1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Tiềm lực quân sự Hoa Kỳ - Phần 4

Chủ đề trong 'Kỹ thuật quân sự nước ngoài' bởi Su35Fk, 14/11/2009.

Trạng thái chủ đề:
Đã khóa
  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. anheoinwater

    anheoinwater GDQP - KTQSNN Moderator

    Tham gia ngày:
    25/10/2007
    Bài viết:
    2.811
    Đã được thích:
    1.208
    Mẽo bán cho Iraq 50 chiếc xe bọc thép M1135 NBC RV với giá... 900 triệu đô. Là 18 triệu/con.:-ss

    M1135 NBC RV (Nuclear, Biological,Chemical Reconaissance Vehicle) là 1 biến thể của dòng Stryker, dùng để trinh sát, thu thập dữ liệu ở các khu vực nghi ngờ nhiễm phóng xạ, vũ khí sinh học, hóa học. Chả hiểu Iraq cần gì đến 50 chiếc mà bỏ ra cả tỷ đô? Iran chuẩn bị tổng chiến tranh sinh hóa nhằm vào Iraq ư?:-ss

    [​IMG]

    Thêm vào đó là 12 chiếc trực thăng Bell 412 EP với giá... 300 triệu đô, nghĩa là 25 triệu/con trực thăng. Mẹ ơi, Apache còn chưa có giá đó.:-ss


    [​IMG]
  2. alsou

    alsou Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    13/07/2003
    Bài viết:
    2.780
    Đã được thích:
    786
    Hình như giá đó bao gồm cả chi phí bảo trì cho toàn bộ 1 vòng đời hoạt động kèm phụ tùng chứ giá initial mà như thế thì thà Iraq giữ lại cả ngàn con MRAP vừa bị hủy còn hơn
    ----------------------------- Tự động gộp bài viết ---------------------------
    [​IMG]
    stryker chứ có phải gavin đâu
  3. Molotov

    Molotov Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    28/06/2013
    Bài viết:
    95
    Đã được thích:
    0
    Cái loại bè lũ thằng gà, thằng kiênov bên kia tớ chửi cả bố lẫn mẹ nó mà nó cứ nhơn nhơn ra...

    Loại nó đúng là thất bại của bao cao su :))
  4. halosun

    halosun Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    31/07/2006
    Bài viết:
    18.942
    Đã được thích:
    17.451
    nước mẽo vẫn sống bằng cách này mà các cụ các cụ mà ngạc nhiên thì thật là buồn cười, xâm lược xong dựng chính quyền bù nhìn lên ép mua đồ second hand giá trên trời, đây chính là cách mà công nghiệp quốc phòng mẽo tồn tại và phát triển :))
  5. kien0989

    kien0989 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    04/02/2006
    Bài viết:
    4.157
    Đã được thích:
    1.672
    Bạn thân mến, trình độ thể hiện bằng cách mang phụ huynh nhau ra, hay là khen sít nhà nào đó thơm, là cách thể hiện trình của bạn. Về phía bác gà béo hay là tớ, thì chỉ tò mò với những ai thấy con số 8 ngã ngửa ra cứ cố dựng nó dậy, hay là cố gắng bắt entropy sinh công, hay là bắt laser Mỹ phải bắn chết tên lửa dưới đường chân trời..... đại khái tò mò vậy thôi, chứ chẳng định dựng phụ huynh các bạn lên để chứng minh một chân lý không cần chứng minh là các bạn .... chưa thuộc bài cấp 3 mà đi khen công thức đại học =))=))=))

    Về trình nhà mèo hoang thì các bạn yên tâm mà kiểm nghiệm đi, sau thời đội bác học của phát xít được đưa ngầm về nuôi, thì nhà mèo không có người dẫn đầu và các công trình khoa học đều kiểu SDI - nghĩa là tốn tiền vô nghĩa - hết cả, Các chương trình lớn và cực lớn, đều đứng trên bờ ảo vọng hết, và nếu F-35 theo chân FCS, thì các bạn cũng đừng buồn, thành tích không phải phụ thuộc vào huy động vốn hay quảng cáo tốt, mà cần có những cái đầu bác học đúng nghĩa và biết lao động một cách đúng nghĩa, thế thôi!
  6. Jenna1987

    Jenna1987 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    25/05/2012
    Bài viết:
    936
    Đã được thích:
    1.889
    Ối giời chú em nhìn này, thằng Khựa húc tàu của anh, cắt cáp của anh, nó giương súng lục đuổi đến anh cũng phải chạy re kèn đây này.

    Thằng này dã man lắm, vịt còi đâu anh bán cho mày ít máy bay tàu bò mà chống Khựa này!

    Như thế ăn thua gì, đầu vấn khăn, đeo râu giả lên Web tuyên: Đánh nước Mỹ! Thế là kiếm hàng ngàn tỷ!

    Lẽ ra phận làm heo làm lú thì chỉ cho nói những gì quanh máng cám thôi.

    Khổ cái như thế lại không được dân chủ.
  7. suhomang

    suhomang Thành viên gắn bó với ttvnol.com Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    07/05/2012
    Bài viết:
    15.659
    Đã được thích:
    1.839
    Sắp cáo chung thế độc bá của Không quân Mỹ[:D]



    “Nếu như trước đây, Mỹ tiến hành nhiều dự án thiết kế thú vị mà kết quả là những máy bay khác thương như F-117, loại máy bay đã mở đầu kỷ nguyên tiêm kích tàng hình, thì hiện nay không còn điều đó. Công nghiệp quốc phòng Mỹ chìm sâu vào tham nhũng. Quy mô của nó nói ra thật đáng sợ”, chuyên gia này nói.

    Cần lưu ý là quả thực Mỹ không có dự án mới nào, ngoại trừ F-35, loại máy bay mà người Mỹ định dùng để thay thế tất cả các máy bay của mình.

    Hiện tại, nếu loại trừ một F-22 không bay và một F-35 vẫn còn chưa hoàn thiện, thì máy bay mới nhất của Không quân Mỹ là F-18 Super Hornet, loại máy bay thua kém các tiêm kích tối tân của Nga như MiG-35 và Su-35 về tất cả các tính năng. Ngoài ra, ngay cả Su-30 cũng là máy bay tiên tiến hơn Super Hornet.

    Nếu như hiện tại, Nga và Mỹ có lực lượng không quân gần tương đương nhau cả về chất lượng và số lượng, thì sắp tới, Nga sẽ tăng cường không quân của mình bằng cách tăng mua sắm các máy bay tiên tiến thực sự mới, còn Mỹ thì loại bỏ các máy bay bằng cách thay thế chúng bằng loại máy bay tầm tầm F-35 vốn chẳng thể coi là tốt hơn F-18.

    Các chuyên gia cũng lưu ý rằng, sau khoảng 10-15 năm nữa, hầu như nước nào cũng có thể cho phép mình mua các hệ thống tên lửa phòng không S-300 và các loại tương tự của Nga. “Và thế là hết. Khắp mọi nơi sẽ là vùng cấm bay đối với máy bay Mỹ!”, vị chuyên gia nói với nụ cười hoảng sợ.;))

    2-3 tàu sân bay Mỹ thất nghiệp


    Thay vì 11 tàu sân bay trong biên chế sẽ chỉ còn 8 hoặc 9 chiếc, Thủy quân lục chiến Mỹ cũng sẽ bị cắt giảm và gần 10.000 người sẽ bị Hải quân Mỹ sa thải:((.

    Bộ Quốc phòng Mỹ đã thông báo sắp cắt giảm quân đội. Quyết định cuối cùng còn chưa được đưa ra, nhưng ý định của Bộ Quốc phòng Mỹ tiến hành cắt giảm lớn được công khai từ lâu đã có sự xác nhận mới.

    Sẽ bị cắt giảm là 1 tàu tuần dương, 3 hoặc 4 tàu khu trục, cũng như gần 7 phi đội không quân.

