1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Hoàng sa- Trường sa biển đảo quê hương ( Phần 4 )

Chủ đề trong 'Giáo dục quốc phòng' bởi onamiowada, 10/05/2010.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. Dragon_Fire

    Dragon_Fire Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    16/12/2011
    Bài viết:
    10
    Đã được thích:
    0
    quá hay
  2. Tran-Trung

    Tran-Trung Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    17/11/2010
    Bài viết:
    1.437
    Đã được thích:
    563
    Liệu tình hình sẽ như thế này chăng
    [​IMG]
  3. Timebreakk

    Timebreakk Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    30/11/2011
    Bài viết:
    29
    Đã được thích:
    0

    Hèn quá!


    Sao lại không có ý chí phải là như thế này ?

    [​IMG]
  4. giacaymamtep

    giacaymamtep Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    03/10/2008
    Bài viết:
    1.390
    Đã được thích:
    5
    Trường Sa yêu thương - Song Tử Tây

    Đăng ngày: 22:38 09-01-2012 Thư mục: Hoàng Sa - Trường Sa





    Cửa âu tàu đảo Song Tử Tây
    [​IMG]
    Âu tàu
    [​IMG]
    Một góc Song Tử Tây, phía xa là Song Tử Đông do Philippines chiếm giữ
    [​IMG]
    Trung tâm Song Tử Tây
    [​IMG]
    Chùa
    [​IMG]
    Bia chủ quyền được lập năm 1956
    [​IMG]
    Tượng Đức Thánh Trần đang được xây dựng
    [​IMG]
    vietnameastsea thích bài này.
  5. giacaymamtep

