Chiếc HMS Express đi song song áp mạn tầu và đón lấy các thủy thủ đoàn bị thương và không thể chiến đấu. Lệnh bỏ tàu được đưa ra và sau khi chiếc Prince of Wales bị nghiêng mạn trái và chìm vào lúc 1.3:18 nó quệt vào chiếc Express lúc này đang đỗ sát bên cạnh để thu nhặt người sống sót và tí nữa thì kéo chiếc tàu khu trục này đi theo với nó.


    [​IMG]
    Thủy thủ đoàn của chiếc Prince of Wales bị đánh chìm từ bỏ con tầu và sơ tán sang chiếc tàu khu trục của Express. Những phút sau đó chiếc Prince of Wales đột nhiên nghiêng đi và chiếc Express đã phải rút lui. Quan sát thấy tháp súng 5,25 in đã quá cao, không có khả năng để bắn trả máy bay oanh tạc đối phương.




    [​IMG]
    Chiếc Prince of Wales bị nghiêng đi rất nhiều sau cuộc tấn công.


    Một cuộc tấn công ở tầm cao của các máy bay ném bom nhằm vào chiếc Repulse mà không gây được thiệt hại gì. Sau đó là một cuộc tấn công thứ hai của tám chiếc máy bay phóng ngư lôi từ phi đội Mihoro tấn công vào chiếc Repulse từ hai hướng, nhưng nó tránh được tất cả các quả ngư lôi " brilliantly " và tiếp tục chạy. Cuộc tấn công thứ ba và là đợt cuối cùng của 26 chiếc máy bay phóng ngư lôi Mitsubishi G4M " Betty " từ phi đoàn Kanoya Group, một phi đội thuộc Không đoàn số 21 có căn cứ gần Sài Gòn, tấn công từ nhiều hướng. Chiếc Repulse vốn đã tránh được 19 quả ngư lôi cho đến lúc đó, đã bị tóm gọn giữa hai đợt tấn công ngư lôi tấn công của Nhật bản và bị bắn trúng ít nhất hai phát ( có thể là bốn phát) ngư lôi, gây thiệt hại cho bánh lái đầu tiên của nó. Tuy nhiên, chiếc Repulse không có vỉ ngư lôi chống như chiếc Renown chị em của nó, và cũng không có một hệ thống vách ngăn, phân khoang chống thấm nước của một tàu chiến hiện đại. Nó bị đánh chìm rất nhanh và đột ngột và thuyền trưởng ra lệnh cho thủy thủ đoàn nhảy qua boong tầu xuống nước; chiếc Repulse nghiêng trầm trọng về phía trong một thời gian khoảng sáu phút và cuối cùng lật úp và chìm vào lúc 1.2:23 với thương vong cực kỳ nặng nề .

    Người Nhật đã bắn trúng sáu, có thể là tám trong số 49 quả ngư lôi được phóng đi, trong khi chỉ bị mất có ba chiếc máy bay trong cuộc tấn công này (một máy bay phóng ngư lôi Nell từ phi đội Genzan và hai máy bay phóng ngư lôi Betty từ phi đội Kanoya) và một máy bay thứ tư bị hư hỏng nặng và đã được xác định là bị rơi khi hạ cánh . Một cuộc khảo sát gần đây vào xác của hai con tàu của Explorer Club " Job 74 " đã được hoàn tất vào ngày 11 tháng sáu 2007 xác nhận rằng chỉ có bốn phát ngư lôi trúng vào chiếc Prince of Wales, và hai hai phát ngư lôi có thể đã trúng vào chiếc Repulse.

    Lực lượng không quân làm nhiệm vụ bảo vệ trên không cho Lực lượng Z, mười chiếc Buffaloes thuộc Phi đội số 453 - Không quân Hoàng gia Australia , tới nơi vào lúc 1.3:18, lúc mà chiếc Prince of Wales đang chìm. Họ cố tóm được một chiếc máy bay trinh sát được điều khiển bởi Hoashi Masame, chiếc còn ở lại để xác nhận con tầu bị chìm, nhưng chiếc này nhanh chân trốn thoát khi họ đuổi theo. Mà nó bị bắn hạ, người Nhật có thể đã cho rằng hai tàu này vẫn sống sót sau cuộc tấn công, buộc họ phải tung ra một cuộc không kích nữa.


    Sau trận đánh

    Tàu khu trục ElectraVampire tiến vào để cứu những người còn sống sót của chiếc Repulse, trong khi chiếc Express cứu những người còn sống sót từ chiếc Prince Of Wales. 840 thủy thủ đã thiệt mạng, 513 người của chiếc Repulse và 327 người của chiếc Prince Of Wales. Sau khi họ được cứu sống, một số người sống sót từ chiếc Repulse đã cố gắng điều khiển các phương tiện chiến đấu (action stations ) của chiếc Electra, để các thủy thủ của chiếc Electra có thể rảnh tay giải cứu nhiều người sống sót hơn nữa. Đặc biệt, các xạ thủ của chiếc Repulse đã điều khiến các khẩu súng 4,7 - inch ( 120 mm) X và Y, nha sĩ của chiếc Repulse đã hỗ trợ cho các đội y tế của chiếc Electra để chăm sóc những người bị thương. Tổng cộng, gần 1.000 người sống sót của chiếc Repulse đã được cứu sống, trong đó chỉ riêng chiếc Electra đã cứu được 571 thủy thủ. Chiếc Vampire cứu được 9 sĩ quan, 213 thủy thủ và 1 phóng viên chiến tranh từ chiếc Repulse, và 2 thủy thủ từ chiếc Prince Of Wales.

    Đô đốc Phillips và thuyền trưởng John Leach, chỉ huy của chiếc Prince Of Wales, nằm trong số những người mất mạng. Thuyền trưởng William G. Tennant của chiếc Repulse được cứu bởi chiếc Vampire. Người sống sót là sỹ quan cấp cao nhất của chiếc Prince Of Wales - Trung tá A. G. Skipwith, trung úy trưởng của con tầu được sống cứu bởi chiếc Express.


    Tạp chí London Gazette đăng báo những hồi ký của Trung úy Flt Vigors có đoạn:
    "
    Người ta có thể thấy rõ ràng rằng ba tàu khu trục mất nhiều giờ để cứu hàng trăm người đang bám vào những mảnh vụn, và bơi lội xung quanh đó trong vũng nước dầu bẩn thỉu. Hơn nữa, mối đe dọa về đánh bom không kích và tấn công súng máy sắp xảy ra. Mỗi người trong những người này đều nhận ra nguy cơ đó. Tuy nhiên, khi tôi bay xung quanh, nhữngi người đàn ông này ra sức vẫy và đưa ngón tay cái của mình lên khi tôi bay qua họ. Sau một giờ, thiếu xăng bắt buộc tôi phải quay về, nhưng trong thời gian này tôi vẫn thấy nhiều người đang trongi nguy hiểm nhưng vẫn cố vẫy tay, cổ vũ và vui đùa , như những người được hoạch định một kỳ nghỉ tại Brighton đang vẫy tay chào một máy bay bay thấp. Nó làm tôi nghĩ rằng đây là một cái gì đó trên cả bản tính con người. Chỉ huy phi-côngTim Vigors, Dfc, Không quân Hoàng gia Australia

    Trên đường trở lại Singapore với những người sống sót, chiếc Express cùng chiếc Stronghold bốn tàu khu trục Mỹ lên phía bắc. Chiếc Express báo hiệu trận đánh đã kết thúc, nhưng các tàu này vẫn tiến vào khu vực này để tìm kiếm những người còn sống sót nữa. Không còn tìm thấy gì nữa. Trong khi trở về Singapore từ đợt tìm kiếm này, chiếc Edsall bắt giữ một chiếc tầu đánh cá bằng lưới rà, chiếc được nhìn thấy bởi lực lượng Z sáng hôm đó. Chiếc tầu đánh cá được xác định là chiếc Shofu Fu Maru và được đưa tới Singapore, nơi thủy thủ đoàn của Nhật Bản bị giải giới .


    Trong khi các máy bay ném bom của Nhật Bản đã trở về sân bay của họ tại Đông Dương thuộc, Một đợt máy bay thứ hai được chuẩn bị cho một đợt tấn công nữa vào lực lượng Z. Họ đã không nhận được các thông tin chính xác về tiến độ của trận chiến. Cuộc tấn công thứ 2 này bị hủy bỏ ngay khi nhận được báo cáo xác nhận từ hoa tiêu Hoashi Masame.


    Ngày hôm sau, Trung úy Haruki Iki bay tới địa điểm của trận đánh và thả hai vòng hoa xuống biển. Một là cho các thành viên đội bay - đồng bào của phi đội Kanoya của họ những người thiệt mạng trong trận đánh và một số thủy thủ Anh, những người đã chết trong trận chiến, bởi vì sự dũng cảm của họ trong trận chiến đấu bảo vệ những con tàu và họ đã được hết sức ngưỡng mộ từ tất cả các phi-công trong phi đội của Haruki Iki.


    Ảnh hưởng của trận đánh chìm các chiến hạm Anh


    Sáng hôm sau, sau khi trận chiến kết thúc Thủ-tướng Winston Churchill nhận được một cú điện thoại ở bên giường bệnh từ Sir Dudley Pound, the First Sea Lord
    "
    Pound : Thưa thủ-tướng , tôi xin báo cáo với ngài rằng chiếc Prince of Wales và chiếc Repulse cả hai đã bị đánh chìm bởi người Nhật Bản - chúng tôi nghĩ rằng đó là do không quân. Tom Phillips đã chết đuối.

    Churchill : Ngài có chắc chắn đó là sự thật ?

    Pound : Không có gì nghi ngờ cả.