    Biên chế tổ chức của một phi đội của Không quân Mỹ (USAF) gồm khoảng 20 máy bay, 3 phi đội hợp thành một phi đoàn lớn hơn. USAF có tổng cộng hơn 50 phi đoàn riêng trong các đơn vị thường trực, bởi vậy, những cắt giảm đó không lớn như việc cắt giảm số tàu sân bay dự kiến.

    Việc cắt giảm không lực (của cả USAF và Hải quân Mỹ) có liên quan đến việc cắt giảm số lượng tàu sân bay. Dự đoán, người ta sẽ cắt giảm bằng cách loại bỏ các trực thăng và tiêm kích lạc hậu SH-60 và F/A-18.

    Trong số các tàu sân bay, người ta sẽ loại bỏ tàu USS George Washington (dự trữ nhiên liệu hạt nhân của tàu này sẽ hết vào năm 2015), USS John C. Stennis và Harry Truman. Cả 3 tàu sân bay này không phải là những tàu cũ nhất thuộc lớp Nimitz (chúng được nhận vào biên chế Hải quân Mỹ trong thập niên 1990), tuy nhiên các tàu sân bay trước đó của lớp này đã được hiện đại hóa khi thay nhiên liệu hạt nhân.

    Đến cuối tháng 8 này nợ quốc gia của Mỹ sẽ đạt 17.453 tỷ Obama[r2)]

    [YOUTUBE]HS3V9eJObNg[/YOUTUBE]​
  8. Terminator_revenge

    Terminator_revenge Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    30/08/2012
    Bài viết:
    122
    Đã được thích:
    13
    3 Vũ khí số một thế giới của Mỹ:

    'Vua chiến trường' xe tăng số 1 thế giới Abrahams. Sát thủ xe tăng Nga

    TPO - Trong giai đoạn hiện nay, xe tăng M1 Abrahams được coi là một trong những xe tăng hiện đại nhất được sản xuất với số lượng lớn.
    Các chuyên gia tăng thiết giáp Mỹ nhiều lần khẳng định, M1 Abrahams đáp ứng hoàn toàn các yêu cầu chiến thuật và sẽ được sử dụng nhiều năm trong quân đội Mỹ..

    [​IMG] [​IMG]
    M1 Abrams là loại xe tăng chủ lực do hãng General Dynamics của Hoa Kỳ sản xuất năm 1980, theo thiết kế của Chrysler Defense. Tên hiệu xe được đặt theo tên của Creigton Williams Abrams Jr, Chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng liên quân Hoa Kỳ. Xe được trang bị cho lực lượng lục quân Mỹ và lực lượng Lính thủy đánh bộ, quân đội của các nước như Ai Cập, Ả Rập Saudi, Kuwait, Iraq và Úc.
    Cho đến hiện nay, quân đội Mỹ đã nâng cấp và cải tiến xe tăng M1 Abrams nhiều lần, và xuất hiện các phiên bản nâng cấp mới:
    Xe tăng М1Е1 được chế tạo vào năm 1981. Đến năm 1985 đã sản xuất được 894 xe. Xe được lắp pháo nòng trơn 120 mm, đồng thời tăng cường sức công phá và uy lực của đạn pháo. Cuối năm 1986, quân đội Mỹ tiếp nhận xe tăng Abrahams thế hệ mới М1А1. Xe được tăng cường sức mạnh hỏa lực và giáp bảo vệ.
    Thời gian sau, Mỹ bắt đầu sản xuất hàng loạt M1A2. Đặc trưng của xe khác với M1A1 là lắp đặt hệ thống kính ngắm quang ảnh nhiệt, lắp đặt thiết bị đo xa laser mới, hệ thống điều hành tác chiến chiến trường, tăng cường gấp đôi sức mạnh của giáp phản ứng nổ và nâng cấp thay thế tháp chỉ huy trưởng xe.
    Trên thân xe của tăng M1 Abraham đã phát triển xe công binh bắc cầu NAB, xe quét mìn TMMCR và xe sửa chữa cứu kéo chiến trường ARV-90.
    Những hoạt động quyết liệt nhằm phát triển một thế hệ xe tăng chủ lực được bắt đầu ở Mỹ sau khi đã kết thúc chương trình MBT-70, được tiến hành cùng với sự hợp tác của Liên bang Đức vào những năm 1970-x. Vào năm 1973, lực lượng Vũ trang Mỹ tuyên bố một cuộc đấu thầu thiết kế xe tăng chủ lực thế hệ mới.

    [​IMG]
    Vào năm 1976 thiết kế của tập đoàn Chrysler với mẫu thử nghiệm XM803. Xe tăng được nhận mã hiệu là XM1, và sau một số lần hoàn thiện đã được sản xuất hàng loạt với tên gọi là M1 Abrams. Chiếc xe tăng M1 Abrams đầu tiên được chế tạo vào tháng 2 năm 1980. Tại nhà máy xe tăng quốc gia ở Lima, Ohio.
    Từ năm 1982 xe tăng bắt đầu được sản xuất tại nhà máy xe tăng Detroit Arsenal tại Warren, bang Michigan. Bản quyền sản xuất xe tăng được trao cho tập đoàn General Dynamics. Đến 1985 đã chế tạo được 3.236 xe tăng M1 Abrahams. Từ năm 1986 đến năm 1990 đã chế tạo được 840 xe tăng trong mỗi năm, từ 1991-1992 đã sản xuất được 691 xe tăng cho quân đoàn lính thủy đánh bộ Mỹ.

    [​IMG]
    Xe tăng M1 Abrams có cấu trúc thiết kế bên trong kiểu truyền thống, khoang lái xe ở phía trước, khoang động lực, truyền lực ở phía sau cùng, khoang chiến đấu ở giữa. Thân xe và tháp pháo kiểu hộp hàn, phần mũi xe được lắp tấm thiết giáp tổng hợp nhiều lớp kiểu Anh Chobhem. Giống như xe tăng của Anh Chieftain và Challenger, lái xe hoạt động trong tư thế nửa nằm nửa ngồi, điều đó cho phép đặt tấm giáp thép tổng hợp với độ nghiêng cao nhất, tăng cường khả năng bảo vệ trước loại đạn xuyên giáp.
    Lái xe điều khiển xe tăng cơ động bằng tay lái (vô lăng) thông qua hộp số tự động. Vũ khí chủ yếu của xe tăng M1 Abrams là pháo có rãnh xoắn 105 mmM68E1 (là pháo tăng L7 của Anh cải tiến) hoặc M256 cỡ nòng 120mm pháo Rhenmental L44 (Đức) (M1A1 các thế hệ sau này). Pháo được lắp hệ thống ổn định tầm hướng, pháo được đặt trong tháp pháo tương tự như cấu trúc của xe tăng М60.
    Theo các chuyên gia quân sự Mỹ, xe tăng M1 theo những thông số kỹ chiến thuật vượt hơn M60 hai lần.
    Trong quá trình chế tạo đã có những lựa chọn từ 3 loại pháo chính: M68 105mm có sẵn và pháo nòng xoắn 110mm của Anh và pháo Rheinmentall 120mm nòng trơn của Đức. Người Mỹ sau đó quyết định chọn pháo 105mm vì những tiến bộ trong chế tạo đạn APFSDS DU cho khả năng xuyên giáp cao (đạn M833 nâng cấp có khả năng xuyên phá giáp 420mm RHA ở khoảng cách 2.000m, với góc nghiêng 60 độ) so với nhiều loại đạn APFSDS lõi hợp kim vonfam khác (đạn 120mm APFSDS của Anh có khả năng xuyên 400mm và 125mm của T72 có thể xuyên 450mm) mà vẫn giữ được tiêu chuẩn cho quân đội. Đồng thời pháo 120mm của Đức có kết cấu quá phức tạp và giá thành rất cao.