    giacaymamtep Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    03/10/2008
    Bài viết:
    1.390
    Đã được thích:
    5
    DK1 là tên gọi của cụm kỹ thuật - khoa học - dịch vụ được xây dựng tại khu vực thềm lục địa phía Nam thuộc tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu với những nhà giàn dựng trên mặt biển. Nhiệm vụ của các nhà giàn là lập các đèn biển để thông báo cho tàu thuyền đánh cá và vận tải hàng hải đi lại trong vùng; đặt trạm nghiên cứu khí tượng thủy văn; làm nơi trú tránh bão và ứng cứu ngư dân... Nhưng nhiệm vụ quan trọng nhất của DK1 là chốt giữ, bảo vệ chủ quyền thềm lục địa phía Nam của Tổ quốc, bảo vệ bình yên cho việc khai thác tài nguyên nơi thềm lục địa.
    Nhà giàn DK1 đầu tiên được thành lập từ ngày 5/7/1989, mang tên Phúc Tần nằm giữa biển Đông với tư cách là cột mốc chủ quyền quốc gia đặc biệt trên biển. Từ đó đến nay, 15 nhà giàn DK1 thuộc các cụm: Ba Kè, Phúc Tần, Quế Đường, Tư Chính, Phúc Nguyên, Huyền Trân và Cà Mau tạo thành một vành đai chiến hào đảo thép trên biển. Làm nhiệm vụ trên các nhà giàn là cán bộ, quân nhân chuyên nghiệp thuộc Tiểu đoàn DK1, Vùng 2 Hải quân.
    Những người lính Hải quân trên các nhà giàn bám trụ trên biển từ 8 đến 12 tháng. Cũng có khi do yêu cầu nhiệm vụ nên phải ở hơn 20 tháng mới vào đất liền. Sống giữa biển và trời với thời gian dài dằng dặc như thế đương nhiên là khó khăn, vất vả và thiếu thốn đủ bề, nhưng bằng tình yêu Tổ quốc và biển đảo, những người lính Hải quân đã vượt qua mọi trở ngại để sống một cuộc sống lạc quan, yêu đời và vững vàng bản lĩnh người chiến sỹ nơi đầu sóng ngọn gió.
    Từ năm 2009 trở về trước, nói về nhà giàn DK1 ít người biết đến. Ngay cả những người sống ở địa bàn dựng nhà giàn DK1 cũng không hiểu nhà giàn DK1 là gì. Vậy mới có chuyện khôi hài là ngay cả cán bộ ở tại địa phận dựng nhà giàn DK1 lại cứ tưởng DK1 là “dầu khí”, cán bộ DK1 ăn lương dầu khí nên kinh tế rất khá. Nhưng thực tế DK1 và dầu khí nào có liên quan gì nhau.
    Bên dầu khí làm việc ở các giàn khoan (gần đất liền). Trong khi đó anh em DK1 ăn lương bộ đội, làm nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biên giới trên biển (cách xa khu vực khai thác dầu khí). Các nhà giàn được kết cấu bằng thép do Bộ Tư lệnh Công binh xây dựng có sức bền lâu dài và chịu được khắc nghiệt của thời tiết như gió to, bão lớn.
    [​IMG]
    Cán bộ quân nhân chuyên nghiệp Tiểu đoàn DK1 trước giờ rời tàu lên nhà giàn.Nhà giàn có chân bằng thép cắm sâu xuống đáy san hô, chia thành nhiều tầng, nhiều khối với diện tích sử dụng hàng trăm mét vuông một tầng. Vào mùa sóng to, gió lớn, nhà giàn rung lắc nhưng luôn trụ vững giữa biển khơi. Sống giữa biển khơi với muôn trùng sóng dữ, đời sống của cán bộ, quân nhân Hải quân gặp nhiều khó khăn. Thức ăn của họ chủ yếu là cá do anh em câu từ dưới biển lên và thi thoảng cải thiện bằng gia súc, gia cầm nuôi được tại nhà giàn.
    Rau được trồng trong các chậu đặt tại nhà giàn. Nguồn nước ngọt anh em sử dụng hằng ngày có dư giả hay không phụ thuộc vào mưa nhiều hay ít. Để bảo đảm an toàn tuyệt đối chủ quyền, ngày cũng như đêm, các cán bộ nhà giàn luôn tăng cường quan sát, phát hiện những động thái từ xa và sẵn sàng chiến đấu khi có lệnh.
    Đại tá Trương Công Thế, Phó Chính ủy Bộ Tư lệnh Vùng 2 Hải quân khẳng định, cuộc sống thiếu thốn, gian khổ đấy, nhìn thấy đồng đội hi sinh đấy nhưng không cán bộ, quân nhân chuyên nghiệp nào của Tiểu đoàn DK1 dao động, nao núng tinh thần. Khi được phân công, họ luôn sẵn sàng nhận nhiệm vụ bảo vệ các nhà giàn DK1.
    Thiếu tá Bùi Xuân Bổng là một ví dụ điển hình trong cái ngày nhà giàn 2A sập đổ khiến 3 người hi sinh, 6 người trôi dạt 14 giờ liền trong bão biển ngày 13/12/1998. Anh tưởng đã chết khi nhà giàn bị sập. Thế nhưng chỉ vài tháng sau đó, anh lại cùng đồng đội ra biển nhận nhiệm vụ ở một nhà giàn khác. Thiếu tá Hồ Thế Công, đồng đội cùng thoát nạn với Thiếu tá Bùi Xuân Bổng sau sự cố sập nhà giàn. Nhưng cũng chỉ một thời gian ngắn sau đó, anh lại sẵn sàng ra biển làm nhiệm vụ, không màng đến những khó khăn và nguy hiểm đang ở phía trước.
    Tôi hỏi đồng chí Phó Chính ủy Bộ Tư lệnh Vùng 2 Hải quân Trương Công Thế rằng: “Động lực nào khiến những người lính Hải quân không ngại hiểm nguy, gian khó để ngày đêm bám biển?”, và được anh trả lời: “Điều thiêng liêng nhất mà những người lính Hải quân khắc ghi trong lòng để kiên cường chống chọi với bão tố và vượt qua mọi gian khổ giữa trùng khơi chính là lời thề trên biển Đông năm xưa: Chúng tôi xin hứa trước đồng bào cả nước sẽ quyết tâm bảo vệ Tổ quốc thân yêu của chúng ta”.
    Hơn 22 năm đã trôi qua cũng là hơn 22 mùa dông bão, mặc sóng, mặc gió, mặc bão tố, phong ba, các nhà giàn DK1 vẫn hiên ngang và sừng sững giữa biển khơi. Cuộc sống của những người lính Hải quân DK1 bây giờ đã được cải thiện nhiều. Rau xanh vẫn thiếu dù anh em đã tận dụng trồng mọi chỗ có thể. Nhưng để đóng góp vào sự bình yên của cuộc sống nơi biển đảo là của các thế hệ cán bộ, chiến sĩ và quân nhân chuyên nghiệp Hải quân.
    Hơn 22 năm qua, các nhân chứng lịch sử - những người thầm lặng cống hiến và cả hy sinh quên mình trong công cuộc xây dựng các nhà giàn DK1 và bảo vệ chủ quyền thềm lục địa phía Nam Tổ quốc luôn một lòng một dạ gắn bó. Và nối tiếp truyền thống anh hùng của thế hệ cha anh, những cán bộ, quân nhân chuyên nghiệp Hải quân hôm nay tiếp tục giữ lời thề năm xưa, quyết bảo vệ chủ quyền Tổ quốc nơi biển đảo[​IMG]