    Churchill dập máy

    Trong tất cả các cuộc chiến tranh, tôi chưa bao giờ nhận được một cú sốc trực tiếp hơn ... Khi tôi bật dậy, cảm giác đầy kinh sợ về tin tức của vụ chìm tầu tràn ngập trong tôi. Không còn có tàu chiến Anh hoặc Mỹ ở Ấn Độ Dương hay Thái Bình Dương ngoại trừ những chiếc của Mỹ sống sót trận Trân Châu Cảng , những chiếc đang nhanh chóng quay trở lại California. Hơn nữa là tất cả các vùng lãnh thổ bằng nước rộng lớn của Nhật Bản dường như là không thể xâm phạm, và ở khắp mọi nơi thì chúng tôi dường như là yếu đuối và trần truồng không được bảo vệ (nv naked).

    Singapore cơ bản đã trở thành một căn cứ trên đất liền sau khi cả hai chiếc tàu chủ lực đã bị tiêu diệt . Kết hợp với hậu quả của cuộc tấn công vào Trân Châu Cảng trước đó, nó làm cho lược lượng Đồng minh chỉ còn có ba tàu chủ lực hoạt động tại chiến trường Thái Bình Dương: các chiếc USS Enterprise, USS LexingtonUSS Saratoga, cả ba trong số đó đều là tàu sân bay. Hạm đội phương Đông dành phần còn lại của lực lượng để rút tàu chiến về đảo Ceylon và Đông Ấn thuộc Hà Lan. Họ đã không được tăng cường bởi các thiết giáp hạm cho đến tháng 3 năm 1942, với sự xuất hiện của HMS Warspite và bốn chiếc thiết giáp hạm lớp Revenge. Mặc dù chúng có sở chỉ huy tại Ceylon, tất cả năm chiếc tàu chiến này đều sống sót sau trận tấn công vào Ấn Độ Dương.


    Các chiếc Prince of Wales và Repulse là những tàu chiến chủ lực đầu tiên đã tích cực bảo vệ chính mình khi bị đánh chìm bởi không quân trong khi di chuyển ngoài biển khơi . Nó thể hiện tính dễ tổn thương của ngay cả ở những chiếc tàu nổi hiện đại nhất trước tiềm năng của những cuộc không kích và khơi dậy sự cần thiết của sự yểm trợ trên không bao gồm cả việc bảo vệ chống lại các cuộc tấn công không kích trong tương lai. Phi đội Genzan đã cố gắng phóng một quả ngư lôi vào chiếc tàu sân bay USS Lexington ngày 20 tháng 2 1942, sau khi nó mất mười bảy máy bay khi chiến đấu với các tầu hộ tống và súng phòng không của con tầu này.


    [​IMG]
    Chiếc chuông vớt lên từ chiếc Prince of Wales, đây là những gì còn lại của các chiếc Prince of Walesvà Repulse đối với người Anh hơ hơ
  7. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Trận hải chiến Biển Java

    Tóm tắt trận đánh



    Ngày diễn ra: Ngày 27 tháng 2 năm 1942

    Nơi: Biển Java

    Kết quả: Nhật Bản chiến thắng quyết định


    Các bên tham chiến


    Lực lượng Đồng minh (ABDA)


    Hải quân Hoàng gia Hà Lan
    Hải quân Hoa Kỳ
    Hải quân Hoàng gia Anh
    Hải quân Hoàng gia Australia


    Chỉ huy

    Karel Doorman
    Conrad Helfrich




    [​IMG]
    Ảnh đô đốc Hải quân Hà Lan - Doorman, người tử trận trong trận biển Java



    [​IMG]
    Ảnh đô đốc Hải quân Hà Lan - Helfrich, người còn sống sót để chứng kiến lễ ký kết đầu hàng không điều kiện của Người Nhật trước Đồng minh

    Sức mạnh

    2 tàu tuần dương hạng nặng
    3 tàu tuần dương hạng nhẹ
    9 tàu khu trục



    Thương vong

    2 tuần dương hạm bị đánh chìm
    3 khu trục hạm bị đánh chìm
    2.300 thủy thủ thiệt mạng



    Quân đội Nhật bản

    Hải quân Đế quốc Nhật Bản


    Chỉ huy

    Takeo Takagi



    [​IMG]
    Ảnh đô đốc Takeo Takagi, người chiến thắng trận biển Java, nhưng ông cũng chỉ sống đến năm 1944


    Sức mạnh

    1 tàu sân bay hạng nhẹ
    2 tàu tuần dương hạng nặng
    2 tuần dương hạm hạng nhẹ
    14 tàu khu trục
    10 tàu vận tải


    Thương vong

    1 tàu khu trục bị hư hỏng



    [​IMG]
    Bản đồ vùng biển Java nơi diễn ra trận hải chiến biển Java


    Bối cảnh của trận đánh

    Cuộc xâm lược của Nhật Bản vào vùng Đông Ấn thuộc Hà Lan tiến triển với một tốc độ nhanh chóng khi họ tiên tiến từ thuộc địa của họ ở Quần đảo Palau và chiếm các căn cứ ở Sarawak và miền Nam Philippines . Họ chiếm được các căn cứ ở miền đông Borneo và ở miền Bắc Celebes trong khi quân đoàn , có màn bởi tàu khu trụctàu tuần dương với không khí hỗ trợ cung cấp bởi bầy máy bay tiêm kích hoạt động từ các căn cứ bắt, hấp về phía nam thông qua Eo biển Makassar và vào Biển Molucca. Để chống lại những lực lượng xâm lược là một lực lượng nhỏ , chủ yếu là tàu chiến Mỹ và Hà Lan , nhiều người trong số họ trong Thế chiến thứ vintage, dưới sự chỉ huy của Đô đốc Thomas C. Hart.

    Ngày 23 tháng 1 năm 1942 , một lực lượng của bốn khu trục hạm Mỹ tấn công một đoàn tầu chở quân xâm lược Nhật Bản tại eo biển Makassar khi nó tiếp cận Balikpapan ở Borneo. Ngày 13 tháng 2 , quân Đồng minh đã chiến đấu không thành công trong Trận Palembang, để ngăn chặn việc Nhật Bản chiếm cảng dầu lớn ở phía đông Sumatra. Vào đêm 19 tháng hai - 20 tháng 2 , một lực lượng Đồng Minh tấn công quân xâm lược ở ngoài khơi Đông Bali trong eo biển Trận Badung. Cũng trong ngày 19 Tháng 2 , các tầu của Hạm đội thứ nhất Nhật bản, dưới sự chỉ huy của Đô đốc Chuichi Nagumo, tấn công và bị đắm ở cảng Darwin ở miền bắc Australia mà rendered nó vô dụng như là một nguồn cung cấp và căn cứ hải quân để hỗ trợ hoạt động tại Đông Ấn .

    Ngay trước khi trận chiến bắt đầu, cán cân không thuận lợi cho lực lượng Đồng Minh. Họ không có được chỉ huy thống nhất ( tàu hải quân đến từ bốn riêng biệt) và mất tinh thần bởi các cuộc không kích liên tục,và có một suy nghĩ chung rằng người Nhật là bất khả chiến bại (cho đến lúc đó). Ngoài ra, sự phối hợp giữa lực lượng hải quân và lực lượng không quân Đồng minh là rất nghèo nàn.


    [​IMG]
    Bản đồ trận chiến biển Java - vị trí và hướng di chuyển của các hạm đội đối địch




    [​IMG]
    Bản đồ chi tiết hơn nữa vị trí các chiến hạm của quân Đồng minh bị đắm trong trận đánh





    Diễn biến trận đánh


    Các đội tàu nhìn thấy nhau khoảng 16:00 ngày 27 tháng Hai và tiến vào gần đến tầm bắn, nổ súng lúc 16:16. Cả hai bên thể hiện các kỹ năng xạ kích và phóng ngư lôi nghèo nàn trong giai đoạn này của cuộc chiến. Những điểm đáng chú ý ví dụ như là chiếc Exeter bị hư hỏng bởi một phát đạn 8 in ( 200 mm) trúng vào phòng lò hơi. Chiếc tàu sau đó khập khiễng đi về Surabaya, và được hộ tống bởi chiếc Witte de With. Các tầu Nhật Bản phóng hai loạt ngư lôi lớn, gồm 92 quả nhưng chỉ trúng được một quả vào chiếc Kortenaer. Nó được gạch do một Long Lance, đã phá vỡ hai và chìm nhanh chóng sau khi bị trúng đạn. Chiếc Electra bảo vệ chiếc Exeter, tham gia vào một cuộc đấu súng với các chiếc Jintsu và Asagumo, chiếc này bắn trúng đối phương nhiều phát đạn nhưng cũng bị thiệt hại nghiêm trọng ở cấu trúc thượng tầng của mình. Sau đó một đám cháy nghiêm trọng bắt đầu ở chiếc Electra và tháp pháo còn lại của nó đã hết đạn và nó phải ly khai cuộc chiến. Về phía Nhật Bản, chỉ có chiếc Asagumo bị buộc phải nghỉ ngơi vì bị hư hại.

    Hạm đội Đồng Minh đã bị phá vỡ ra và chuyển đi khoảng 18:00, và bị bao phủ bởi một màn khói của 4 tàu khu trục của Hoa Kỳ thuộc Sư đoàn 58 Tầu khu trục ( DesDiv 58 ). Họ cũng bắn ra một quả ngư lôi tấn công nhưng ở một phạm vi quá xa để có hiệu quả. Lực lượng của Doorman quay về phía bờ biển phía nam Java, sau đó về phía tây và phía bắc trong đêm xuống trong một nỗ lực để né tránh các nhóm hộ tống Nhật Bản và luồn vào các đoàn côngvoa. Đó là vào thời điểm này các tàu của DesDiv 58, ngư lôi của họ đã cạn, còn lại trên sáng kiến riêng của họ để trở về Surabaya .

