1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Hoàng sa- Trường sa biển đảo quê hương ( Phần 4 )

Chủ đề trong 'Giáo dục quốc phòng' bởi onamiowada, 10/05/2010.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. MrKhuKhoam

    MrKhuKhoam Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    12/04/2011
    Bài viết:
    4.334
    Đã được thích:
    1.180
    CÂU CHUYỆN TÌNH YÊU VÀ GÓI KỶ VẬT TRƯỜNG SA
    Chủ nhật, 12/02/2012 09:35

    Kỷ vật tình yêu ...

    Gói kỷ vật được phóng viên Báo Ninh Thuận “gửi” đến anh Tuấn giữa biển khơi mênh mông, những giọt nước mắt đã rơi, tình yêu liệu có đơn giản như chúng ta đang nghĩ…

    (NTO) Tháng giêng, khi nắng vàng đã trải rộng, đâu đó còn đọng lại cái se lạnh dịu dàng, mùa tình yêu lại bắt đầu với những cung bậc cảm xúc của những đôi tình nhân: yêu thương, giận hờn, nhung nhớ… Ký ức lại đưa tôi về với câu chuyện tình yêu có thể gọi là vĩnh cửu của một người phụ nữ ở Nha Trang (Khánh Hòa) mà số phận đã tình cờ gắn tôi với chị vào một con tàu…

    Người kể cho tôi câu chuyện tình ấy là anh Nguyễn Đình Quân, phóng viên Báo Tiền Phong, cùng đi chung đoàn công tác với tôi ra thăm các chiến sĩ ở Trường Sa cuối năm 2011 vừa qua. Khi biết tôi được đi các đảo thuộc tuyến giữa (có đảo Cô Lin, Len Đao, Gạc Ma), anh đã tìm và nhờ tôi một việc mà anh cho là hết sức quan trọng (vì đoàn phóng viên tuyến giữa chỉ có tôi và một chị nữ nên trọng trách ấy anh giao cho tôi). “Là phụ nữ, có lẽ em sẽ hiểu hơn…”-anh mở đầu câu chuyện.
    [​IMG][​IMG]
    Anh Nguyễn Đình Quân trao đổi với tác giả và ... những dòng thơ trong gói kỷ vật của chị Trang.

    Ngày ấy, ở miền đất Khánh Hòa, chuyện tình yêu đẹp như mơ của nàng “tiểu thư thị trấn” Nguyễn Thị Mỹ Trang (*) và chàng thanh niên nhà nghèo Võ Đình Tuấn được cả bà con lối xóm biết. Một tình yêu thuần khiết, giản dị vì cả hai nhân vật chính ấy đều chưa trao nhau được một cái cầm tay, nói chi tới một nụ hôn. Năm 1987, Tuấn nhập ngũ, còn Trang trở thành sinh viên Trường Cao đẳng Sư phạm Nha Trang. Cuối năm đó, Tuấn nhận công tác ở Trường Sa, ngày chia tay người yêu ở Nha Trang, Tuấn hỏi Trang có muốn anh ở lại không, chỉ cần Trang “ừ”,… Nhưng Trang bảo tương lai hãy còn dài, tụi mình còn trẻ… Thật ra Tuấn đã quyết đi rồi, hỏi vậy chỉ để hiểu lòng Trang. Rồi Tuấn đi… và mãi mãi không bao giờ trở lại. Anh đã cùng đồng đội kết thành “vòng tròn bất tử” và hy sinh trên đảo Gạc Ma trong sự kiện ngày 14-3/1988.

    Tôi thắc mắc, “Vậy anh Quân là…”. Anh cười: “Anh không phải họ hàng, gia đình gì của hai nhân vật ấy chi hết. Anh chỉ là một người được số phận gắn vào chuyện tình này thôi.” Tháng 1-2011, trong chuyến công tác đến Trường Sa, anh đã được gia đình anh Võ Đình Tuấn, ở Ninh Ích, huyện Ninh Hòa (Khánh Hòa) nhờ chuyển một lá thư của cha mẹ già gửi hương hồn anh. Anh Quân đã làm theo tâm nguyện ấy, trong lễ tưởng niệm, giữa sóng khơi, anh đã khấn và “hóa” (đốt) lá thư ấy.

