1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Những trận hải chiến lịch sử và quá trình phát triển của hải quân

Chủ đề trong 'Kỹ thuật quân sự nước ngoài' bởi Su35Fk, 19/08/2009.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    @ P20: ít nhất là sau cái chết của Yamamoto thì hải quân Nhật bản bị mất tinh thần đi rất nhiều -> quân Đồng minh dễ chiến thắng hơn, nếu ông ta còn sống thì chủ trương của ông là đánh cho người Mỹ biết sức mạnh của người Nhật rồi tiến hành đàn phán --> nếu kế hoach này thành công ( với điều kiện ông phải còn sống cơ) thì Nhật đâu có thua thảm đến mức như vậy


    Đúng là Yamamoto đề cao dùng máy bay trong những trận Hải chiến - nhưng trong những trận không có Ko quân đi kèm ( bởi nhiều lý do) thì chả nhẽ bỏ chạy sao, nếu chiến đấu bằng pháo và ngư lôi thì tầu chiến Mỹ cũng không lại với tầu chiến Nhật bản, vì sau trận TTC người Mỹ thiết kể tầu chiến với mục đích chính để hộ tống tầu sân bay -> và chính tầu sân bay mới là lực lượng quyết đinh cho một trận hải chiến ( coppy từ chính ý tưởng của người Nhật)


    Yamamoto cũng rất biết về sức mạnh về nền công nghiệp của người Mỹ nên ông chỉ muốn dụ người Mỹ ra một nơi nào đó trên biển TBD để đánh một trận rồi tìm cách hòa đàm chứ không hề có ý định chiến đến cùng vì ông biết là nước Nhật ko có của thắng, nhưng rủi thay trận đó lại thua và ngay sau đó ông lại tử trận. Nhưng ông đã thực hiện được lời hứa của mình là cầm chân Hải quân đồng minh ( Mỹ, Anh, Hà lan, Úc) trong vòng hơn 1 năm ( và cũng có nhiều chiến thắng oanh liệt đấy chứ he he)

    Tiếc rằng Yamamo to để xểnh mất 03 TSB Mẽo trong trận TTC (mà đáng ra ông phải cho san bằng luôn hòn đảo này - phá hết cơ sở hạ tầng của hải quân) nếu ko thì người Mẽo chưa chắc đã có đủ lực để đánh trận Midway, và lúc đó diễn biến của chiến tranh có thể đã hoàn toàn khác - các cụ nhà ta đã nói được làm vua, thua làm giặc mà
  2. P20

    P20 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    02/11/2006
    Bài viết:
    5.619
    Đã được thích:
    203
    San bằng thế nào được bác ơi?
    Lực lượng Hải quân Nhật vụ đó chỉ đủ để hộ tống 6 con carrrier, chứ tách hẳn ra để chui vào cảng phá phách thì dễ tèo lắm, lúc đó cũng chả khác gì chui vào bẫy cả.
    Chưa kể họ cũng phải chia sẻ lực lượng để chiếm đồng thời Sing và Indo đó thôi. Trận Trân Châu Cảng là Yamamoto muốn Mĩ cho hết trứng vào 1 giỏ rồi thịt cả thôi, chứ ko chủ định chiếm Hawaii, thế nên họ ko phóng loạt máy bay thứ 2 khi biết chả có carrier nào của Mĩ ở trong cảng cả, nếu thời đó họ có radar đối hải rồi thì đám carrier của Mĩ khó mà thoát vì tàu hộ tống nằm ráo trong cảng rồi.
  3. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Bác P20 nên đọc lại trận Trân Châu Cảng đi, lực lượng chiến đấu chính của Mẽo tại TTC lúc đó là gần như teo rồi, chỉ còn lại một số tầu khu trục mà người Nhật bản chuẩn bị cho hai hoặc ba đợt tấn công Không quân nữa, lúc đó tại TTC chỉ còn kho nhiên liệu, kho ngư lôi và các ụ tầu ... những phương tiện phục vụ chiến tranh. Nếu người Nhật phá tiếp thì ko biết người Mẽo lấy gì để đi đánh trận Midway

    Đây nha trích từ trang Wiki

    ...Các trạm phát điện, xưởng tàu, xưởng sửa chữa và các kho chứa nhiên liệu và ngư lôi, cùng các bến tàu dành cho tàu ngầm và tòa nhà sở chỉ huy (cũng là nơi đặt bộ phận tình báo) đã không bị đánh trúng. Thiệt hại về phía Nhật Bản nhỏ, chỉ mất 29 máy bay và bốn tàu ngầm bỏ túi, với 65 người thương vong.


    Khả năng thực hiện đợt tấn công thứ ba






    Nhiều sĩ quan cấp dưới của Nhật Bản, trong đó có cả Mitsuo FuchidaMinoru Genda, kiến trúc sư chính của cuộc tấn công, đã thuyết phục Đô đốc Nagumo tiếp tục thực hiện đợt không kích thứ ba nhằm tiêu diệt càng nhiều càng tốt nhiên liệu và ngư lôi[97] dự trữ tại Trân Châu Cảng, cũng như các cơ sở sửa chữa và ụ tàu.[98] Các sử gia quân sự đều cho rằng việc phá hủy các cơ sở này sẽ ảnh hưởng đến hoạt động của Hạm đội Thái Bình Dương nặng nề hơn nhiều so với phá hủy các thiết giáp hạm.[99] Nếu chúng bị quét sạch, "các chiến dịch quân sự nghiêm túc tại Thái Bình Dương phải bị trì hoãn hơn một năm."[100] Tuy nhiên, Nagumo đã quyết định rút lui vì nhiều lý do:
    • Hỏa lực phòng không Hoa Kỳ đã cải thiện đáng kể trong đợt tấn công thứ hai, và hai phần ba các tổn thất của phía Nhật Bản xảy ra trong đợt này.[101] Nagumo cảm thấy nếu ông tung ra đợt tấn công thứ ba, ông sẽ phải đặt ba phần tư sức mạnh tấn công của Hạm đội Liên hợp vào nguy hiểm để càn quét các mục tiêu còn lại (bao gồm các cơ sở nói trên) trong khi phải chịu nhiều tổn thất máy bay hơn nữa.[101]
    • Vị trí của các tàu sân bay Hoa Kỳ vẫn còn chưa được biết. Thêm vào đó, vị Đô đốc còn lo ngại rằng lực lượng của ông giờ đây nằm trong tầm hoạt động của những máy bay ném bom Mỹ xuất phát từ mặt đất.[101] Nagumo không chắc chắn rằng liệu Hoa Kỳ có còn đủ số máy bay còn sót tại Hawaii để tung ra một cuộc tấn công vào các tàu sân bay của ông hay không[102] (thực chất đây là lo hão vì máy bay tầm xa của Mỷ có đeo bom thì không đủ nhiên liệu đến Hawaii, trong số 402 chiếc máy bay Mỹ tại chỗ thì 188 chiếc bị tiêu hủy, 159 chiếc bị thương vong - KQ Hoa kỳ đã tèo)
    • Một đợt tấn công thứ ba đòi hỏi phải có sự chuẩn bị thích đáng và thời gian quay vòng, điều này có nghĩa là những máy bay tấn công khi quay trở về sẽ phải hạ cánh lúc trời tối. Cho đến thời ấy, chưa có lực lượng hải quân nào phát triển hay thực hành kỹ thuật tàu sân bay ban đêm, nên đây là rủi ro lớn.
    • Tình hình nhiên liệu của Lực lượng Đặc nhiệm không cho phép ông nán lại vùng biển phía Bắc Hawaii lâu hơn nữa, vì ông đang ở sát giới hạn của khả năng tiếp vận. Việc tiếp tục tấn công sẽ mạo hiểm làm cạn đáng kể nhiên liệu, thậm chí đến mức phải bỏ lại các tàu khu trục trên đường quay trở về.[103]
    • Ông tin rằng đợt tấn công thứ hai về cơ bản đã thỏa mãn mục đích chủ yếu của nhiệm vụ, đó là vô hiệu hóa Hạm đội Thái Bình Dương, và không cần thiết phải mạo hiểm để gánh thêm nhiều thiệt hại khác.[104] Hơn nữa, hoạt động của Hải quân Đế quốc Nhật Bản thiên về việc bảo toàn sức mạnh hơn là tiêu diệt toàn bộ đối phương.[105]
    Trong một hội nghị trên chiếc thiết giáp hạm Yamato vào buổi sáng ngày hôm sau, Yamamoto thoạt tiên ủng hộ Nagumo.[104] Sau này, khi nhìn lại, việc bỏ sót các ụ tàu, công xưởng sửa chữa và kho dầu mang ý nghĩa sống còn đó khiến cho người Mỹ có thể phản ứng tương đối nhanh chóng các hoạt động của Nhật tại Thái Bình Dương. Yamamoto sau đó đã lấy làm tiếc cho quyết định rút lui của Nagumo và thẳng thừng cho rằng đó là một sai lầm lớn khi không tung ra đợt tấn công thứ ba.nguồn http://vi.wikipedia.org/wiki/Trận_Trân_Châu_Cảng
  4. P20

    P20 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    02/11/2006
    Bài viết:
    5.619
    Đã được thích:
    203
    Bác cũng nên hiểu cho người trực tiếp chỉ huy chứ!
    Nagumo đánh trận đó với niềm tin tuyệt đối vào Yamamoto là sẽ đập tan quả đấm sắt của Mĩ ở Thái Bình Dương là 3 chiếc hàng không mẫu hạm! Nếu nấn ná lâu hơn biết đâu sẽ chịu tổn thất không nhỏ khi mà B-17 cất cánh từ Hawaii đánh ra, còn đám phóng lôi từ 3 chiếc HKMH kia mò đến, lúc đó Nhật có nguy cơ mất 6 trên 10 chiếc HKMH của mình, khả năng hồi phục là không có vì lúc đó đã đánh nhau thật rồi có mua được sắt vụn và dầu của Mĩ nữa đâu mà chế tạo lại?
    Nagumo là người trực tiếp đánh nhau lúc đó, tại thời điểm đó ông ta phải ra quyết định, còn Yamamoto và bác thì chỉ biết việc đó sau khi có tin tức đầy đủ, lúc đó thì hối tiếc là phải.
    Dù sao em cũng ko ủng hộ Nagumo, tính cẩn thận thái quá của ông ta khiên Hải quân Nhật trả giá đắt trong trận Midway. Đáng ra lúc đó ông ta có thể tung ra đợt tấn công thứ 3 vì phần lớn hỏa lực phòng không nằm trên các tàu chiến trong cảng, trong khi các bồn chứa dầu và kho đạn lại khá to, có thể ném bom ngoài tầm súng máy mà không bị tổn thất, còn hạm đội thì cho lui ra ngoài 600 dặm như Yamamoto dự tính ban đầu để tránh sự truy kích của Mĩ, chỉ để lại vài tàu đủ để vớt phi công hạ cánh xuống biển khi quay về.
  5. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    chẳng hieu sao không lưu đc bài
  6. aydaayda

    aydaayda Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    03/08/2006
    Bài viết:
    14
    Đã được thích:
    0
  7. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Trận chiến biển Coral Sea - Trận đấu tầu sân bay đầu tiên trong lịch sử Hải quân





    Trận chiến biển Coral Sea là một trận chiến từ ngày 04- ngày 08 tháng 5 năm 1942, đây là một trận hải chiến chính trong chiến trường Thái Bình Dương một phần của Chiến tranh thế giới II giữa Hải quân Đế quốc Nhật Bản với lực lượng hải quân và không quân Đồng minh - Hoa KỳAustralia. Trận đánh được coi như là trận chiến đầu tiên giữa các tàu sân bay. Nó cũng là trận hải chiến đầu tiên trong lịch sử mà khi đó các tàu chiến của phía này không thể nhìn thấy bắn trực tiếp về phía bên kia.

    Trong một nỗ lực để củng cố vị trí phòng thủ cho đế chế của mình ở Nam Thái Bình Dương, Đế quốc Nhật Bản quyết định xâm lược và chiếm Port Moresby thuộc New GuineaTulagi ở phía đông nam Quần đảo Solomon. Kế hoạch để thực hiện việc này được gọi là Chiến dịch MO, một số lớn các đơn vị liên quan đến chiến dịch này của Nhật Bản Hạm đội Liên hợp, bao gồm hai tàu sân bay hạm đội và một tàu sân bay hạng nhẹ để cung cấp bảo vệ trên không cho các hạm đội xâm lược, dưới sự chỉ huy chung của tướng Shigeyoshi Inoue. Hoa kỳ đã nắm được kế hoạch của Nhật Bản thông qua hệ thống tín hiệu tình báo (NV - signals intelligence - chặn và phá mã thông tin của đối phương ) và đã gửi hai tầu sân bay đặc nhiệm của Hải quân Hoa Kỳ và một lực lượng tàu tuần dương kết hợp Úc- Mỹ, dưới sự chỉ huy chung của Đô đốc Frank J. Fletcher, để chặn đứng cuộc tấn công của Nhật Bản.

    Ngày 3 và 4 tháng 5, các lực lượng Nhật Bản đã xâm lược và chiếm đóng thành công Tulagi, mặc dù một số tàu chiến hộ tống của họ đã bị đánh chìm hoặc hư hỏng bất thình lình bởi máy bay từ chiếc tàu sân bay của Mỹ - chiếc Yorktown (đến đây người Mỹ mới bắt đầu sử dụng những gì học được từ người Nhật). Bây giờ người Nhật đã nhận thức được sự hiện diện của tàu sân bay Mỹ trong khu vực, các tàu sân bay hạm đội của Nhật Bản tiến vào biển Coral Sea với ý định tìm kiếm và tiêu diệt lực lượng hải quân Đồng Minh.

    Bắt đầu từ ngày 07 tháng 5, các lực lượng tàu sân bay của hai bên đã tung ra những cuộc không kích trong hơn hai ngày liên tiếp. Ngày đầu tiên, phía Mỹ đã đánh chìm chiếc tàu sân bay hạng nhẹ của Nhật Bản – chiếc Shōhō, trong khi Nhật Bản đánh chìm một tàu khu trục và một tàu chở dầu của Hoa kỳ (các bác Nhật cứ nghĩ đây là 01 TSB nên cắm đầu vào mà nện). Ngày hôm sau, chiếc tàu sân bay hạm đội Nhật Bản Shōkaku bị hư hỏng nặng, chiếc tàu sân bay hạm đội của Mỹ - Lexington cũng bị đánh đắm như là kết quả của những thiệt hại nghiêm trọng và chiếc TSB Yorktown bị hư hại. Cả hai bên đều phải chịu thiệt hại nặng về máy bay và tàu sân bay bị hư hỏng hoặc bị bị đánh chìm, hai hạm đội đều phải ngưng chiến và thoát ly khỏi khu vực chiến đấu. Vì thiếu nghiêm trọng lực lượng không quân yểm trợ trên không từ các tàu sân bay, Inoue phải cho gọi hạm đội xâm lược Port Moresby quay trở lại và có ý định thử lại sau.

    Mặc dù đây là một chiến thắng chiến thuật cho người Nhật về việc 01 tàu sân bay hạm đội của Đồng minh bị đánh chìm, trận chiến cũng chứng minh đây là một thắng lợi chiến lược của Đồng minh vì nhiều lý do. Thế lực của Nhật Bản đang được mở rộng, dường như không thể ngăn cản được cho đến khi đó, đã bị cản trở lần đầu tiên . Quan trọng hơn, các tàu sân bay hạm đội Nhật – chiếc Shōkaku và chiếc Zuikaku- một chiếc bị hư hỏng và chiếc khác mất sạch máy bay của nó, chúng cần được bổ sung và đã không thể tham gia Trận Midway sẽ diễn ra vào tháng sau, làm cho lực lượng tầu sân bay của hai đối thủ trở nên cân bằng hơn, góp phần đáng kể vào chiến thắng Mỹ trong trận chiến đó. Các thiệt hại nghiêm trọng của các tàu sân bay tại trận Midway đã ngăn cản quân Nhật cố gắng xâm lược lần nữa Port Moresby từ phía đại dương. Hai tháng sau, quân Đồng minh đã lợi dụng lỗ hổng chiến lược của Nhật Bản tại Nam Thái Bình Dương và tung ra Chiến dịch Guadalcanal rằng cùng với Chiến dịch New Guinea, cuối cùng họ đã phá vỡ phòng thủ của Nhật Bản ở Nam Thái Bình Dương, đây là một yếu tố góp phần quan trọng để đánh bại Nhật Bản trong Thế chiến II.



    Bối cảnh


    Đế quốc Nhật Bản mở rộng




    [​IMG]
    Bản đồ bước tiến quân - và kế hoạch chinh phục của Đế quốc Nhật bản trong năm 1942



    Ngày 07 tháng 12 Năm 1941, sử dụng tàu sân bay, Nhật Bản tấn công các tầu chiến của hạm đội Thái Bình Dương Hoa kỳ tại Trân Châu Cảng, Hawaii. Cuộc tấn công đã phá hủy hay làm tê liệt tối đa các thiết giáp hạm của Hạm đội Thái Bình Dương - Hoa Kỳ và bắt đầu một mở ra một tình trạng chiến tranh chính thức giữa hai nước. Trong lúc phát động cuộc chiến tranh này, các nhà lãnh đạo Nhật Bản tìm cách để hóa giải hạm đội Mỹ và chiếm giữ các vùng giàu tài nguyên thiên nhiên, và thiết lập các căn cứ quân sự chiến lược để bảo vệ đế chế của họ từ xa. Đồng thời với việc tấn công Trân Châu Cảng, người Nhật cũng tấn công Malaya, làm cho Vương quốc Anh, Australia, và New Zealand gia nhập lực lượng Đồng minh với Hoa kỳ trong cuộc chiến chống lại Nhật Bản. Trong mật lệnh của Hạm đội Liên hợp Hải quân Đế quốc Nhật Bản ( Hải quân Nhật ) Mật lệnh số 1 " Secret Order Number One ", ngày 01 tháng mười một 1941, các mục tiêu của chiến dịch đầu tiên của Nhật Bản trong cuộc chiến tranh sắp xảy ra " là ( đẩy ) lực lượng của Anh, Mỹ ra khỏi Đông ấn thuộc Hà Lan Ấn và Philippin, (và ) để thiết lập một chính sách tự túc tự trị và độc lập kinh tế."

    Để hỗ trợ các mục tiêu này, trong vài tháng đầu của năm 1942, bên cạnh việc tiến vào Malaya, lực lượng Nhật Bản đã tấn công và thành công trong việc chiếm quyền kiểm soát Việt Nam, Thái Lan, Singapore, Đông Ấn thuộc Hà Lan, Đảo Wake, New Britain, các Quần đảo Gilbert, và Guam trong khi gây thiệt hại nặng nề cho lực lượng lục quân, hải quân và không quân Đồng Minh. Nhật Bản lên kế hoạch để sử dụng các vùng lãnh thổ mới chinh phục để thiết lập một chu vi phòng thủ cho đế chế của mình mà từ đó nó sẽ sử dụng chiến thuật tiêu hao để đánh bại hoặc làm yếu đi bất kỳ cuộc phản công nào của Đồng Minh.