    Ngay sau đó, lúc 21:25, chiếc Jupiter đâm vào một quả thủy lôi và bị đánh chìm trong khi khoảng 20 phút sau, đội tàu đi qua nơi chiếc Kortenaer bị đánh chìm trước đó, và chiếc Encounter được tách ra để cứu những người sống sót. Lực lượng của Doorman bây giờ giảm xuống còn bốn tàu tuần dương, một lần nữa lại gặp phải các nhóm hộ tống của Nhật Bản lúc 23:00, cả hai bên trao đổi các phát súng trong bóng tối ở tầm xa, cho đến khi các chiếc De Ruyter và Java bị đánh chìm, bởi một trong những loạt đạn tàn phá Long Lance salvo . Doorman và hầu hết các phi hành đoàn của ông đã đi xuống với De Ruyter; chỉ 111 đã được cứu từ cả hai tàu . Chỉ có các tàu tuần dương Perth và Houston vẫn ; thấp trên nhiên liệu và đạn dược, và theo hướng dẫn mới nhất của Doorman , hai tàu đã về hưu , đến lúc Tanjung Priok ngày 28 tháng 2 .

    Mặc dù hạm đội Đồng minh đã không chặn được hạm đội xâm lược, cuộc chiến đã làm cho những người bảo vệ Java có thêm thời gian một ngày nghỉ ngơi.(thật là nực cười đổi 01 hạm đội lấy 1 ngày nghỉ ngơi )

    (Trích từ cuốn Sấm sét Thái Bình Dương) Riêng phần hải lực Đồng minh thì một mệnh lệnh của Bộ tham mưu hỗn hợp Đồng minh đã giao cho Đô đốc Hart, lực lượng này đủ mạnh để ngăn chặn quân Nhật mở cuộc tấn công cấp thời. Hạm đội của Đô đốc Hà Lan Ian Doorman gồm có ba tuần dương hạm hạng nhẹ, chiếc De Ruyter, chiếc Java và chiếc Tromp, hạm đội của Đô đốc Mỹ Glassford có một tuần dương hạm nặng, chiếc Houston, hai tuần dương hạm nhẹ Boise và Marblehead, và hạm đội của Phó Đô đốc Anh Collins (cựu Hạm đội China fleet) còn gồm tuần dương hạm nặng Exeter, tuần dương hạm nhẹ Perth và một đám các chiến hạm nhỏ già nua của Anh hay của Úc. Cùng với bảy chiến hạm chính yếu ấy còn có thêm bảy khu trục hạm Hà Lan, chín Mỹ, bốn Anh, cũng như một hạm đội tàu ngầm 38 chiếc (13 Hà Lan, 25 Mỹ).

    Về phương diện tổng quát, hải lực Đồng minh như vậy có thể so sánh được với lực lượng hải quân Nhật có ý định mạo hiểm đi vào biển Java, nhưng có điểm khác nhau là chúng không được thuần nhất, chia rẽ vì ngôn ngữ khác nhau, không có chủ thuyết chiến thuật và không có phương tiện báo hiệu chung.

    Hơn nữa, ở cấp chỉ huy tối cao, còn lâu mới có đồng quan điểm. Đã chứng kiến các cuộc oanh tạc xuống căn cứ Cavite và Corregidor, Hart không còn có ảo tưởng gì về việc thắng trận. Ông chỉ có một ý tưởng là giữ cho các tuần dương hạm của ông hoạt động phía Đông Java để giúp chúng chạy trốn kịp thời về Úc châu. Collins, bị ám ảnh bởi sự phòng thủ Tân Gia Ba, chỉ quan tâm đến những gì xảy ra tại phía Tây. Riêng phần Phó Đô đốc Hà Lan Ian Helfrich, Tư lệnh Hải quân Hà Lan, rất bực bội phải nhận sự lệ thuộc của người ta áp đặt lên ông. Ông ước tính một cách hữu lý rằng tốt hơn hết là đặt tất cả hải lực Đồng minh dưới quyền ông và sử dụng Bộ tham mưu của ông hơn là đặt ra một Bộ tham mưu mới vào phút chót. Trong tình cảnh trái nghịch nhau đó, Hart chấp nhận giải pháp đơn giản nhất: để cho các Tư lệnh hạm đội quyền có sáng kiến rộng rãi và chỉ can thiệp vào bằng cách ra lệnh cho Hải quân Mỹ mà thôi.

    Chính ông là người được vinh dự nhờ một sứ mạng tấn công hữu hiệu đầu tiên đánh vào hạm đội tập trung của Nhật. Ngày 20 tháng giêng, được tin có một đoàn công voa lớn lao đang bỏ neo ngoài khơi Balikpapan, ông ra lệnh cho Đô đốc Glassford tiến đến tấn công. Chiếc Boise và chiếc Marblehead vừa đến Kupang, hải cảng chính của đảo Timor để được tiếp tế nhiên liệu sau kế hoạch hộ tống các đoàn công voa khởi hành từ Úc và trở về. Ngay khi được tiếp tế xong, Glassford nhổ neo cùng với hai tuần dương hạm và bốn khu trục hạm để đến trước mặt Balikpapan lúc 2 giờ sáng ngày hôm sau nữa.

    Ngay khi khởi hành, rủi ro đã xảy ra, chiếc Boise, mà Glassford dùng làm chiến hạm chỉ huy và dẫn đầu, đụng phải đá ngầm trong eo biển Sape. Một vết thủng quan trọng làm nước tuôn vào được phát giác, Đô đốc phải kéo cờ lệnh trên tuần dương hạm Marblehead và cho chiếc Boise trở lai Úc châu. Giây lát sau, chính chiếc Marblehead dừng lại vì hỏng máy. Sau khi sửa chữa tạm thời, chiếc tuần dương hạm lại tiếp tục chạy nhưng vì nó chỉ có thể chạy với tốc lực 15 gút, Glassford đành để cho các khu trục hạm vượt qua tiến về phía Balikpapan và cho chúng điểm hẹn để che chở chúng khi rút lui.

    Bốn chiến hạm nhỏ này, được đặt dưới quyền chỉ huy sáng chói của Đại tá Paul Talbot, đến Balikpapan lúc 3 giờ sáng và thấy một đám dương vận hạm tập trung lớn lao của Nhật in bóng đằng sau ánh lửa của các chiếc giếng dầu đang bốc cháy. Trong hơn một giờ, các khu trục hạm len lỏi vào giữa đoàn tàu vừa chạy vừa bắn và phóng tất cả các thuỷ lôi. Bị bất ngờ, vì cuộc tấn công đột ngột, quân Nhật phản ứng chậm chạp và khi các khu trục hạm tập họp để giải cứu, chúng không còn thể nào đuổi kịp kẻ tấn công. Tất cả chiến hạm Mỹ trở về Sourabaya mà không bị trở ngại gì.

    Đấy là chiến thắng đầu tiên của các chiến hạm Đồng minh kể từ khi khởi đầu chiến tranh và quân Mỹ hân hoan ca khúc khải hoàn, tuy nhiên những gì lẽ ra phải là một cuộc tàn sát, trong thực tế chỉ như một vết kim châm. Gần như tất cả các thủy lôi của Mỹ đều tác động tệ hại, chạy ngang qua bên dưới tàu địch rồi nổ thật chậm hoặc là tịt ngòi luôn. Tổn thất của Nhật giới hạn trong số bốn chiếc tàu chở hàng và một tàu hộ tống nhỏ. Các cuộc đổ bộ có chậm đi đôi chút, nhưng không gián đoạn.

    Tuy vậy cuộc tấn công tại Balikpapan đem lại một kết quả may mắn: nó làm cho mũi tiến quân của Nhật quyết định lấy một điểm tựa khác tại Bandermasin, phía bị trì hoãn lại ít lâu, thật vậy Bộ tư lệnh Nhật tây Bornéo, trước khi khởi cuộc tấn công.

    Tháng giêng yên tĩnh trôi qua không bị cuộc báo động mới mẻ nào và, ngày 2 tháng 2, Hart muốn tái diễn cuộc tấn công với sự hậu thuẫn của Hải quân Hà Lan, vào Balikpapan mà lần trước đã gần đạt được thành công hoàn toàn. Một lực lượng hải quân đột kích được thành lập đặt dưới quyền chỉ huy Phó Đô đốc Doorman với những chiếc De Ruyter, Tromp, Marblehead và Houston, ba khu trục hạm Hà Lan và bốn của Mỹ. Hải Lực nhổ neo tại Sourabaya trong đêm, nhưng đến sáng ngày 3 tháng 2, trong lúc lực lượng xung kích đang chạy theo hàng dọc cách phía bắc Bali 50 hải lý, thì một đoàn 80 oanh tạc cơ Nhật đột ngột hiện ra khỏi các đám mây và ném bom xuống đoàn chiến hạm Đồng minh. Ba tuần dương hạm bị trúng bom và Doorman phải cho lệnh quay lui để trở về Tjilatjap, trên bờ biển phía nam Java, hải cảng duy nhất nằm ngoài tầm oanh tạc cơ Nhật. Khi đến Tjilatjap, bảng kết toán những thiệt hại nặng nề: tuần dương hạm Marblehead bị hư nặng đến nỗi phải gửi về Mỹ, chiếc Houston bị sập tháp pháo phía sau và bộ phận điều khiển hướng bắn chống phi cơ bị hỏng. Chỉ có chiếc cuối cùng này là có thể được sửa chữa tại chỗ, tuy nhiên chiếc Houston vẫn cứ đuợc giữ lại vì sáu khẩu 203 ly còn bắn được.

    Đấy không phải là tai biến độc nhất trong ngày, một thương thuyền chở súng phòng không của Mỹ trên đường đi đến Palembang bị đánh chìm ngoài khơi Sumatra và một tiểu đoàn chuyên viên tác xạ phòng không bị mất tích trong một tai nạn xe lửa kinh hồn gần Batavia.