    Chuyện này được anh viết trên blog của anh. Và tháng 4-2011, dòng bình luận của một người phụ nữ lạ đã kéo anh vào câu chuyện tình như anh đã kể, “Tuấn ra đi để lại cho mình tất cả những nỗi nhớ nhung, tiếc thương và hối hận…Gần mười năm… mình đã sang ngang…Mình biết Tuấn không đọc được những dòng này nhưng Tuấn sẽ cảm nhận được phải không Tuấn…”. Từ đó, anh Quân và chị Trang (bây giờ đã lập gia đình, hiện đang sống ở huyện Ninh Hòa-Khánh Hòa) là bạn và biết anh sắp đi công tác Trường Sa vào tháng 12-2011, chị đã nhờ anh chuyển một gói kỷ vật đến cho Tuấn tại nơi mà Tuấn đã hy sinh. Chị đã không thể đến được nơi đó, mấy chục năm rồi điều đó cứ mãi ám ảnh chị. Gói kỷ vật ghi lại tình yêu của chị. Tiếc thay anh Quân lại được phân công ở đoàn công tác tuyến Bắc (không tới Gạc Ma) và anh không thể thực hiện tâm nguyện ấy. Trọng trách ấy được chuyển đến tôi. Tôi sẽ thay chị Trang và anh Quân đến “thăm” anh Tuấn…

    Hồng Nhạn

    Báo Ninh Thuận 12-2-2012
  2. MrKhuKhoam

    MrKhuKhoam Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    12/04/2011
    Bài viết:
    4.334
    Đã được thích:
    1.180
    CÂU CHUYỆN TÌNH YÊU VÀ GÓI KỶ VẬT TRƯỜNG SA
    Thứ tư, 15/02/2012 09:21

    Gửi cho Tuấn ...

    Chuyến công tác đến Trường Sa đã kéo dài tới ngày thứ 21, hôm ấy, ngày 4-1-2012, biển vẫn cao sóng, gió vẫn quật từng cơn. Đây là “quần đảo bão tố” mà. Nhưng nắng hôm nay đẹp hơn mọi ngày - cánh phóng viên trong đoàn bảo với nhau như thế.

    (NTO) Buổi sáng của ngày đặc biệt đó, trên con tàu HQ936 của chúng tôi, đã diễn ra một lễ tưởng niệm hết sức long trọng. Cách đây 24 năm, ngày 14-3-1988, 64 cán bộ, chiến sỹ Hải quân nhân dân Việt Nam đã kết thành “vòng tròn bất tử” và anh dũng hy sinh khi bảo vệ các đảo Gạc Ma, Cô Lin, Len Đao của quần đảo Trường Sa. Mấy chục năm rồi, người ta mới chỉ tìm được 4 bộ hài cốt, còn lại vẫn nằm dưới biển sâu, ở nơi mà các anh đã dành cả sinh mạng của mình để giữ lấy từng tấc đảo, từng tấc biển của quê hương. Anh Võ Đình Tuấn là một trong 64 liệt sỹ ấy.
    [​IMG] Lễ tưởng niệm các anh hùng liệt sỹ trên tàu HQ936 và...

    Trong gói kỷ vật có những bức thư, những bài thơ tình yêu trên giấy đã ố vàng mà chị Trang đã viết hơn mấy mươi năm về trước. Đặc biệt có một bức hình chụp chung của chị và anh Tuấn. Anh Quân từng nói với tôi rằng: “Tuấn chưa bao giờ thấy bức ảnh này, Trang đã không kịp đưa Tuấn vào đêm chia tay… em nhớ gói thật kỹ vào một tảng san hô rồi thả về biển, Trang dặn đừng đốt, hãy để dưới đáy biển, Tuấn đọc được tấm lòng của Trang và thấy được ảnh hai người…”
    [​IMG] Phóng viên Báo Ninh Thuận gửi kỷ vật về với biển.

    Tôi nói số phận đã đưa chúng tôi lên một con tàu bởi có phải ngẫu nhiên hay sắp đặt mà tôi, một người không hề quen biết với chị Trang, lại là người chuyển tất cả tình yêu của chị đến liệt sỹ Võ Đình Tuấn giữa biển khơi mênh mông này. Ngoài sự kiện Gạc Ma diễn ra vào năm 1988, năm sinh của tôi thì ngày chị viết lại lá thư cho Tuấn cũng chính là ngày sinh của tôi (28-8).