    [​IMG]
    Pháo tăng Abrahams khai hỏa.
    Trưởng xe và pháo thủ được bố trí vị trí phía bên phải của pháo tăng, pháo 2 (nạp đạn) ở phía bên trái. Cơ số đạn có 44 quả đạn pháo từ 55 quả đạn được đặt trong khoang kín phía sau tháp pháo. Chỉ có thể nạp đạn được khi mở cửa khoang nạp đạn, các quả đạn pháo còn lại được đặt trong thân xe và ở phía trước của pháo thủ số 2. Trong cơ số đạn pháo có nhiều loại đạn khác nhau - M735, đạn dưới cỡ được chế tạo từ hợp kim Volfram, , M774 và M883 – đạn dưới cỡ được chế tạo từ hợp kim Uraniom làm nghèo.
    Vũ khí chống bộ binh và phòng không của tăng M1A1 bao gồm súng máy song song cỡ nòng 7,62 mm, một súng máy 7,62 mm khác được đặt trước nắp tháp pháo của pháo thủ số 2, đồng thời bố trí thêm một súng máy phòng không cỡ nòng 12,7 mm, đặt trên nắp tháp pháo của trưởng xe. Trên tháp pháo được bố trí 12 ống phóng lựu đạn khói, mỗi bên tháp pháo 6 ống.
    Đặc điểm nổi bật nhất của dòng xe M1 Abrams là hệ thống điều khiển hỏa lực rất hiện đại. Hệ thống điều khiển hỏa lực cho phép tiêu diệt mục tiêu ở khoảng cách 1.850 m bằng một viên đạn khi xe đang cơ động hành tiến với tốc độ 40 km/h. Kính ngắm tổ hợp quang – điện tử (Electro-Optical Systems Division do công ty Hughes Aircraft sản xuất của pháo thủ số 1 có hai chế độ bắng ngày – đêm, lắp đặt thiết bị đo xa laser và hệ thống ổn định tầm – hướng trên trục trường nhìn.



    Đồng thời, hệ thống kính ngắm được lắp đặt một thiết bị truyền quang ảnh trực tiếp telescopic. Trưởng xe có thể quan sát hình ảnh chiến trường trên kính ngắm của pháo thủ số 1, từ đó quan sát được chiến trường có thể tiến hành khai hỏa đồng thời như pháo thủ số 1. M1 Abrams có thể phát hiện mục tiêu ở khoảng cách 3.000 m ban đêm và 1.200 m – trong điều kiện sương mù.
    Trên vị trí chiến đấu của trưởng xe có kính ngắm tiềm vọng cho súng phòng không 12, 7mm và 6 thiết bị kính tiềm vọng quan sát xung quanh bố trí đối xứng nhau với trường nhìn tổng cộng 360o. Máy tính đường đạn kỹ thuật số cho phép tính toán quỹ đạo đường đạn rất chính xác, các thông số mục tiêu, bao gồm khoảng cách, vận tốc mục tiêu, hướng gió, độ ẩm không khí, nhiệt độ môi trường, áp suất khí quyển, loại đạn chuẩn bị bắn, nhiệt độ của đạn và tình trạng dung sai hao mòn nòng súng v.v..từ thiết bị đo xa laser và các thiết bị cảm biến khác cho phép tính toán phần tử bắn tối ưu nhất. Các thông số đưa vào máy tính hoàn toàn tự động, cung cấp cho pháo thủ hệ số sai lệch đường đạn, xác định điểm ngắm và điểm chạm của đạn đến mục tiêu.
    M1 Abrams – là xe tăng đầu tiên trên thế giới sử dụng động cơ tua bin khí đa nhiên liệu. động cơ AGT-1500 cho công suất đến 1.500 sức ngựa trong chế độ vòng quay trục khuỷu là 3000 vòng/phút của công ty Avco Lycoming. Nhiên liệu sử dụng cho động cơ là dầu hỏa, dầu diesel và xăng. Số giờ máy sử dụng đến sửa chữa lớn là – 1.800 giờ, tương đương với 19.000 km hoạt động.
    Hệ thống truyền động lực M1 Abrams là hệ thống thủy lực, được lắp đặt đồng bộ cùng với động cơ, bao gồm bộ li hợp dầu, hộp số thủy lực 4 số tiến và 2 số lùi.
    Hệ thống giảm xóc treo của M1Abrahams bao gồm 7 thanh đòn chịu lực nối với bánh xe chịu nặng ở mỗi bên thân xe. Các thanh xoắn này có trục ở giữa để kết nối hai bánh xe đi đường lại với nhau thành một bánh đôi. 14 thanh đòn này được nối với nhau bằng các thanh xoắn làm từ thép cường lực cao. Các thanh xoắn này chạy ngang thân xe, nối 2 thanh đòn ở hai bên sườn lại với nhau. Hệ thống truyền động của M1 cho phép bánh chịu nặng có thể di chuyển dọc 38 cm. Để ổn định và tăng cường các thanh xoắn,bộ phẩn giảm xóc bố trí thêm 6 thiết bị giảm xóc ở các cặp bánh số 1,2 và 7. Hệ thống chuyể động, băng xích và thân xe được bảo vệ bằng các tấm chống đạn chống tăng hiệu ứng nổ lõm.
    Xe tăng có hiệu suất riêng rất cao - 28 sức ngựa/tấn, cho phép xe có khả năng cơ động nhanh dù tổng khối lượng khá nặng. Tốc độ cơ động nhanh: trên đường nhựa là - 72 km/h , trên đường đất là - 55 km/h. Xe có thể kéo tốc độ lên đến 30km/h trong vòng 6,2s. Xe có thể vượt dốc 30o, vượt tường cao 1,2m, hào rộng đến 2,77m và vượt ngầm có độ sâu 1,2 m.
    Trên xe tăng lắp đặt hệ thống chống vũ khí hủy diệt lớn, hệ thống sẽ lọc độc không khí và kết nối với mặt nạ phòng độc của kíp xe. Đồng thời hệ thống lọc độc sẽ tạo ra áp suất trong khoang chiến đấu để cách ly với không khí bên ngoài. Trên xe tăng M1 Abrams được lắp đặt các thiết bị cảm biến phát hiện vũ khí hóa học, sinh học và phóng xạ, thiết bị phòng cháy thân xe.
    Khi phát triển xe tăng M1 Abrahams, mối quan tâm đầu tiền là xe phải có giá thành hạ và dễ dàng, thuận lợi trong bảo dưỡng, sửa chữa nhỏ trên chiến trường. Ví dụ, đối với xe tăng M1, thay thế động cơ mất 30 phút, trong đó, để thay thế động cơ M60 cần đến 4 giờ.
    Với ưu tiên thiết kế hàng đầu là bảo vệ kíp xe, M1 Abram là một trong những loại xe tăng an toàn nhất thế giới ngay cả khi giáp xe bị xuyên thủng bởi đạn chống tăng. Giáp phản ứng nổ ERA được lắp đặt trên tháp pháo của xe tăng M1 Abrams.
    Như hầu hết các loại xe tăng được thiết kế vào thời kỳ Chiến tranh lạnh, giáp xe tăng M1 Abram được tập trung dày nhất ở góc nghiêng 60o mũi xe. Giáp của M1 Abram là giáp Burlington theo tên gọi của Mỹ hay được gọi là Chobham theo tên gọi của Anh. Giáp Chobham có khả năng chống đạn cao hơn nhiều lần so với thép thường. Đến những năm 1980, giáp xe tăng Abram được tăng cường thêm Uranium nghèo(DU) ở giữa hai lớp giáp của tháp pháo giúp tăng thêm khả năng chống đạn xuyên giáp dưới cỡ bằng động năng. Cũng như nhiều xe tăng phương Tây khác, giáp chính ở phía trước xe tăng Abram là 100% giáp thép hợp kim, không lệ thuộc vào ERA. Xe M1 Abrahams có trọng lượng lớn, nhưng bù lại giáp có độ bền cao hơn nhiều. Trong chiến tranh vùng Vịnh, không hề thiếu những trường hợp xe tăng Mỹ bị bắn thủng bởi đạn chống tăng RPG-7.