    Vài ngày sau, cơ sở tình báo thuộc quyền thông báo cho Wavell một hải lực tập trung của Nhật đang được thành lập tại quần đảo Anambas. Tân Gia Ba đã bị vây hãm, đích đến của các chiến hạm này chỉ có thể là Sumatra vì nơi đây các mỏ dầu hoả phong phú tạo thành mục tiêu chính yếu của địch. Ông ra lệnh ngay cho Doorman tập họp tất cả các chiến hạm có mặt tại phía tây Java và cho Brereton tung ra tất cả các oanh tạc cơ có sẵn trên quần đảo Anambas. Không có một pháo đài bay nào ở trong tình trạng bay được, do đó chính các oanh tạc cơ của không lực RFA vừa mới đến Palembang được giao cho sứ mạng này.

    9 giờ tối ngày 11 tháng 2, chừng 20 chiếc Blênhim và Hudson nối đuôi nhau ở đầu phi đạo. Khi vài chiếc đầu tiên vừa cất cánh, một cơn giông nhiệt đới ào đến và mau lẹ biến thành cuồng phong dữ dội. Ba phi cơ rơi vỡ tan ở cuối phi đạo, chiếc thứ tư cất cánh được nhưng phải quay về và đáp xuống ngay. Chỉ có 5 chiếc Hudson là bay đến được Anambas nhưng thời tiết quá xấu và hoả lực phòng không quá dữ dội đến nỗi các phi-công đại phải ném bom và quay về Palembang.

    Sáng hôm sau, tin tức cho hay là đoàn tàu địch đã nhổ neo hướng về phía Nam. Cuộc xâm chiếm Sumatra bắt đầu.

    Trong những ngày 12 và 13 tháng 2, một thời tiết dễ sợ vẫn tiếp tục che chở đoàn công voa Nhật tránh khỏi không lực RFA. Mặc dầu bị tấn công vài lần, toàn thể đoàn tàu đã đến được eo biển phân cách Palembang và đảo Banka. Bộ binh Anh và Hà Lan bị hải pháo từ các chiến hạm địch mau lẹ gây tán loạn và các xuồng đổ bộ bắt đầu đổ quân lên bãi biển. Bình minh ngày 14, ba trăm sáu mươi binh sĩ nhảy dù Nhật được thả xuống vùng lân cận phi trường chính của Palembang trong khi đó các khu trục cơ Nhật bắn phá vào các phi cơ-may thay không có là bao nhiêu-còn đậu dưới mặt đất. Sau những trận đánh rất dữ dội kéo dài suốt ngày, Tư lệnh các đơn vị quân đội Hà Lan quyết định tập trung lực lượng tại phi trường chính. Nhưng các phi cơ Nhật được tiếp tế ngay tại phi trường này lại cất cánh lập tức và bắn xối xả liên tục vào các đơn vị bộ binh Đồng minh. Sáng ngày 15 tháng 2, không còn vấn đề phản công nữa nhưng chỉ còn vấn đề là làm sao rút lui thật nhanh để đến được Java qua Ostaven và eo biển Sonde.

    Trong khi các trận đánh trên đang diễn ra, Đô đốc Doorman theo lệnh của Hart, đã cho phân tán mỏng các chiến hạm phía nam Bali để đặt chúng ra ngoài tầm oanh tạc cơ địch và giờ đây đang tập họp chúng để đến tấn công các đoàn công voa Nhật tại Sumatra. Nhưng các chiến hạm này lại ở cách xa mục tiêu đến 800 hải lý.

    Mãi đến tối ngày 14 tháng 2, những chiếc De Ruyter, Java, Tromp và Exeter được hộ tống bởi tuần dương hạm hạng nhẹ của Úc Hobart, bốn khu trục hạm Hà Lan và sáu của Mỹ, mới đến được eo biển Sonde.

    Đoàn tàu vượt qua eo biển trong đêm tối mịt, khiến chiếc phóng ngư lôi hạm của Hà Lan Van Ghent, bị mưa lũ che khuất, đã đụng phải đá ngầm bị thiệt hại nặng nề. Bình minh hôm sau, đoàn tàu ra ngoài khơi đảo Banka, chạy vòng phía Bắc đảo này để đánh bọc hậu đoàn dương vận hạm Nhật đang buông neo trước Palembang.

    Đến 8 giờ sáng ngày 15, do một khoảng trời sáng, đoàn tàu Đồng minh bị một phi cơ Nhật trông thấy. Một giờ sau, đợt phi cơ oanh tạc đầu tiên bay đến. Bay cao khỏi tầm đạn DCA của các chiến hạm, nhưng các oanh tạc cơ này cũng vẫn thả bom rất chính xác và hạm đội của Doorman đành bỏ cuộc tấn công. Nhờ các vận chuyển liên tục, các tuần dương hạm tránh được các đòn trực tiếp và chỉ phải chịu đựng vài quả bom nổ gần; nhưng cuộc báo động nóng bỏng biết bao! Vào khoảng 6 giờ chiều, Doorman tập họp được hạm đội trở lại và chạy trở về eo biển. Hôm sau, hạm đội trở về buông neo tại Tjilatjap. Chiếc tuần dương hạm cũ kỹ Hobart và các chiến hạm tuần tiễu nhỏ của Anh có vẻ bị đe doạ quá nên được phép chạy về Colombo.



    [​IMG]
    Ảnh các máy bay oanh tạc cơ của Nhật bản đang không kích hạm đội Đồng minh - đây là một trong những yếu tố chính để làm nên chiến thắng của người Nhật tại trận biển Java


    Chứng cứ cho thấy rằng, không được không quân che chở, hạm đội Đồng minh chỉ có thể hành quân ban đêm bằng cách áp dụng chiến thuật “Hit and run” (đánh và chạy).

    Ngày 15 tháng 2 còn được đánh dấu bởi nhiều thảm hoạ khác. Tại Tân Gia Ba, quân Nhật chiếm được các hồ chứa nước ngọt. Dự trữ xăng cũng như đạn pháo binh đều cạn. Các tướng lĩnh chỉ huy ba điểm tựa, đang còn đánh nhau với địch, báo cho Percival rõ rằng mọi cuộc phản công đều bất khả và quân đội thiếu nước không thể nào chiến đấu hơn 24 giờ nữa. Toan tính rút lui về thành phố và tổ chức chiến đấu từ nhà này qua nhà kia đã có lúc được liệu đến nhưng số lượng người tị nạn Âu châu về bản xứ đông đến nỗi một quyết định như vậy chắc chắn sẽ kéo theo một cuộc tàn sát không thể tưởng tượng được, Percival báo cáo cho Wavell rõ tình trạng bi thảm hiện tại của ông. Điều này là cả một đòn búa bổ kinh hồn đối với Wavell. Ông vẫn còn hy vọng Tân Gia Ba đứng vững vài tuần và ý tưởng về một đạo quân Anh với quân số quan trọng nhường ấy lại phải đầu hàng làm ông không thể chịu đựng nổi. Ông trả lời Percival bằng cách nhắc lại rằng mỗi giờ phút đứng vững có tầm quan trọng sống còn và phải chiến đấu “chừng nào có thể gây được thiệt hại cho địch quân”. Khi nhận được điện văn này những quân nhân đáng thương phòng vệ Tân Gia Ba phải nấp kín trong hâầm bị cơn khát và sốt hành hạ, rõ ràng là không còn khả năng gì gây tổn thất cho địch. Đến một giờ trưa, Percival gửi một đại diện đến gặp tướng Yama-sita, ông này đòi hỏi phải đích thân tư lệnh quân Anh đến gặp. Điều kiện đầu hàng thật khắc nghiệt. Chừng 80.000 quân Anh phải đầu hàng với tất cả quân cụ và các thường dân phải được đoàn ngũ hoá để tái lập công sở và các tư gia bị bom đạn phá huỷ. Môộ vài cuộc hành quyết công khai và cuộc tàn sát các người bị thương đang nằm chật ních trong các bệnh viện đánh dấu bước khởi đầu của một chế độ chiếm đóng tàn nhẫn nhất trong chiến tranh.


    Cùng ngày hôm đó, tuần dương hạm Houston của Mỹ cùng với ba khu trục hạm hộ tống rời hải cảng Darwin (Úc châu) để che chở cho hai dương vận hạm chở quân Úc lên đường đến Sourabaya. Bình minh hôm sau, đoàn tàu bị oanh tạc cơ tấn công và một phi cơ thám thính báo cáo cho Wavell biết có nhiều hàng không tầu sân bay ở phía bắc đảo Timor. Để tránh một thảm hoạ mới, ông ra lệnh cho Hart cho các dương vận hạm quay về Darwin và gọi chiếc Houston đến Tjilatjap. Tin tức do ABDA nhận được này hoàn toàn chính xác. Sáng ngày 19 tháng 2, trong khi các dương vận hạm vừa trở về Darwin, các tầu sân bay của Nagumo giáng cho hải cảng này một đợt tấn công tiêu huỷ. Tất cả các cơ sở hải cảng và bến tàu đều bị tiêu diệt, các tàu chở đạn nổ tung, bốn chiếc khác đều bị tiêu diệt, các tàu chở đạn nổ tung, bốn chiếc khác bị đánh chìm hay bị lật nghiêng. Mười khu trục cơ Mỹ trên đường bay đến Java bị hạ và 13 chiếc khác bị tiêu diệt trên mặt đất. Đến giữa trưa, các oanh tạc cơ của không đoàn 21 Nhật đến thay phiên cho phi cơ thuộc các hàng không tầu sân bay để hoàn tất công việc san bằng các cơ sở hải cảng Darwin thành bình địa. Đến tối ngày bi thảm đó, 11 chiến hạm Đồng minh bị mất, 25 phi cơ bị huỷ diệt cũng như tất cả kho hàng tiếp tế dự trữ. Mục tiêu đầu quí giá Darwin vốn là trạm tiếp sức cho lực lượng tăng viện của Hoa Kỳ đến Java bị loại bỏ trong vòng nhiều tháng.