    Ngay sau khi cuộc chiến bắt đầu , Bộ mưu Hải quân Nhật Bản đề nghị một cuộc xâm lược vào miền Bắc Australia để ngăn chặn việc Australia được sử dụng làm căn cứ để đe dọa chu vi phòng thủ của Nhật Bản ở Nam Thái Bình Dương. Tuy nhiên Lục quân Đế quốc Nhật Bản ( IJA ), từ chối đề nghị trên, nêu rõ rằng họ không đủ lực lượng hoặc năng lực vận chuyển sẵn có để thực hiện như một chiến dịch như vậy. Đồng thời, Phó Đô đốc Shigeyoshi Inoue, chỉ huy của Hạm đội 4 Hải quân Nhật ( cũng còn được gọi là Hạm đội phía Nam ) gồm hầu hết các đơn vị hải quân trong vùng Nam Thái Bình Dương, lại ủng hộ việc chiếm đóng Tulagi ở đông nam Quần đảo SolomonPort Moresby trong New Guinea, việc chiếm đóng này sẽ đưa miền bắc Australia trong phạm vi của máy bay trên đất liền của Nhật Bản. Inoue tin rằng chiếm và kiểm soát các cứ điểm này sẽ cung cấp an ninh lớn hơn và độ sâu phòng thủ cho căn cứ chính của Nhật Bản tại Rabaul ở New Britain. Các tướng lĩnh của hải quân và lục quân đều chấp nhận đề nghị của Inoue và thúc đẩy các hoạt động xa hơn nữa, bằng cách sử dụng các cứ điểm này làm căn cứ hỗ trợ, để chiếm New Caledonia, Fiji, và Samoa và do đó cắt các tuyến đường cung cấpthông tin giữa Australia và Hoa Kỳ.

    Trong tháng tư năm 1942, lục quân và hải quân phát triển một kế hoạch có tiêu đề Chiến dịch MO. Kế hoạch kêu gọi xâm lược từ biển Port Moresby và và phải chiếm được nó vào khoảng mùng 10 tháng Năm. Kế hoạch cũng bao gồm việc chiếm giữ Tulagi vào ngày 02-03 tháng năm, nơi mà lực lượng hải quân sẽ thiết lập một căn cứ thủy phi cơ chiến đấu tiềm tàng cho các hoạt động tấn công vào các vùng lãnh thổ và các lực lượng Đồng Minh ở Nam Thái Bình Dương và tạo ra một căn cứ cho máy bay trinh sát. Sau khi kết thúc Chiến dịch MO, hải quân lên kế hoạch bắt đầu tiến hành chiến dịch RY, Tàu bằng cách sử dụng phát hành từ chiến dịch MO để chiếm giữ NauruOcean Island cho mình phosphate tiền gửi , ngày 15 tháng 5 . Hơn nữa các chiến dịch tấn công Fiji, Samoa và New Caledonia (Chiến dịch FS) được lên kế hoạch một khi các chiến dịch MORY thành công. Vì một cuộc không kích từ các máy bay Đồng Minh xuất phát từ các sân bay trên đất liền gây thiệt hại cho lực lượng hải quân Nhật Bản khi họ xâm chiếm khu vực Lae - Salamaua ở New Guinea vào tháng ba, Inoue yêu cầu Hạm đội Liên hợp gửi các tàu sân bay đến để cung cấp yểm trợ trên không cho lực lượng của chiến dịch MO. Inoue đặc biệt lo lắng về máy bay ném bom của Đồng Minh đóng tại căn cứ không quân tại TownsvilleCooktown - Úc, ở ngoài tầm của máy bay ném bom của mình nằm ở các căn cứ Rabaul và Lae.



    [​IMG]
    Ảnh đô đốc Shigeyoshi Inoue, chỉ huy cao cấp nhât của chiến dịch MO của Nhật bản năm 1942



    Đô đốc Isoroku Yamamoto, chỉ huy của Hạm đội Liên hợp Nhật Bản, người lúc này một lập kế hoạch hoạt động cho tháng sáu mà ông hy vọng sẽ thu hút các tàu sân bay của Hải quân Mỹ, những chiếc thoát khỏi bị tiêu diệt trong trận tấn công Trân Châu Cảng, mở một trận đánh quyết định với đội tàu của mình tại Thái Bình Dương gần trung tâm Đảo san hô Midway. Trong khi đó, tuy nhiên lúc này Yamamoto lại tách ra một số tàu chiến lớn của ông, trong đó có hai tàu sân bay hạm đội, một tàu sân bay hạng nhẹ, một bộ phận tàu tuần dương , tàu khu trục và hai sư đoàn để hỗ trợ cho chiến dịch MO và được đặt dưới sự chỉ huy của Inoue trong thành phần lực lượng hải quân của chiến dịch MO.



    Đồng Minh phản ứng

    Người Nhật bản không hề biết rằng, Bộ phận An ninh Thông tin của Văn phòng Truyền tin Hải quân - Hải quân Hoa Kỳ (Communication Security Section of the Office of Naval Communications,), trong nhiều năm đã có một số thành công thâm nhập mật mã và phá mã truyền tin của Nhật Bản. vào tháng Ba năm 1942, Mỹ đã có thể giải mã lên đến 15% mật mã Ro hoặc mật mã Hải quân Codebook D của Hải quân Nhật ( được người Mỹ gọi là " JN - 25B ") được sử dụng bởi Hải quân Nhật cho khoảng một nửa số thông tin liên lạc của họ. Đến cuối tháng tư người Mỹ đã được đọc lên đến 85 % các tín hiệu phát sóng trong mật mã code Ro.

    Trong tháng ba 1942, người Mỹ nhận thấy những đề cập đầu tiên về chiến dịch MO trong các đoạn tin bị chặn được. Ngày 05 tháng 4, người Mỹ chặn một thông tin Hải quân Nhật chỉ đạo cho một tàu sân bay và một tàu chiến lớn khác để tiếp tục đến khu vực hoạt động của Inoue. Ngày 13 tháng 4, người Anh giải mã một thông điệp thông báo cho lực lượng Hải quân Nhật của Inoue rằng Đội tàu sân bay thứ năm, bao gồm các tàu sân bay ShōkakuZuikaku, đang trên đường để nằm dưới quyền chỉ huy của ông từ ******* qua các căn cứ Hải quân chính của Nhật tại Truk. Người Anh đã chuyển qua tin nhắn này đến người Mỹ, cùng với kết luận của họ rằng Port Moresby khả năng là mục tiêu của MO.

    Đô đốc Chester Nimitz, chỉ huy mới của Lực lượng Đồng Minh tại Thái Bình Dương, và nhân viên của ông đã thảo luận về các thông điệp được giải mã và đồng ý rằng người Nhật có khả năng khởi xướng một hoạt động lớn ở Tây Nam Thái Bình Dương vào đầu tháng với Port Moresby có thể là mục tiêu. Đồng minh coi Port Moresby là một căn cứ quan trọng cho một kế hoạch phản công, theo tướng Douglas MacArthur, để chống lại lực lượng Nhật Bản tại khu vực phía tây nam Thái Bình Dương. Các nhân viên dưới quyền Nimitz cũng kết luận rằng các hoạt động Nhật Bản có thể bao gồm các cuộc tấn công vào các căn cứ sân bay Đồng Minh tại Samoa và tại Suva. Nimitz , sau khi tham khảo ý kiến với Đô đốc Ernest King – Chỉ huy trưởng của Hạm đội Hoa Kỳ, quyết định chống trả lại các hoạt động của Nhật Bản bằng cách gửi tất cả bốn tàu sân bay thuộc hạm đội Thái Bình Dương có sẵn tới biển Coral Sea vào ngày 27 tháng 4, hơn nữa các thông tin tình báo cũng xác nhận hầu hết các chi tiết và mục tiêu của kế hoạch MORY.

    Ngày 29 tháng 4 , Nimitz ban hành lệnh mà ông đã gửi cho bốn tàu sân bay và tàu chiến hộ tống chúng rằng hãy tiến về phía biển Coral. Lực lượng Đặc nhiệm 17 ( TF17 ), chỉ huy bởi Chuẩn Đô đốc Fletcher và bao gồm tàu sân bay Yorktown, được hộ tống bởi ba tuần dương hạm và bốn tàu khu trục và hỗ trợ bởi một nhóm bổ sung gồm hai tầu chở dầu và hai khu trục hạm, đã tới được Nam Thái Bình Dương, họ khởi hành từ Tongatabu ngày 27 tháng 4 trên đường đến vùng biển Coral. Lực lượng Đặc nhiệm 11 ( TF11 ), chỉ huy bởi Chuẩn Đô đốc Aubrey Fitch bao gồm tàu sân bay Lexington cùng với hai tàu tuần dương và năm tàu khu trục, đang ở giữa Fiji và New Caledonia. Lực lượng Đặc nhiệm 16 ( TF16 ), chỉ huy bởi Phó Đô đốc William F. Halsey và bao gồm các tàu sân bay EnterpriseHornet, vừa trở về Trân Châu Cảng từ trận không kích của Doolittle Raid tại Trung tâm Thái Bình Dương và do đó sẽ không thể đến được Nam Thái Bình Dương đúng thời gian để tham gia vào trận chiến. Nimitz cử Fletcher làm chỉ huy của lực lượng hải quân Đồng minh ở khu vực Nam Thái Bình Dương cho đến khi Halsey đến với TF16. Mặc dù khu vực Biển San hô nằm dưới sự chỉ huy của MacArthur, Fletcher và Halsey được lệnh là phải báo cáo trực tiếp với Nimitz trong khi ở khu vực biển Coral, chứ không phải là với MacArthur.



    [​IMG]
    Ảnh chuẩn Đô đốc Fletcher - chỉ huy của lực lượng TF16, lực lượng tham chiến chính của Hoa kỳ trong trận biển Coral Sea


    Dựa trên việc chặn thông tin qua Radio từ TF16 khi nó đang quay về Trân Châu Cảng, Nhật Bản giả định rằng trong tất cả những tàu sân bay của Hải quân Mỹ đang có một chiếc tại trung tâm Thái Bình Dương. Người Nhật không biết vị trí của các tàu sân bay còn lại, nhưng không mong đợi một phản ứng của tàu sân bay Mỹ vào chiến dịch MO cho đến khi chiến dịch này được tiến hành.


    Trận đánh



    [​IMG]
    Bản đồ trận chiến biển Coral Sea - mầu xanh là quân Mỹ cùng Đồng minh, mầu đỏ quân Nhật bản


    Khúc dạo đầu

    Trong thời gian cuối tháng tư, các tàu ngầm Nhật Bản RO - 33RO - 34 reconnoitered khu vực nơi đổ bộ vốn đã được lên kế hoạch. Các tàu này ngầm tra xung quanh Rossel Island và nơi nhóm Deboyne Group neo đậu trong Quần đảo Louisiade, Jomard Channel, và con đường tới Port Moresby từ phía đông . Họ không nhìn thấy bất kỳ tàu nào của quân đồng minh trong khu vực và trở về Rabaul vào các ngày 23 tháng 4 và 24 tương ứng.

    Lực lượng Nhật Bản xâm lược Port Moresby nằm dưới sự chỉ huy của Chuẩn Đô đốc Kōsō Abe, bao gồm 11 tàu vận tải chở khoảng 5.000 binh lính từ Lực lượng phía Nam của IJA cộng với khoảng 500 binh lính từ quân hải quân đổ bộ đặc biệt Landing Kure 3 ( SNLF ). Hộ tống các tàu vận tải chở quân tấn công Port Moresby là một tàu tuần dương hạng nhẹ và sáu tàu khu trục dưới sự chỉ huy của Chuẩn Đô đốc Sadamichi Kajioka. Tầu của Abe khởi hành đi từ Rabaul, khoảng 840 hải lý ( 1.556 km) đến Port Moresby, ngày 4 tháng 5 và lắp ghép với lực lượng của Kajioka vào ngày hôm sau. Các tàu tiến với tốc độ 8 hải lý ( 15 km / h), dự kiến sẽ quá cảnh qua Channel Jomard trong Louisiades để vượt vòng quanh qua mũi phía nam của New Guinea để đến Port Moresby vào ngày 10 tháng năm. Các đơn vị đồn trú của quân đồng minh đóng tại Port Moresby có quân số khoảng 5.333 người, nhưng chỉ một nửa trong số này là lính bộ binh và tất cả đều được trang bị rất kém và đào tạo tồi.

    Dẫn đầu cuộc xâm lược vào Tulagi là Lực lượng xâm lược Tulagi được chỉ huy bởi Chuẩn Đô đốc Kiyohide Shima, gồm hai tầu thả ngư lôi, hai tàu khu trục, sáu tàu quét mìn sáu, hai tầu săn ngầm và tàu vận tải chở khoảng 400 quân tách khỏi Lực lượng Kure 3 SNLF. Hỗ trợ lực lượng chiếm Tulagi là Lực lượng Yểm trợ trên không từ chiếc tàu sân bay hạng nhẹ Shōhō, bốn tàu tuần dương hạng nặng và một tàu khu trục được chỉ huy bởi Chuẩn Đô đốc Aritomo Goto. Một Lực lượng Yểm trợ độc lập (đôi khi còn được gọi là Nhóm Hỗ trợ ) được chỉ huy bởi Chuẩn Đô đốc Kuninori Marumo và bao gồm hai tàu tuần dương hạng nhẹ, một thủy phi cơ bảo dưỡng Kamikawa Maru, và ba tàu chiến , gia nhập nhóm Lực lượng Yểm trợ độc lập để cung cấp bảo vệ từ xa cho cuộc xâm lược Tulagi. Một khi Tulagi bị chiếm giữ vào ngày 03 hoặc 04 tháng 5, Lực lượng Yểm trợ trên không và Lực lượng Yểm trợ độc lập sẽ chuyển vị trí để trợ giúp cuộc xâm lược vào Port Moresby. Inoue chỉ đạo chiến dịch MO từ tàu tuần dương Kashima, chiếc chở ông đến Rabaul từ Truk ngày 04 tháng 5.

    Lực lượng của Goto rời Truk vào ngày 28 tháng tư, đi qua Solomons ở giữa BougainvilleChoiseul và dừng nghỉ ở gần New Georgia Island. Nhóm hỗ trợ của Marumo đi từ New Ireland vào ngày 29 tháng tư hướng đến vịnh Thousand Ships Bay, Santa Isabel Island, để thiết lập một căn cứ thủy phi cơ vào ngày 02 tháng năm để hỗ trợ các cuộc tấn công vào Tulagi. Đội quân xâm lược của Shima rời Rabaul vào ngày 30 tháng 4.

    Lực lượng Tầu sân bay Tấn công với các tàu sân bay ZuikakuShōkaku, hai tàu tuần dương hạng nặng và sáu tàu khu trục đi từ Truk ngày 01 tháng 5. Các lực lượng tấn công nằm dưới sự chỉ huy của Phó Đô đốc Takeo Takagi (trên tàu tuần dương Kỳ hạm Myōkō) cùng với Chuẩn Đô đốc Chuichi Hara trên chiếc Zuikaku, chỉ huy về chiến thuật của lực lượng không quân trên tàu sân bay. Lực lượng Tầu sân bay Tấn công tiếp tục đi xuống phía đông của Quần đảo Solomon và đi vào Coral Sea về phía nam của Guadalcanal. Khi ở trong vùng biển Coral, các tàu sân bay đã cung cấp yểm trợ trên không cho các lực lượng xâm lược và loại bỏ không lực Đồng Minh tại Port Moresby cùng với đánh chặn và tiêu diệt bất kỳ lực lượng hải quân Đồng Minh bắt đầu tiến vào biển Coral để chống trả.


    [​IMG]
    Ảnh chuẩn Đô đốc Chuichi Hara, chỉ huy về chiến thuật của lực lượng không quân trên tàu sân bay trong trận Coral Sea


    Trên đường đến biển Coral, tàu sân bay của Takagi đã cung cấp chín máy bay tiêm kích Zero cho Rabaul. Tình trạng thời tiết trong hai nỗ lực để giao hàng vào ngày 2 và 3 tháng 5 buộc các chiếc máy bay này phải quay trở về tàu sân bay, ở cách 240 hải lý ( 444 km) từ Rabaul, và một trong những chiếc Zero đã buộc phải hạ cánh xuống đại dương. Để cố gắng giữ cho kịp với thời gian biểu của chiến dịch MO, Takagi buộc phải từ bỏ nhiệm vụ giao hàng sau nỗ lực thứ hai và ra lệnh cho lực lượng của ông tiến đến quần đảo Solomon để tiếp nhiên liệu.

    Để đưa ra những lời cảnh báo trước khi có sự tiếp cận của bất kỳ lực lượng hải quân Đồng Minh nào, người Nhật đã gửi các tàu ngầm I- 22, I- 24, I- 28I- 29 để tạo thành một đường trinh sát trong đại dương ở khoảng 450 hải lý ( 833 km) về phía tây nam Guadalcanal. Tuy nhiên lực lượng của Fletcher, đã vượt qua và tiến vào khu vực biển Coral trước khi các tàu ngầm đến được vị trí và do đó người Nhật không biết về sự hiện diện của họ (lực lượng của Fletcher). Một tàu ngầm, I- 21, được gửi đến để trinh sát xung quanh Nouméa và bị tấn công bởi máy bay của chiếc Yorktown vào ngày 02 tháng 5. Những chiếc tàu ngầm không có thiệt hại gì và dường như đã không nhận ra rằng họ bị tấn công bởi tàu sân bay. Các lực lượng RO - 33RO - 34 cũng đã được triển khai trong một nỗ lực để phong tỏa Port Moresby và tiến đến ngoài thị trấn vào ngày 05 tháng 5. Không có tàu ngầm nào tấn công bất kỳ tàu chiến nào trong trận đánh.

    Sáng ngày 01 tháng 5, TF17 và TF11 hợp nhất ở khoảng 300 hải lý ( 556 km) phía tây bắc của New Caledonia. Fletcher ngay lập tức tách ra để tiếp nhiên liệu cho TF11 từ các tàu chở dầu Tippecanoe trong khi TF17 tiếp nhiên liệu từ chiếc Neosho. TF17 hoàn thành tiếp nhiên liệu vào ngày hôm sau, nhưng TF11 báo cáo rằng họ sẽ chưa hoàn thành việc tiếp nhiên liệu cho đến ngày 04 tháng 5. Fletcher chọn TF17 hướng về phía tây bắc Louisiades và ra lệnh cho TF11 tiến lên để gặp Lực lượng Đặc nhiệm 44 ( TF44 ), khi này đã trên đường từ Sydney để đến Nouméa, vào ngày 4 tháng năm việc tiếp nhiên liệu đã hoàn thành. TF44 là một lực lượng tàu chiến hỗn hợp Australia – Hoa kỳ nằm dưới sự chỉ huy của MacArthur, do Chuẩn Đô đốc Úc - John Crace chỉ huy, được tạo thành bởi các tàu tuần dương HMAS Australia, HMAS Hobart, và USS Chicago và ba tàu khu trục nữa. Sau khi hoàn thành việc tiếp nhiên liệu cho TF11, chiếc tầu dầu Tippecanoe rời biển Coral để cung cấp nhiên liệu còn lại của nó cho các tàu Đồng Minh tại Efate.


    Tulagi

    Sáng sớm ngày 03 tháng năm, lực lượng của Shima đã đến ngoài khơi Tulagi và bắt đầu đổ bộ lên bờ lực lượng hải quân đánh bộ để chiếm các đảo. Tulagi được không bảo vệ, các đơn vị đồn trú nhỏ và một biệt kích Úc cùng với một đơn vị trinh sát Không quân Hoàng gia Australia đã được sơ tán trước khi lực lượng đổ bộ của Shima xuất hiện. Các lực lượng Nhật Bản ngay lập tức bắt đầu xây dựng một căn cứ thủy phi cơ và cơ sở truyền tin. Máy bay từ tầu sân bay Shōhō yểm trợ cho cuộc đổ bộ cho đến đầu giờ chiều, khi lực lượng của Goto quay sang hướng Bougainville để tiếp nhiên liệu và chuẩn bị để hỗ trợ cuộc đổ bộ tại Port Moresby.