    Sau khi được đặt lên bàn thờ trong lễ tưởng niệm, tới nghi thức thả vòng hoa, tôi cầm chặt gói kỷ vật giờ đã được bọc chặt trong một viên san hô và một vỏ ốc. Kể từ lúc thắp hương cho các hương hồn liệt sỹ, tôi đã không thể cầm được dòng nước mắt. Tôi, thế hệ được hưởng sự hòa bình mà các anh đã anh dũng giữ lấy, sẽ không thể nào quên được. Và những giọt nước mắt của nhiều trong số cán bộ, chiến sỹ hải quân và cả cánh báo chí trên tàu HQ896 đã rơi. Lạ thay, trời đang gió, sóng trồi từng cơn làm con tàu lắc mạnh bỗng ngưng bặt. Tàu yên ả. Tôi quỳ bên mạn tàu, nâng gói kỷ vật lên ngang mày, khấn nhỏ với anh Tuấn những gì tôi được nhờ và mong ở nơi đó, anh và đồng đội sẽ hiểu được tấm lòng của chúng tôi. Tôi khóc, tiếng nấc như vỡ òa. Trong phút chốc, tôi ngỡ mình là chị Trang! Gói kỷ vật được đưa vào lòng biển. Biển thăm thẳm ôm trọn, mất hút…Rồi tôi lặng đi... Nhiều người đã hỏi tôi, tôi không sợ hương hồn anh Tuấn sẽ “theo” tôi về đất liền hay sao? Tôi bảo có gì đâu mà sợ, nếu vậy tôi sẽ tìm chị Trang và “trả” anh cho chị! Buổi xế chiều hôm ấy, trời đang ráo tạnh bỗng nổi một cơn mưa rào.
    Tình yêu của chị Trang và liệt sỹ Tuấn đã cho tôi, một người trẻ ý nghĩa khác của tình yêu. Đã bao lần tôi tự hỏi, chuyện tình không một nụ hôn, tình yêu giữa nam và nữ có thể vượt qua những giới hạn khó cưỡng của con người. Nếu ngày ấy Trang “ừ” thì sao nhỉ? Thì Tuấn vẫn ra đi, vẫn đến với Trường Sa. Nên tình yêu ấy đã hóa thành tình yêu bất tử với biển đảo, với Tổ quốc. Và chị Trang, dù đã có một gia đình hạnh phúc, toàn vẹn thiên chức của một người vợ, một người mẹ, vẫn sâu kín hướng về mối tình ấy thì sự vĩnh cửu của tình yêu đâu thể nào chỉ có trong cổ tích…

    Hồng Nhạn
    Báo Ninh Thuận 15-2
  3. Tran-Trung

    Tran-Trung Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    17/11/2010
    Bài viết:
    1.437
    Đã được thích:
    563
    Không biết dự án du lịch Trường Sa bao giờ hoàn thành, các bác phóng to nhìn vào cái mô hình thấy chú thích là "Sân bay du lịch Trường Sa" đấy
    [​IMG]
  4. lycafetanvo

    lycafetanvo Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    05/06/2008
    Bài viết:
    970
    Đã được thích:
    164
    ĐẤT ĐAI VÀ TỔ QUỐC

    (Trích từ tác phẩm Hoàng Sa Vạn Lý của nhà văn Nguyễn Quang Vinh)

    Đảo không nghe một âm thanh nào hết, cả tiếng chim hải âu cũng như nén lại.

    Ráng chiều đã xuống. Thứ ánh sáng màu hồng chiếu xiên qua đảo, chiếu xiên qua gương mặt của các thủy binh, dân binh. Trên từng gương mặt của họ, màu hồng của nắng như làm căng lên những gò má vốn đã cháy nắng, những gương mặt giờ hồng rợng lên, đẹp như những thiên thần lửa, lấp lánh những giọt mồ hôi nhìn như những hạt ngọc.

    Đội Nhất ngắm nhìn quân binh của mình, ngắm nhìn các chàng trai đang sẵn sàng vào thế trận, ngắm nhìn họ trong ráng chiều tà, trong cái thứ ánh sáng màu hồng ấy, màu hồng như màu cờ, và hàng trăm đôi mắt như đang đỏ rực lên nhìn về phía đoàn thuyền chiến- hàng trăm mắt đảo.