    Song song với cuộc tấn công này, quân Nhật bắt đầu đổ bộ lên Bali. Helfrich ra lệnh cho Doorman vội vàng tập trung các tuần dương hạm lúc đó đang được phân tán mỏng, để tấn công lực lượng đổ bộ bằng mọi giá. Thấy rằng thời gian đã quá chậm trễ không thể tập họp chiến hạm trước khi tấn công, Doorman ấn định một điểm hẹn phía Tây Bali. Ông nhổ neo từ Tjilatjap với chiếc De Ruyter và chiếc Java trong khi đó chiếc Tromp còn ở trước Batavia mở hết tốc độ chạy về phía Đông. Java là chiến hạm đầu tiên thấy địch quân và khai hoả lúc 10 giờ đêm vào các tàu chở quân địch. Trong cuộc đụng độ ngắn ngủi sau đó, một tàu phóng ngư lôi Hà Lan bị trúng một tạc đạn và bị chìm sau khi nồi súp-de nổ tung. Vì một chiếc khác bị mắc cạn trong eo biển Bali, lực lượng hộ tống của Doorman giảm thiểu còn hai khu trục hạm. Ông ra lệnh ngưừn chiến đấu chờ chiếc Tromp đến cùng với bôn khu trục hạm Mỹ. Nhưng hệ thống liên lạc vô tuyến quá xấu, không thể lập được liên lạc với nhau và chiếc Tromp với bôn khu trục hạm chạy trước, đến chiến trường lúc một giờ sáng mà không biết chuyện gì đã xảy ra. Các khu trục hạm Mỹ phóng tất cả thuỷ lôi mà không giảm tốc độ vào các chiếc bóng nổi bật trên khối bờ biển đen sậm. Không có quả nào nổ cả. Các khu trục hạm hộ tống của Nhật đuổi theo ngay và rơi vào chiếc Tromp vốn đang khai hoả vào chúng và bị bắn chìm một chiếc. Thế rồi đến lượt nó cũng bị trúng đạn và một khu trục hạm Mỹ bị đánh chìm.

    Đến 2 giờ 30 sáng, các tuần dương hạm của Doorman đến tiếp cứu nhưng một tuần dương hạm và nhiều khu trục hạm của Nhật đuổi kịp chiếc Tromp và tập trung hoả lực vào nó, mức độ hư hỏng trầm trọng đến nỗi phải khó nhọc lắm nó mới thoát khỏi cuộc săn đuổi. Sợ bị phi cơ Nhật trông thấy khi trời sáng, Doorman chạy theo chiếc Tromp để che chở cho nó rút lui và cả hạm đội trở về đến Sourabaya lúc rạng đông.

    Với sự chiếm giữ Bali, quân Nhật khoá chặt được cánh cửa đông phương của chiếc bẫy chuột,

    Hart bị một vố nặng do sự thất bại của các tuần dương hạm dưới quyền. Ông chỉ còn lại năm chiếc-cùng với chiếc Houston đã bị hư hỏng nặng-là tượng trưng cho sự tham dự của Mỹ vào chiến cuộc. Tướng Brereton vốn đã cho di tản từng chiếc pháo đài bay quí giá về Colombom cũng đã tự rút về đó theo chiếc cuối cùng, nhường lại quyền tư lệnh không lực của ABDA cho phó Thống chế không quân Anh Maltby. Hart quyết định theo gương ông ta và đề nghị quyền chỉ huy hải lực cho Đô đốc Helfrich là người trong thực tế đã hành xử quyền này trong mấy ngày qua. Hoa Thịnh Đốn chấp thuận, ông lấy phi cơ đi Úc và trở về Mỹ. Khi bước chân xuống phi trường ông trả lời các ký giả đến phỏng vấn: “Tất cả những gì tôi có thể nói là chúng tôi bị đánh tơi bời hoa lá”. Ông không được khen thưởng gì và hôm sau xin về hưu.

    Ngày 20 tháng 2, Uỷ ban tham mưu hỗn hợp tối cao Đồng minh báo cho Wavell biết rằng “Java phải được bảo vệ với sức mạnh cuối cùng vì tầm quan trọng của sự chiếm hữu và rằng ông có thể sử dụng tất cả phương tiện hải quân còn dùng được trên khu vực chiến trường thuộc chiến trường thuộc ABDA cũng như các phi cơ Mỹ được phái từ Úc đến”. Hôm sau ngày 21, cùng nguồn tin trên cho Wavell biết rằng trách nhiệm phòng thủ Miến Điện của ông được rút lại và tất cả tăng viện của Anh nay được chuyển đến chiến trường này. Một lát sau cùng ngày hôm ấy, một điện văn yêu cầu ông dời bộ tư lệnh “đến địa điểm nào và vào lúc nào thuận tiện cho ông nhất”.

    Wavell trả lời các mệnh lệnh tráo trở này rằng Bộ tư lệnh ABDA của ông không còn nữa, điều thích nghi nhất không phải là di chuyển nó mà giải tán nó. Ông thêm rằng công cuộc chống giữ Java sẽ được giao lại cho người Hà Lan và đề nghị giao quyền chỉ huy cho Thống đốc các thuộc địa Hà lan là Van Starkenborgh.

    Đề nghị này được chấp thuận, ABDA bị giải tán lúc 9 giờ ngày 25 tháng 2 năm 1942 sau 9 tuần lễ hiện diện. Hành động sau cùng của Wavell trước khi bỏ mặc người Hà Lan cho số phận đáng buồn của họ là ra lệnh cho hàng không tầu sân bay Langley của Mỹ và chiếc tàu chở hàng Seawitch đang tải các khu trục cơ đến Miến Điện, chuyển hướng tiến về Tjilatjap. Sau đó, ông lên chiếc vận tải cơ độc nhất có thể bay đến Colombo. Viên phi-công lái chiếc máy bay này không có một ý tưởng nào về vị trí của Tích Lan và chỉ có được một bản đồ du lịch. Khi thấy trên bản đồ này địa điểm được chỉ định, anh ta tuyên bố rằng “mọi chuyện đều OK cả” và cất cánh mà không hỏi gì thêm. Chuyến bay thật sôi động, trong những rung chuyển do cuồng phong nhiệt đói gây ra, một đám cháy phát khởi trong hầm chứa hành lý nhưng phi hành đoàn dập tắt được. Như phép lạ, chiếc phi cơ đến được Colombo giữa đêm tối. Ông tướng bị kiệt sức vì những đêm thức trắng và những thử thách tinh thần phải chịu đựng, đã ngủ vùi trong suốt chuyến bay và chẳng biết chuyện gì đã xảy ra cả…

    Wavell ra đi chỉ để lại toàn là những người thắp đèn đường. Nếu việc ông ra đi có thể biện minh được thì sự kiện bỏ đi ấy sau không biết bao nhiêu người khác, đã không làm cho tinh thần của các chiến binh được nâng cao. Điều đó gây cho mọi người cái cảm nghĩ ghê rợn là “đàn chuột đã rời bỏ con tàu”… Tại Batavia, tại Bandoeng và tại Sourabaya những người tỵ nạn chạy đến với vợ con loan truyền các tin đồn kinh khủng. Phần đông họ từ Tân Gia Ba chạy đến. Tàu chở họ bị địch phóng thuỷ lôi dọc đường, nhiều ghe tàu khác bị gió mùa đánh lạc hướng, bị sóng lớn trên Ấn Độ Dương vùi dập. Người ta đọc được trong những cặp mắt thất thần của họ nỗi kinh hoàng mà họ đã chịu đựng. Nhiều người là binh sĩ đào ngũ trá hình kém cỏi dưới những bộ y phục lấy cắp được, những người còn lại, tả tơi trong những bộ quân phục phai màu. Đường phố ngổn ngang những đổ vỡ, chật ních xe cộ đủ loại. Mỗi giờ trôi qua không khí ẩm ướt của đại hoạ lại bị đè nặng dưới sức nóng ẩm của gió mùa.

    Trong vùng biển khốn khổ ấy, chỉ có các cấp chỉ huy Hà Lan là còn giữ được bình tĩnh. Được giải thoát khỏi sự giám hộ giả tạo của ABDA vốn chỉ làm cho tình hình đáng buồn thêm trầm trọng, rốt cuộc họ thấy hoàn toàn được chủ động tại xứ mình và tự do tổ chức công cuộc phòng vệ hơn. Thuộc địa Hà Lan là xứ sở của họ. Vấn đề chủng tộc bị giảm thiểu rất nhiều nhờ các cuộc hôn nhân hỗn hợp, gần như không còn được đặt ra nữa. Dân bản xứ là những người được đồng hoá mạnh mẽ nhất vượt xa tất cả các thuộc địa của Âu châu tại Viễn Đông. Vậy thì ý chí kháng cự nay đã nhất trí. Nhưng phương tiện thì còn quá thiếu thốn, không đáng kể.

    Tướng Der Porten Tư lệnh lục quân có trong tay chừng 25.000 người thuộc quân đội Hà Lan và chừng 10.000 dân quân Mã Lai, rất can đảm nhưng không có kinh nghiệm chiến đấu. Ông cho tập họp tất cả những binh sĩ không quân của các đơn vị đã ra đi hoặc bị tiêu diệt thành các đơn vị chiến đấu. Hai trung đoàn DCA của Anh từ Sumatra đến, hai tiểu đoàn Úc, nhiều chiến xa nhẹ và các giàn rada vừa được chở đến đã tăng cường thêm cho đạo binh thiếu đồng nhất mà ông đã kích thích được tinh thần nhờ nêu gương ngay giữa cảnh hỗn loạn toàn diện do các cuộc oanh tạc không ngừng gây ra.

    Điểm yếu của hệ thống phòng thủ rõ ràng là tình trạng thê thảm của không quân, nhưng bầu trời luôn luôn đầy mây và những đêm tối mịt mùng có lẽ đã giúp bù trừ vào sự yếu kém đó. Hơn nữa Phó Thống chế không quân Anh Maltby, người đã đưa từ Sumatra về nhiều phi đoàn, hiện đang phân phối chúng ra bốn phi trường trên đảo Java. Đó là một cấp chỉ huy ngoại hạng mà quyền uy sáng chói đã tạo nên nhiều phép lạ. Ông có ngày lập tức 35 oanh tạc cơ, 26 thám thính cơ và 25 khu trục cơ-lực lượng này đang chờ thêm các khu trục cơ do chiếc Langley và Seawitch sẽ mang đến vào ngày 27 hay 28 tháng 2.