    Lúc 17:00 , ngày 03 tháng 5 , Fletcher được thông báo rằng các lực lượng Nhật Bản xâm lược Tulagi đã được nhìn thấy vào ngày hôm trước, khi tiếp cận phía nam quần đảo Solomons. Unbeknownst để Fletcher, TF11 đã hoàn thành tiếp nhiên liệu vào sáng hôm đó trước thời hạn và chỉ cách TF17 60 hải lý ( 111 km ) về phía đông, nhưng đã không thể liên lạc với nhau vì mệnh lệnh của Fletcher là phải tắt vô tuyến điện. TF17 thay đổi hướng đi và di chuyển với tốc độ 27 hải lý về phía Guadalcanal để khởi động cuộc không kích chống lại lực lượng Nhật Bản tại Tulagi sáng hôm sau.

    Ngày 4 tháng 5 , từ vị trí 100 hải lý ( 185 km ) về phía nam Guadalcanal, tổng cộng 60 máy bay từ TF17 liên tiếp tung ra ba cuộc tấn công vào lực lượng của Shima ở ngoài khơi Tulagi. Máy bay từ chiếc Yorktownđã tập kích bất ngờ vào lực lượngShima và đánh chìm tàu khu trục Kikuzuki cùng với ba trong số các tàu quét mìn, bốn tàu khác bị hư hại và phá hủy bốn thủy phi cơ hỗ trợ cho cuộc đổ bộ . Người Mỹ bị mất một máy bay ném bom bổ nhào và hai máy bay chiến đấu trong các cuộc tấn công, nhưng tất cả các đội bay cuối cùng đã được cứu thoát. Sau khi thu hồi máy bay của mình vào cuối vào tối ngày 4 tháng năm, TF17 đã quay về nghỉ ở phía nam. Mặc dù bị thiệt hại trong cuộc tấn công từ tàu sân bay, người Nhật tiếp tục xây dựng căn cứ thủy phi cơ và bắt đầu các phi vụ trinh sát từ Tulagi vào 06 Tháng 5.
    Lực lượng Tầu sân bay Tấn công của Takagi được tiếp nhiên liệu 350 hải lý ( 648 km ) về phía bắc Tulagi khi nó nhận được tin tức từ cuộc tấn công của Fletcher, ngày 04 tháng Năm. Takagi cho dừng viêck tiếp nhiên liệu, hướng về phía đông nam và gửi máy bay trinh sát để tìm kiếm phía đông quần đảo Solomons, ông tin rằng các tàu sân bay Mỹ đang ở khu vực đó. Vì không có tàu Đồng Minh nào ở khu vực đó, những chiếc máy bay trinh sát này chẳng tìm kiếm tìm thấy được gì.


    Tìm kiếm trên không và các quyết định

    Lúc 08:16, ngày 05 tháng 5, TF17 hẹn để hội quân với TF11 và TF44 tại một điểm định cách khoảng 320 hải lý ( 593 km ) về phía nam Guadalcanal. Vào khoảng cùng thời gian ấy, bốn Máy bay tiêm kích F4F Wildcat từ Yorktown chặn một Máy bay trinh sát Kawanishi Type 97 từ Không đoàn 25 Yokohama Air Group có căn cứ ở Quần đảo Shortland và bắn hạ nó cách lực lượng TF11 khoảng 11 hải lý ( 20 km). Chiếc máy bay không thể gửi báo cáo trước khi nó bị rơi, nhưng vì nó không thể trở về căn cứ nên người Nhật Bản đã suy đoán một cách chính xác rằng nó đã bị bắn hạ bởi một chiếc tàu sân bay.

    Một tin nhắn từ Trân Châu Cảng thông báo cho rằng Fletcher việc chặn tin tình báo qua radio đã dẫn đến một suy luận rằng kế hoạch đổ bộ quân của Nhật Bản lên Port Moresby sẽ diễn ra vào ngày 10 tháng 5 và hạm đội tàu sân bay của họ có khả năng sẽ được điều hành gần đoàn quân đổ bộ. Có được thông tin này, Fletcher chỉ đạo cho TF17 tiếp tục tiếp nhiên liệu từ chiếc Neosho. Sau khi việc tiếp nhiên liệu đã được hoàn thành vào ngày 06 tháng 5, ông dự định đưa quân của ông hướng về phía bắc Louisiades và mở trận chiến ngày 07 Tháng 5.

    Trong khi đó, lực lượng tàu sân bay của Takagi chạy xuống phía đông của quần đảo Solomons trong suốt cả ngày ngày 05 tháng Năm sau đó quay về phía tây để vượt qua phía nam San Cristobal ( Makira ) và đi vào biển Coral sau khi quá cảnh giữa Guadalcanal và Đảo Rennell trong buổi sáng sớm ngày 06 tháng năm. Tầu của Takagi bắt đầu tiếp nhiên liệu ở khoảng 180 hải lý ( 333 km ) về phía tây Tulagi để chuẩn bị cho trận chiến tàu sân bay mà ông dự kiến sẽ diễn ra vào ngày hôm sau.

    Ngày 06 Tháng 5 , Fletcher sát nhập TF11 và TF44 vào TF17. Tin rằng tàu sân bay Nhật cũng vẫn còn ở phía bắc gần Bougainville, Fletcher tiếp tục cho tiếp nhiên liệu . Trinh sát tuần tra tiến hành từ tàu sân bay Mỹ trong suốt cả ngày nhưng không xác định vị trí của bất kỳ của lực lượng hải quân Nhật Bản nào vì họ nằm ngoài phạm vi trinh sát.

    Lúc 10:00 , một tàu bay trinh sát Kawanishi từ Tulagi nhìn thấy TF17 và thông báo về trụ sở của nó. Takagi nhận được báo cáo tại 10:50 . Vào lúc đó, lực lượng của Takagi ở khoảng 300 hải lý ( 556 km) về phía bắc của Fletcher, gần với phạm vi tối đa của tàu sân bay của ông ta. Lúc này các tàu của Takagi vẫn tiếp tục tiếp nhiên liệu và chưa sẵn sàng tham chiến. Ông ta đưa ra kết luận dựa trên báo cáo quan sát rằng TF17 được nhóm ở phía nam và đang ra tăng khoảng cách. Hơn nữa tàu của Fletcher đang ở dưới một đám mây u ám lớn và thấp làm Takagi và Hara cảm thấy khó khăn cho máy bay của họ để tìm ra các tàu sân bay Mỹ. Takagi tách ra hai tầu sân bay cùng hai tàu khu trục dưới sự chỉ huy của Hara và hướng về phía TF17 với tốc độ 20 hải lý / h ( 23 mph , 37 km / h ) để chiếm được ở vị trí tấn công vào lúc có tia sáng đầu tiên của ngày hôm sau, trong khi phần còn lại của đội tàu của ông đã hoàn thành việc tiếp nhiên liệu.

    Máy bay ném bom B- 17 của Mỹ có căn cứ tại Úc dàn hàng bay qua Port Moresby để tấn công lực lượng xâm lược đang tiếp cận căn cứ này, bao gồm cả tàu chiến của Goto một vài lần trong ngày 6 tháng Năm mà không thành công. MacArthur thông báo qua radio tới sở chỉ huy chính của Fletcher về tình hình của các cuộc tấn công và địa điểm của các lực lượng xâm lược Nhật Bản. Báo cáo của các phi-công của MacArthur cho thấy một tàu sân bay ( chiếc Shōhō) ở khoảng 425 hải lý ( 787 km) phía tây bắc của TF17 và điều này đã thuyết phục Fletcher tiếp tục đưa đội tàu sân bay bám theo đội quân xâm lược.

    Lúc 18:00, TF17 đã hoàn thành tiếp nhiên liệu và Fletcher tách chiếc Neosho với một tàu khu trục – chiếc Sims ra để có thêm một trạm tiếp ở phía nam tại một điểm không được lựa chọn trước. TF17 sau đó quay đầu về phía tây bắc Rossel Island thuộc Louisiades. Hai kẻ thù hề biết gì về sự xuất hiện của đối phương, tàu sân bay của họ chỉ cách nhau khoảng 70 hải lý ( 130 km ) vào lúc 20:00 tối hôm đó. Vào lúc 20:00, Hara đảo ngược hướng đi để đón lực lượng của Takagi lúc này đã hoàn thành việc tiếp nhiên liệu và giờ đây cũng đi theo hướng của Hara.
    Vào cuối ngày 06 tháng 5 hoặc đầu ngày 07 Tháng 5, Kamikawa Maru thiết lập một căn cứ thủy phi cơ trong Deboyne Group nhằm mục đích hỗ trợ trên không cho lực lượng xâm lược khi tới gần Port Moresby. Phần còn lại của Lực lượng Yểm trợ của Marumo sau đó đóng quân ở gần đảo D-Entrecasteaux để giúp bảo vệ cho đoàn côngvoa đang đi tới của Abe.


    Trận chiến tầu sân bay, ngày đầu tiên



    [​IMG]
    Bản đồ trận chiến biển Coral Sea ngày 6 -> 8 tháng 5 năm 1942



    Cuộc tấn công đầu tiên

    Lúc 06:25, ngày 07 tháng 5, TF17 ở khoảng 115 hải lý ( 213 km) về phía nam của Rossel Island. Vào lúc này, Fletcher gửi lực lượng tàu tuần dương và tàu khu trục của Crace, lúc này được biên chế thành Task Group 17.3 ( TG ), để chặn để chặn ở Jomard Passage. Fletcher hiểu rằng Crace sẽ phải hoạt động mà không có yểm trợ trên không từ tàu sân bay của TF17 và họ sẽ rất bận rộn để định vị và tấn công các tàu sân bay Nhật Bản. Các đội tàu chiến của Crace tách ra sẽ làm giảm khả năng phòng thủ chống máy bay của các tàu sân bay của Fletcher . Tuy nhiên, Fletcher đã quyết định rằng điều cần thiết là phải bảo đảm rằng các lực lượng xâm lược Nhật Bản không thể trượt qua và tới được Port Moresby trong khi ông tham chiến với các tàu sân bay Nhật Bản.



    [​IMG]
    Chiếc Yorktown đang chuẩn bị cho các đội bay của nó trước trận đánh tay đôi . Một đội tàu chở dầu đang gần ở đó.


    Tin rằng lực lượng tàu sân bay của Takagi ở một nơi nào đó ở phía bắc vị trí của mình, trong vùng lân cận Louisiades, Fletcher chỉ đạo cho chiếc Yorktown tung ra 10 máy bay ném bom bổ nhào SBD bay do thám để tìm kiếm trong khu vực bắt đầu lúc 06:19. Trong khi đó, Takagi ở vị trí khoảng 300 hải lý ( 556 km) về phía đông của Fletcher, tung ra 12 máy bay ném bom trên tàu sân bay Type 97 lúc 06:00 để trinh sát về TF17. Hara tin rằng tàu của Fletcher nằm về phía nam và khuyên Takagi tung máy bay để tìm kiếm ở khu vực này. Khoảng thời gian này, tuần dương hạm của Goto các chiếc KinugasaFurutaka cũng tung ra bốn chiếc thủy phi cơ Kawanishi E7K2 Type 94 để tìm kiếm phía đông nam của Louisiades. Thêm vào việc tìm kiếm của họ là một số thủy phi cơ từ Deboyne, bốn chiếc Kawanishi Type 97 từ Tulagi và ba chiếc máy bay ném bom Mitsubishi Type 1 từ Rabaul. Mỗi bên sẵn sàng tung ra phần còn lại của các máy bay tấn công trên tàu sân bay của mình để khởi động cuộc chiến ngay lập tức một khi họ phát hiện ra địa điểm của đối phương.



    [​IMG]
    Các nhân viên kỹ thuật hàng không trên chiếc Zuikaku cũng hối hả chẩn bị cho máy bay của họ trên sàn đáp của tàu sân bay này vào ngày 05 tháng 5



    [​IMG]
    Các máy bay của Nhật bản được tung ra để tìm kiếm vị trí của các tầu sân bay Mỹ



    Lúc 07:22 một trong những máy bay do thám của Takagi xuất phát từ Tàu sân bay Shōkaku, thông báo rằng nó đã định vị được các tàu Mỹ ở 182 độ, khoảng 163 hải lý ( 302 km) từ Takagi. Tại 7:45 các trinh sát xác nhận rằng đội tầu Mỹ bao gồm "một tàu sân bay, một tàu tuần dương và ba tàu khu trục " . Một máy bay trinh sát cao tốc của tàu sân bay Shōkaku cũng khẳng định là như vậy, Các máy bay từ Tàu sân bay Shōkaku thực sự nhìn thấy và nhầm lẫn với các chiếc NeoshoSims (trạm tiếp liệu của Fletcher). Tin tưởng rằng mình đã định vị đúng vị trí các tàu sân bay Mỹ, Hara vì sự cạnh tranh với Takagi, đã ngay lập tức tung ra tất cả các máy bay sẵn có của mình. Tổng cộng có 78 chiếc máy bay Zero - 18 máy bay tiêm kích, 36 máy bay ném bom bổ nhào và 24 máy bay phóng ngư lôi Type 99 và bắt đầu phát động tấn công từ Tàu sân bay ShōkakuZuikaku vào lúc 8:00 và vào lúc 8:15 thì cho xuất phát để đến địa điểm được báo cáo là đã nhìn thấy có đối phương.

    Lúc 08:20 , một trong những máy bay của Furutaka tìm thấy tàu sân bay của Fletcher và ngay lập tức báo cáo cho sở chỉ huy của Inoue tại Rabaul và đồng thời cũng thông báo luôn qua Takagi. Thông tin này được xác nhận bởi một thủy phi cơ Kinugasa lúc 08:30. Takagi và Hara cực kỳ bối rối bởi các báo cáo mâu thuẫn với nhau mà họ nhận được và quyết định tiếp tục với các cuộc tấn công vào các con tàu ở phía nam, nhưng chuyển tàu sân bay của họ hướng về phía tây bắc để thu hẹp khoảng cách với địa điểm mà máy bay của Furutaka đã báo cáo. Takagi và Hara cho rằng các báo cáo mâu thuẫn có thể có nghĩa là lực lượng tàu sân bay Mỹ hoạt động theo hai nhóm riêng biệt.

    Lúc 08:15 , một chiếc SBD của TSB Yorktown được điều khiển bởi John L. Nielsen nhìn thấy lực lượng của đoàn côngvoa chở quân xâm lược của Goto. Nielsen đã gửi một thông tin sai lệc được mã hóa của mình, báo cáo là đã nhìn thấy " hai tàu sân bay và bốn tàu tuần dương hạng nặng " tại vị trí  / -10.05; 152.45khoảng 225 hải lý ( 417 km) về phía tây bắc của TF17. Fletcher kết luận rằng đã tìm ra các lực lượng tàu sân bay chính của Nhật Bản và ra lệnh khởi động của tất cả các máy bay còn lại trên các tàu sân bay để sẵn sàng tấn công. Vào lúc 10:13, cuộc tấn công của 93 máy bay Mỹ bao gồm 18 máy bay tiêm kích Wildcat, 53 máy bay ném bom bổ nhào SBD và 22 máy bay phóng ngư lôi TBD Devastator được bắt đầu. Lúc 10:19, Nielsen hạ cánh và phát hiện lỗi mã hóa của mình. Mặc dù lực lượng yểm trợ của Goto là chiếc Shōhō, Nielsen lại nghĩ rằng ông ta đã nhìn thấy hai tàu tuần dương và bốn tàu khu trục. Lúc 10:12 , tuy nhiên, Fletcher đã nhận được một báo cáo từ một chuyến bay của ba máy bay B -17 của lục quân Hoa Kỳ về một lực lượng gồm một tàu sân bay, 10 tầu vận tải, và 16 tàu chiến ở khoảng 30 hải lý ( 56 km ) về phía nam địa điểm Nielsen đã nhìn thấy. Các máy bay B -17 cũng thực sự nhìn thấy cùng một điều như Nielsen đã thấy: chiếc Shōhō, tàu tuần dương của Goto, cộng với đội quân xâm lược Port Moresby. Cho là những gì ba chiếc B- 17 đã nhìn thấy là lực lượng tàu sân bay chính của Nhật Bản, Fletcher ra lệnh cho các lực lượng tấn công trên không hướng tới mục tiêu này.

    Lúc 09:15 , lực lượng tấn công Takagi đến được khu vực có mục tiêu của mình, quan sát thấy chiếc NeoshoSims, và tìm kiếm một cách vô ích các tàu sân bay Mỹ. Cuối cùng, lúc vào lúc 10:51 các đội bay trinh sát của chiếc Tàu sân bay Shōkaku nhận ra họ đã nhầm lẫn trong việc phân biệt các tàu chở dầu và tàu khu trục với tàu sân bay. Takagi bây giờ nhận ra rằng các tàu sân bay Mỹ đang ở giữa ông và đoàn tầu chở quân xâm lược, điều này đặt các lực lượng xâm lược ở một tình thế nguy hiểm cao độ. Takagi ra lệnh cho máy bay của mình ngay lập tức tấn công các chiếc NeoshoSims và sau đó trở về tàu sân bay của họ càng nhanh càng tốt. Lúc 11:15, các máy bay phóng ngư lôi và máy bay chiến đấu từ bỏ nhiệm vụ và quay chở về tàu sân bay quay với vũ khí của họ trong khi 36 chiếc máy bay ném bom bổ nhào tấn công vào hai chiếc tàu của Mỹ.



    [​IMG]
    Ảnh chiếc tầu chở dầu Neosho - bị người Nhật tưởng là 01 TSB của Hoa kỳ, đang bốc bị cháy và chìm dần sau cuộc tấn công bằng máy bay ném bom bổ nhào của Nhật Bản .


    Bốn máy bay ném bom bổ nhào lao vào tấn công chiếc Sims và phần còn tấn công chiếc Neosho. Chiếc tàu khu trục bị đánh trúng ba quả bom vỡ làm đôi và chìm ngay lập tức, giết chết 192 thủy thủ đoàn chỉ còn 14 người còn sống. Chiếc Neosho bị đánh trúng bảy quả bom. Một trong những máy bay ném bom bổ nhào trúng đạn phòng không và đâm vào chiếc tàu chở dầu này. Bị hư hại nặng và không có điện, chiếc Neosho bị bỏ trôi và chìm dần. Trước khi mất điện, chiếc Neosho đã có thể kịp thông báo cho Fletcher qua radio của nó rằng nó đã bị tấn công và gặp rắc rối, nhưng đã cắt xén tất cả những thông tin chi tiết hơn nữa để chỉ ra những kẻ hoặc những gì đã tấn công nó và thậm trí còn chỉ sai tọa độ của vị trí của nó. (lúc đang cà cuống mà)

    Các máy bay tấn công của Mỹ nhìn thấy Shōhō một khoảng cách cách về phía đông bắc Misima Island lúc 10:40 và triển khai tấn công. Chiếc tàu sân bay Nhật được bảo vệ bởi sáu chiếc Zero và hai máy bay tiêm kích bay tuần tra không chiến Type 96 (CAP), phần máy bay còn lại của tàu sân bay này đang được chuẩn bị ở sàn dưới cho một cuộc tấn công chống lại các tàu sân bay Mỹ. Các tàu tuần dương của Goto bao quanh chiếc tàu sân bay trong một đội hình kim cương, ở khoảng cách 3.000 yard ( 2.743 m) đến 5.000 yard ( 4.572 m) ở mỗi góc của chiếc Shōhō.


    [​IMG]
    Ảnh chiếc tầu sân bay hạng nhẹ Shōhō trong cơn mưa bom và ngư lôi của các phi cơ xuất phát từ các tàu sân bay Mỹ.