    [​IMG]
    Bố trí vị trí thành viên trong xe tăng Abrahams.
    Trong tương lai, M1 sẽ được bảo vệ thêm bởi hệ thống phòng thủ tích cực Quick-Kill (tương tự như hệ thống Arena của xe tăng Nga, có khả năng đánh chặn hầu hết các loại đạn chống tăng từ mọi hướng xung quanh xe. Hệ thống Quick-Kill được đưa vào trang bị thử nghiệm trong năm 2009 cho lực lượng thiết giáp Mỹ. Trong thời gian chờ loại APS “hard kill” này, quân đội Mỹ đã trang bị các thiết bị hình hộp AN VLQ-8A “soft kill” có khả năng gây nhiễu các loại tên lửa chống tăng sử dụng đầu đạn tự dẫn hồng ngoại và dẫn đường radars. Ngoài ra, trong tương lai gần, xe tăng M1 Abrahams sẽ được trang bị các thiết bị phòng vệ
    Thiết bị phản ứng chống tên lửa (MCD) AN VLQ-8A: Thiết bị phản ứng chống tên lửa đầu tự dẫn hồng ngoại AN VLQ-8A của hãng Sander (thuộc công ty Lockheed Martin). Thiết bị khi phát hiện tên lửa tấn công sẽ phóng đạn gây nhiễu hồng ngoại, khiến tên lửa đầu dẫn hồng ngoại bị lạc hướng và tự hủy. Hơn 1.000 hệ thống đã được giao cho quân đội Mỹ nhưng chưa có thống kê về hiệu quả sử dụng của thiết. Hiện vẫn chưa có thông tin về việc xuất khẩu hệ thống này.
    Hệ thống tăng cường năng lực tác chiến của xe tăng TUSK (Tank Urban Survability Kit) : Bao gồm: Giáp phản ứng nổ ERA cho tăng Abram (ARAT) 2 bên sườn xe, Giáp ***g phía sau xe chống đạn nổ lõm, Commander's Weapon Station (CWS) thiết bị ngắm bắn từ xa cho súng máy 12,7 của trưởng xe, Tấm chắn đạn cho súng máy 7,62mm của người nạp đạn, Súng máy 12,7 mm đồng trúc với pháo chính, Điện thoại liên lạc giữa tăng-bộ binh, Mũ ngắm bắn hồng ngoại cho súng máy 7,62 mm M240 cho người pháo thủ số 2.
    Xe tăng M1 Abrahams đã được sử dụng trong nhiều cuộc chiến tranh cục bộ của Mỹ như Chiến tranh vùng Vịnh (Chiến dịch Bão táp Sa mạc); Chiến tranh Afghanistan (Chiến dịch Tự do Bền vững); Iraq War (Chiến dịch Iraq Tự do).
    Trong các cuộc chiến tranh nói trên, đặc biệt là với các chiến xa của Iraq, xe tăng M1A1 đã thể hiện sự vượt trội của mình không phải là những thông số kỹ thuật, mà là khả năng tác chiến với một lực lượng tăng thiết giáp đông hơn về số lượng, nhưng lại hoàn toàn không có khả năng tác chiến. Các kíp lái xe của Iraq hoàn toàn lúng túng trước một trận đấu tăng nghiêm túc mà ý chí và tinh thần chiến đấu, năng lực tác chiến, khả năng cơ động và đặc biệt quan trọng, đó là cơ cấu tổ chức, chỉ huy, hiệp đồng tác chiến. Với một lực lượng xe tăng khổng lồ (hàng nghìn xe) trên thực tế quân đội Iraq hoàn toàn không có một hệ thống chỉ huy thống nhất, một bộ máy tham mưu điều hành tác chiến và hoàn toàn không có khả năng tổ chức được lực lượng không quân, pháo binh chi viện hỏa lực và bảo vệ bầu trời. Có thể nói, cuộc đấu tăng giữa M1 Abrahams và lực lượng xe tăng Iraq trên thực tế chỉ là cuộc diễn tập bắn đạn thật của binh chủng xe tăng Mỹ.
    Trận chiến lần thứ 2 đã phát hiện những điểm yếu chết người của M1A1, xe tăng Mỹ hoàn toàn không có khả năng chống lại các cuộc tấn công của súng phóng lựu RPG trong các cuộc chiến tầm gần, mìn chống tăng gầm xe và mìn chống tăng hiệu ứng xuyên phá. Những loại vũ khí giá rẻ này đã hạ không dưới 20 xe tăng Mỹ trên chiến trường Iraq.
    Trên cơ sở các thông số tính năng kỹ chiến thuật của xe tăng Abrahams, có thể thấy các thông số xe cơ bản tương đương với xe tăng T-72 của Liên Xô trước đây, điểm vượt trội của xe tăng A1 Abrahams là các hệ thống điện tử thân xe được liên tục cải tiến và nâng cấp. Trong điều kiện chiến tranh hiện đại, xe tăng M1A1 sẽ được tăng cường giáp phản ứng nổ, hệ thống phòng thủ chống tên lửa có đầu đạn tự dẫn hồng ngoại và radars.





    Trực Thăng chiến đấu số 1 thế giới Apache, Nỗi Kinh Hoàng Của Xe Tăng Nga


    Apache được ai sử dụng và ai tạo ra nó?
    Trực thăng Apache là vũ khí tấn công dẫn đầu trong hỏa lực của quân đội Mỹ. Rất nhiều quốc gia khác như Anh, Israel hay Ả Rập Saudi cũng dùng Apache. Thế hệ Apache đầu tiên được thiết kế bởi Hughes Helicopters vào thập niên 70 và bắt đầu đi vào hoạt động vào năm 1985. Sau này, quân đội Mỹ đã thay đổi bản gốc AH-64A thành AH-64D Longbow tiên tiến hơn. Số phận cha đẻ Apache khá lận đận khi họ sát nhập vào McDonnell Douglass vào năm 1984 và sau đó bị Boeing mua lại vào 1997. Ngày nay, Apache được Boeing sản xuất còn công ty vũ khí của Anh là GKN Westland Helicopters sẽ chế tạo bản dành cho nước Anh: WAH-64.

    Nguyên lý hoạt động căn bản của trực thăng:
    Về mặt lý thuyết, nguyên tắc hoạt động của Apache cũng giống như hàng loạt các loại trực thăng khác khi mà nó có 2 rotor (con quay) dùng để xoay hàng loạt các cánh quạt (blade) khác nhau. Con quay chính được đính chặt vào trực thăng và dùng để điều khiển 4 cánh nằm nghiêng, mỗi cánh dài 6 mét. Mỗi khi có không khí luồn qua thì cánh quạt sẽ tạo ra 1 lực nâng để đẩy máy bay lên bầu trời. Phi công sẽ điều khiển trực thăng bằng cách sử dụng một bộ phận cơ khí có tên gọi swash plate. Bộ phận này chịu trách nhiệm thay đổi độ nghiêng của cánh quạt nhằm tăng cường lực nâng. Khi phi công giữ 4 cánh quạt cân bằng thì chiếc máy bay của chúng ta sẽ có thể nâng lên và hạ xuống theo chiều thẳng đứng trong khi nếu họ làm cho nó cánh nghiêng thì chúng sẽ tạo ra những lực đẩy không cân bằng và đưa máy bay đi theo 1 chiều hướng cố định.