    Do đó, giờ đây là cả một cuộc chạy đua với thời gian mà sự thành công hoàn toàn dựa vào hoạt động của hải quân nhằm trì hoãn các cuộc đổ bộ của Nhật trong 2 tuần lễ cần thiết để quân tăng viện của Mỹ từ Úc có thể đến kịp. Helfrich cho tập họp về phía Đông Java tất cả các chiến hạm Đồng minh còn để lại cho ông và giao cho Đô đốc Doorman là người phần lớn đã từng dắt chúng tham dự các trận hải chiến. Hạm đội mới được thành lập như thế cũng khá mạnh: hai tuần dương hạm nặng (Houston và Exeter) có tổng cộng một giàn đại bác 12 khẩu 203 ly, ba tuần dương hạm nhẹ (De Ruyter, Java và Perth) tổng cộng 25 khẩu 150 ly, chín khu trục hạm (4 Mỹ, 3 Anh và 2 Hà Lan), không nói đến chừng 20 tàu ngầm rải rác trong quần đảo.

    Phía bên kia chiến tuyến, say sưa chiến thắng vì đã chiếm đóng pháo đài được phòng vệ vững chắc nhất của Đồng minh một cách dễ dàng không ngờ, bộ tư lệnh Nhật không hề tưởng tượng rằng sẽ gặp một sự kháng cự mãnh liệt tại Java. Sau các cuộc oanh tạc mà chiến hạm Đồng minh phải chịu đựng trên biển cả cũng như trong hải cảng, giới chỉ huy Nhật đã ước tính rằng chúng đã bị đánh chìm hết, hoặc là bị hư hỏng nặng nề hết. Các phi cơ tấn công chúng đã trở về ca khúc khải hoàn. Cứ như lời họ thì vùng biển Java đã trở thành một “cái hồ của Nhật Bản”.

    Kinh nghiệm quá mới mẻ. Chưa ai biết rằng các phi-công oanh tạc đã ước lượng quá đáng hiệu quả của bom đến mức nào, trong cảnh lửa đạn mù mịt và khói do các vụ nổ gây ra và rằng thật khó cho họ biết bao nhiêu khi phân biệt giữa một trái bom “trúng đích” luôn luôn tàn phá kinh khủng và một quả bom “rơi gần” mục tiêu chỉ tạo ra vài hư hỏng nhẹ. Bằng cách giảm xuống một nửa thành tích của các phi-công, Đô đốc Kondo tiến tới kết luận là chỉ còn lại hai tuần dương hạm và vài khu trục hạm của Đồng minh là còn sử dụng được. Do đó ông quyết định chiếm các đảo cuối cùng của hàng rào chặn Mã Lai mà không chờ đợi thêm và tung các đoàn công voa của ông về phía Java mà không cần một sự che chở nào khác hơn một nhóm tuần dương hạm như ông đã làm tại Célèbes, tại Bornéo và tai Timor.

    Mối đe doạ của tàu ngầm có vẻ đáng sợ nhất đối với ông, vì thế một hải đội khu trục hạm được tăng cường cho đoàn công voa phía đông, đoàn tàu phải di chuyển một hải trình dài ngoài biển khơi. Ngoài ra, ông hoàn toàn tin tưởng vào sự khéo léo của các hạm trưởng tuần dương hạm, vốn là những người rất thuần thục trong kỹ thuật dạ chiến, và các quân sĩ canh phòng trên cầu tàu, vốn được lựa chọn rất kỹ trong số những binh sĩ sống trong bóng tối và rình bóng đêm tinh nhuệ không khác gì mèo.

    Để ngăn không cho tăng viện từ Colombo hay từ Úc đến, ông nhổ neo cùng hai thiết giáp hạm và bốn hàng không tầu sân bay của Nagumo đến dàn phía nam hàng rào chặn Mã Lai trong thời gian tiến hành cuộc đổ bộ.


    Áp dụng các chỉ thị của ông, 56 tàu chở quân đổ bộ thuộc đoàn công voa phía tây được các tuần dương hạm của Phó Đô đốc Ozawa che chở, ngày 25 tập họp trong eo biển Banka, từ đó, chúng chỉ có một lóng tay phải vượt qua là đến bờ biển Batavia kế cận và eo biển Sonde. 41 tàu đổ bộ thuộc đoàn công voa phía đông, một số từ Balikpapan đến, một số từ Bandjermasin đến, nhổ neo sáng sớm ngày 26 tháng 2 để đến các điểm tập hợp lựa chọn để đổ bộ chung quanh Sourabaya. Lực lượng hộ vệ đoàn công voa này mạnh hơn cả, gồm có hai tuần dương hạm nặng của Phó Đô đốc Takeo Takagi-chiếc Nashi và chiếc Haguro-hai khu trục hạm mỗi đoàn do một tuần dương hạm nhẹ hướng dẫn và ba phi đội thuỷ phi cơ để đảm bảo che chở chống tàu ngầm cho đoàn công voa.

    Ý tưởng điều quân của Phó Đô đốc Takagi rất đơn giản: giữ cho tiểu hạm đôi của ông cách đoàn tàu đổ bộ hai dặm về phía trước, bằng cách sử dụng các khu trục hạm sao cho có thể ngăn chặn hải lực địch trong trường hợp lực lượng này có thể toan tính vượt thoát ra khỏi hải cảng.

    Ngày 25 tháng 2, một số các phóng ngư lôi hạm đổ bộ lên đảo Bawean, nằm cách Sourabaya 100 cây số về phía bắc, một toán cảm tử thủy quân lục chiến để thiết lập tại đấy một đài phát tin.

    Nhờ một phi cơ thám thính báo cho biết cuộc điều quân này, Đô đốc Helfrich ra lệnh cho Doorman tập họp tất cả các tuần dương hạm và lập một hàng rào phía Bắc đảo Madoera kéo dài về phía Đông cho đến bờ phía Bắc của Java nơi che chở hải cảng Sourabaya. Vì không thấy một bóng chiến hạm nào của địch, toàn thể hạm đội trở về Sourabaya để tiếp tế nhiên liệu.

    Tối ngày 26, Helfrich họp Đô đốc Doorman và tất cả các hạm trưởng để ra chỉ thị liên quan đến trận chiến quyết định không thể nào không xảy ra vào hôm sau. Một vài sự sắp xếp đơn giản được quyết định để tránh việc trao đổi tín hiệu càng nhiều càng hay. Các khu trục hạm thì vẫn được tập họp theo nhóm quốc gia, trong khi đó các tuần dương hạm thì xếp nối nhau theo hàng dọc trong thứ tự De Ruyter (soái hạm), Exeter, Houston, Perth và Java. Vì không được huấn luyện kỹ để bay đêm, người ta đã quyết định để các phi cơ thám thính của các tuần dương hạm lại đất liền để tránh các đám cháy vì xăng trong khi đang chiến đấu.

    Helfrich chấm dứt hội nghị bằng cách tuyên bố rằng các thuỷ thủ đoàn Hà Lan nhất quyết chiến thắng hay là chết, và cám ơn các hạm trưởng Anh, Úc và Mỹ đã nhận lời theo hạm đội Hà Lan trong sứ mạng chủ yếu này. Ông nói thêm rằng giá trị mà họ đã chứng tỏ trong mấy tuần qua là một đảm bảo chắc chắn cho quyết tâm mà họ sẽ mang theo khi chiến đấu, rồi ông cáo biệt họ mà không hề giấu vẻ xúc động. Đô đốc Doorman và các hạm trưởng còn ở lại với nhau một lát trước khi chia tay. Họ sẽ không bao giờ còn gặp lại nhau, vì tất cả, ngoại trừ một người, (Hạm trưởng chiếc Perth được quân Nhật vớt lên khi tàu chìm. Chính nhờ các bằng cớ mà ông đã viết khi bị bắt, diễn tiến trận đánh mới được dựng lại) đều bị mất tích trong cuộc tàn sát rùng rợn.

    Ngay khi trở về tàu De Ruyter, Doorman ra lệnh nhổ neo. Một cuộc dò xét mới được tổ chức tận ngoài khơi đảo Badoera ngay trong đêm, nhưng không gặp gì. Sáng ngày 27 tháng hai, Đô đốc quyết định gửi về Sourabaya để bổ túc việc tiếp tế các chiến hạm hầu có thể ra khơi lại khi đêm về.

    Đoạn đường về không xảy ra gì khác hơn là bị vài phi cơ Nhật từ Bali bay đến thả bom, nhưng đến 14 giờ 30, trong lúc hạm đội sắp vào hải cảng, một điện văn tối khẩn được gửi đến cho Soái hạm De Ruyter: một đoàn công voa địch được hộ tống rất mạnh mẽ đã bị phát giác từ hơn một giờ cách đảo Bawean hai mươi hải lý về phía Tây. Sau cùng Doorman định được vị trí của địch. Ông ra lệnh cho hạm đội quay mũi để đến đối diện với địch quân.

    Kể từ lúc các oanh tạc cơ Nhật thấy hạm đội Đồng minh, các thuỷ phi cơ thám thính Nhật không ngừng bí mật bay theo dõi trên không. Nhờ vậy Đô đốc Takagi mau lẹ đoán trước một cuộc điều động các tuần dương hạm của Doorman. Ông lập tức di chuyển hạm đội để cắt đường về của nó tại phía Nam đảo Bawean và ra lệnh cho các tàu đổ bộ chạy trốn về phía Tây.