    Đợt tấn công đầu tiên của nhóm máy bay trên chiếc tầu Lexington, do viên chỉ huy William B. Ault, đã ném vào chiếc Shōhō với hai quả bom 1.000 pound ( 454 kg) và năm quả ngư lôi, gây thiệt hại nghiêm trọng. Lúc 11:00 , nhóm máy bay trên chiếc tầu Yorktown tấn công và đốt cháy gần như toàn bộ con tầu, ném vào nó đến 11 quả bom 1.000 pound ( 454 kg) và ít nhất hai quả ngư lôi. Bị thủng, chiếc Shōhō chìm lúc 11:35. Lo sợ có các cuộc không kích nữa, Goto rút tàu chiến của ông ở phía bắc, nhưng lại gửi chiếc tàu khu trục Sazanami ở lại lúc 14:00 để cứu những người sống sót. Chỉ có 203 người trong số 834 thủy thủ đoàn của chiếc tàu sân bay được cứu sống . Ba máy bay Mỹ bị bắn rơi trong vụ tấn công, trong đó có hai SBD từ chiếc Lexington và một từ chiếc Yorktown. Toàn bộ máy bay của chiếc Shōhō gồm 18 chiếc đã bị mất nhưng ba trong số các phi-công lái máy bay tiêm kích CAP đã có thể hạ cánh xuống Deboyne và sống sót. Lúc 12:10, sử dụng tin nhắn được chuẩn bị trước để báo hiệu TF17 về sự thành công của sứ mệnh này, phi đội SDB của chiếc Lexington và chỉ huy phi đội Robert E. Dixon đã truyền qua " Đã xóa sổ 1 tầu sân bay! Ký tên Bob – nguyên văn - Scratch one flat top! Signed Bob "


    [​IMG]
    Sơ đồ vị trí của những quả bom và ngư lôi đánh vào chiếc Shōhō, nó bị trúng khoảng 7 quả ngư lôi và 13 quả bom, 631 người trong thủy thủ đoàn mất mạng



    Hoạt động vào buổi chiều

    Những chiếc máy bay Mỹ quay trở lại và hạ cánh xuống tàu sân bay của chúng vào lúc 13:38. Vào lúc 14:20 các máy bay được nạp lại vũ khí và sẵn sàng để khởi động chống lại đạo quân xâm lược Port Moresby hoặc các tàu tuần dương của Goto. Tuy nhiên Fletcher lại lo ngại về các nơi ẩn náu của phần còn lại của tàu sân bay Nhật vẫn còn chưa được biết. Ông đã được thông báo bởi các nguồn tình báo của quân đồng minh tin rằng tối đa có bốn tàu sân bay Nhật Bản có thể tham gia hỗ trợ chiến dịch MO. Fletcher kết luận rằng vào thời gian này cho dù máy bay trinh sát của ông có định vị được các tàu sân bay Nhật thì cũng là quá muộn để tung ra một cuộc tấn công trong ngày. Như vậy Fletcher đã quyết định cho dừng cuộc tấn công một ngày và chốn dưới các đám mây dày và u ám đồng thời ra lệnh cho các máy bay chiến đấu sẵn sàng để phòng thủ. Fletcher cho chuyển TF17 về phía tây nam.

    Được hông báo về việc mất chiếc Shōhō, Inoue ra lệnh cho đoàn tầu chuyển quân xâm lược tạm thời rút về phía bắc và ra lệnh cho Takagi, tại thời điểm này đang ở khoảng cách 225 hải lý ( 417 km ) về phía đông của TF17, là phải tiêu diệt lực lượng tàu sân bay Mỹ. Khi đoàn côngvoa chở quân xâm lược đảo ngược hướng đi, nó đã bị ném bom bởi tám máy bay B -17 của lục quân Mỹ, nhưng không bị thiệt hại gì. Goto và Kajioka được cho biết là sẽ tập hợp lực lượng tàu ở phía nam của đảo Rossel để cho một trận chiến trên bề mặt vào buổi đêm nếu tàu Mỹ đến trong phạm vi bắn.

    Lúc 12:40 , một thủy phi cơ có căn cứ ở Deboyne báo cáo nhìn thấy lực lượng của Crace ở 175 độ, 78 hải lý ( 144 km) từ Deboyne. Lúc 13:15 , một máy bay từ Rabaul nhìn thấy lực lượng của Crace nhưng gửi một báo cáo có sai sót, nêu rõ lực lượng này có hai tàu sân bay và đang ở 205 độ, 115 hải lý ( 213 km) từ Deboyne. Căn cứ vào các báo cáo này , Takagi, người vẫn đang chờ sự trở lại của tất cả các máy bay của ông từ cuộc tấn công vào chiếc Neosho, chuyển tàu sân bay của mình về phía tây lúc 13:30 và Inoue lúc 15:00 khuyên rằng các tàu sân bay Mỹ ở ít nhất 430 hải lý ( 796 km) về phía tây của vị trí của ông ta và rằng ông ta ( Takagi) do đó không thể tấn công chúng trong ngày hôm đó.

    Các sỹ quan của Inoue chỉ đạo hai nhóm máy bay tấn công từ Rabaul, đã bay từ buổi sáng đó để đến vị trí được báo cáo của Crace. Nhóm đầu tiên gồm 12 máy bay mang ngư lôi Type 1 và nhóm thứ hai bao gồm 19 Máy bay tấn công Mitsubishi Type 96 được trang bị bằng bom thường. Cả hai nhóm tìm thấy và tấn công tàu của Crace vào lúc 14:30 và tuyên bố đã đánh chìm một thiết giáp hạm "California-Type " và đánh trọng thương một tàu thiết giáp và một tàu tuần dương khác. Trong thực tế, đội tầu của Crace đã không bị hư hại gì và đã bắn hạ bốn chiếc Type 1. Một thời gian ngắn sau đó ba máy bay B -17 của lục quân Hoa kỳ đã ném bom nhầm Crace nhưng không gây ra thiệt hại gì.
    Crace lúc 15:26 đã truyền tin bằng radio cho Fletcher rằng ông không thể hoàn thành sứ mệnh của mình mà không có hỗ trợ của không lực. Crace đã triệt thoái về phía nam đến một vị trí khoảng 220 hải lý ( 407 km) về phía đông nam của Port Moresby để gia tăng khoảng với tàu sân bay Nhật hoặc các máy bay cất cánh từ đất liền trong khi vẫn đủ gần để đánh chặn bất cứ lực lượng hải quân Nhật nào tiến vượt ra ngoài Louisiades khi đi qua hoặc là Passage Jomard hoặc eo biển Trung Quốc. Tầu của Crace đã cạn nhiên liệu, và như Fletcher muốn duy trì sự im lặng của vô tuyến điện (mà đã không báo trước cho Crace ), nên Crace không có ý tưởng về vị trí hay ý định của Fletcher.

    Ngay sau lúc 15:00, chiếc Zuikaku theo dõi tin nhắn từ một báo cáo của máy bay trinh sát có căn cứ ở Deboyne rằng ( không chính xác) của lực lượng Crace đã thay đổi tới hướng 120 độ thật sự (về phía đông nam). Nhân viên của Takagi cho rằng chiếc máy bay này đã theo bóng được tàu sân của Fletcher và cố xác định hướng của các tàu Đồng Minh, họ (tầu Đồng minh) sẽ xuất hiện trong phạm vi công kích trong một thời gian ngắn nữa trước lúc mặt trời lặn. Takagi và Hara xác định tấn công ngay lập tức với một nhóm các máy bay được lựa chọn sau khi đã trừ ra các máy bay chiến đấu hộ tống, mặc dù điều đó có nghĩa là các máy bay tham gia cuộc tấn công sẽ phải trở lại sau khi trời tối.

    Để cố gắng để khẳng định vị trí của các tàu sân bay Mỹ, lúc 15:15 Hara gửi một đội bay gồm 8 máy bay phóng ngư lôi để trinh sát và quét ở khoảng 200 hải lý ( 370 km) về phía tây. Cùng trong thời gian này, các máy bay ném bom bổ nhào trở về từ cuộc tấn công của chúng vào chiếc Neosho bắt đầu hạ cánh. Sáu trong số các phi-công máy bay ném bom bổ nhào mệt mỏi được cho biết họ sẽ ngay lập tức khởi hành để làm nhiệm vụ khác. Chọn đội của ông những người có kinh nghiệm nhất, lúc 16:15 Hara tung ra 12 máy bay ném bom bổ nhào và 15 máy bay mang ngư lôi với mệnh lệnh là bay đến điểm 277 độ với khoảng cách 280 hải lý ( 519 km). Tám máy bay trinh sát bay đến tối đa 200 hải lý ( 370 km) tìm kiếm chán chê và quay trở lại mà không thấy tàu của Fletcher.

    Tại 17:47 đội tầu đặc nhiệm TF17 hoạt động dưới những đám mây u ám và dày ở khoảng cách 200 hải lý ( 370 km ) về phía tây của Takagi, phát hiện bằng radar các nhóm máy bay tấn công Nhật Bản đang hướng vào họ, liền quay về phía đông nam theo chiều gió, và tung ra 11 máy bay CAP Wildcats, được chỉ huy bởi James H. Flatley để đánh chặn. Tấn công bất ngờ vào đội hình của Nhật Bản, những chiếc Wildcats bắn rơi bẩy máy bay phóng ngư lôi, một máy bay ném bom bổ nhào và bị hư hại nặng một máy bay phóng ngư lôi ( chiếc này sau bị rơi ), với giá chỉ có ba chiếc Wildcats bị mất.

    Không những bị thiệt hại nặng trong cuộc tấn công mà còn bị phân tán lực lượng, các chỉ huy cuộc tấn công của Nhật Bản ra lệnh hủy bỏ nhiệm vụ sau khi trao đổi bằng radio. Các máy bay Nhật Bản vứt bỏ tất cả vũ khí của họ và đảo ngược hướng để trở về tàu sân bay. Mặt trời lặn lúc 18:30. Một số máy bay ném bom bổ nhào Nhật Bản gặp các tàu sân bay Mỹ trong bóng tối, khoảng 19:00 do nhầm lẫn trong khi xác định địch ta – nghĩ TSB Mỹ là quân nhà – đám này đã chuẩn bị lượn vòng để hạ cánh trước khi súng phòng không từ các tàu khu trục của TF17 đuổi chúng đi. Vào lúc 20:00, lực lượng TF17 và Takagi ở khoảng cách 100 hải lý ( 185 km). Takagi cho bật các đèn searchlights trên các tàu chiến của mình để giúp hướng dẫn máy bay còn sống sót hạ cánh và tất cả 18 chiếc đã được thu hồi vào lúc 22:00.

    Trong khi chờ đợi, từ lúc 15:18 -> 17:18 chiếc Neosho có thể đã truyền tin cho TF17 rằng nó đang trôi dạt về phía tây bắc và đang ở trong tình trạng chìm đắm. Báo cáo của chiếc Neosho lúc 17:18 đã chỉ sai tọa độ và có thể đã cản trở những nỗ lực cứu hộ tiếp theo của Hoa Kỳ để xác định vị trí của chiếc tàu chở dầu có số phận đen đủi. Quan trọng hơn là những thông tức này đã thông báo cho Fletcher một tin buồn rằng nguồn cung cấp nhiên liệu có sẵn của mình đã biến mất.

    Khi kết thúc hoạt động của không quân lúc mặt trời lặn trong ngày, Fletcher ra lệnh cho TF17 quay đầu phía tây và chuẩn bị để khởi động một cuộc tìm kiếm 360 độ khi có tia sáng mặt trời đầu tiên. Crace cũng quay về phía tây để ở lại trong phạm vi tấn công ở vùng Louisiades. Inoue chỉ đạo Takagi để chắc chắn rằng ông ta sẽ phá hủy các tàu sân bay Mỹ vào ngày hôm sau, và lực lượng đổ bộ vào Port Moresby sẽ phải hoãn lại đến ngày 12 tháng 5. Takagi chọn phương án để tàu sân bay của ông di chuyển lên 120 hải lý ( 222 km ) về phía bắc vào ban đêm để ông có thể tập trung tìm kiếm ở phía tây và phía nam và đảm bảo rằng các tàu sân bay của ông có thể cung cấp sự bảo vệ tốt hơn cho các đoàn tầu chở quân xâm lược. Goto và Kajioka không thể định vị và phối hợp tàu của họ kịp thời gian để cố gắng tung ra một cuộc tấn công đêm vào các tàu chiến của quân đồng minh.

    Cả hai bên dự kiến sẽ tìm thấy nhau vào sớm ngày hôm sau, và trải qua một đêm để chuẩn bị cho các máy bay tấn công của họ để tham gia vào các trận đánh mà họ đã dự kiến, các đội bay đã kiệt sức phải cố gắng để có được một vài giờ ngủ. Năm 1972, Phó Đô đốc Mỹ HS Duckworth, sau khi đọc hồ sơ của Nhật Bản về trận đánh này đã nhận xét " Không nghi ngờ gì, ngày 7 tháng Năm năm 1942, vùng lân cận của Coral Sea là khu vực chiến sự có nhiều nhầm lẫn nhất trong lịch sử thế giới " Hara sau này đã nói với viên tham mưu trưởng của Yamamoto, Đô đốc Matome Ugaki, Ông đã quá thất vọng với "những rủi ro" mà người Nhật Bản đã trải qua vào ngày 07 tháng 5 và rằng ông cảm thấy muốn từ bỏ hải quân.
  8. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    ( Trận chiến biển Coral Sea tiếp theo và hết)

    Trận chiến tầu sân bay, ngày thứ hai


    Cuộc tấn công vào các tàu sân bay Nhật Bản

    Vào lúc 06:15, ngày 08 tháng năm, từ vị trí 100 dặm ( 161 km) về phía đông của Rossel Island, Hara tung ra bẩy máy bay phóng ngư lôi để tìm kiếm trong diện tích 140-230 độ phía nam và ra đến 250 hải lý ( 463 km) từ các tàu sân bay Nhật Bản. Hỗ trợ cho việc tìm kiếm là ba chiếc Kawanishi Type 97 từ Tulagi và bốn chiếc máy bay ném bom Type 1 từ Rabaul. Lúc 07:00 , lực lượng tầu sân bay tấn công (NB) chuyển về phía tây nam và có được sự tham gia của hai tàu tuần dương của Goto – các chiếc KinugasaFurutaka, hỗ trợ cho việc tìm kiếm. Các đoàn tầu chở quân xâm lược của Goto và Kajioka chạy tới một địa điểm 40 hải lý ( 74 km ) về phía đông của đảo Woodlark Island để chờ đợi kết quả của cuộc chiến tàu sân bay. Trong đêm của vùng biển ấm ở khu vực phía trước, các đám mây thấp treo ở đó đã giúp các tàu sân bay Mỹ ẩn náu đến ngày 07 tháng Năm và di chuyển về phía bắc và phía đông, bây giờ lại bao phủ các tàu sân bay Nhật Bản, làm hạn chế tầm nhìn xuống còn giữa 2 dặm ( 3 km) và 15 dặm ( 24 km ).

    Tại 6:35 lực lượng TF17, kiểm soát hoạt động chiến thuật - Fitch và ở vị trí 180 hải lý ( 333 km) về phía đông nam của Lousiades, tung ra 18 SBD để thực hiện một cuộc tìm kiếm 360 độ, phạm vi đến 200 hải lý ( 370 km). Bầu trời phía trên các tàu sân bay Mỹ chủ yếu là rất sáng với tầm nhìn lên đến 17 hải lý ( 31 km).


    [​IMG]
    Các tầu sân bay YorktownLexington chuẩn bị để khởi động máy bay của chúng vào lúc mặt trời mọc vào ngày 08 tháng 5


    Lúc 08:20, một chiếc SBD xuất phát từ tầu sân bay Lexington được điều khiển bởi Joseph G. Smith phát hiện ra các tàu sân bay Nhật Bản qua một lỗ hổng trong những đám mây và thông báo lại cho TF17. Hai phút sau, một chiếc máy bay tìm kiếm xuất phát từ Tàu sân bay Shōkaku được lái bởi Kenzō Kanno nhìn thấy TF17 và thông báo lại cho Hara. Hai lực lượng cách nhau khoảng 210 hải lý ( 389 km ) từ mỗi bên. Cả hai bên đều đua nhau để khởi động máy bay tấn công của họ.

    Lúc 9:15, các tàu sân bay Nhật Bản phát động một cuộc tấn công kết hợp của 18 máy bay tiêm kích, 33 máy bay ném bom bổ nhào và 18 máy bay phóng ngư lôi, nằm dưới sự chỉ huy của Trung úy Kakuichi Takahashi. Các tàu sân bay Mỹ phát động một cuộc tấn công riêng rẽ. Nhóm máy bay của chiếc Yorktown gồm sáu máy bay tiêm kích, 24 máy bay ném bom bổ nhào, và chín máy bay máy bay phóng ngư lội cất cánh vào lúc 09:15 . Nhóm của chiếc Lexington gồm chín máy bay tiêm kích, 15 máy bay ném bom bổ nhào , và 12 máy bay phóng ngư lôi cất cánh vào lúc 09:25. Cả hai tàu sân bay tàu Mỹ và các lực lượng Nhật Bản chuyển sang đầu trực tiếp tại vị trí của nhau ở tốc độ cao nhằm rút ngắn khoảng cách cho máy bay của họ có thể bay trở lại trên những chiếc chân của chúng. (NV their aircraft would have to fly on their return legs)

    Các máy bay ném bom bổ nhào của chiếc Yorktowndo William O. Burch chỉ huy, đến được tàu sân bay Nhật lúc 10:32 và phải tạm dừng để cho phép phi đội phóng ngư lôi đến để họ có thể tiến hành một cuộc tấn công đồng thời. Tại thời điểm này Tàu sân bay ShōkakuZuikaku cách nhau khoảng 10.000 mét ( 9.144 m), và chiếc Zuikaku ẩn trong một cơn mưa dưới các đám mây thấp treo. Hai tàu sân bay đã được bảo vệ bởi 16 máy bay tiêm kích CAP Zero. Các máy bay ném bom bổ nhào của chiếc Yorktown bắt đầu cuộc tấn công của họ vào lúc 10:57 vào Tàu sân bay Shōkaku và thả vào trong lúc chiếc tàu sân bay này đang ngoặt gấp 2 quả bom 1.000 pound ( 454 kg), làm rách phần trước của tàu và gây thiệt hại nặng cho chiếc hănga và sàn chứa máy bay của tàu sân bay. Các máy bay phóng ngư lôi của chiếc Yorktown đã bắn trượt toàn bộ ngư lôi của họ. Hai máy bay ném bom bổ nhào của Mỹ và hai chiếc CAP Zero bị bắn hạ trong cuộc tấn công.
    Máy baycủa chiếc Lexington đến và tấn công vào lúc 11:30. Hai máy bay ném bom bổ nhào tấn công Tàu sân bay Shōkaku, đánh vào chiếc TSB với một quả bom 1.000 pound ( 454 kg) gây thiệt hại hơn nữa. Hai máy bay ném bom bổ nhào khác bổ xuống chiếc Zuikaku, các bom của họ bị trượt mục tiêu. Phần còn lại của các máy bay ném bom bổ nhào của chiếc Lexington không thể tìm thấy các tàu sân bay Nhật Bản trong những đám mây dày. Các máy bay TBD của chiếc Lexington bắn trượt vào chiếc Tàu sân bay Shōkaku với tất cả 11 quả ngư lôi của chúng. 13 máy bay CAP Zero tuần tra bắn hạ ba Wildcats vào thời gian này.

    Với sàn đáp bị hư hỏng nặng và 223 người trong số thủy thủ đoàn đã thiệt mạng hoặc bị thương, Tàu sân bay Shōkaku đã không thể tiến hành các hoạt động của không quân được nữa. Thuyền trưởng của nó, Takatsugu Jōjima, yêu cầu sự cho phép của Takagi và Hara để được rút khỏi cuộc chiến và đã được Takagi đồng ý. Lúc 12:10 Tàu sân bay Shōkaku được hộ tống bởi hai tàu khu trục đã ra nghỉ ở phía đông bắc.