    Rotor và các cánh quạt của Apache:

    http://photo.*********/attach/public_image/btv/13809/*********_4df02825c7207_1077.jpg
    Rotor trên 1 chiếc Apache



    Khi rotor chính quay vòng, nó sẽ tác động 1 lực xoay lên toàn bộ chiếc máy bay. Nếu chỉ có vậy thì máy bay sẽ luôn xoay vòng vòng trên bầu trời nên người ta đã sử dụng 1 rotor thứ 2 để cánh trực thăng nhằm điều hướng cho nó. Rotor phía sau sẽ điều khiển cánh quạt nhỏ ở đuôi trực thăng theo chiều hướng ngược lại để chống lại lực xoay của rotor chính. Bằng cách thay đổi góc độ của cánh sau, phi công có thể điều khiển trực thăng bay theo bất cứ hướng nào họ muốn. Tuy nhiên, điểm đặc biệt của Apache là nó lại có tới 2 rotor phía sau và mỗi rotor này lại điều khiển 2 cánh.Những thế hệ Apache mới nhất sử dụng 2 động cơ trục tua-bin T700-GE-701C của General Electric, một loại động cơ cực mạnh có khả năng sản sinh ra 1700 mã lực. Mỗi động cơ này sẽ điều khiển 1 trục mà trục lại được kết nối vào 1 hộp số (gear box) đơn giản. Hộp số sẽ thay đổi góc xoay một khoảng 90 độ để truyền tải năng lượng đến bộ truyền động (transmission). Đến lượt nó, transmission sẽ đẩy năng lượng đến rotor chính và 1 trục dài khác sẽ đưa nó về rotor sau. Những rotor của Apace được tối ưu hóa để cung cấp tốc độ, sự linh hoạt.. tốt hơn bất cứ những trực thăng truyền thống nào khác.
    http://photo.*********/attach/public_image/btv/13809/*********_4def75aac76c0_apache-helicopter-20.jpg
    Các thành phần của Apache được tách ra để dễ di chuyển

    http://photo.*********/attach/public_image/btv/13809/*********_4df028f095a5a_arma.jpg
    Hình minh họa tổng số vũ khí mà Apache có thể trang bị



    Cấu trúc trung tâm của mỗi cánh quạt sẽ chứa 5 thanh thép không rỉ (arms) gọi là spar (xà dọc cánh). Tất cả các spar này đều được bao bọc bởi 1 bộ khung làm từ sợi thủy tinh. Mỗi cánh xung quanh được bảo bọc bởi một hợp chất than chì (graphite composite) và đỉnh của nó làm từ titanium. Nguyên nhân của việc sử dụng titanium là nhằm bảo đảm độ cứng của cánh, giúp nó chống lại những va đập với cây hay các chướng ngại vật nhỏ, đặc biệt hiệu quả trong những chuyến bay nap of the earth (bay thấp so với mặt đất). Nap of the earth cực kỳ hữu hiệu trong việc lẩn tránh kẻ định và hạn chế bị tấn công. Khi thực hiện hành động bay này hoặc trong quá trình lơ lửng trên bầu trời thì thì cánh sau sẽ giúp ổn định trực thăng. Nhưng nếu chỉ có những tính năng bay như trên thì Apache không khác gì 1 chiếc trực thăng siêu cấp, trong phần tiếp theo, chúng ta sẽ cùng tìm hiểu những vũ khí đã tạo ra sự khác biệt và làm nên "tên tuổi" của Apache.

    Tên lửa Hellfire:

    http://photo.*********/attach/public_image/btv/13809/*********_4df03028c7476_*********_4df0282a32e1e_24921_18825.jpg
    Apache phóng Hellfire



    Chức năng chính của Apache là tiêu diệt những mục tiêu được trang bị giáp hạng nặng như xe tăng hay boong ke (bunker). Để hủy diệt một mục tiêu như vậy thì người ta cần sử dụng một vũ khí cực kỳ uy lực. Và để thực hiện hành vi đó từ trên trực thăng, người ta lại cần trang bị thêm 1 hệ thống khóa mục tiêu vô cùng tinh vi khác.Vũ khí chính của Apache là tên lửa Hellfire (dịch là lửa địa ngục), một loại tên lửa có nguyên tắc hoạt động như máy bay thu nhỏ với những hệ thống máy tính dẫn đường, hệ thống lái và hệ thống đẩy. Tất cả những hệ thống này hoàn toàn tách biệt với Apache và nằm trọn trong 1 quả tên lửa. Và đúng như tên gọi của nó, quả tên lửa có đầu bọc đồng Hellfire đủ sức đốt cháy bất cứ xe tăng nào dám tung tăng trên mặt đất, kể cả những chiếc có giáp trâu nhất.

    http://photo.*********/attach/public_image/btv/13809/*********_4df0282e93801_AH-64D_Longbow.jpg
    Ngon ăn nhào zô!



    Mỗi chiếc Apache mang theo 4 ống phóng ở 2 bên cánh của nó, tức là 2 ống mỗi bên. Mỗi ống này lại mang được 4 quả tên lửa, đẩy số Hellfire lên con số khủng bố là 16 quả. Trước khi phóng, mỗi tên lửa sẽ được dẫn đường trực tiếp từ máy tính chính trên trực thăng. Ngay khi lệnh được đưa ra, ống phóng sẽ sản sinh ra 1 lực khoảng 500 pound để đẩy tên lửa bung ra phía trước. Khi phóng ra thì gia tốc của tên lửa sẽ kích hoạt hệ thống khóa mục tiêu. Chỉ khi tiếp xúc với mục tiêu cần hạ gục thì đầu đạn mới được kích hoạt để bảo đảm uy lực lớn nhất. Việc kích hoạt đầu đạn được thực hiện bằng cảm biến va chạm.

    Những quả Hellfire nguyên thủy sử dụng hệ thống dẫn đường laser để bay đến mục tiêu. Khi này, Apache sẽ phóng ra những chùm tuy laser mật độ cao (hoặc bộ binh sẽ làm điều này) để dẫn đường cho tên lửa. Tất nhiên là Hellfire chỉ nghe lệnh những chùm tia được định rõ trước đó.Trước khi đưa ra lệnh bắn, máy tính của Apache sẽ báo chính xác cho hệ thống điều khiển của Hellfire những xung động của tia laser nhằm đảm bảo quân mình không ăn đạn của quân ta. Tia laser chỉ điểm sẽ phản xạ lại khi gặp đối thủ để cho chiếc mũi thính của Hellfire nhận diện. Khi đã biết địch ở đâu, hệ thống dẫn đường sẽ được kích hoạt, tính toán ra các hướng mà tên lửa phải bay để hạ gục. Trong trường hợp thay đổi, hệ thống dẫn đường sẽ ra lệnh cho bộ ổn định (fin) của tên lửa di chuyển, rất giống với cách mà máy bay điều hướng.Hệ thống dẫn đường bằng laser hoạt động rất hiệu quả nhưng người ta vẫn đưa ra thế hệ nâng cấp tiếp theo vì nó chưa thật hoàn hảo. Mây hoặc các chướng ngại vật hoàn toàn có thể chặn tia laser, làm cho nó không đến được mục tiêu. Hơn nữa, nếu tên lửa bay qua mây thì nó có khả năng mất tín hiệu với mục tiêu. Cuối cùng, nhược điểm quan trọng nhất là vật phát ra tia laser (Apache hoặc bộ binh) phải giữ nguyên tia đó cho đến khi tên lửa bay vào mục tiêu. Việc này đồng nghĩa với máy bay gần như không di chuyển, rất dễ bị tấn công.Những quả Hellfire II dùng trên trực thăng Apace Longbow khắc phục những nhược điểm đó bằng cách sử dụng radar thay cho laser. Radar của trực thăng sẽ định vị mục tiêu và hướng dẫn cho tên lửa bay vào. Vì sóng radio không bị chắn bởi mây hay chướng ngại vật nên tên lửa sẽ dễ xác địch nạn nhân hơn. Ngoài ra, trực thăng vẫn có thể bay tung tăng vì radar cũng không yêu cầu nó phải giữ nguyên như tia laser.