    Không biết gì về vị trí của hạm đội địch, Doorman tiếp tục chạy nhanh để kịp tấn công các đoàn công voa lúc chập tối. Trong hai giờ tiếp theo đó, các hạm trưởng Đồng minh hối tiếc một cách cay đắng sự vắng mặt của các phi cơ quan sát. Để báo tin hạm đội địch đến gần, Đô đốc chỉ có chiếc khu trục hạm Anh Electra vốn được phái đi đầu hạm đội để làm hướng đạo. Trên các cầu tàu ai nấy lo âu rình xem hiệu lệnh của chiếc tàu nhỏ đang mở hết tốc độ chạy trong tầm trông thấy của các bạn đằng sau.

    Đến 16 giờ, một chiếc đèn rọi bật cháy trên chiếc Electra. Đó là dấu hiệu cho biết “Thấy tàu địch…” 16 giờ 10, sau khi giảm tốc độ, Electra báo hiệu “hai tuần dương hạm, 12 phóng ngư lôi phía bắc-đông bắc”. Vài phút sau hai tuần dương hạm nặng Exter và Houston khai hoả khi còn cách địch 27.000 thước. Các tuần dương hạm nhẹ chỉ có pháo đội 150 ly không thể bắn xa như thế, chạy theo mục tiêu mà không thể bắn được. Lập tức chung quanh chúng những cột nước khổng lồ tung lên cao trong lúc đó các khẩu đại bác điên cuồng của chúng lại không trả đũa được. Đấy là các đại bác 203 ly của chiếc Nashi và chiếc Haguro đang khạc đạn theo một nhịp độ ngày càng mau.

    May thay, với khoảng cách như thế, tác xạ của Nhật cũng bị phân tán xa mục tiêu và cuộc chiến đấu tay dôi này kéo dài trong suốt 20 phút dưới hình thức một cuộc trao đổi tác xạ tầm xa không kết quả gì cả.

    Hai đối thủ không ai tìm cách tiến gần đối phương-Doorman, bởi vì ông muốn tránh cho đoàn tuần dương hạm của mình bị hoả lực địch vây kín, Takagi, bởi vì không muốn rơi vào một hạm đội đông hơn và không bao giờ tính chuyện để rơi vào tầm hoả lực của tuần dương hạm nhẹ của đối phương. Ông còn nổi khùng vì lúc đó đã cho lệnh tấn công bằng thuỷ lôi, với khoảng cách như thế-không có cơ may thành công nào.

    Một trong các khu trục hạm Nhật bị trúng một trái phá 150 ly của chiếc Perth và tất cả hạm đội Nhật đều quay mũi sau một màn khói. Thành quả nấy kích thích lòng can đảm của binh sĩ Đồng minh và Doorman nghiêng đường tiến của hạm đội để tiến gần các tuần dương hạm địch.

    Nhưng đối phương của ông, với sự chính xác đáng ngạc nhiên của hệ thống tác xạ trên các tuần dương hạm nhẹ, điều động để giữ khoảng cách và chờ cho các khu trục hạm đến đủ gần địch để ra lệnh một đợt tấn công mới bằng thuỷ lôi.

    Không chờ đợi kết quả, hạm đội Nhật trở hướng mạnh để chặn hạm đội Đồng minh theo hình chữ T và khai hoả tất cả các đại bác 203 ly.

    Đến 17 giờ, một tạc đạn trúng vào một nồi xúp de của chiếc Exeter, bắt nó phải tránh qua một bên để cho chiếc Houston chạy theo sau khỏi bị chạm vào.

    Chính đây là một đòn tiền định. Chiến hạm này có cả một huyền thoại. Chính nó, hai năm trước đã bắt buộc chiếc thiết giáp hạm bỏ túi của Đức, chiếc Graal Spee phải tự đâm vào mình tại Montevideo. Sau thử thách kinh khủng này, hình như không còn gì trên thế giới có thể ngăn chặn nó được. Khi chiếc Houston thấy Exeter nghiêng về bên trái, nó theo ngay chẳng ngần ngại gì. Nhưng một khối hơi nước khổng lồ đã che ngay tầm quan sát của nó và hiểu ngay là đã phạm phải sai lầm to lớn. Than ôi, quá chậm! Hai chiếc Perth và Java theo sau phải giảm tốc độ đột ngột. Để cho sự rủi ro thêm toàn vẹn, một thuỷ lôi phóng tử xa đến thế lại trúng một khu trục hạm Hà Lan, chiếc Kortenaer khiến nó chìm lỉm trong một đám lửa vĩ đại. Tất cả hạm đội của Doorman tán loạn ngay giữa khói lửa trong lúc các tuần dương hạm của ông đến gần địch và sẵn sàng khai hoả.

    Một quang cảnh hỗn loạn xảy ra sau đó giữa các khu trục hạm đôi bên trong các cuộc bắn trực xạ sát bên nhau mỗi khi gặp khoảng trời sáng bất ngờ. Các chiến hạm lớn không thấy tàu của Đô đốc đâu trong khi soái hạm vẫn lặp lại không ngừng bằng quang hiệu mệnh lệnh trứ danh “All ship, follow me!” (Tất cả, hãy theo tôi”).

    Bên phía Nhật, tình thế cũng rối loạn nhưng ít trầm trọng hơn. Takagi biết rằng ông chỉ bị mất có các khu trục hạm và các phi cơ quan sát đã cho ông biết quang cảnh hỗn loạn của đối phương. Ông cho hạm đội lùi xa về phía bắc để “suy nghĩ tiếp”.

    Khí gió mùa thổi đến làm bầu trời sáng dần, sau cùng Doorman cũng tập họp được các chiến hạm thuộc quyền, và vì địch quân đã biến mất, ông lại dẫn chúng tiến lên phía bắc để cô bọc vòng các tuần dương hạm Nhật và sau đó đợi đoàn tàu đổ bộ mà giờ đây theo ông đã đến rất gần…

    Không bao giờ người ta biết được tại sao ông bỏ ngang dự tính này sau vài giờ vì ông không trở về để giải thích, nhưng ta chỉ biết rằng đột nhiên ông trở hướng xuống về Nam. Tiếng đại bác đã im bặt. Trên chiến trường hoang vắng, chỉ có vài thuỷ thủ tuyệt vọng trên mặt biển ngập đầy dầu mazut. Chiếc chiến hạm dũng cảm Exeter vốn đã sống một cuộc đời đầy thử thách nay còn chạy chầm chậm về Sourabaya, có một khu trục hạm đi kèm. Các tuần dương hạm sắp thành đội hình hàng dọc chạy theo soái hạm De Ruyter.



    [​IMG]
    Ảnh các chiếc HMSExeter và HMAS Hobart đang bị không kích túi bụi trong trận biển Java vào ngày 15 tháng hai 1942


    Đêm đến, gió mùa kéo mây che phủ bầu trời. Không khí ẩm ướt len lỏi khắp nơi khiến cho không khí nóng bức bên trong tàu trở thành khó thở.

    Ai nấy đều đặt ra câu hỏi: Người ta sẽ làm gì?... “Người ta”, đấy là Đô đốc, vị chủ nhân của định mệnh. Trên các chiến hạm Hà Lan thì không có vấn đề gì. Nhưng trên các chiến hạm Úc, Mỹ, Anh?

    Mặt trăng mọc lúc 21 giờ. Hạm đội luôn luôn tiến về phía Nam. Liệu có phải trở về hải cảng tay không để rồi bị phi cơ địch ngày mai bắn như vịt không?

    Đến 21 giờ, Doorman kiểm điểm lại tổn thất và thấy rằng dầu sao chúng cũng tương đối nhỏ và tính rằng chắc ông còn cơ may gặp đoàn tàu đổ bộ địch. Mặc dầu đang ở cách Sourabaya không đến một giờ, ông ra lệnh cho hạm đội quay về phía tây, nhưng để cho bốn khu trục hạm Mỹ vào hải cảng vì đã phóng hết thuỷ lôi rồi.

    Đêm tối tuyệt đối yên tĩnh. Các thuỷ thủ đoàn được nghỉ ngơi đã lấy lại sức. Quyết định của Đô đốc tiếp tục ra đi tấn công được đón tiếp với sự vui mừng trên khắp chiến hạm.

    nửa giờ nữa trôi qua mà không có biến cố nào. Thế rồi sự im lặng đè nặng của đêm tối vùng nhiệt đối bị xé toang dữ dội bởi một tiếng nổ. Một ngọn lửa bừng bừng loé ra bên phải đoàn tàu, đấy là chiếc khu trục hạm Anh Jupiter vừa bị nổ tung.

    Mặc dầu Doorman không hiểu tí gì về nguyên nhân của thảm cảnh này, ông nghiêng đội hình về phía bắc sợ gặp phải một hàng rào tàu ngầm và cuộc hải hành tiếp tục với sự đều đặn đáng lo ngại.


    Đến 22 giờ, các binh sĩ canh đêm của chiếc De Ruyter báo hiệu thấy vô số mảnh tàu vỡ nổi trên mặt biển. Người ta phân biệt được ngay đó là các bè cấp cứu chở ngập xác người và những cái đầu đen đủi. Những gì còn lại gớm ghiếc của số người bị đắm tàu.

    Mặc dầu có lệnh khắt khe do chính ông ban hành là không được cứu ai cả trong khi chiến đấu. Doorman cho tách rời chiếc khu trục hạm cuối cùng của hạm đội để đến giúp đỡ những người bị nạn. Con người sắt đá ấy, người không ngần ngại đưa cả hạm đội đến chỗ hy sinh, đột nhiên nhường bước cho một hành động đầy tình thương. Có lẽ lúc đó ông đã mất hết tất cả hy vọng chiến thắng và muốn trình bày với Thượng đế một bằng chứng về lòng nhân đạo sâu xa của ông.

    Không đầy một giờ sau, hai bóng tàu hiện ra dưới ánh trăng. Tất cả các tuần dương hạm Đồng minh đều khai hoả một lượt. Cùng lúc đó mặt biển phía trước được hoả châu chiếu sáng rực. Đấy là ánh sáng phát ra từ các phao cháy sáng do phi cơ thám thính Nhật rải dọc theo đường bay để giúp cho chiến hạm Nhật tác xạ dễ dàng.