    Cuộc tấn công vào các tàu sân bay Mỹ

    Lúc 10:55, radar CXAM-1 của chiếc Lexington phát hiện các máy bay Nhật Bản ở một phạm vi khoảng 68 hải lý ( 126 km) và chín chiếc Wildcat được tung ra để đánh chặn. Ước đoán các máy bay phóng ngư lôi Nhật Bản ở độ cao thấp hơn nhiều so với thực tế, sáu trong số các chiếc Wildcat đã bay quá quá thấp và do đó bị các máy bay Nhật Bản bắn hạ khi họ bay ngang qua từ trên cao. Bởi vì bị thiệt hại nặng về máy bay trong các đêm trước, người Nhật không thể tiến hành một cuộc tấn công bằng toàn máy bay phóng ngư lôi vào cả hai tàu sân bay. Trung úy chỉ huy Shigekazu Shimazaki, chỉ huy máy bay phóng ngư lôi Nhật Bản, đã tung ra 14 chiếc để tấn công chiếc Lexington và bốn chiếc tấn công chiếc Yorktown. Một Wildcat đã bắn hạ một và 8 chiếc SBD của chiếc Yorktown đã phá hủy thêm ba trong số những chiếc máy bay phóng ngư lôi Nhật Bản khi chúng chiếm vị trí tấn công. Bốn chiếc SBD đã bị bắn hạ bởi những chiếc Zero hộ tống các máy bay phóng ngư lôi.

    Cuộc tấn công của Nhật Bản vào các tàu sân bay bắt đầu lúc 11:13, khi các chiếc này đóng quân cách nhau khoảng 3.000 yard ( 2.743 m) và các tàu hộ tống nổ súng chống trả. Bốn máy bay đã tấn công ngư lôi vào chiếc Yorktown tất cả bị trượt. Các máy bay phóng ngư lôi còn lại sử dụng thành công một cuộc tấn công trên trục vào chiếc Lexington, tại đây có một bán kính bay vòng lớn hơn nhiều so với chiếc Yorktown, và lúc 11:20 bắn trúng nó (chiếc Lexington) với hai quả ngư lôi Type 91. Quả ngư lôi đầu tiên trúng vào chỗ chứa xăng dầu máy bay. Không bị phát hiện nên hơi xăng lan vào các khoang xung quanh. Quả ngư lôi thứ hai vỡ (the port water main), làm giảm áp lực của nước vào ba phòng cứu hỏa phía trước (fireroom) phía trước và buộc các nồi hơi có liên quan bị tắt đi. Tuy nhiên con tàu vẫn có thể chạy được với tốc độ 24 knot ( 28 mph , 44 km / h) với những nồi hơi còn lại của nó. Bốn trong số các chiếc máy bay phóng ngư lôi Nhật Bản bị bắn hạ bởi súng phòng không.

    33 máy bay ném bom bổ nhào Nhật Bản lượn vòng để tấn công từ ngược hướng gió, và đã không bắt đầu những cú bổ nhào của chúng từ 14.000 feet ( 4.267 m ) cho đến khi 3-4 phút sau khi những chiếc máy bay phóng ngư lôi bắt đầu các cuộc tấn công. 19 máy bay ném bom bổ nhào của Tàu sân bay Shōkaku, dưới sự chỉ huy của Takahashi, dàn hàng phía trên chiếc Lexington trong khi 14 chiếc còn lại được chỉ huy bởi Tamotsu EMA , nhắm mục tiêu vào chiếc Yorktown. Các máy bay hộ tống Zero che chắn cho các máy bay của Takahashi từ bốn CAP Wildcats của chiếc Lexington lúc này đang cố gắng đánh chặn, nhưng hai chiếc Wildcat bay vòng quanh phía trên chiếc Yorktown đã có thể phá vỡ đội hình của EMA. Các máy bay ném bom của Takahashi làm hư hỏng chiếc Lexington với hai quả bom và một vài số truy cập không thành công, gây cháy cho chiếc Yorktown lúc 12:33, lúc 11:27 ném được vào trung tâm của sàn cất cánh một quả bom đơn 250 kg ( £ 551 ), quả bom bán xuyên giáp ( NV - semi-armor-piercing bomb) này đã xuyên qua bốn sàn tầu trước khi phát nổ, gây thiệt hại nghiêm trọng về cấu trúc cho một phòng lưu trữ hàng không và giết chết hoặc làm bị thương 66 thủy thủ. Có đến 12 chỗ bị hư hỏng ở phần thân dưới mực nước của chiếc Yorktown. Hai trong số các máy bay ném bom bổ nhào đã bị bắn hạ bởi một chiếc Wildcat CAP trong cuộc tấn công.

    Khi máy bay Nhật Bản hoàn tất các cuộc tấn công của họ và bắt đầu rút, tin rằng họ đã gây ra thiệt hại nghiêm trọng cho cả hai tàu sân bay Mỹ, họ quay ra chấp nhận một trận đấu với các máy bay CAP Wildcat và SBD của Hoa kỳ. Trong trận đấu tay đôi kế tiếp trên không, ba SBD và ba Wildcat của Mỹ, cùng với ba máy bay phóng ngư lôi, một trong những máy bay ném bom bổ nhào, và một trong số các Zero của người Nhật bị bắn rơi. Vào lúc 12:00, các nhóm tấn công Mỹ và Nhật Bản trên đường quay trở về tàu sân bay tương ứng của mình. Trong thời gian họ quay trở lại, máy bay của hai đối thủ lại gặp nhau trên không, dẫn đến nhiều trận chiến không-đối- không. Các máy bay của Kanno và của Takahashi đã bị bắn rơi, cả hai đều bị giết chết.



    [​IMG]
    Ảnh chụp một máy bay phóng ngư lôi Nhật bản bị bắn tan tành ngay trên không trong Coral Sea


    Phục hồi, đánh giá lại , và rút lui

    Các lực lượng tấn công với rất nhiều máy bay bị hư hỏng đã về đến nơi và hạ cánh xuống các tàu sân bay tương ứng của họ vào lúc 12:50 -> 14:30. Mặc dù bị thiệt hại các chiếc YorktownLexington cả hai có thể phục hồi lại sức mạnh của không lực từ các nhóm đội bay đang trở về của họ. Trong quá trình của hoạt động phục hồi, vì nhiều lý do Hoa Kỳ bị mất thêm năm chiếc SBD, hai TBD và một chiếc Wildcat, trong khi người Nhật bị mất thêm hai chiếc Zero, năm máy bay ném bom bổ nhào và một máy bay phóng ngư lôi. Bốn mươi sáu trong số 69 máy bay ban đầu từ lực lượng tấn công Nhật Bản trở về sau khi làm nhiệm vụ và hạ cánh xuống chiếc Zuikaku. Trong số này, thêm ba chiếc Zero, bốn máy bay ném bom bổ nhào và năm chiếc máy bay phóng ngư lôi được đánh giá hư hỏng không thể sửa chữa và đã ngay lập tức phải vứt bỏ vào đại dương.


    Khoảng 14:30 , Hara thông báo cho Takagi rằng mình chỉ còn có 24 chiếc Zero, tám máy bay ném bom bổ nhào, và bốn chiếc máy bay phóng ngư lôi từ các tàu sân bay còn có thể hoạt động được. Takagi lo lắng về mức nhiên liệu của các con tàu; tuần dương hạm của ông còn được 50 % và một số khu trục hạm của ông xuống thấp tới 20 % nhiên liệu còn lại. Lúc 15:00 , Takagi thông báo với Inoue rằng lực lượng của ông đã đánh chìm hai tàu sân bay Mỹ, chiếc Yorktown và một chiếc "lớp Saratoga " nhưng có thiệt hại nặng về máy bay có nghĩa là ông không thể tiếp tục cung cấp yểm trợ trên không cho cuộc xâm lược của Inoue. Mà máy bay trinh sát đã phát hiện thấy tàu của Crace trước ngày đó, đề nghị đoàn tầu chở quân xâm lược rút về Rabaul, hoãn chiến dịch MO đến ngày 03 tháng 7, và ra lệnh cho quân của ông tập hợp ở phía đông bắc quần đảo Solomons để bắt đầu chiến dịch RY. Chiếc. Zuikaku và các tàu hộ tống quay về phía Rabaul trong khi Tàu sân bay Shōkaku hướng đến Nhật Bản.



    [​IMG]
    Ảnh tàu sâm bay Lexington bắt đầu bốc cháy sau trận chiến



    [​IMG]
    Ảnh tàu sân bay Lexington nổ tung một vài giờ sau khi trận chiến kết thúc


    Trên tàu Lexington, những toán kiểm soát hỏng hóc đã dập được các đám cháy và khôi phục lại tình trạng hoạt động của con tầu, tuy nhiên lúc 12:47 một tia lửa từ động cơ điện không được giám sát bắt lửa vào hơi xăng ở gần trạm kiểm soát trung tâm của con tàu. Vụ nổ gây thiệt mạng 25 người và bắt đầu một đám cháy lớn. Khoảng 14:42, một vụ nổ lớn nữa xảy ra, bắt đầu từ một đám cháy nghiêm trọng thứ hai. Một vụ nổ thứ ba xảy ra lúc 15:25 và 15:38 phi hành đoàn của con tàu báo cáo rằng không kiểm soát được đám cháy. Thuỷ thủ đoàn của chiếc Lexington bắt đầu rời bỏ con tàu vào lúc 17:07. Sau khi những người còn sống sót của chiếc tàu sân bay được cứu sống, bao gồm Fitch và thuyền trưởng của tàu sân bay - Frederick C. Sherman, lúc 19:15 chiếc tàu khu trục Phelps bắn năm quả ngư lôi vào con tàu làm nó bùng cháy và chìm ở độ sâu 2.400 sải vào lúc 19:52. Hai trăm mười sáu thành viên trong thủy thủ đoàn 2.951 người của chiếc tàu sân bay đã chìm xuống đáy biển cùng với con tàu và 36 chiếc máy bay. Chiếc Phelps và các tàu chiến hộ tống khác ngay lập tức tái gia nhập nhóm của chiếc Yorktown và khởi hành vào lúc 16:01, và TF17 lui ra nghỉ về phía tây nam. Sau đó vào buổi tối , MacArthur thông Fletcher rằng tám náy bay B -17 của ông đã tấn công đoàn tầu xâm lược và rằng nó cũng đã rút lui ở phía tây bắc.

    Chiều tối hôm đó Crace tách chiếc Hobartra vì bị cho rằng còn quá ít nhiên liệu, và chiếc tàu khu trục Walke vì gặp sự cố động cơ, số còn lại tiếp tục đến Townsville. Crace nghe báo cáo qua radio nói rằng đoàn côngvoa chở quân của đối phương đã quay trở lại, nhưng lại không biết rằng Fletcher đã triệt thoái, ông vẫn tuần tra với phần còn lại của TG 17.3 tại biển Coral để đề phòng trường hợp đội quân xâm lược Nhật Bản tiếp tục bước tiến của nó đến Port Moresby

    Ngày 09 tháng Năm, TF17 thay đổi hướng đi về phía đông và tiến ra khỏi biển Coral qua một tuyến đường phía nam của New Caledonia. Nimitz ra lệnh cho Fletcher mang chiếc Yorktown quay trở lại Trân Châu Cảng càng sớm càng tốt sau khi tiếp nhiên liệu tại Tongatabu. Trong ngày, máy bay ném bom của Lục quân Mỹ tấn công Deboyne - Kamikawa Maru, gây thiệt hại không rõ. Trong khi đó, không nghe thấy gì từ Fletcher , Crace suy luận rằng TF17 đã rời khu vực. Lúc 01:00 ngày 10 tháng 5, không có báo cáo gì thêm về việc các tàu Nhật Bản tiến về hướng tới Port Moresby, Crace quay sang hướng Úc và đến Cid Harbor, 130 hải lý ( 241 km ) về phía bắc Townsville vào ngày 11 tháng năm.

    Lúc 22:00, ngày 08 tháng Năm, Yamamoto ra lệnh cho Inoue tiến quân của ông ra những vùng xung quanh, tiêu diệt các tàu chiến của quân đồng minh sót còn lại, và hoàn tất cuộc xâm lược vào Port Moresby. Inoue đã không hủy bỏ việc thu hồi đoàn côngvoa chở quân xâm lược, nhưng ra lệnh cho Takagi và Goto theo đuổi các tàu chiến của lực lượng Đồng Minh còn lại trong biển Coral. Còn tối thiểu về nhiên liệu, tàu chiến của Takagi đã dành hầu hết ngày 9 tháng Năm để tiếp nhiên liệu từ các đội tàu chở dầu Toho Maru. Cuối buổi tối ngày 09 tháng 5, Takagi và Goto quay đầu về phía đông nam, sau đó về phía tây nam và vào biển Coral. Thủy phi cơ từ Deboyne hỗ trợ Takagi trong việc tìm kiếm lực lượng TF17 vào sáng ngày 10 tháng 5. Tuy nhiên Fletcher và Crace đã trên đường ra khỏi khu vực biển này. Lúc 13:00 ngày 10 tháng 5, Takagi kết luận rằng đối phương đã đi rồi và quyết định quay trở lại đối với Rabaul. Yamamoto đồng tình với quyết định của Takagi và ra lệnh cho chiếc Zuikaku quay trở về Nhật Bản để bổ sung cho các nhóm máy bay của nó. Đồng thời, Kamikawa Maru cũng sửa soạn và rời Deboyne, Vào trưa ngày 11 tháng 5 , một chiếc PBY (máy bay tuần tra) của Hải quân Hoa kỳ tuần tra từ Nouméa quan sát thấy chiếc Neosho bị thả trôi. Chiếc tàu khu trục Mỹ Henley liền trả lời và giải cứu 109 người của chiếc Neosho và 14 người của chiếc Sims còn sống sót sau ngày hôm đó, sau đó đánh đắm chiếc tàu chở dầu với bằng ngư lôi.

    Ngày 10 Tháng 5, chiến dịch RY được bắt đầu. Sau khi chiếc kỳ hạm của chiến dịch - tàu thả thủy lôi Okinoshima, bị đánh chìm bởi tàu ngầm Mỹ - chiếc S- 42 ngày 12 tháng Năm, cuộc đổ bộ đã bị hoãn đến 17 tháng 5. Trong khi đó, Lực lượng TF16 của Halsey đến Nam Thái Bình Dương và ở gần Efate, ngày 13 tháng 5 , đứng đầu về phía bắc để tranh cãi về phương pháp tiếp cận Nhật Bản đến Nauru và Ocean Island. Ngày 14 tháng 5 , Nimitz thu được thông tin tình báo liên quan đến hoạt động sắp tới của Hạm đội liên hợp vào Midway, đã ra lệnh cho Halsey phải làm sao để một chiếc máy bay trinh sát Nhật Bản nhìn thấy tàu của ông vào ngày hôm sau, sau đó ông phải quay trở về Trân Châu Cảng ngay lập tức. Lúc 10:15, ngày 15 tháng 5, một máy bay trinh sát Kawanishi từ Tulagi nhìn thấy nhóm TF16 ở 445 hải lý ( 824 km ) về phía đông quần đảo Solomons. Halsey đã tiến hành một hoạt động nghi binh. Lo sợ về một cuộc tấn công từ các nhóm máy bay trên tàu sân bay vào các lực lượng xâm lược của mình, Inoue ngay lập tức cho hủy bỏ RY và ra lệnh cho tàu của mình trở về Rabaul và Truk. Ngày 19 tháng Năm, TF16 vốn đã trở lại khu vực Efate để tiếp nhiên liệu, sau đó quay sang hướng Trân Châu Cảng và đến nơi vào ngày 26 tháng 5. Chiếc Yorktown đến Trân Châu Cảng ngày hôm sau.


    [​IMG]
    Ảnh tàu sân bay Shōkaku với chiếc mũi tầu nát bét sau trận biển Coral sea


    Tàu sân bay Shōkaku đến được Kure, Nhật Bản, vào ngày 17 tháng 5, gần như bị lật úp trên đường về trong một cơn bão do các thiệt hại của nó trong trận chiến. Chiếc Zuikaku đến Kure ngày 21 tháng Năm, sau khi thực hiện một khoảng dừng ngắn tại Truk ngày 15 tháng 5. Hành động theo thông tin tình báo, Mỹ đặt tám tàu ngầm dọc theo tuyến đường dự kiến sẽ là con đường trở về của các tàu sân bay đến Nhật Bản, nhưng những chiếc tàu ngầm không thể thực hiện bất kỳ cuộc tấn công nào. Tham mưu trưởng của Hải quân Nhật Bản ước tính rằng họ sẽ mất 2-3 tháng để sửa chữa Tàu sân bay Shōkaku và để bổ sung các nhóm máy bay cho nó. Như vậy, cả hai tàu sân bay này sẽ không thể tham gia vào hoạt động sắp tới của Yamamoto tại Midway. Hai tàu sân bay tái gia nhập Hạm đội Liên hợp vào ngày 14 tháng 7 và đã tham gia vào những trận chiến chủ chốt tiếp theo chống lại lực lượng tàu sân bay của Mỹ. Năm tàu ngầm lớp I hỗ trợ chiến dịch MO bị lấy đi để hỗ trợ cho một cuộc tấn công vào cảng Sydney ba tuần sau đó, đây là một phần của chiến dịch phá vỡ đường cung cấp của quân đồng minh. Tuy nhiên trên đường đến Truk, I- 28 bị trúng ngư lôi phóng từ tàu ngầm Mỹ Tautog và bị đánh chìm với tất cả thuỷ thủ đoàn của nó vào ngày 17 tháng 5.


    Tầm quan trọng của trận hải chiến biển Coral Sea

    Đây là Trận đánh đầu tiên trong lịch sử các trận chiến hải quân, trong đó các tàu tham chiến vào trận đánh không nhìn thấy hoặc bắn trực tiếp vào nhau. Thay vào đó, máy bay có người lái hoạt động như hoả lực pháo binh tấn công cho các tàu tham chiến này. Do đó, Các chỉ huy của trận đánh đã tham gia vào một loại chiến tranh mới, tàu sân bay – đối đầu với - tàu sân bay, mà không hề có bất kỳ kinh nghiệm về loại hình chiến tranh mới này, kết quả là hai bên đều phạm nhiều sai lầm. Nói theo cách của HP Willmot (cựu giáo sư Viện Quân sự Hoàng gia), người chỉ huy "phải đối mặt với những thông tin liên lạc không chắc chắn và nghèo nàn trong các tình huống mà ở đó diện tích của trận chiến đã phát triển vượt xa với những kinh nghiệm họ đã trải qua trước đây, nhưng yếu tố tốc độ lại tăng lên đến ở một mức độ lớn hơn, do đó gây áp lực vào thời gian để cho ra một quyết định. " Bởi vì các quyết định đòi hỏi tốc độ lớn hơn (thời gian ra quyết định ngắn hơn, nhanh hơn), người Nhật có một thiệt thòi là Inoue (Tư lệnh chiến dịch) đã ở quá xa tại Rabaul để chỉ đạo có hiệu quả lực lượng hải quân của mình trong thời gian trận đánh, trái ngược với Fletcher – ông này ở luôn trên một trong các tàu sân bay của mình. Các Đô đốc Nhật Bản trong trận đánh thường chậm chạp trong việc truyền các thông tin quan trọng cho nhau.