    Tổ Quốc hiện ra chói ngời, trong vắt, rừng rực lửa trong những đôi mắt người Việt đang bám bên nhau, trụ bên nhau, người trong tay người, người trong cát đảo, đảo và người trong nhau thành một khối, tất cả đều đang nhuốm hồng trong ráng chiều, cảm tưởng như các đảo đều là những quả cầu đỏ.

    Tổ Quốc đôi khi chỉ là con còng gió, chạy trên cát vàng, trong ráng chiều, chạy tự do trên hòn đảo, đơn giản như vậy thôi, nhưng đó là con còng gió của nước Việt trên đảo của nước Việt, nơi mà Đội Nhất phụng mệnh Hoàng thượng trấn giữ và bảo vệ.

    Tổ Quốc đôi khi như những vạt rau muống biển, nở hoa màu tím, mọc dày trên cát, thứ rau muống dại không dễ ăn, nhưng giờ là tán che khổng lồ giúp Đội Nhất và các quân binh giấu mình dưới mắt nhìn của giặc. Những sợi dây rau muống biển dài và chắc, cánh lá sum suê, như cả tán rừng, che lên chiến hào, lên ụ đất, nhìn từ ngoài vào không thể biết được đó là công sự, đó là chiến tuyến phòng thủ. Lung lay trong gió nhẹ, những cánh hoa muống biển màu tím nhạt, lại điểm thêm chút nắng hồng chiều tà, đẹp đến ấm lòng.

    Tổ Quốc là cát, là đá, là những con sóng trào vỗ bờ trắng xóa, bao quanh những hòn đảo nhỏ, nhìn thì cô đơn giữa muôn trùng biển, nhưng trên đảo là người, người Việt, là Đội Nhất, là anh em. Trên bầu trời đảo còn là những cánh hải âu chao liệng, ríu rít tiếng kêu, những cánh chim hải âu khi vụt bay cao, khi nghêng cánh sà xuống, cả những mẫu phân nhỏ bé của hải âu bay bay trong gió rồi rơi xuống cát, xuống đá, xuống cả đầu người cũng thuộc về Tổ Quốc.

    Tổ Quốc là những giọt nước mắt của quân binh, thủy binh, của các cô gái, đêm đêm âm thầm khóc vì nhớ quê, nhớ nhà, nhớ bàn tay ấm áp của người mẹ, nhớ cái mùi khói thuốc của người cha, nhớ cả tiếng gà gáy vang vang trong những buổi chiều khói vương rơm rạ trên cánh đồng vào mùa gặt. Họ khóc vì nhớ. Mà nếu không biết khóc vì nhớ thì sẽ không biết khóc vì nhục. Đội Nhất vẫn nói với anh em, ai nhớ nhà cứ khóc đi, không sao cả. Tổ Quốc giản dị như những giọt nước mắt ấy thôi, nhưng đó là giọt nước mắt nhớ đất liền đến quặn lòng, đến tan tác, đến bàng hoàng, nhưng không phải là giọt nước mắt khóc vì nhục.

    Tổ Quốc bắt đầu từ những mũi kim sợi chỉ, chị em trên đảo khâu vá quần áo cho anh em mình, đường kim mũi chỉ trên những bàn tay ngọc, phả hơi ấm trên những cơ thể cường tráng của các chàng trai, dồn cho họ niềm tin, tình thương yêu, sự chia sẻ. Đảo có đàn bà và đàn ông, có cả những bước chân mạnh mẽ gan góc giẫm trên cát, trên đá, trên sóng biển, lại có cả những dấu chân con gái, in nhè nhẹ như thêu, như vẽ trên cát, làm điệu làm dáng cho những hòn đảo vốn bao đời trơ trọi, cô đơn trên biển cả. Dấu chân con trai, con gái trên đảo cương giới cũng thuộc về Tổ Quốc.

    Tổ Quốc là ánh nắng chiều nay, nắng chiều hoàng hôn, màu hồng tươi rói như màu cờ Đại Việt, cả bầu trời cứ ráng hồng lên như thế, lấp lánh, và những gương mặt của anh em thủy binh, dân binh, các cô gái trên đảo cũng đang rực lên trong màu hồng ấy, có khi màu hồng chuyển đậm như màu máu. Đội Nhất nghĩ tới trận chiến sắp xảy ra, ai còn, ai mất, và cát vàng kia sẽ nhuốm máu đỏ của anh em, nhưng ngay cả khi cát vàng ở đảo cháy đỏ màu máu của anh em, thì đảo vẫn thuộc về Tổ Quốc.