    Nguyễn Hưng -CAND
  6. hoangkeo5

    hoangkeo5 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    28/07/2009
    Bài viết:
    2.057
    Đã được thích:
    2
    Sao ko co cái mái che cho cái tấm bia này nhỉ hay là chỉ vì nó là do V.NCH xây [r23)]
  7. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    Bây giờ tấm bia đó đã được công nhận là di tích LS
  8. vyhachit

    vyhachit Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    12/04/2007
    Bài viết:
    1.173
    Đã được thích:
    62
    trời ạ, sao không yên bình để có thể 1 lần đặt chân lên đây nhỉ?? Hơn resort vạn lần :-??
  9. tttoan

    tttoan Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    05/06/2004
    Bài viết:
    2.329
    Đã được thích:
    322
    Hình ảnh mới cho thấy Song Tử Tây có nhiều xây xanh nhỉ! Là cây gì mà cành lá sum suê vậy các bác, mà hình như có hoa màu trắng nữa?
  10. giacaymamtep

    giacaymamtep Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    03/10/2008
    Bài viết:
    1.390
    Đã được thích:
    5
    Ở Trường Sa, trong chặng cuối của hành trình trên con tàu HQ936 của Vùng 4 Hải quân dài một tháng (từ 15.12.2011 – 12.1.2012), tôi bỗng nhận ra rằng có những điều chỉ nên được thể hiện bằng những gì ngoài ngôn ngữ, có thể đó là một tiếng đàn, cũng có thể đó là một chiếc phong linh (chuông gió)... Biển rộng nhường kia và sóng gió nhường kia mà; cho nên, đôi khi ngôn ngữ dường như bất lực.

    [​IMG]
    Ảnh: H.U.Y
    Đến với hai đảo Cô Lin và Len Đao trong cụm đảo Len Đao - Cô Lin - Gạc Ma trong những ngày cuối của hành trình, tôi đã được nghe kể lại trận đánh ngày 14.3.1988. Trong trận đánh ấy, 64 chiến sĩ của ta đã vĩnh viễn nằm lại với biển đảo quê hương. Có lẽ, tôi không cần phải làm thay sứ mệnh của những nhà chép sử. Thay vào đó, có thể là một tiếng đàn được ngân rung khắc khoải, có thể là sự hiện diện của chiếc phong linh trên đảo thay cho ngôn ngữ. Nhưng trước tiên, tôi muốn lặp lại điều không bao giờ nhàm cũ: Giờ, sau trận đánh ngày 14.3.1988, ta còn giữ được hai đảo Len Đao và Cô Lin![​IMG]

    Phong linh “12 ly 7”


    Chiếc phong linh ấy được treo ở cửa ra vào của một căn phòng trên đảo Len Đao!


    Len Đao chỉ là hòn đảo nhỏ - thậm chí khá nhỏ - trong quần đảo Trường Sa tuyến đầu tổ quốc trên biển. Trong hành trình đến với Trường Sa, tôi đã được đặt chân lên khá nhiều điểm đảo, nhất là các đảo chìm. Nhưng với riêng Len Đao, ngay khi đặt chân lên “đất” đảo, tôi mơ hồ nhận ra những điều khác thường khó giải thích được đang hiện hữu ở nơi này.
    [​IMG]
    Phong linh trên đảo Len Đao.
    Đoạn đường biển từ nơi con tàu HQ936 đang neo đậu đến đảo không xa. Chẳng mấy chốc trên chiếc “xuồng chuyển tải” (khái niệm của những người lính hải quân trên tàu) quen thuộc, trước mắt tôi là một ngôi nhà xây cao móng “mọc” lên từ sóng hiện ra với mấy anh lính hải quân quân phục chỉnh tề đang xếp hàng ngang đón đoàn. Sau thủ tục chào đón theo điều lệnh là những cái bắt tay thân tình giữa chủ và khách. Bỗng tôi nhận ra trong những cái bắt tay kia, màu sạm nắng và từng trải gió sương của những bàn tay chủ nhà hiển hiện rất rõ, rất đặc trưng. Những người lính hải quân trên đảo Len Đao phong sương và “bão tố” hơn chăng?