    Người Nhật có kinh nghiệm sử dụng các đội bay trên tầu sân bay tốt hơn so với người Mỹ, và thường đạt được kết quả lớn hơn với một số lượng tương đương các máy bay. Cuộc tấn công của Nhật Bản vào tàu sân bay Mỹ vào ngày 08 tháng 5 đã phối hợp tốt hơn so với các cuộc tấn công của Mỹ vào tàu sân bay Nhật. Tuy nhiên người Nhật lại chịu tổn thất cao hơn rất nhiều về các đội bay trên tàu sân bay của họ, họ có tới 90 phi-công thiệt mạng trong trận đánh so với 35 người của phía Mỹ. Các sỹ quan của các đội bay của tàu sân bay Nhật Bản có tay nghề cao ngay từ khi bắt đầu cuộc chiến, ảnh hưởng là không thể thay thế được họ (khi những người này tử trận) bởi vì giới hạn của thể chế (NV - institutionalized) trong các chương trình đào tạo và việc không có bảo tồn các kinh nghiệm chiến đấu hoặc không có các chương trình đào tạo tiên tiến cho các phi-công mới. Trận Coral Sea bắt đầu một xu hướng mà nó cho một kết quả tiêu cực không thể sửa chữa nổi đối với các đội bay kỳ cựu của tàu sân bay của Nhật Bản vào cuối tháng 10 năm 1942 . (Liên tục trong các trận đấu tầu sân bay, các phi-công kỳ cựu của Nhật bản (dưới 1.000 người ) đều hy sinh, lớp đào tạo sau không thể thay thế được lớp cũ đây là một trong những nguyên nhân các trận đấu TSB cuối cùng NB thua càng nặng – bây giờ mới thấy thấm thía yêu cầu của một sĩ quan đòi đào tạo 15.000 phi-công Hải quân trước chiến tranh nếu muốn đánh nhau với Hoa kỳ)



    Trong khi người Mỹ không thực hiện được những điều họ mong đợi, họ đã học hỏi từ những sai lầm của họ trong trận chiến và thực hiện các cải tiến về chiến thuật tàu sân bay và trang thiết bị của họ, bao gồm máy bay tiêm kích chiến thuật , phối hợp tấn công, máy bay phóng ngư lôi và các chiến thuật phòng thủ - chẳng hạn như pháo phòng không – những cải tiến này đã góp phần vào kết quả tốt hơn trong những trận chiến sau đó. Radar đã cho người Mỹ một lợi thế hạn chế trong trận đánh này, nhưng giá trị của nó đối với Hải quân Mỹ cũng tăng theo thời gian khi công nghệ được cải tiến và các nước Đồng Minh đã học được cách sử dụng nó hiệu quả hơn. Sau khi bị mất chiếc Lexington, Các phương pháp để cải thiện cho việc chứa nhiên liệu máy bay và các thủ tục kiểm soát thiệt hại tốt hơn đã được tiến hành bởi người Mỹ. Phối hợp giữa các lực lượng không quân Đồng Minh trên đất liền và hải quân Mỹ là rất nghèo nàn trong trận đánh này, nhưng điều này cũng được cải thiện theo thời gian.


    Các tàu sân bay Nhật Bản và Mỹ sẽ đối mặt với nhau nhiều lần nữa trong trận đánh Midway, Eastern Solomons, Santa Cruz Islands trong năm 1942 và Philippine Sea vào năm 1944. Mỗi trận đánh trong số những trận chiến này đều có ý nghĩa chiến lược quan trọng ở mức độ khác nhau trong việc quyết định quá trình và kết quả cuối cùng của Chiến tranh Thái Bình Dương.

    Đây là trận đánh đánh dấu lần đầu tiên một đội quân xâm lược Nhật Bản phải quay trở lại mà không đạt được mục tiêu của mình, điều này đã nâng cao tinh thần chiến đấu của quân Đồng Minh sau một loạt thất bại trước người Nhật Bản trong sáu tháng đầu tiên của cuộc chiến Thái Bình Dương. Port Moresby có ý nghĩa quan trọng chiến lược đối với Đồng minh khi quân đồn trú của họ sẽ nhiều khả năng bị tràn ngập bởi quân xâm lược Nhật Bản. Kết quả của trận đánh có ảnh hưởng đáng kể vào kế hoạch chiến lược của cả hai bên. Vì không có một cứ điểm tại New Guinea, các bước tiến tiếp theo của Đồng minh mặc dù đã gặp nhiều khó khăn, sẽ còn gặp khó khăn hơn. Đối với người Nhật, họ đã tập trung vào các kết quả chiến thuật, trận chiến được xem là một thất bại chỉ mang tính chất tạm thời. Kết quả của trận đánh xác nhận ý kiến của người Nhật Bản về khả năng chiến đấu thấp của người Mỹ (người Nhật đã không lường đến những cải tiến tức thì của người Mỹ) và hỗ trợ cho niềm tin của họ rằng hoạt động của tàu sân bay trong tương lai để chống lại người Mỹ sẽ đảm bảo thu được những thành công.



    Ảnh hưởng của trận đánh này đến trận Midway

    Một trong những hiệu ứng đáng kể nhất của trận chiến biển Coral là việc các Tàu sân bay ShōkakuZuikaku phải sửa chữa đã làm ảnh hưởng đến Yamamoto trong kế hoạch của ông ta nhằm thịt nốt các tàu sân bay Mỹ ở Midway (chiếc Shōhō từng được lên kế hoạch phục vụ ở ở Midway trong một vai trò chiến thuật hỗ trợ các lực lượng xâm lược đổ bộ Nhật Bản ). Người Nhật tin rằng họ đã đánh chìm hai tàu sân bay tại biển Coral (vì người Nhật nhầm chiếc tầu chở dầu Neosho là tầu sân bay), vẫn còn ít nhất hai tàu sân bay của Hải quân Mỹ, các chiếc EnterpriseHornet, có thể tham gia bảo vệ Midway. Việc cơi nới để mang thêm máy bay của các tàu sân bay Mỹ lớn hơn so với các đối thủ Nhật Bản của họ, lại chưa tính đến việc người Mỹ có thể kết hợp với các máy bay trên đất liền tại Midway, có nghĩa là Hạm đội Liên hợp không còn được hưởng ưu thế về số lượng máy bay lớn hơn đáng kể so với người Mỹ cho cuộc chiến sắp xảy ra . Trong thực tế , người Mỹ có ba tàu sân bay để chống lại Yamamoto tại Midway, bởi vì chiếc Yorktown vẫn hoạt động bất chấp những thiệt hại từ Coral Sea và Hải quân Mỹ đã có thể vá được những vết thương của nó ở công xưởng Hải quân tại Trân Châu Cảng vào giữa ngày 27-30 thánh Năm để cho phép nó tham gia trận chiến. Tại Midway các máy bay của chiếc Yorktownđã đóng vai trò quan trọng trong việc đánh chìm hai tàu sân bay Nhật. Chiếc Yorktown cũng thu hút cả hai đợt phản công trên không của Nhật Bản tại Midway mà nếu không có thể chúng đã được hướng vào hai tàu sân bay còn lại của Mỹ.

    Các sử gia HP Willmott, Jonathan Parshall và Anthony Tully cho rằng Yamamoto đã mắc một lỗi quan trọng chiến lược trong quyết định của mình khi hỗ trợ chiến dịch MO. Kể từ khi Yamamoto chấp nhận trận đánh quyết định với người Mỹ sẽ diễn ra tại Midway, ông không nên phân tán bất kỳ một lực lượng quan trọng nào của mình, đặc biệt là tàu sân bay, đến một chiến dịch thứ yếu như MO. Trong thực tế quyết định của Yamamoto có nghĩa là lực lượng hải quân Nhật Bản đã suy yếu chỉ vừa đủ ở cả hai trận biển Coral và Midway để cho phép Đồng Minh đánh bại họ. Willmott cho biết thêm, nếu một trong hai chiến dịch có đủ tầm quan trọng để sử dụng tàu sân bay, thì người Nhật bản nên sử dụng tất cả tàu sân bay Nhật cho từng trận một để đảm bảo sự thành công của cả hai trận đánh. Bằng việc sử dụng những lực lượng rất quan trọng cho chiến dịch MO, Yamamoto đã làm cho chiến dịch Midway vốn quan trọng hơn phụ thuộc phải phụ thuộc vào sự thành công của một chiến dịch phụ.

    Hơn nữa, Yamamoto dường như bỏ qua các tác động khác của trận chiến biển Coral : sự xuất hiện bất ngờ của tàu sân bay Mỹ ở vị trí chính xác và đúng thời gian để có hiệu quả hơn so với người Nhật, và các đội bay của tàu sân bay của Hải quân Mỹ đã thể hiện đầy đủ kỹ năng và quyết tâm để làm thiệt hại đáng kể cho lực lượng tàu sân bay Nhật bản. Đây đã lặp đi lặp lại ở Midway và kết quả là Nhật Bản bị mất bốn tàu sân bay - cốt lõi của lực lượng hải quân tấn công và do đó bị mất chủ động chiến lược trong cuộc Chiến tranh Thái Bình Dương. Parshall và Tully chỉ ra rằng, do sức mạnh công nghiệp Mỹ , một khi Nhật Bản bị mất ưu thế về số lượng của nó trong lực lượng tàu sân bay như kết quả tại Midway, Nhật Bản sẽ không bao giờ có thể lấy lại nó. Parshall và Tully thêm vào "trận chiến biển Coral đã chỉ ra những dấu hiệu đầu tiên mà Lực lượng Hải quân thiện chiến của Nhật đã đạt tới, nhưng trong trận Midway họ lại buông rơi những dấu hiệu này trước sự quan sát của tất cả mọi người " có vẻ hơi lủng củng và khó hiểu nhưng nguyên văn là "The Battle of the Coral Sea had provided the first hints that the Japanese high-water mark had been reached, but it was the Battle of Midway that put up the sign for all to see."


    Tình hình ở miền Nam Thái Bình Dương

    Người Úc và các lực lượng Mỹ tại Úc ban đầu thất vọng với kết quả của trận chiến biển Coral , vì sợ rằng chiến dịch MO là tiền thân cho một cuộc xâm lược vào lục địa Úc và trở ngại này cho Nhật Bản chỉ mang tích chất tạm thời. Trong một cuộc họp được tổ chức vào cuối tháng Năm, Hội đồng Tư vấn chiến tranh Úc mô tả kết quả của cuộc chiến là " khá đáng thất vọng " và cho rằng quân Đồng minh đã được thông báo trước về ý định của Nhật Bản. Tướng MacArthur cung cấp cho Thủ-tướng Úc - John Curtin những đánh giá của ông về trận chiến, và nói rằng " tất cả các yếu tố đó đã tạo ra thảm họa ở Tây Thái Bình Dương kể từ đầu chiến tranh " vẫn còn có vẻ như là lực lượng Nhật Bản có thể tấn công bất cứ nơi nào nếu được hỗ trợ bởi các phương tiện chủ yếu của Hải quân Nhật (TSB).


    Bởi vì các thiệt hại nghiêm trọng của các tàu sân bay tại Midway cho nên người Nhật đã không thể hỗ trợ một nỗ lực xâm lược Port Moresby từ biển, điều này buộc Nhật Bản phải cố gắng chiếm Port Moresby của đất. Nhật Bản bắt đầu cuộc tấn công trên bộ hướng tới cảng Moresby dọc theo Kokoda Track vào ngày 21 tháng 7 từ BunaGona. Vì sau đó quân Đồng minh tăng cường tại ffice:smarttags" />New Guinea với quân đội bổ sung (chủ yếu là người Úc ). Việc tăng quân là rất chậm chạp nhưng cuối cùng đã chặn đứng được sự tiến lên của Nhật Bản để chiếm

    Trong khi đó , quân Đồng minh đã tìm cách tận dụng lợi thế của chiến thắng của họ tại Biển San hô và Midway bởi học tập từ các sáng kiến chiến lược từ Nhật Bản. Đồng Minh đã chọn Tulagi và gần đó là Guadalcanal làm mục tiêu của cuộc tấn công đầu tiên của họ. Sự thất bại của Nhật Bản khi cố chiếm Port Moresby, và việc họ bị đánh bại tại Midway, đã ảnh hưởng tới căn cứ của họ tại Tulagi vì không được bảo vệ có hiệu quả từ các căn cứ khác của Nhật Bản. Tulagi cách bốn giờ thời gian bay từ Rabaul, căn cứ gần nhất và lớn nhất của Nhật Bản.

    Ngày 07 tháng tám năm 1942 , 11.000 Thủy quân lục chiến Hoa kỳ đã đổ bộ lên Guadalcanal và 3.000 thủy quân lục chiến khác đổ bộ lên Tulagi và các đảo gần đó. Quân Nhật trên đảo Tulagi và gần đó có số lượng ít hơn và bị giết chết gần như đến người cuối cùng trong Trận Tulagi và Tanambogo - Gavutu trong khi Thủy quân lục chiến trên đảo Guadalcanal chiếm được một sân bay được xây dựng bởi người Nhật. Vì vậy bắt đầu Chiến dịch GuadalcanalSolomon Islands dẫn đến một loạt các đánh tiêu hao và kết hợp giữa các lực lượng Đồng Minh và Nhật Bản trong năm tiếp theo sau đó, cho dù cùng với chiến dịch New Guinea, cuối cùng đã vô hiệu hóa được hệ thống phòng thủ của Nhật Bản ở Nam Thái Bình Dương, gây ra thiệt hại không thể khắc phục về mặt quân sự Nhật Bản, đặc biệt là hải quân và đóng góp đáng kể vào chiến thắng cuối cùng của Đồng Minh trước Nhật Bản.
  9. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Trận Midway – Trận chiến bản lề của cuộc chiến TBD

    Tóm tắt

    7 tháng 6 năm 1942[/FONT][/SIZE]
    Địa điểm: Đảo san hô Midway
    Kết quả: Mỹ chiến thắng quyết định



    Các bên Tham chiến



    Hoa Kỳ


    Chỉ huy
    Chester W. Nimitz
    Frank J. Fletcher
    Raymond A. Spruance


    Sức mạnh
    3 tàu sân bay,
    Xấp xỉ 25 tàu hộ tống
    233 máy bay trên tàu sân bay ,
    127 máy bay trên đất liền


    Thương vong

    1 tàu sân bay bị đánh chìm,
    1 tàu khu trục bị đánh chìm,
    150 máy bay bị phá hủy
    307 lính thiệt mạng




    Đế quốc Nhật Bản


    Yamamoto Isoroku
    Kondo Nobutake
    Chuichi Nagumo
    Tamon Yamaguchi (KIA)
    Yanagimoto Ryusaku (KIA)


    Sức mạnh

    4 tàu sân bay,
    2 thiết giáp hạm,
    Xấp xỉ 15 tàu hộ tống ( tàu tuần dương hạng nặng và nhẹ, tàu khu trục ) ,
    248 máy bay trên tàu sân bay, 16 thủy phi cơ không tham gia trận chiến :
    2 tàu sân bay hạng nhẹ,
    5 thiết giáp hạm,
    Xấp xỉ 41 tàu hỗ trợ ( Lực lượng chính của Yamamoto, " Strike Force " của Kondo cộng với lực lượng áp tải và chở quân đổ bộ )


    Thương vong

    4 tàu sân bay bị đánh chìm,
    1 tuần dương hạm bị đánh chìm,
    248 máy bay trên tàu sân bay bị phá hủy ,
    2.013 lính thiệt mạng



    Trận Midway (tiếng Nhật Bản: ミッドウェー海戦) được coi một cách rộng rãi là trận chiến hải quân quan trọng nhất của Chiến tranh Thái Bình Dương - một phần của Chiến tranh thế giới II. Xảy ra vào ngày 4 đến ngày 7 tháng 6 năm 1942, khoảng một tháng sau khi Trận chiến biển Coral Sea và sáu tháng sau khi Quân đội Nhật tấn công vào Trân Châu Cảng, Hải quân Hoa Kỳ đánh bại Hải quân Đế quốc Nhật Bản khi họ tấn công vào Đảo san hô Midway, gây thiệt hại không thể khắc phục được cho hạm đội Nhật Bản.Nhà sử học quân sự John Keegan đã gọi trận đánh này là " đòn đánh đẹp và quyết định nhất trong lịch sử chiến tranh hải quân "


    Chiến dịch này của Nhật Bản, cũng giống như cuộc tấn công Trân Châu Cảng trước đây, nhằm loại trừ Hoa Kỳ - một đối thủ chiến lược tại Thái Bình Dương, qua đó làm cho Nhật Bản rảnh tay trong việc thành lập Khối Thịnh vượng chung Đại Đông Á của họ. Người Nhật hy vọng rằng một thất bại sẽ vô hiệu hóa lực lượng hải quân Mỹ để có thể dành chiến thắng trong Chiến tranh Thái Bình Dương.

    Kế hoạch của Nhật Bản là thu hút vài tàu sân bay còn lại của Hoa Kỳ vào một cái bẫy. Người Nhật cũng có ý định chiếm Đảo san hô Midway như là một phần của kế hoạch tổng thể để mở rộng chu vi phòng thủ của họ để trả lời trận không kích Doolittle Raid. hoạt động này cũng được coi là chuẩn bị cho cuộc tấn công vào FijiSamoa.

    Kế hoạch này có những thiếu sót về phía Nhật Bản khi giả định một cách sai lầm về phản ứng của Mỹ và bố trí ban đầu quá nghèo nàn. Mà điều quan trọng là máy giải mã của người Mỹ đã có thể xác định ngày và địa điểm của các vụ tấn công, cho phép gửi cảnh báo trước đến Hải quân Hoa Kỳ để họ lên kế hoạch cho một trận phục kích của riêng mình. Bốn tàu sân bay và một Tàu tuần dương hạng nặng Nhật Bản bị đánh chìm để đổi lấy một trong những tàu sân bay và một tàu khu trục của Mỹ. Các thiệt hại nặng của các tàu sân bay và các đội bay kỳ cựu thường xuyên đã làm suy yếu Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Các chương trình đóng tàu và đào tạo phi-công của Nhật Bản đã không thể thay thế nổi lỗ hổng của họ trong khi Hoa Kỳ lại có thể tăng đều ở cả hai mảng trên (đóng tầu và đào tạo phi-công).


    Bối cảnh chiến lược




    Nhật Bản đã rất thành công trong việc nhanh chóng đảm bảo mục tiêu chiến tranh ban đầu của nó , bao gồm các cuộc xâm chiếm Việt Nam, Malaya, Singapore, và Đông Ấn thuộc Hà Lan (Bây giờ là Indonesia) với các nguồn tài nguyên quan trọng của nó. Theo kế hoạch, mở đầu cho một giai đoạn thứ hai của các hoạt động bắt đầu vào đầu tháng 1 năm 1942. Tuy nhiên, do những khác biệt về chiến lược giữa Lục quân và Hải quân Đế quốc, cũng như những tranh giành nội bộ giữa Hải quân GHQHạm đội Liên hợp của Đô đốcIsoroku Yamamoto, việc tạo ra các chiến lược hiệu quả đã bị cản trở và các chiến lược tiếp theo đã không được hoàn tất cho đến tháng 4 năm 1942. Đô đốc Yamamoto đã thành công trong cuộc đấu tranh chống lại các lực lượng quan liêu, đặt hoạt động hoạt động của mình hơn nữa khái niệm - miền Trung Thái Bình Dương, trước các đối thủ khác. Chúng bao gồm các hoạt động một cách trực tiếp hoặc gián tiếp nhằm vào Australia và Ấn Độ Dương. Cuối cùng, mối đe dọa của Yamamoto mỏng che kín mặt từ chức trừ khi ông được tiến hành chương trình nghị sự của mình về phía trước.