    Tổ Quốc là mảnh ván khắc hai chữ ĐẠI VIỆT cắm sâu vào tim các đảo. Ánh nắng chiều hắt bóng cột mốc giới, đổ bóng dài vắt ngang trên đảo, bóng dài cột mốc im lìm hằn trên đảo, trong mắt nhìn, hằn vào trái tim của anh em một lời thề, lời thề không âm thanh, lời thề sâu thẳm, lời thề nặng trĩu, truyền đời này sang đời khác, trong máu, trong khí huyết, trong hơi thở.

    Tổ Quốc là lá cờ mang chữ Quốc vương nước Việt, bay trong gió biển, là nơi anh em nhìn tới mà đứng thẳng, mà can trường, là dấu vết muôn đời của người Việt, là câu trả lời kiêu hãnh với thế giới, lá cờ còn, đảo còn, lá cờ màu máu, đi suốt ngàn năm, đi từ cương giới đất liền ra cương giới đảo, đến tay Đội Nhất và anh em, nhìn lá cờ tung bay như thấy vẹn nguyên và vĩnh hằng đất đai bờ cõi, rạng danh Tổ Quốc.

    ……………………………………………
    Đất đai tiên tổ ở đâu cũng là đất đai tiên tổ.

    Đất đai tiên tổ ở đâu cũng giống nhau, cũng thấm máu mồ hôi và nước mắt của con cháu Việt, dù là hạt phù sa đỏ đồng bằng, bụi đất bạc màu trên núi cao hay bùn lầy sú vẹt ven biển và cát vàng ở đảo xa, ở đâu cũng linh thiêng, cũng mang đậm dấu chân, hồn vía của nhiều thế hệ Việt đã giữ gìn, đã bảo vệ, đã sống và chết truyền đời như thế.

    Đất đai tiên tổ là quê hương bản quán, là nơi cha mẹ đào đất chôn nhau cắt rốn của con cái mình, là nơi để đào bới trồng cây lúa cây khoai, là hơi thở đẫm mồ hôi của ông cha, những giọt mồ hôi ướt đẫm trong nắng rát, trong mưa bão, trong đói khát, trong sự cần mẫn để gieo trồng và thu hái, để nuôi con nuôi cái, hà hơi tiếp sức cho nhiều thế hệ người Việt lớn lên, sinh tồn, bám trụ.

    Đất đai tiên tổ làm chứng cho biết bao lớp lớp cháu con, lớn dậy và trưởng thành, quen hơi bén tiếng, yêu nhau, thành vợ thành chồng, sinh con đẻ cái, làm nhà làm cửa, sống trên đất, chết trong đất, niềm vui và nỗi buồn, tất cả đều không rời đất, không xa đất, tất cả quần tụ và quyến luyến với đất đai quê hương, làng xóm, cả nước mắt nụ cười, cả khao khát và chờ đợi, tất cả đều có đất làm chứng, có đất nâng đỡ, có đất dìu dắt, trong đất là xương cốt của tổ tiên, xương cốt người Việt làm ra đất đai tiên tổ người Việt.

    Đất đai tiên tổ là nơi trời đã định, phận đã liệu, từ cương giới đất liền đến nơi biển cả, không xâm chiếm của ai, không giành giật của ai, một hạt bụi cũng là của người Việt, một cây cỏ cũng thuộc về người Việt, đời đời kiếp kiếp như thế, ai chiếm đoạt thì bị trừng phạt, ai phản bội thì phạm trọng tội, trong đất có hồn vía cha ông, có sức mạnh nước non, có lời thề truyền đời giữ đất của các bậc tiền bối, không ai được phép quay lưng trở mặt, lấy sức mà giữ gìn, lấy cả máu ra mà giữ gìn, không thể khác.