    Hỏa tiễn (rocket) và súng (chain gun):

    http://photo.*********/attach/public_image/btv/13809/*********_4df02b4cbeff3_rocket-launcher-of-apache-rnlaf-q-25-17092008.JPG.500x400.jpg
    Hỏa tiễn Hydra
    & tên lửa Hellfire

    Để tránh trường hợp thành bia tập bắn di động khi hết đạn thì Apache thường trang bị 2 ống phóng hỏa tiến ở vị trí của 2 ống phóng Hellfire. Khi này thì mỗi Apache sẽ trang bị tối đa 8 Hellfire và 38 quả rocket Hydra 2,75 inch (19 quả mỗi bên). Để bắn hỏa tiễn, bộ phận phóng sẽ kích hỏa mồi lửa ở cuối ống phóng. Apache có thể bắn từng quả một hoặc kích hoạt 1 loạt hỏa tiễn trong 1 lần duy nhất. Khi rocket rời ống phóng, các gờ (fin) của máy bay sẽ được mở ra để giữ cho hỏa tiễn ổn định.Điều lợi hại của rocket là nó có thể được trang bị rất nhiều loại đầu đạn khác nhau dành cho những mục tiêu riêng biệt, chẳng hạn như đầu đạn khói hay đầu đạn nổ. Khi được yêu cầu, Apache có thể bắn ra rất nhiều submunition, những quả bom nhỏ tự động tách ra từ hỏa tiễn trên bầu trời và rơi xuống đầu kẻ thù.

    http://photo.*********/attach/public_image/btv/13809/*********_4df028ed15c08_apache19.jpg
    Súng bắn 600 viên/phút



    Súng mà Apache dùng là loại cannon (đại bác) có tầm bắn ngắn, đạn M230 30 ly. Súng được gắn vào 1 ụ nhỏ ngay mũi máy bay và điều kiển bởi một hệ thống máy tính tối tân trong buồng máy. Máy tính sẽ di chuyển ụ lên xuống, trái phải nhờ vào hệ thống thủy lực. Súng của Apache có thiết kế theo kiểu chain gun, sử dụng motor điện xoay băng đạn và hoàn toàn khác với súng máy truyền thống (machine gun). Với cách thiết kế này thì Apache có thể bung ra khoảng 600-650 viên đạn 1 phút. Một ổ đạn có thể chứa được 1200 viên nên nó sẽ hết trong khoảng 2 phút. Những viên đạn của M230 có tính phát nổ rất cao, dùng để uy hiếp những mục tiêu trang bị giáp nhẹ.

    Hệ thống điều khiển của Apache:
    http://photo.*********/attach/public_image/btv/13809/*********_4df028f57e268_mangusta.jpg
    2 buồng lái
    cao và thấp

    Buồng lái của các chiếc máy bay này được chia làm 2 phần xếp liên tiếp nhau. Phi công chính sẽ ngồi phía sau còn vị phụ lái hoặc tay súng (điều khiển cả rocket, tên lửa...) ở phía trước. Thông thường là vậy nhưng cả 2 buồng lái đều trang bị cả hệ thống điều khiển máy bay lẫn đạn dược trong tình huống chỉ 1 người điều khiển. Buồng phía sau cao hơn phía trước 1 chút để phi công chính có thể quan sát rõ hơn. Apache cũng sử dụng hệ thống điều khiển nhóm (collective) và tuần hoàn (cyclic) giống với bất cứ trực thăng nào khác. Hệ thống này sẽ điều khiển rotor bằng hệ thống ổn định kỹ thuật số lẫn thủy lực cơ khí. Bộ phận ổn định kỹ thuật số dùng để tinh chỉnh hệ thống thủy lực nhằm giúp máy bay ổn định hơn, nó cũng đồng thời giữ cho trực thăng tự động nằm ở 1 vị trí cố định trên không trung trong 1 thời gian ngắn.

    http://photo.*********/attach/public_image/btv/13809/*********_4def75bc9819f_apache-helicopter-49.jpg
    Buồng lái Apache



    Trong các trực thăng Apache Longbow, 3 màn hình trước mặt phi công sẽ cung cấp đầy đủ các thông tin định vị và thông tin chuyến bay.Những hệ thống số này cung cấp đầy đủ thông tin và dễ đọc hơn rất nhiều so với phương pháp truyền thống. Nếu cần thông tin gì thì phi công chỉ cần bấm nút bên cạnh màn hình để hiện ra.

    Hệ thống cảm biến:

    http://photo.*********/attach/public_image/btv/13809/*********_4df0283288383_AH64D_Apache_Front.jpg
    Mặt nạ trước chứa rất nhiều cảm biến



    Một trong những điểm thú vị nhất khi nói về Apache là những cảm biến của chúng. Các máy bay Longbow Apache có thể nhận diện bộ binh, không quân và tòa nhà xung quanh bằng radar vòm trên nóc, radar này sử dụng sóng radio milimet nhận diện rõ nét hình khối của những vật thể trong phạm vi phát sóng. Sau đó, những hình khối này sẽ được so sánh với cơ sở dữ liệu có sẵn về xe tăng, xe tải, máy bay... để từ đó nhận ra chủng loại của chúng để đưa ra vũ khí phù hợp. Thông tin về mục tiêu sẽ được máy tính tự động hiển thị lên màn hình cho phi công theo dõi.Phi công và tay súng cũng được trang bị hệ thống cảm biến hồng ngoại nhìn trong đêm forward-looking (FLIR) khi hoạt động trong đêm tối. FLIR nhận diện nhiệt độ của đối tượng nên chỉ cần có nhiệt độ là bạn chắc chắn sẽ bị nó phát hiện. Ngoài ra, khi hoạt động ban ngày thì 1 camera và kính thiên văn cũng sẵn sàng để phi công sử dụng.
    http://photo.*********/attach/public_image/btv/13809/*********_4df0283758ce1_Apache_Helicopter_Helmet_&_Display_System_-_GPN-2000-001550.jpg

    Thông tin nhận được thông qua hệ thống night vision và camera sẽ được truyền tải trực tiếp đến 1 màn hình nhỏ nằm ở nón bảo hộ của 2 phi công. Cảm biến hồng ngoại nằm trên máy bay sẽ tự động theo dõi vị trí của chiếc nón mà phi công đang đội, do đó mà chúng ta có thể điều khiển cảm biến chỉ bằng cách nghiêng đầu, dùng tay cho việc khác. Tất nhiên, nếu muốn thì phi công cũng có thể tự tay tinh chỉnh.

    Chiến lược lẩn tránh và bộ giáp của Apache:
    Như đã nói ở trên, Apache có thể lẩn tránh kẻ thù bằng cách bay là là dưới mặt đất và núp vào những vật chắn. Ngoài ra, nó còn có thể gây rối radar của kẻ thù bằng cách sử dụng những bộ gây nhiễu sóng.Không chỉ có vậy, nếu kẻ thù trang bị tên lửa tầm nhiệt thì Apache cũng sẵn sàng giảm thiểu lượng nhiệt năng mà nó tỏa ra (giảm infrared signature). Apache sẽ che dấu năng lượng của động cơ bằng cách lan tỏa lượng nhiệt ra không khí xung quanh máy bay. Khí thải đã được làm lạnh bằng phương pháp trên sau đó sẽ được đi qua 1 bộ lọc đặc biệt để hấp thụ hết nhiệt năng của nó. Những trực thăng Longbow thế hệ mới còn có thể bộ gây nhiễu hồng ngoại, triệt tiêu gần như hoàn toàn nguy cơ bị phát hiện.

    http://photo.*********/attach/public_image/btv/13809/*********_4df02f65e84bf_Italian_Kevlar_Helmet.jpg
    Một chiếc nón bảo hiểm làm từ Kevlar


    Trong trường hợp bị tấn công, Apache vẫn phần nào trụ vững nhờ vào bộ giáp Kevlar. Buồng lái cũng trang bị hàng loạt các lớp phủ cường lực và kính chống đạn. Boeing cho biết đạn 12,7mm không xi nhệ gì với bất cứ thành phần nào của máy bay. Những chi tiết quan trọng như rotor và động cơ chống lại được cả đạn 23 ly.Các khu vực xung quanh buồng lái Apache được thiết kế để biến dạng khi va chạm (hấp thu xung lực) nhằm giảm thiếu nhiều nhất những tác động gây ra. Tuy nhiên, buồng lái lại cực kỳ cứng để bảo vệ phi công. Hơn thế nữa, ngay cả ghế ngồi cũng được bổ sung áo giáp Kavlar, hấp thu xung lực và tăng khả năng sống sót cho phi công.