    Tháng 1 là tháng gió mùa đông bắc ở quần đảo bão tố Trường Sa. Nhẽ ra, vào mùa này, gió phải từ hướng đông bắc thổi vào đảo; nhưng có điều gì đó hơi là lạ ở hòn đảo này là ở một phía của ngôi nhà, sóng lại cứ đánh xoay tròn như thể biển muốn những con sóng tan vào nhau, kết vào nhau như sự kết hợp giữa âm và dương, giữa trời và đất. Điều lạ hơn là sóng biển với kiểu vỗ xoay tròn đó đã dồn cao một đụn cát vàng nhô lên khỏi mặt nước trông thật kỳ lạ. Càng kỳ lạ hơn là đụn cát vàng do sóng biển tạo thành đó có hình chữ S hệt bản đồ Việt Nam. Chắc chắn là không có bàn tay con người can thiệp. Ở phía xa hơn, một gốc cây cổ thụ không biết từ đâu theo sóng biển dạt vào và cắm sâu vào nền san hô như một dấu hiệu nhận biết cho thuyền bè qua lại. Người ta đoán định, gốc cây cổ thụ ấy có thể từ rừng theo sóng trôi ra đến tận đây trong một trận lụt nào đó. Điều quan trọng là gốc cổ thụ ấy đã nhờ sóng biển để chọn hòn đảo Len Đao làm nơi trú chân cứ như thể nó là sự chọn lựa của chính Len Đao vậy. Theo đại uý Ngô Gia Thế - đảo trưởng - thì gốc cổ thụ của rừng xanh kia đã có mặt ở đây nhiều năm rồi.

    Còn chiếc phong linh được treo nơi cửa ra vào của một căn phòng trên đảo cứ như không là chiếc phong linh vậy! Tôi chỉ vô tình nhìn thấy chiếc phong linh ấy khi bước vào cửa phòng với thói quen nhìn trên đầu mình xem có cái gì đó phải “chui” qua không (để không phải chui qua). Chiếc phong linh được làm bằng ba vỏ đạn 12 ly 7 cột chùm vào một sợi dây cước và luồn qua một lon sữa bò. Cũng cần nói thêm, 12 ly 7 là thứ vũ khí được trang bị phổ biến ở các đảo của ta trong quần đảo Trường Sa bão tố. Ba chiếc vỏ viên đạn có vẻ quá khổ so với chiếc lon sữa bò. Ba chiếc vỏ đạn đã cũ đến mức đã ngả sang màu xám tro.

    Còn chiếc hộp sữa bò đã gỉ sét đến mức sờ vào là lả tả rơi ra những mẩu kim loại đã bị ôxy hoá rất mạnh. Chiếc phong linh được treo ở trước cửa ra vào của một căn phòng trên đảo Len Đao ấy chắc là lâu lắm rồi. Thông qua đại uý Ngô Gia Thế, tôi biết được rằng hầu như trên đảo không ai còn nhớ một cách chính xác chiếc phong linh được làm bằng vỏ đạn 12 ly 7 ấy ra đời từ lúc nào, nhưng chắc chắn một điều rằng nó có liên quan mật thiết đến sự kiện ngày 14.3.1988 ở cụm đảo Len Đao - Cô Lin và cả Gạc Ma này.

    Trước lúc rời đảo Len Đao, tôi được nghe đại uý Ngô Gia Thế lần nữa nói rằng hòn đảo ấy tuy nhỏ nhưng có một lịch sử ác liệt lắm; đặc biệt là đã có nhiều chiến sĩ ngã xuống nơi này! Và với riêng tôi, chiếc phong linh được làm bằng những vỏ đạn ở đảo Len Đao cũng có một điều gì đó đặc biệt lắm, khó lý giải bằng lời lắm!