    Mối quan tâm và chiến lược chính của Yamamoto là phải loại trừ lực lượng tàu sân bay còn lại của Mỹ, mà ông xem là trở ngại chính cho chiến dịch Thái Bình Dương nói chung. Quan tâm sâu sắc này được nâng cao do cuộc không kích Doolittle Raid ( ngày 18 tháng tư 1942 ), trong đó các máy bay B – 25 của Không lực Hoa kỳ cất cánh từ chiếc TSB USS Hornet đã ném bom vào các mục tiêu ở Tokyo và nhiều thành phố khác của Nhật Bản. Cuộc tấn công trong khi không có ý nghĩa quan trọng về mặt quân sự, lại là một cú sốc tâm lý nghiêm trọng cho người Nhật và cho thấy sự tồn tại của một khe hở trong hệ thống phòng thủ quanh các đảo của Nhật Bản. Chỉ có đánh chìm các tàu sân bay của Mỹ và chiếm giữ Midway, ngay bên cạnh hòn đảo Hawaii chiến lược tại phía đông Thái Bình Dương, được xem là cách duy nhất để hủy bỏ mối đe dọa này. Yamamoto cho rằng một hoạt động chống lại các căn cứ tàu sân bay chính tại Trân Châu Cảng sẽ khiến họ phải chiến đấu. Tuy nhiên, vì sức mạnh của Không quân Mỹ trên các sân bay tại ffice:smarttags" />Hawaii, ông đánh giá căn cứ này của Mỹ rất mạnh và không thể tấn công một cách trực tiếp. Thay vào đó, ông lựa chọn Midway, ở phía cực tây bắc của chỗi Đảo Hawaii,ở một khoảng cách khoảng 1.300 dặm ( 2.100 km) kể từ Oahu. Midway đã không được coi là đặc biệt quan trọng trong bản đồ lớn hơn của Nhật Bản, nhưng người Nhật cảm thấy người Mỹ đã xem xét Midway như một tiền đồn quan trọng của Trân Châu Cảng và do đó sẽ bảo vệ nó một cách mạnh mẽ. Quả thật người Mỹ đã đánh giá rằng Midway rất quan trọng; sau khi trận đánh, căn cứ tàu ngầm mới thành lập của Hoa Kỳ tại Midway đi vào hoạt động cho phép tàu ngầm từ Trân Châu Cảng có thể được tiếp nhiên liệu và reprovision, mở rộng bán kính hoạt động của chúng lên khoảng 1.200 dặm ( 1.900 km). Một đường băng trên đảo Midway đã phục vụ như là một điểm chuyển tiếp cho các cuộc tấn công ban ngày bằng máy bay ném bom từ Đảo Wake.

    Kế hoạch của Yamamoto


    Theo đúng đặc trưng của kế hoạch hải quân Nhật Bản trong Thế chiến II, kế hoạch trận đánh Midway của Yamamoto là cực kỳ phức tạp. Ngoài ra thiết kế kế hoạch của ông được xác định trên cơ sở tình báo quá lạc quan rằng người Mỹ chỉ có hai chiếc TSB USS Enterprise và USS Hornet để tạo thành Lực lượng Đặc nhiệm 16, những tàu sân bay sẵn sàng cho chiến đấu của Hạm đội Thái Bình Dương của Hoa Kỳ vào thời đó. Tại Trận chiến biển Coral chỉ một tháng trước đó, chiếc USSLexington đã bị đánh chìm và chiếc USSYorktown bị hư hỏng đủ nghiêm trọng để người Nhật tin rằng nó cũng đã bị đánh chìm. Người Nhật cũng biết được rằng chiếc USSSaratoga đang được sửa chữa trải trên West Coast sau khi bị thiệt hại nặng bởi ngư lôi được bắn từ tàu ngầm.




    [​IMG]
    Bản đồ kế hoạch hành quân của Nhật trong trận Midway và vị trí của các đội TSB Mỹ





    [​IMG]
    Bản đồ kế hoạch hành quân của Nhật trong trận Midway và quần đảo Aleutian



    Tuy nhiên, quan trọng hơn là Yamamoto lại tin rằng người Mỹ đã bị mất tinh thần bởi những thất bại thường xuyên của họ trong sáu tháng trước đó. Yamamoto cảm thấy cần phải lừa để nhử hạm đội Mỹ vào một tình huống mà họ sẽ bị tiêu diệt. Cuối cùng ông quyết định phân tán lực lượng của mình để họ chỉ ở mức độ vừa đủ ( đặc biệt là các tàu thiết giáp của ông ta) để không bị phát hiện bởi người Mỹ trước khi trận chiến (khổ cho Yama moto là dử bằng con mồi quá mạnh thì đối phương sẽ sợ không dám vào bẫy – ông phải chia lẻ lực lượng của mình ra – nhưng rủi thay qua việc phá được mật mã Hải quân của NB, người Mỹ đã biết được điều này và triển khai bẫy ngược). Lực lượng hỗ trợ của Yamamoto gồm tàu thiết giáp và tàu tuần dương đã ở xa lực lượng tàu sân bay tấn công của Phó Đô đốc Chuichi Nagumo hàng trăm dặm. Lực lượng tầu chiến bề mặt hạng nặng Nhật Bản được dự định để phá hủy bất cứ một phần nào của hạm đội Mỹ nếu chúng có thể đến để cứu viện cho Midway, một khi các tàu sân bay của Nagumo đã làm cho họ (HQ Mỹ) đủ độ suy yếu cho một trận đấu súng vào ban ngày, đây là điển hình của các học thuyết chiến đấu của các cường quốc hải quân lớn nhất.

    Yamamoto không biết rằng Hoa Kỳ đã hóa giải được mật mã chính của hải quân Nhật Bản ( được gọi là JN - 25 bởi người Mỹ ). Yamamoto nhấn mạnh vào việc phân tán lực lượng cũng có nghĩa rằng các đội hình của ông sẽ không thể hỗ trợ lẫn nhau. Ví dụ, chỉ có tàu chiến lớn hơn một cách đáng kể so với tầu khu trục hạm có thể hỗ trợ được cho đội tầu của Nagumo là hai tàu thiết giáp và ba tàu tuần dương, mặc dù đội tầu của ông được dự kiến sẽ thực hiện các cuộc tấn công vào Midway và phải chịu gánh nặng của phản công của Mỹ. Ngược lại, các đội tầu của Yamamoto và Kondo có đến hai tàu sân bay hạng nhẹ, năm thiết giáp hạm và sáu tàu tuần dương, nhưng không chiếc nào trong số đó cho thấy bất kỳ hành động nào ở Midway. Khoảng cách của họ tới các tàu sân bay của Nagumo cũng có những tác động nghiêm trọng trong trận đánh, đặc biệt là các tàu chiến lớn hơn trong các lực lượng của Yamamoto và Kondo lại có các máy bay trinh sát, một khả năng trinh sát vô giá mà Nagumo không có.


    Người Mỹ tăng cường tiếp viện


    Để tổ chức được một trận chiến với một lực lượng đối phương được dự đoán sẽ huy động đến bốn hoặc năm tàu sân bay, Đô đốc Chester W. Nimitz ( Tổng tư lệnh tại khu vực Thái Bình Dương ) cần tất cả các tầu sân bay có sẵn. Ông đã có lực lượng đặc biệt gồm hai tàu sân bay của Phó Đô đốc William Halsey (các chiếc Enterprise and Hornet) ở trong tay, mặc dù Halsey đang bị mắc bệnh lở chốc và được thay thế bằng Thiếu tướng hải quân Raymond A. Spruance ( chỉ huy tầu hộ tống của Halsey ). Nimitz cũng nhanh chóng nhớ ra lực lượng đặc biệt của Chuẩn Đô đốc Frank Jack Fletcher, bao gồm cả chiếc TSB Yorktown (đã bị hư hại đáng kể trong trận biển Coral ), từ Tây Nam Thái Bình Dương. Nó đến Trân Châu Cảng chỉ đủ thời gian để lấy đồ cung cấp và rồi lại phải ra đi.

    Mặc dù đã ước tính rằng chiếc Yorktown sẽ cần vài tháng sửa chữa tại Nhà máy đóng tàu Hải quân Puget Sound, Thang máy của nó vẫn còn nguyên vẹn, và phần lớn sàn tàu bay của nó cũng như vậy. Nhà máy đóng tàu Hải quân tại Trân Châu Cảng đã làm việc thâu đên suốt sáng và trong 72 giờ, nó đã được khôi phục và ở vào tình trạng sẵn sàng chiến đấu, được đánh giá đủ tốt cho hai hoặc ba tuần hoạt động, như Nimitz đã yêu cầu. Sàn đáp của nó đã được vá, toàn bộ phần khung bên trong được cắt bỏ và được thay thế, và nhiều đội bay mới được rút ra từ chiếc ffice:smarttags" />Saratoga; tuy nhiên họ không có được thời gian để đào tạo. Nimitz bỏ qua phần thủ tục trong việc thành lập các đội bay và tàu sân bay thứ ba có sẵn cuối cùng của ông đã sẵn sàng cho trận chiến. Chỉ ba ngày sau khi đưa vào ụ tàu tại Trân Châu Cảng, chiếc Yorktown một lần nữa xuất phát. Công việc sửa chữa vẫn tiếp tục ngay cả khi nó xuất phát bởi các đội sửa chữa đến từ chiếc tàu công xưởng USS Vestal – vốn đã bị phá hủy trong cuộc tấn công vào Trân Châu Cảng sáu tháng trước đó và họ đã lên boong con tàu này. (để sửa chữa con tầu người Mỹ đã tiến hành chắp vá một cách cực kỳ linh hoạt )

    Trên đảo Midway , Không lực Mỹ đồn trú bốn phi đội B -17 pháo đài bay cùng với một vài chiếc B- 26 Marauders. Thủy quân lục chiến có 9 chiếc SBD Dauntless, bảy chiếc F4F - 3 Wildcat, 17 chiếc Vought SBU - 3 Vindicator, 21 chiếc Brewster F2A -3, và sáu chiếc Grumman TBF - 1 Avenger, đội máy bay VT- 8 được tách ra từ chiếc TSB USS Hornet.



    Những thiếu sót của Nhật Bản

    Trong khi đó, như là kết quả của sự tham gia của nó trong Trận chiến biển Coral, chiếc tàu sân bay Nhật Bản - Zuikaku phải nằm lại tại cảng Kure, và đang chờ một nhóm đội bay thay thế. Sự thay thế này không ngay lập tức có sẵn, đây là do một thất bại của các chương trình đào tạo phi-công Hải quân Nhật, qua đó cho thấy dấu hiệu NB không có khả năng thay thế lỗ hổng. Các giáo viên hướng dẫn từ Yokosuka Air Corps được tuyển dụng trong một nỗ lực để bù đắp sự thiếu hụt. Chiếc tàu sân bay Shōkaku vốn đã bị hư hỏng nặng vì phải chịu ba quả bom đánh trúng tại Coral Sea và yêu cầu phải được sửa chữa trong nhiều tháng ở cạn. Mặc dù sự sẵn có của các đội bay của hai con tàu có khả năng đầy đủ để tái trang bị cho chiếc Zuikaku với một nhóm đội bay hỗn hợp, người Nhật đã không có nỗ lực nghiêm túc để đưa nó vào trận chiến sắp xảy ra. Do đó Đô đốc Nagumo chỉ có bốn tàu sân bay – các chiếc KagaAkagi hình thành Đơn vị TSB số 1, các chiếc HiryūSōryū hình thành Đơn vị TSB số 2. Ít nhất một phần của lực lượng này đã chở nên quá mệt mỏi; các tàu sân bay Nhật đã liên tục hoạt động kể từ ngày 07 tháng 12 năm 1941, bao gồm cả các cuộc tấn công vào cảng DarwinColombo.

    Các máy bay tấn công chính của Nhật Bản được sử dụng là các máy bay oanh tạc bổ nhào Aichi D3A1 và Nakajima B5N2 có khả năng được sử dụng hoặc như là một Máy bay phóng ngư lôi hoặc như là một máy bay ném bom tấn công tiêu chuẩn. Các máy bay tiêm kích chính trên các tàu sân bay vẫn là loại Mitsubishi A6M2 Zero nhanh nhẹn và cơ động cao. Tuy nhiên, các tàu sân bay của Kido butai (Hạm đội tầu sân bay số 1 của NB) đã mắc phải sự thiếu hụt máy bay tiền tuyến. Vì một số các lý do khác nhau việc sản xuất máy bay D3A đã giảm mạnh, trong khi đó việc cung cấp máy bay B5N đã ngừng lại hoàn toàn. Kết quả là đã có không có sẵn máy bay để thay thế lỗ hổng. Điều này cũng có nghĩa rằng là rất nhiều máy bay đang được sử dụng trong khoảng thời gian tháng 6 năm 1942 đã hoạt động kể từ cuối tháng 11 năm 1941, mặc dù được bảo trì tốt, chúng đã gần như kiệt sức và trở thành ngày càng không đáng tin cậy. Các yếu tố này có nghĩa rằng tất cả các tàu sân bay có ít các máy bay bình thường hơn số họ muốn được bổ sung và phụ tùng máy bay cũng rất ít.

    Người Nhật Bản cũng sắp xếp quy trình trinh sát chiến lược trước trận chiến một cách lộn xộn. Một dòng picket các tàu ngầm Nhật Bản vào vị trí cuối ( một phần vì sự vội vàng của Yamamoto ), việc này cho phép các tàu sân bay Mỹ đến được điểm tập hợp của họ ở phía đông bắc Midway (được gọi là " Point Luck ") mà không bị phát hiện. Một nỗ lực trinh sát thứ hai bằng cách sử dụng Kawanishi H8K bốn động cơ tàu bay để chinh thám Trân Châu Cảng trước trận đánh (và qua đó phát hiện sự vắng mặt hay hiện diện của các tàu sân bay Mỹ ), một phần của hoạt động K , cũng bị cản trở khi tàu ngầm của Nhật Bản được giao nhiệm vụ tiếp nhiên liệu cho máy bay trinh sát đã phát hiện ra rằng điểm tiếp nhiên liệu – được dự định từ trước là tại vịnh bỏ hoang French Frigate Shoals - đã bị chiếm đóng bởi tàu chiến Mỹ (vì người Nhật đã thực hiện một hoạt động giống như vậy vào tháng Ba ). Vì vậy , Nhật Bản bị tước đi mọi thông tin có liên quan đến việc di chuyển của các tàu sân bay Mỹ ngay trước trận đánh .

    Việc chặn sóng thông tin của Nhật Bản đã cho thấy một sự gia tăng trong cả hai hoạt động của tàu ngầm Mỹ và lưu lượng tin nhắn. Thông tin này đã nằm trong tay của Yamamoto trước trận đánh. Tuy nhiên kế hoạch của Nhật Bản vẫn không thay đổi, Yamamoto, khi ở trên biển cùng với chiếc Yamato đã không dám thông báo cho Nagumo vì sợ lộ vị trí của mình và giả định rằng Nagumo đã nhận được tín hiệu tương tự từ Tokyo qua ăng ten vô tuyến của Nagumo, tuy nhiên ông này đã không thể nhận được sóng truyền dài như vậy và ông không được biết về bất kỳ di chuyển nào của tàu Mỹ.


    Đồng Minh phá mã



    Đô đốc Nimitz đã có một tài sản vô giá: các chuyên viên phân tích đã giải mã được mật mã JN - 25. Chỉ huy Joseph J. Rochefort và nhóm của ông tại Station Hypo đã có thể xác nhận Midway là mục tiêu của cuộc tấn công Nhật Bản sắp xảy ra, và xác định ngày của cuộc tấn công có thể là mùng 4 hoặc mùng 5 tháng sáu và đã cung cấp cho Nimitz một thứ tự các trận chiến của Hải quân Nhật một cách đầy đủ. Nhật Bản đã nỗ lực để đưa vào sử dụng một codebook mới nhưng việc này đã bị trì hoãn, điều này đã cho Hypo vài ngày quan trọng, ngay trước khi cuộc tấn công bắt đầu những giải mã quan trọng đã được thực hiện thành công.

    Kết quả là người Mỹ bước vào trận chiến khi đã nắm rất rõ ràng rằng ở đâu, khi nào, và những gì sẽ là sức mạnh của người Nhật Bản. Nimitz biết được, ví dụ như là ưu thế lớn lao của Nhật bản về mặt quân số đã bị chia thành không ít hơn bốn lực lượng đặc nhiệm. Điều này dẫn đến việc chỉ có vài tàu có tốc độ cao là có khả năng hộ tống cho các tầu sân bay tấn công, dẫn đến viếc số lượng súng phòng không để bảo vệ các tàu sân bay bị hạn chế. Nimitz do đó tính toán rằng ba sàn tàu sân bay của ông, cộng với máy bay từ Midway Island, so với bốn TSB Yamamoto đã đưa tạo ra sự ngang cơ, đặc biệt là các nhóm tàu sân bay Mỹ không lớn hơn so với những tầu của Nhật Bản. Người Nhật ngược lại vẫn còn gần như hoàn toàn không biết gì về sức mạnh thật sự và bố trí của đối phương ngay cả sau khi trận chiến bắt đầu.


    Trận đánh

    Tương quan lực lượng đôi bên


    [​IMG]

    [​IMG]
    Trong đó CV: tầu sân bay, CVL: tầu sân bay hạng nhẹ, CVS: tầu sân bay công xưởng, BB: thiết giáp hạm, CA tuần dương hạm hạng nặng, DD: tầu khu trục, Submarine: tàu ngầm, AO: tầu chở dầu, PT xuồng tuần tra, AE tầu đổ bộ, AMS tầu quét mìn, SC: tầu săn ngầm, RS: tầu sửa chữa, A/C: phi cơ trên TSB

    Qua đây ta thấy trong chiến dịch Midway lực lượng Hải quân Nhật bản hùng hậu hơn hẳn lực lượng Hải quân Hoa kỳ, có điều họ lại bị chia thành quá nhiều đội tầu và xuất phát từ nhiều hướng nên không thể chi viện cho nhau



    Các cuộc không kích đầu tiên


    Các máy bay tham gia cuộc không kích đầu tiên cất cánh lúc 12:30 ngày 03 tháng 6 bao gồm chín B -17 điều hành từ Midway. Ba giờ sau đó họ tìm thấy các nhóm tầu vận tải Nhật Bản ở khoảng cách 570 hải lý ( 656 mi ; 1.056 km) về phía tây. Dưới làn đạn phòng không hạng nặng, họ bắt đầu cắt bom. Mặc dù có một số báo cáo lạc quan nhưng thực tế là không quả nào trong số các quả bom này thực sự được cắt trúng vào mục tiêu và không có thiệt hại đáng kể nào đã được gây ra. Rất sớm vào sáng hôm sau, chiếc tàu chở dầu Nhật Bản Akebono Maru chở thành chiếc đầu tiên bị nạn khi một quả ngư lôi tấn công được phóng từ một máy bay PBY flying boat bắn trúng nó vào khoảng 01:00.
  10. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    (Trận đảo Midway tiếp theo)
    Lúc 04:30 ngày 04 tháng 6 , Nagumo tung ra cuộc tấn công ban đầu của mình vào chính Midway, bao gồm 36 máy bay ném bom bổ nhào Aichi D3A và 36 máy bay phóng ngư lôi Nakajima B5N, được hộ tống bởi máy bay chiến đấu 36 Zero. Đồng thời , ông tung ra các nhóm tuần tra không chiến (CAP), cũng như tám máy bay trinh sát - tìm kiếm của mình (một từ Tàu tuần dương hạng nặng Tone được tung ra vào 30 phút cuối do khó khăn về kỹ thuật).