    F-15 - Tiêm kích số 1 thế giới “trăm trận bất bại” của Mỹ

    F-15 Eagle (Đại bàng) của hãng McDonnell Douglas (đã sáp nhập vào Boeing) là một kiểu máy bay tiêm kích chiến thuật hoạt động trong mọi thời tiết, được thiết kế để chiếm lĩnh và duy trì ưu thế trên không trong chiến đấu. Nó được phát triển cho Không quân Hoa Kỳ và bay lần đầu tiên vào ngày 27 tháng 7-1972. Phiên bản cải tiến F-15E Strike Eagle (Đại bàng tấn công) là kiểu máy bay tiêm kích tấn công hoạt động trong mọi thời tiết được đưa vào hoạt động từ năm 1989. Hiện nay, toàn bộ máy bay F-15 (khoảng 450 chiếc, trừ F-15E) thuộc Không quân Hoa Kỳ đã tạm ngừng hoạt động do những sai sót trong kết cấu máy bay.



    • [​IMG]
    • Trong chiến tranh Triều Tiên, kiểu máy bay cánh xuôi F-86 Sabre là máy bay tiêm kích của Mỹ đã thách thức và đánh bại MiG-15 của Liên Xô. Đến năm 1965, giới chuyên môn rất ngạc nhiên khi chiếc MiG-17 thời hậu chiến tranh Triều Tiên lại bắn rơi kiểu máy bay hiện đại tốc độ Mach 2 F-105 Thunderchief (Thần sấm) trong phi vụ ném bom tại Việt Nam. Tình báo Không lực Hoa Kỳ sau đó càng bất ngờ khi phát hiện ra Liên Xô đang chế tạo một chiếc máy bay tiêm kích lớn hơn có tên gọi là MiG-25 Foxbat. Lúc bấy giờ Phương Tây chưa biết rằng MiG-25 chỉ được thiết kế như một máy bay tiêm kích đánh chặn tốc độ cao, chứ không phải là loại tiêm kích chiếm ưu thế trên không; và do đó, dành ưu tiên cho tốc độ hơn là độ cơ động. Cánh đuôi và cánh ổn định ngang to của MiG-25 được hiểu như là một kiểu máy bay rất cơ động, và làm dấy lên nỗi lo ngại trong Không lực Hoa Kỳ rằng tính năng của nó sẽ vượt hơn kiểu tương đương của Mỹ. Trong thực tế, cánh đuôi và cánh ổn định to của MiG-25 nhằm giúp cho nó tránh bị mất ổn định quán tính khi bay cao ở tốc độ cao.
    • F-4 Phantom II của Không quân và Hải quân Hoa Kỳ là chiếc máy bay tiêm kích duy nhất có đủ lực đẩy, tầm bay và độ cơ động để đảm nhận vai trò chính đối phó lại nguy cơ từ máy bay tiêm kích Xô Viết khi tham chiến ở tầm nhìn thấy. Vì chính sách chung cho Phantom không được phép tấn công nếu không nhìn thấy được mục tiêu, nó không thể tấn công mục tiêu tầm xa như thiết kế ban đầu. Tên lửa đối không tầm trung AIM-7 Sparrow và ngay cả AIM-9 Sidewinder tầm ngắn ở một mức độ nào đó đều kém tin cậy và ít hiệu quả ở tầm ngắn, nơi mà pháo là vũ khí có hiệu quả duy nhất.

      Ban đầu Phantom không được trang bị pháo vì có chủ định rằng sẽ dùng tên lửa đối không để chống lại máy bay ném bom chậm chạp và ít cơ động của Khối Vac-xa-va, và máy bay tiêm kích ở tầm xa. Khi kinh nghiệm từ Việt Nam cho thấy điều ngược lại, những cố gắng sử dụng pháo gắn ngoài cánh đã cho ra kết quả thất vọng: tăng độ cản, rung động nhiều khiến cho khó nhắm bắn trúng. Sau này một khẩu pháo 20 mm M61 Vulcan được gắn trong thân Phantom.



      [​IMG]





      F-15 Eagle

      [​IMG]





    • Rõ ràng cần có một kiểu máy bay tiêm kích mới vượt qua được những giới hạn tầm gần của Phantom trong khi vẫn duy trì được ưu thế trên không tầm xa. Sau khi từ chối chương trình VFX của Hải quân Mỹ (hình thành chiếc F-14 Tomcat) vì không đáp ứng yêu cầu đặt ra, Không lực Mỹ đề ra nhu cầu của riêng họ bằng chương trình FX (Fighter Experimental), tiêu chuẩn kỹ thuật cho một máy bay tiêm kích ưu thế trên không tương đối nhẹ Cân. Ba hãng đã đưa ra các đề xuất của họ: Fairchild Republic, North American Rockwell, và McDonnell Douglas. Không lực Mỹ thông báo sự lựa chọn hãng trúng thầu là McDonnell Douglas vào ngày 23 tháng 12-1969. Thiết kế trúng thầu có dạng cánh đuôi kép giống F-14 nhưng với cánh cố định. Nó không nhỏ hơn hay nhẹ hơn đáng kể so với F-4 mà nó sẽ thay thế.


    • Phiên bản thiết kế ban đầu F-15A một chỗ ngồi và F-15B hai chỗ ngồi được gắn kiểu động cơ mới Pratt & Whitney F100 để đạt được chỉ số lực đẩy / khối lượng lớn hơn 1. Một đề xuất trang bị pháo 25 mm Ford-Philco GAU-7 với đạn không vỏ bị loại bỏ vì những lý do phát triển để trang bị pháo tiêu chuẩn M61 Vulcan. F-15 giữ lại kiểu mang 4 tên lửa đối không Sparrow tương tự như Phantom. Cánh cố định được gắn vào thân phẳng và rộng để có một diện tích nâng hiệu quả. Một số người nghi ngờ khả năng gia tốc của F-15 cùng với tên lửa đối không Sparrow có đủ để chống chọi chiếc MiG-25 Foxbat bay cao hay không ? Khả năng thực sự chỉ được trình diễn trong chiến đấu mà thôi.



      [​IMG]
    • Chiếc F-15 được trang bị kiểu radar hướng xuống có thể phân biệt các vật thể chuyển động ở độ cao thấp khỏi địa hình mặt đất. Nó dùng kỹ thuật máy tính với các màn hình hiển thị và điều khiển mới để giảm nhẹ công việc của phi công; và chỉ yêu cầu đội bay một người để giảm trọng lượng. Không giống F-14 hay F-4, F-15 có kính buồng lái một tấm với tầm nhìn thoáng phía trước. Không lực Hoa Kỳ đã giới thiệu chiếc F-15 như là "chiếc máy bay tiêm kích chiếm ưu thế trên không đầu tiên của Không lực kể từ thời F-86 Sabre."