    Kể từ lúc đó, các biến cố đến dồn dập theo nhịp độ điên cuồng. Nhiều cột nước vọt lên cao chung quanh đoàn tàu Đồng minh và chiếc De Ruyter bị trúng đạn. Chiếc Houston và Perth lạng ra một bên để tránh đụng chạm. Ngay cả trước khi chúng kịp chạy ngang hàng với chiếc Soái hạm, hai tiếng nổ dữ dội chế ngự tất cả tiếng súng chát chúa. Cách nhau vài giây, chiếc De Ruyter đi đầu và chiếc Java đi sau chúng nổ tung chiếu sáng cả bầu trời. Cả hai chiến hạm lần lượt bị trúng thủy lôi do kẻ thù vô hình phóng đến.


    [​IMG]
    Ảnh bom từ máy bay của Nhật Bản thả rất gần chiếc Tàu tuần dương hạng nhẹHNLMS Java của Hà Lan trong trận chiến biển Ja va




    [​IMG]
    Ảnh chiếc soái hạm De Ruyter khi đang buông neo thời gian ngay trước trận đánh, trong trận đánh biển Java chiếc này bị bắn nổ tung cùng với viên đô đốc Hạm đội đồng minh - Karel Doorman



    [​IMG]
    Tuần dương hạm Nhật Bản Haguro - chiếc đã đánh chìm chiếc soái hạm HNLMS De Ruyter



    Hai tuần dương hạm còn sống sót gần như hết đạn và nhiên liệu. Thuỷ thủ đoàn kiệt sức. Hạm trưởng chiếc Perth, một người Úc lực lưỡng, do thâm niên đã trở thành tư lệnh hạm đội, ra lệnh cho chiếc Houston theo mình và quay lui hết tốc độ về Batavia. Như nhờ phép lạ, hai chiến hạm thoát ra khỏi vùng pháo cháy sáng nơi hai xác tàu Hà Lan đang hấp hối. Trận chiến danh dự đã kết thúc.

    Cuộc gặp gỡ lãng mạn đã chấm dứt như thế, một cuộc gặp gỡ diễn tiến mà không có một oanh tác cơ nào, không có một phi cơ phóng thuỷ lôi nào can thiệp vào để làm cho quang cảnh hỗn độn thêm. Do bởi sự tình cờ của hoàn cảnh, hai đối thủ đều theo đúng các nghi thức xưa cũ do chính người Nhật thiết lập 40 năm về trước trong trận hải chiến lừng danh tại eo Tsoushima.

    Kinh nghiệm đắt giá xảy ra quá bất ngờ cũng như quá xưa cũ này sẽ không còn tái diễn. Mất tích cùng với chiếc soái hạm, Karel Doorman đã lật qua một trang lịch sử.

    Ngày 27 tháng 2 năm 1942 tiền định ấy lại được đánh dấu bằng một tai biến khác. Chiếc hàng không tầu sân bay Langley và chiếc tàu hàng Seawitch mà Wavell cho trở hướng chạy về Tjilatjap chạy về gần đến đích thì gặp đoàn oanh tạc cơ của Đô đốc Nagumo đang canh giữ ngoài khơi. Sàn tàu chiếc Langley-một tàu chở hàng cũ được biến cải từ thời chiến tranh 1914-phủ đầy khu trục cơ P-40. Nó không có máy phóng phi cơ và không một phi cơ nào có thể cất cánh. Bị đánh ngất ngư bởi hai thuỷ lôi, nó chìm xuống biển mang theo số hàng quí báu. Riêng chiếc Seawitch mà các oanh tạc cơ Nhật để cho chạy trốn thì cũng chẳng còn gì để chờ đợi. Ngay khi vừa đến Tjilatjap, một đợt oanh tạc mới cực kỳ dữ dội đã nhấn chìm nó xuống đáy trước khi các phi cơ đóng thùng được bốc dỡ lên bờ.

    Thống đốc Van Starkenborgh nay không còn phi cơ lẫn chiến hạm nữa-đến lượt chiếc Houston và chiếc Perth bị gục ngã trước hạm đội của Ozawa trong khi chạy trốn về eo biển Sonde (Chiếc Tromp bị nằm ụ từ 20 tháng 2 tại Sourabaya đã chạy trốn được qua ngõ eo biển Bali dưới một lớp nguỵ trạng thần tình bằng cây leo vĩ đại. Bốn khu trục hạm Mỹ sống sót cũng làm được như thế)-chỉ có thể chống lại quân xâm lư-ợc chiến thắng bằng một cuộc kháng cự tượng trưng. Cuộc kháng chiến này rồi cũng chấm dứt ngày 8 tháng 3 năm 1942 bằng cuộc đầu hàng vô điều kiện.

    Làm chủ được hàng rào ngăn chặn Mã Lai, quân Nhật đã đạt tất cả các mục tiêu. Trận chiến phi thường này đã kết thúc sau khi chỉ kéo dài chín mươi ngày.

    Hậu quả của trận đánh

    Hai tầu khu trục của Mỹ và một tàu khu trục của Hà Lan tiếp tục bị đánh chìm khi họ cố gắng trốn thoát đến Úc. Lực lượng hải quân chính của ABDA đã gần như hoàn toàn bị phá hủy : 10 tàu chiến và khoảng 2.173 thủy thủ đã bị tiêu diệt. Trận chiến biển Java đã kết thúc các hoạt động hải quân quan trọng của Đồng Minh ở Đông Nam Á trong năm 1942, và lực lượng xâm lược trên bộ Nhật Bản vào Java ngày 28 tháng 2. Không quân Hoa Kỳ và Không quân Hoàng gia sau đó bắt đầu rút lui đến Úc. Bộ binh Hà Lan được hỗ trợ bởi tàn quân Anh đã chiến đấu quyết liệt cho một tuần . Trong chiến dịch Nhật Bản đã hành quyết nhiều Tù binh chiến tranh của Đồng minh và tỏ ra cảm thông với người Indonesia. Mặc dù có những vấn đề về hậu cần của họ, yếu tố quyết định trong lợi của Nhật Bản dường như là sức mạnh của lực lượng Không quân. Cuối cùng, Nhật Bản đã chiến thắng trận đánh tiêu hao lực lượng này và ABDA phải đầu hàng vào ngày 09 tháng 3.
  8. P20

    P20 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    02/11/2006
    Bài viết:
    5.619
    Đã được thích:
    203
    Em thấy người ta gọi Yamamoto là đô đốc hạm đội liên hợp chứ chưa thấy ai gọi là Đại đô đốc cả, hoặc là em nhầm :| và thiếu hiểu biết mong bác bỏ quá :D
    Còn cái này thì chắc chắn bác nhầm luôn
    [​IMG]
    Aichi D3A "Val" nó thiết kế 2 càng hạ cánh cố định giống Stuka của Đức chứ ko phải là nó ko thu càng lại do lười như bác nói đâu.
  9. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7



    @ P20: Aichi D3A "Val" nó thiết kế 2 càng hạ cánh cố định giống Stuka của Đức - phát này thì bác P20 đúng rồi, chín phẩy nhiều năm dánh cho bác P20 [r2)]
    Em gọi Yamamoto là Đại đô đốc vì mấy lý do sau:

    Ngoài giữ cương vị đô đốc Hải quân ông còn giữ cương vị thứ trưởng Hải quân Nhật bản ( trước khi ông làm tư lệnh Hạm đội liên hợp)

    Tuy là đô đốc nhưng ông lại chỉ huy các vị đô đốc khác, cũng tựa như Stalin được gọi là Nguyên soái ( tự phong ?) nhưng lại chỉ huy một loạt các nguyên soái khác nên người đời vẫn gọi ông là Đại nguyên soái Stalin - có sao đâu

    Yamamoto tuy chỉ là thứ trưởng Hải quân nhưng ông đã vạch ra những quyết sách quan trọng để cải cách Hải quân Nhật bản lúc trước WW II, ông cũng có uy tín với nhân dân Nhật bản và thậm chí đối với cả phe hiếu chiến trong quân đội Nhật - Thủ-tướng Tojo kiêm Bộ trưởng Lục quân là người đứng đầu phe hiếu chiến cũng phải nể ông mấy phần, ý kiến của ông cũng được xem xét nghiêm túc ở chính phủ khi họ ra những quyết định quan trọng của đất nước.

    Ông là thần tượng của Hải quân Nhật, người vạch ra những đường đi nước bước của Hải quân Nhật Bản trong chiến tranh. Nên khi ông mất đi thì Hải quân Nhật bản dường như bị mất tinh thần một cách nghiêm trọng, những người thay thế không ai được như ông --> từ đó trở đi Hải quân Nhật chỉ có thua và thua mà thôi

    Tóm lại Yamamoto vượt trên hẳn một vị đô đốc Hải quân bình thường nên em gọi là Đại đô đốc - thế thôi
  10. P20

    P20 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    02/11/2006
    Bài viết:
    5.619
    Đã được thích:
    203
    À, chuyện bác phong cho ông ấy thì tuỳ bác thôi!
    Nhưng em không ủng hộ lắm lập luận của bác về việc Yamamoto chết thì hải quân Nhật đi xuống, thực ra hải quân Nhật đi xống từ sau trận Midway rồi. Mà có điều em cực kỳ khó hiểu với Yamamoto! Chính ông ta nói câu trứ danh là "Chiến tranh hiện đại trên mặt biển thuộc về máy bay" Vậy mà ông ta vẫn để hạm đội của mình sa vào các cuộc đấu pháo theo kiểu trạng chết chúa cũng băng hà, mà như ta đã biết khả năng phục hồi của Nhật gần như là không có trong khi Mĩ cứ 2 tháng là đóng được 1 tàu mới còn Nhật mất thì mất luôn. Thà dùng đám khu trục, tuần dương hạm đó đi hộ tống cho tanker chở dầu từ Indo về còn hơn.

Chia sẻ trang này