    [​IMG]
    Bản đồ trận chiến Midway 3->6 tháng 6 năm 1942



    Sự sắp xếp về trinh sát của phía Nhật Bản là rất mỏng manh với quá ít máy bay đủ để trải ra các khu vực để tìm kiếm đối phương, làm việc trong điều kiện thời tiết xấu về phía đông bắc và phía đông của lực lượng đặc nhiệm tầu sân bay Nhật bản. Những bố trí bị mắc lỗi của Yamamoto lúc này trở thành những gánh nặng cực kỳ nghiêm trọng.

    Các radar của Mỹ đã phát hiện ra đối phương ở khoảng cách vài dặm và máy bay đánh chặn nhanh chóng được tung ra. Các máy bay ném bom đầu tiên được tung ra để tấn công hạm đội tàu sân bay Nhật mà không có các máy bay hộ tống, các máy bay tiêm kíc hộ tống chúng còn phải ở lại phía sau để bảo vệ Midway. Lúc 06:20, các máy bay xuất phát từ tàu sân bay Nhật ném bom và làm hư hại nặng nề căn cứ của Mỹ. các máy bay tiêm kích của Thủy quân Lục chiến có căn cứ trên đảo Midway, như các đội bay nhỏ F4F -3F2A -3 đã lỗi thời, được tung ra để đánh chặn người Nhật và phải chịu tổn thất nặng nề , mặc dù họ đã cố gắng để tiêu diệt bốn máy bay ném bom và ít nhất ba chiếc Zero . Hầu hết các máy bay Mỹ đã bị bắn rơi trong vài phút đầu tiên, một số bị hư hại và chỉ có hai chiếc là vẫn có thể bay được. Tất cả có ba F4Fs và 13 F2As bị bắn rơi. Súng phòng không Mỹ bắn lên rất chính xác và dữ dội làm hư hại nhiều máy bay Nhật Bản và họ cho rằng đã bắn rơi được một phần ba trong tổng số máy bay Nhật bị tiêu diệt. <FONT class=imageattach face=[/IMG]
    [FONT=border=]Các cuộc tấn công ban đầu của Nhật Bản đã không thành công trong việc vô hiệu hóa Midway. Các máy bay ném bom của Mỹ vẫn có thể sử dụng căn cứ không quân ở đây để tiếp nhiên liệu và tấn công lực lượng xâm lược Nhật Bản; một cuộc tấn công trên không sẽ là rất cần thiết nếu Thủy quân Lục chiến Nhật bản đổ bộ được lên bờ vào ngày 07 tháng 6. [/FONT]

    Cất cánh trước khi cuộc tấn công của Nhật Bản bắt đầu, các máy bay ném bom của Mỹ có căn cứ tại Midway thực hiện nhiều cuộc tấn công vào hạm đội tàu sân bay Nhật Bản. Các đội bay này bao gồm sáu chiếc TBFs từ phi đội VT- 8 của chiếc tầu sân bay USS Hornet, các thành viên đội bay tham gia các hoạt động chiến đấu lần đầu tiên của họ, và bốn chiếc B- 26 Marauders của Không lực Hoa kỳ được trang bị ngư lôi. Người Nhật tỏ ra coi thường những cuộc tấn công như vậy vì chúng gần như không tạo ra tổn thất ( chỉ làm họ mất hai máy bay chiến đấu) và tiêu diệt tất cả chỉ trừ một chiếc TBF và hai chiếc B- 26. Một chiếc B- 26 trúng đạn súng phòng không từ chiếc Akagi, nó đã không có cố gắng để bỏ chạy mà suýt đâm trực tiếp vào đài chỉ huy của chiếc tàu sân bay. Kinh nghiệm này có thể cũng đã góp phần vào quyết định của Nagumo để khởi động một cuộc tấn công vào Midway, vi phạm vào mệnh lệnh trực tiếp của Yamamoto là phải giữ lực lượng tấn công dự phòng cho các hoạt động chống lại các tàu sân bay Hoa kỳ.


    Quyết định của Nagumo


    Đô đốc Nagumo , theo quy định của học thuyết tàu sân bay Nhật vào thời điểm đó, đã giữ một nửa số máy bay của mình như lực lượng dự
    trữ. Lực lượng này bao gồm hai phi đội, một phi đội máy bay ném bom bổ nhào và một phi đội máy bay phóng ngư lôi, phi đội sau trang bị ngư lôi để tấn công bất cứ tàu chiến nào của Mỹ nếu tìm ra chúng. Các máy bay ném bom bổ nhào chưa kịp vũ trang. Như một kết quả của các cuộc tấn công từ Midway, khi người chỉ huy của các chuyến bay buổi sáng đề nghị một cuộc tấn công thứ hai, lúc 7:15 , Nagumo ra lệnh để các máy bay dự trữ của mình được lắp lại với bom có kíp chạm nổ để sử dụng trong cả trường hợp các mục tiêu trên đất liền. Một số nguồn thông tin cho rằng việc này được tiến hành trong khoảng 30 phút khi vào lúc 07:40 chiếc máy bay trinh sát từ chiếc Tone báo hiệu phát hiện ra một lực lượng hải quân khá lớn của Mỹ ở phía đông, tuy nhiên bằng chứng mới cho thấy Nagumo đã không nhận được báo cáo quan sát này cho đến lúc 8:00, do đó các hoạt động lắp vũ khí lại thực sự được tiến hành trong khoảng 45 phút. Nagumo nhanh chóng đảo ngược mệnh lệnh của mình và yêu cầu máy bay trinh sát xác định thành phần của lực lượng Mỹ. Một khoảng 40 phút trôi qua trước khi chiếc Tone cuối cùng phát sóng báo về sự hiện diện của một tàu sân bay duy nhất trong lực lượng Mỹ, TF 16 ( những tầu sân bay khác bị bỏ qua ).

    Nagumo đang ở trong một tình thế khó khăn. Chuẩn Đô đốc Tamon Yamaguchi, chỉ huy của Đơn vị TSB số 2 (HiryūSōryū), đề nghị Nagumo tấn công ngay lập tức với các lực lượng có trong tay: 18 máy bay ném bom bổ nhào Aichi D3A2 trên cả hai chiếc SōryūHiryū, và một nửa số máy bay tuần tra đã sẵn sàng. Nagumo dường như có cơ hội để tấn công các tàu Mỹ, Tuy nhiên bây giờ lại bị hạn chế bởi thực tế lực lượng tấn công Midway của ông sẽ trở về ngay và cần chỗ để kịp thời hạ cánh( như được tin rộng rãi là như vậy ). Bởi vì các hoạt động của các chuyến bay thường xuyên trên sàn đáp cùng với với hoạt động cất hạ cánh của các máy bay tuần tra chiến đấu trong giờ trước đó, người Nhật không bao giờ có một cơ hội để đưa lực lượng dự trữ của mình ra để khởi động. Chỉ có vài máy bay trên sàn đáp Nhật Bản tại thời điểm vụ tấn công xảy ra, các máy bay này có thể là máy bay tiêm kích phòng thủ, hoặc ( trong trường hợp của chiếc Sōryū) máy bay tiêm kích được phát hiện để tăng cường cho lực lượng đặc nhiệm phòng thủ. Spotting và xuất kích các máy bay của ông ta yêu cầu sẽ cần ít nhất 30-45 phút. Hơn nữa, xuất kích ngay lập tức, Nagumo sẽ phải tung vào trận chiến một số máy bay dự trữ của mình để chiến đấu mà không được trang bị vũ khí chống tàu thích hợp; ông đã chỉ chứng kiến các máy bay ném bom không được hộ tống của Mỹ đã bị bắn hạ một cách dễ dàng. ( Trong trường hợp này, vì kém kỷ luật đã cho thấy rất nhiều các máy bay ném bom của Nhật Bản đã vất bom đi và cố gắng để không chiến với máy bay F4Fs tiêm kích đánh chặn) học thuyết tàu sân bay của Nhật Bản thiên về việc tập trung đủ lực lượng tấn công rồi mới xuất kích (không đánh lẻ tẻ từng tốp một như người Mỹ hồi đó), và không có xác nhận (cho đến 8:20 ) rằngliệu lực lượng Mỹ có bao gồm các tàu sân bay, phản ứng của Nagumo mang tính chất đầy lý thuyết. Ngoài ra, sự xuất hiện của một cuộc không kích của Mỹ lúc 7:53 đã cho thấy sức nặng của sự cần thiết để lại tấn công các hòn đảo. Cuối cùng, Nagumo đã chọn để chờ lực lượng tấn công đầu tiên của ông hạ cánh, sau đó khởi động lực lượng dự trữ lực lượng lúc này có thể đã được vũ trang đầy đủ và sẵn sàng.

    Lần phân tích cuối cùng không tạo ra sự khác biệt nào, tàu sân bay của Fletcher đã phát động xuất kích, bắt đầu từ 7:00 do đó những chiếc
    máy bay này sẽ tạo ra những đòn nghiền nát đối thủ trên đường bay của nó. Nagumo không thể làm gì để thay đổi được điều này. Đây là lỗ hổng chết người trong những sự bố trí của Yamamoto, họ đã làm theo đúng học thuyết chiến tranh truyền thống.


    Các cuộc tấn công vào hạm đội Nhật Bản


    Trong khi đó , người Mỹ đã sẵn sàng phóng các phi cơ từ tàu sân bay của họ để tấn công vào các tầu sân bay của người Nhật Bản. Đô đốc Fletcher – giữ trách nhiệm tổng chỉ huy trên tàu Yorktown, và hưởng lợi thế từ việc các máy bay ném bom tuần tra PBY đã báo cáo là nhìn thấy hạm đội Nhật bản từ sáng sớm, ông ta liền ra lệnh cho Spruance để khởi động máy bay tấn công người Nhật Bản ngay khi có thể làm được, trong khi ban đầu giữ lực lượng của chiếc Yorktown làm dự trữ để tấn công bất kỳ chiếc tàu sân bay Nhật nào khác bị phát hiện. Các chỉ thị của Fletcher cho Spruance được chuyển tiếp qua Nimitz, người không giống như Yamamoto, đã ở lại bờ. Spruance ra lệnh " triển khai cuộc tấn công " vào khoảng 06:00 và giao nhiệm vụ chi Tham mưu trưởng của Halsey – Đại úy Miles Browning (Spruance chỉ huy thay thế vì Halsey bị mắc bệnh trốc lở phải đi BV), sử lý các chi tiết và giám sát việc khởi động máy bay. Phải mất đến vài phút sau 7:00 trước khi chiếc máy bay đầu tiên có thể cất cánh từ các tàu sân bay của Spruance - các chiếc và Hornet. Fletcher sau khi ra lệnh hoàn tất chuyến bay trinh sát của mình, đã tiếp tục theo dõi các diễn biến từ lúc 08:00 từ chiếc Yorktown.


    Trớ trêu thay cho Fletcher, sĩ quan trưởng Buckmaster Elliott của chiếc Yorktown và các nhân viên của ông ta đã có được kinh nghiệm trong việc tổ chức và phát động một cuộc tấn công tổng lực chống lại một lực lượng đối phương từ trận biển Coral Sea, nhưng không có thời gian để chuyển những bài học kinh nghiệm này cho đồng nghiệp ở các các chiếc EnterpriseHornet, những chiếc được giao nhiệm vụ phát động các cuộc tấn công đầu tiên. Spruance đã đưa ra một mệnh lệnh thứ hai rất quan trọng của ông ta là tăng tốc độ chạy hướng về phía các mục tiêu, cho nên việc vô hiệu hóa tàu sân đối phương là chìa khóa cho sự sống còn cho các tàu sân bay của chính họ. Ông đánh giá rằng sự cần thiết phải tung một đòn gì đó vào đối phương ngay khi có thể là quan trọng hơn sự cần thiết cho một cuộc tấn công phối hợp giữa các loại máy bay khác nhau ( máy bay tiêm kích , máy bay ném bom , máy bay phóng ngư lôi – mà thực sự lúc đó người Mỹ chưa đủ trình để làm công việc phối hợp này ). Theo đó, các phi đội Mỹ đã được tung ra toàn bộ và tiến đến mục tiêu trong những nhóm khác nhau. Việc thiếu phối hợp như đã được dự kiến làm giảm bớt tác động tổng thể của các cuộc tấn công của người Mỹ và cũng như làm tăng thương vong của chính họ. Tuy nhiên, Spruance tính toán rằng thương vong này là hoàn toàn có giá trị của nó, vì giữ cho người Nhật Bản liên tục bị tấn công trên không -> cản trở khả năng người Nhật khởi động trận chiến theo đúng học thuyết của họ( người Nhật ủng hộ việc tổ chức đầy đủ lực lượng rồi mới tung ra các cuộc tấn công hoặc phản công) và ông đánh cược rằng ông ta có thể tìm thấy Nagumo với những chiếc tầu sân bay của mình với phần lớn những chỗ dễ bị tổn thương của họ.

    Các tàu sân bay Mỹ gặp khó khăn khi định vị mục tiêu, mặc dù các vị trí của người Nhật đã xác nhận. Các máy bay tấn công từ chiếc Hornet, được chỉ huy bởi CDR Stanhope C. Ring, đã bay theo tọa độ không chính xác 263 độ thay vì 240 độ như được chỉ định bởi các báo cáo liên lạc. Kết quả là, máy bay ném bom bổ nhào của Air Group 8 đã không tìm thấy các tàu sân bay Nhật Bản. Phi đội phóng ngư lôi 8 (VT - 8 , từ Hornet) , do LCDR John C. Waldron đã phá vỡ đội hình của Ring và theo nhóm chính xác. Phi đội của Waldron nhìn thấy các tàu sân bay đối phương và bắt đầu tấn công lúc 9:20 , tiếp theo Phi đội phóng ngư lôi số 6 (VT - 6 từchiếc Enterprise) lúc 09:40. Vì không có máy bay chiến đấu hộ tống, tất cả các chiếc TBD Devastator của VT- 8 bị bắn rơi mà không bị có khả năng gây thiệt hại chỉ có hoa tiêu George H. Gay , Jr là người sống sót duy nhất. VT- 6 đã gặp gần như cùng một số phận, không bắn trúng được phát nào bất chấp các nỗ lực của họ, một phần vì hiệu suất hoạt động quá kém cỏi của loại ngư lôi không quân Mark 13 của họ, nên các cấp cao Hải quân và sĩ quan BuOrd không bao giờ đặt câu hỏi tại sao một nửa tá các quả torpeode được phóng đi ở khoảng cách gần với các tàu sân bay Nhật Bản như vậy mà không tạo ra được kết quả gì. Các máy bay tuần tra chiến đấu trên không của Nhật Bản như Mitsubishi A6M2 " Zero " bay nhanh hơn nhiều đã nhanh chóng làm thịt những chiếc TBD chậm chạp, không vũ trang và không được hộ tống. Một vài chiếc TBD cố gắng vào được trong vòng một vài phạm vi mục tiêu của họ trước khi thả ngư lôi của họ, đủ gần để có thể gây tổn thương cho tàu đối phương và làm cho các tàu sân bay Nhật Bản phải thực hiện những cú ngoặt gấp để tránh né.

    Bất chấp những tổn thất của họ, những đợt bay phóng ngư lôi tấn công của Hoa kỳ đã gián tiếp đạt được ba kết quả quan trọng . Thứ nhất, họ giữ các tàu sân bay Nhật Bản không ở trạng thái cân bằng, không có khả năng chuẩn bị và khởi động các cuộc phản công riêng của họ. Thứ hai, các cuộc tấn công kéo các máy bay tuần tra không chiến của Nhật Bản ra khỏi vị trí (ra xa khỏi các TSB). Thứ ba, nhiều chiếc Zero đã trở nên hết đạn dược và nhiên liệu. Sự xuất hiện rất nhanh chóng của một đợt máy bay ngư lôi tấn công thứ ba từ phía đông nam của Phi đội 3 báy bay phóng ngư lôi (VT - 3 ) vào lúc 10:00 đã thu hút phần lớn các máy bay tiêm kích CAP của Nhật về góc đông nam của hạm đội. Với kỷ luật tốt hơn, và việc sử dụng tất cả các máy bay Zero trên tàu có thể đã tạo ra cho Nagumo những thành công.

    Tình cờ, vào cùng một thời gian mà tốp VT- 3 bị nhìn thấy bởi người Nhật, hai phi đội máy bay ném bom bổ nhào SBD Dauntless của Mỹ cất cánh từ các chiếc EnterpriseYorktown - VB- 6 và VB- 3 đã tiếp cận được với hạm đội Nhật Bản từ phía đông bắc và tây nam. Họ đã gần hết nhiên liệu vì đã dành thời gian để tìm kiếm tuy nhiên. Tuy nhiên, chỉ huy phi đội C. Wade McClusky , Jr quyết định tiếp tục tìm kiếm và do may mắn đã nhìn thấy vệt sóng ở phía sau tàu khu trục Nhật Bản Arashi. Chiếc tàu khu trục này đã chạy ở tốc độ đầy đủ để tái tham gia lực lượng tàu sân bay của Nagumo sau khi đánh bom chìm không thành công chiếc tàu ngầm Nautilus của Mỹ, vốn đã không thành công trước đó khi tấn công chiếc thiết giáp hạm Kirishima. Một số máy bay ném bom đã bị mất vì hết nhiên liệu trước khi cuộc tấn công bắt đầu.

    Quyết định của McClusky tiếp tục tìm kiếm được tín nhiệm bởi Đô đốc Chester Nimitz, và sự phán đoán của ông (McClusky) " đã quyết định số phận của lực lượng tàu sân bay đặc nhiệm và các lực lượng của chúng ta tại Midway ... " Các máy bay ném bom bổ nhào Mỹ đến đúng điểm thời gian hoàn hảo để tấn công. Máy bay tấn công vũ trang của Nhật Bản nằm ở trong các sàn chứa máy bay, các ống nhiên liệu nằm ngoằn ngoèo trên sàn sau khi các hoạt động tiếp nhiên liệu kết thúc một cách vội vã và việc liên tục thay đổi vũ khí làm cho các vật liệu nổ như bom và ngư lôi được xếp chồng lên nhau xung quanh nhà chứa máy bay, thay vì được sắp xếp một cách an toàn trong các kho đạn đã làm cho các tàu sân bay Nhật Bản dễ bị tổn thương một cách bất thường.

    Những chiếc máy bay thuộc nhóm VB- 6 của chiếc TSB Enterprise chia nhóm và tấn công hai mục tiêu . Bắt đầu lúc 10:22, McCluskey và người bay cùng biên đội của ông đã ném trúng vào chiếc Kaga, trong khi đó ở phía bắc chiếc Akagi bị tấn công bốn phút sau đó bởi ba máy bay ném bom. Nhóm VB- 3 của chiếc Yorktown được chỉ huy bởi Max Leslie đã tấn công trúng chiếc Sōryū . Đồng thời nhóm VT- 3 cũng ngắm mục tiêu vào chiếc Hiryū, lúc này bị kẹp giữa các chiếc Sōryū, Kaga, và Akagi, nhưng không bắn trúng chiếc này . Các máy bay ném bom bổ nhào trong vòng sáu phút, đã làm các chiếc SōryūKaga bốc cháy. Chiếc Akagi bị đánh trúng chỉ là một quả bom, nhưng quả bom này đã xuyên vào tầng chứa máy bay trên và làm phát nổ một số các máy bay vũ trang và tiếp nhiên liệu ở đó. Một quả bom phát nổ ở phần dưới mực nước rất gần với phần phía sau con tầu, kết quả là nó làm uốn cong sàn đáp lên phía trên và cũng có thể đã gây thiệt hại rất quan trọng cho chiếc bánh lái. Chiếc Sōryū đã bị trúng ba quả bom trong tầng chứa máy bay, chiếc Kaga bị ít nhất là bốn, có thể năm quả. Tất cả ba tàu sân bay đã bị loại ra khỏi vòng chiến và đã bị bỏ lại và cuối cùng bị đánh đắm.

Chia sẻ trang này