    Đất đai tiên tổ là nơi chia sẻ, là nơi đón nhận, là nơi ủ ấm những thân xác con cái người Việt đã bỏ mạng vì các cuộc chiến giữ đất giữ nước, sống thì cùng đất làm nên hạt lúa củ khoai, cùng đất rảo bước trên những nẻo đường, cùng đất cười đùa khi hạnh phúc, vục mặt vào đất khi khổ đau, bấu vào đất khi chân yếu tay mềm, tựa vào đất khi trời không yên, biển không lặng, chúi mặt vào đất khi tủi thân, khi buồn bã và cô độc, nằm yên ả trong đất khi nhắm mắt xuôi tay. Sống thì bảo vệ đất đai, chết thì nằm trong đất đai, người Việt mãi là như thế, yêu đất đai và thề chết vì đất đai tiên tổ.

    Cuộc chiến chắc chắn chưa dừng lại. Đảo xa, biển rộng, người ít giặc nhiều, rồi ai còn ai mất? Sống hay chết ở đây cũng chỉ để cho thiên hạ biết một điều, đảo này là của người Việt, cương giới này là của người Việt, còn một trăm người cũng đứng lên bảo vệ, còn mười người cũng đứng lên bảo vệ, còn một người cũng đứng lên bảo vệ, không còn ai thì thân xác chôn vùi dưới đảo cũng là nhân chứng, cũng là mốc giới, cũng vẹn nguyên một lời thề giữ đảo.

    Nhưng tiếc. Đội Nhất nhìn từng gương mặt các chàng trai, gương mặt các cô gái trẻ đang ngời ngời lên trong nắng, sung sức, ánh mắt long lanh, đẹp quá, những gương mặt người Việt đẹp như thiên thần. Vì sao họ không được yên ổn để sống, để yêu nhau, để sinh con đẻ cái, để làm chồng làm vợ? Vì sao họ lại phải chết trẻ, chết trinh nguyên trong trắng vào cái tuổi như quả trên cây mới chín. Biết là họ chết vì bảo vệ đất đai tiên tổ, nhưng tiếc, quặn lòng vì đau đớn, sôi ruột vì căm thù giặc giã, bàn tay Đội Nhất nắm lấy thanh kiếm mà ước chi có thêm ngàn sức mạnh để có thể quét sạch giặc giã, dồn đuổi chúng tới chân trời, cho cương giới mãi trường tồn yên ổn, không còn thấy cảnh chém giết man rợ, để các trai tráng và thiếu nữ chỉ biết chăm chỉ làm ăn, lo toan cuộc sống, biến đảo thành ấp thành làng, ấm êm hạnh phúc.

    Nguồn: Blog CuVinh (trích từ tác phẩm Hoàng Sa Vạn Lý)
  5. lycafetanvo

    lycafetanvo Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    05/06/2008
    Bài viết:
    970
    Đã được thích:
    164
    Hình ảnh Hoàng Sa do khách du lịch Trung Quốc chụp

    [​IMG]
  6. Jamelee

    Jamelee Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    30/04/2010
    Bài viết:
    328
    Đã được thích:
    9
  7. lycafetanvo

    lycafetanvo Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    05/06/2008
    Bài viết:
    970
    Đã được thích:
    164
    Cần Lời Giải Thích ?

    Atlas bán tại VN in Hoàng Sa thuộc chủ quyền TQ

    Quyển Atlas này được bán tại các nhà sách Fahasa ở TP HCM, trong đó in HS thuộc chủ quyền TQ. Nhưng lại không chú thích gì ở Trường Sa trong khi Việt Nam đang hầu hết quản lý các đảo ở Trường Sa.

    [​IMG]

    [​IMG]

    [​IMG]



    Theo: *******.org
  8. MrKhuKhoam

    MrKhuKhoam Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    12/04/2011
    Bài viết:
    4.334
    Đã được thích:
    1.180
    Chuyện của người lính mang số 49

    SGTT.VN - Trong danh sách 74 chiến sĩ mất tích ở trận tử chiến ngày 14.3.1988 trên đảo Gạc Ma và Cô Lin thuộc quần đảo Trường Sa để giữ chủ quyền của tổ quốc (diễn biến trận đánh đã được đăng tải trên báo Nhân Dân ngày 28.3.1988), anh Trần Thiên Phụng có số thứ tự 49.