    Thèm nghe một tiếng đàn

    Trước đó, con tàu HQ936 đã hoàn thành hành trình từ đảo Tiên Nữ đến Cô Lin và Len Đao khá sớm. Sau hơn 13 tiếng đồng hồ trên biển, như mọi khi, con tàu lại tìm chỗ neo đậu giữa hai đảo chìm Len Đao và Cô Lin để đoàn công tác lên đảo làm nhiệm vụ. Đứng trên boong tàu, tôi nhìn về Cô Lin và thấy hòn đảo ấy gần lắm; nhìn về Len Đao cũng thế. Và, ở nơi vùng biển thuộc cụm đảo Cô Lin - Len Đao - Gạc Ma đã từng xảy ra trận chiến khá khốc liệt này, tôi đã nhìn thấy không chỉ riêng hai đảo chìm Len Đao và Cô Lin mà ta đang chốt giữ.
    [​IMG]
    Đêm trên boong tàu.
    Sau chặng đường biển dài hơn 13 tiếng đồng hồ, thiếu tá Ngô Đức Dũng nói với tôi rằng phải cho con tàu “nghỉ máy” một chút. Bởi vậy, trên tàu đã cúp điện. Tôi không viết được trên chiếc laptop khi điện bị cúp nên lên đài chỉ huy mượn chiếc ống nhòm của chính thuyền trưởng - thiếu tá Ngô Đức Dũng - để nhìn về phía xa kia. Vẫn là mông mông mênh mênh biển xanh rờn rợn. Vẫn là nhấp nhấp nhô nhô những con sóng nối nhau gờn gợn trải rộng giữa bao la biển cả. Nhưng ở vùng biển Len Đao - Cô Lin này không chỉ duy nhất có gờn gợn những con sóng nối vào nhau giữa mông mênh biển xanh.

    Trên cao, dẫu chưa đứng bóng nhưng mặt trời đã bắt đầu đốt nóng boong tàu. Chỉ mới nửa buổi sáng mà người trên tàu không còn ra giữa boong hóng gió và ngắm nhìn trời nước như mọi ngày. Nắng nóng loá loà trong những đôi mắt nheo nhìn xuống điểm gần của biển xanh.

    Nắng nóng cũng gắt bỏng trên những ngón tay khum che ánh nhìn dõi về phía biển xa. Vẫn bốn bề là biển. Nhưng rõ ràng là ở nơi biển xanh bao quanh tứ phía Len Đao - Cô Lin này, tôi không chỉ duy nhất thu vào tầm mắt một Len Đao và một Cô Lin nhô lên trên nền san hô và trên bãi đá ngầm giữa trùng trùng biển sóng bạc đầu nhức nhối.


    Tôi bỗng thèm nghe một tiếng đàn. Tôi bỗng dưng thèm nghe một tiếng đàn của chính mình và của chính bạn bè. Trên tàu, nhiều đêm qua, tiếng đàn guitare đã kết nối những tấm lòng bè bạn với những người lính quanh năm phải vật lộn với sóng gió. Tiếng đàn là sự lắng lòng của con người ta trước biển cả bao la. Vẫn từ tiếng đàn ấy, nỗi lòng của con người ta bỗng vỡ oà trước sóng, trước gió. Tiếng đàn cũng gửi vào nắng biển, vào gió khơi, vào trùng trùng sóng vỗ những giọt lòng thao thiết của con người ta khi đứng trước giữa bao la trời nước.

    Cũng có những tiếng đàn vô tư lự. Nó có khi chỉ là sự điểm tô cho tiếng hát của những người bỗng dưng muốn hát. Nó có khi chỉ là chùm âm thanh điền vào những khoảng trống của con người ta bỗng dưng hiện hữu trong những phút giây nào đó trong ngày. Nó có khi chỉ là sự kết nối ngẫu nhiên những cảm xúc hứng khởi của con người ta trước đất trời chợt ào đến.


    Nhưng buổi sáng nay thì khác. Bởi điều đó, tôi đã mang cây đàn guitare lên trên lan can cao nhất của con tàu, nơi gần đài chỉ huy. Ừ, cũng chỉ là bỗng dưng thôi nhưng tiếng đàn mà tôi thèm nghe trong buổi sáng này hoàn toàn không giống tiếng đàn trong những ngày qua trên con tàu HQ936 của Vùng 4 Hải quân. Thiếu tá - thuyền trưởng Ngô Đức Dũng như hiểu được tâm trạng của những vị “khách” trong lúc này, nên anh đã chia sẻ bằng một nụ cười khi từ boong lái nhìn ra chỗ chúng tôi.


    Tiếng đàn mà tôi thèm nghe trong buổi sáng ở nơi vùng biển Len Đao và Cô Lin, vùng biển mà tôi không chỉ nhìn thấy riêng mỗi một Cô Lin và Len Đao này chính là tiếng hát. Và, tiếng đàn ấy đã “hát” rằng: “Biển trời quê ta...”! Tiếng hát hoà vào biển xanh! Tiếng đàn hoà vào sóng biển quê hương!



    Khắc Dũng - Báo Lao Động

Chia sẻ trang này