    • Khả năng thao diễn của F-15 có được nhờ chất tải cánh (tỷ lệ trọng lượng trên diện tích cánh nhỏ) nhỏ và tỷ lệ lực đẩy trên trọng lượng lớn cho phép nó quay vòng hẹp mà không mất tốc độ. F-15 có thể lên tới độ cao 30,000 feet (10,000 m) trong khoảng 60 giây. Lực đẩy từ hai động cơ lớn hơn trọng lượng của máy bay, vì thế cho phép nó tăng tốc trong khi đang bay dốc đứng lên. Các hệ thống vũ khí và điều khiển bay được thiết kế để chỉ cần một người có thể thực hiện tốt nhiệm vụ chiến đấu trên không.
    • Một hệ thống điện tử đa nhiệm gồm một hệ thống hiển thị mũ bay (HUD), radar tân tiến, hệ thống dẫn đường quán tính (INS), các công cụ bay, liên lạc tần số cực cao (UHF), và những bộ tiếp nhập Hoa tiêu Chiến thuật trên không (TACAN) và Hệ thống Công cụ Hạ cánh (ILS). Nó cũng có một hệ thống chiến tranh điện tử chiến thuật lắp trong, hệ thống "định dạng bạn thù", bộ phản công điện tử và một máy tính số trung tâm.
    • Hệ thống hiển thị mũ bay cung cấp, thông qua một máy kết hợp, tất cả các thông tin bay quan trọng do các hệ thống điện tử thu thập được. màn hình hiển thị này luôn thấy được ở mọi điều kiện ánh sáng, cung cấp cho phi công thông tin quan trọng để theo dõi và tiêu diệt máy bay địch mà không cần nhìn xuống các công cụ trong buồng lái.

      http://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/thumb/a/ae/F15-****pit-view-tanker-067.jpg/398px-F15-****pit-view-tanker-067.jpg
    • Hệ thống radar xung Doppler đa tác dụng APG-63/70 của F-15 có thể tìm kiếm các mục tiêu bay với tốc độ cao ở trên và tốc độ thấp ở dưới không nhầm lẫn chúng với các mục tiêu dưới mặt đất. Nó có thể dò tìm và truy theo máy bay cùng các mục tiêu tốc độ thấp nhỏ ở khoảng cách ngoài tầm nhìn (tối đa lên tới 120 hải lý), và ở độ cao tới các ngọn cây. Radar cung cấp thông tin mục tiêu tới máy tính trung tâm để sử dụng vũ khí tối ưu. Khả năng khóa các mục tiêu lên tới 50 hải lý với một tên lửa AIM-120 AMRAAM cho phép chiến đấu với các mục tiêu ngoài tầm nhìn. Khi chiến đấu hỗn loạn ở cự ly gần, radar tự động tìm kiếm máy bay địch, và thông tin này được chiếu lên màn hình hiển thị trên mũ. Hệ thống chiến tranh điện tử của F-15 vừa có chức năng cảnh báo vừa có chức năng phản công chống lại các mối đe dọa được lựa chọn.
    • F-15 có thể mang theo nhiều loại vũ khí không đối không. Một hệ thống vũ khí tự động cho phép phi công thực hiện công tác chiến đấu trên không an toàn và hiệu quả, sử dụng hệ thống hiển thị trên mũ bay và các hệ thống điện tử cùng hệ thống kiểm soát vũ khí nằm trên thanh điều khiển. Khi phi công thay đổi từ hệ thống vũ khí này sang hệ thống khác, thông tin hướng dẫn cho loại vũ khí đó sẽ tự động hiển thị trên mũ bay.



      http://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/thumb/a/a3/F-15D_Eagle_****pit.jpg/800px-F-15D_Eagle_****pit.jpg
    • Eagle có thể được trang bị tổng hợp bốn loại vũ khí không đối không khác nhau: tên lửa AIM-7F/M Sparrow hay AIM-120 AMRAAM các tên lửa không đối không tầm trung hiện đại ở góc thấp dưới thân, tên lửa AIM-9L/M Sidewinder hay tên lửa AIM-120 trên hai mấu cứng dưới cánh, một pháo Gatling 20 mm cạnh gốc cánh.
    • Các bình nhiên liệu phụ thích ứng (CFT) sức cản thấp đã được phát triển cho những chiếc F-15C và D. Chúng có thể được gắn bên cạnh các cửa hút gió động cơ dưới mỗi cánh và được thiết kế để có cùng các giới hạn tải trọng và tốc độ bay của máy bay. Tuy nhiên, chúng vẫn làm giảm khả năng thao diễn của máy bay khi giới hạn G-force tối đa. Chúng cũng không vứt bỏ được trong khi bay (không giống các thùng nhiên liệu phụ quy ước gắn ngoài). Không quân Mỹ chỉ lắp CFT cho những chiếc F-15E, nhưng những thùng CTF của Mỹ đã được cung cấp cho Israel để sử dụng cho toàn bộ phi đội F-15 của họ. Mỗi bình nhiên liệu phụ có khoảng 114 foot khối (3,200 L) dung tích hữu dụng. Những chiếc bình này giúp máy bay không cần phải tiếp dầu trên không trong những phi vụ tầm xa và những trận đánh có thời gian dài. Tất cả các mấu cứng treo vũ khí ngoài đều sử dụng được khi có dùng thùng dầu phụ. Hơn nữa, các tên lửa Sparrow hay AMRAAM có thể được lắp tại các góc của thùng dầu phụ.

      [​IMG]
    • Biến thể F-15E Strike Eagle là một máy bay chiến đấu hai chỗ ngồi, hoàn toàn thích hợp hoạt động trong mọi thời tiết, với cả các nhiệm vụ không đối không và can thiệp trên không. Buồng lái phía sau được cải tiến để lắp thêm bốn màn hình hiển thị đa dụng CRT cho các hệ thống máy bay và quản lý vũ khí. Hệ thống kiểm soát bay số Lear Siegler cho phép tự động giám sát địa hình, được tăng cường thêm bởi một hệ thống dẫn đường quán tính dùng con quay laser.



      [​IMG]


    • Để có khả năng thâm nhập tầm thấp ở tốc độ cao nhằm tấn công các mục tiêu chiến thuật vào buổi đêm và trong điều kiện thời tiết khắc nghiệt, F-15E mang theo một radar APG-70 và thiết bị LANTIRN để thu ảnh nhiệt.
    • Radar Quét mạng điện tử chủ động (AESA) APG-63(V)2 đã được trang bị thêm cho một số lượng giới hạn máy bay F-15C của Không lực Hoa Kỳ. Sự cải tiến này gồm hầu hết các phần cứng mới từ APG-63(V)1, nhưng việc lắp thêm radar quét mạng điện tử chủ động giúp phi công nắm bắt tình hình nhanh hơn. Radar AESA có chùm tia nhanh đặc biệt, hầu như có khả năng truy dấu và cung cấp thông tin đồng thời. APG-63(V)2 tương thích với các loại vũ khí trang bị hiện tại của F-15C và cho phép phi công sử dụng toàn bộ lợi thế của tên lửa AIM-120 AMRAAM, đồng thời dẫn đường cho nhiều tên lửa tới nhiều mục tiêu ở các góc, độ cao và khoảng cách lớn.



    Source: internet
  9. Terminator_revenge

    Terminator_revenge Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    30/08/2012
    Bài viết:
    122
    Đã được thích:
    13
    M1 Abram T series tank-killer
    AH-64A T series tank/BMP/BTR-killer
    F-15C MiG/Sukhoi/Mi-killer

    Còn ai phản đối là chưa thực tế chiến đâu không ?
  10. oanh89

    oanh89 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    31/03/2011
    Bài viết:
    4.383
    Đã được thích:
    5.393
    Lâu lắm ko vào , nhiều cái hot quá nhẩy ;));));));));))
Trạng thái chủ đề:
Đã khóa

Chia sẻ trang này