    Trung đoàn 83 thuộc bộ Tư lệnh Hải quân gửi giấy báo tử về cho gia đình xác nhận anh Trần Thiên Phụng, cấp bậc binh nhất, trú quán tại phường 2, Đông Hà, tỉnh Quảng Trị, mất tích vào ngày 14.3.1988 tại đảo Gạc Ma, được hưởng quyền lợi gia đình liệt sĩ.


    Gia đình anh Phụng và chị Thiên.
    [​IMG]

    Nhưng diễm phúc đã đến với gia đình người lính mang số 49 ấy: anh Trần Thiên Phụng không hy sinh, chỉ bị thương nặng. Anh là một trong chín chiến sĩ của trung đoàn 83 may mắn còn sống sót trong trận tử chiến ngày 14.3.1988 trên đảo Gạc Ma và Cô Lin. Chúng tôi đã tìm đến nhà anh Trần Thiên Phụng, người cựu binh Trường Sa trở về từ “cõi chết”.

    Không chịu đầu hàng

    Thật khó diễn tả được ánh mắt của người thương binh ấy khi tôi đề cập đến trận tử chiến 14.3.1988. Cầm giấy báo tử mang tên mình trên tay, anh vẫn còn xúc động đến không nói được thành lời, hai môi cứ mấp máy. Trên ánh mắt của anh thoáng xót xa khi những ký ức đau thương một thời hiện về.

    ... Tối 12.3.1988, các chiến sĩ của trung đoàn 83 thuộc bộ Tư lệnh Hải quân lên ba chiếc tàu đi làm nhiệm vụ thực hiện chiến dịch chủ quyền 1988 ở Trường Sa. Sau hai ngày, đến sáng 14.3 thì trận tử chiến xảy ra. Anh Phụng cầm khẩu súng AK47 đứng ngay trước mũi tàu đọ súng với quân lính Trung Quốc. Không tương quan lực lượng nên nhiều đồng đội của anh liên tiếp ngã xuống. Anh đã chiến đấu dũng cảm cho đến giây phút chiếc tàu vận tải HQ-604 của Hải quân Việt Nam bị trúng hoả lực mạnh của Trung Quốc, chìm xuống biển ở phía nam đảo Gạc Ma (trận tử chiến này Việt Nam bị chìm hai tàu HQ-604 và HQ-605, tàu HQ-505 bị hư hại nặng). Anh Phụng lúc đó chỉ kịp vớ lấy một thanh ván vỡ ra từ con tàu rồi ôm chặt lấy, tay trái bơi giữa biển, còn tay phải bị trúng đạn bê bết máu.

    Do bị thương nặng, máu ra quá nhiều, hơn nữa lại dầm mình suốt ngày giữa biển nên sức lực cạn kiệt, anh chưa kịp tiếp cận trở lại đảo thì bị bắt vào cuối ngày 14.3. “Khi tôi đang bị trôi trên biển, tàu quân sự Trung Quốc phát hiện, họ chĩa súng trước đầu ra lệnh đầu hàng nhưng tôi cương quyết không chịu. Khi được vớt lên tàu, lính Trung Quốc hỏi vì sao không đầu hàng, tôi nói với họ đất nước chúng tôi không bao giờ dạy cho người lính biết đầu hàng trước mũi súng quân thù”. Sau đó, anh được đưa về đảo Hải Nam cấp cứu rồi đưa tiếp về nhà tù ở Trạm Giang, tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc. Anh Phụng cho biết : “Hôm ấy có chín người lính Việt Nam bị Trung Quốc bắt làm tù binh. Thời gian đầu cuộc sống giam cầm trong nhà tù vô cùng khó khăn, tủi nhục, nhờ hội Chữ thập đỏ quốc tế đến thăm thường xuyên nên dần dần được cải thiện hơn”...

    Cuộc trùng phùng trong nước mắt hạnh phúc

    Ở quê nhà, giọt máu của anh gửi lại cho người vợ đang lớn dần. Họ cưới nhau không được bao lâu thì anh xung phong đi bộ đội, được phiên chế vào lực lượng Hải quân ra đảo Trường Sa giữ gìn tấc đất thiêng liêng của tổ quốc.

    Những ngày tháng ấy, người vợ trẻ của anh, chị Lê Thị Thiên đau đớn tột cùng. Chị bảo rằng mình cũng nghe bà con nói có nhiều chiến sĩ Việt Nam hy sinh tại Trường Sa vào ngày 14.3.1988, song không biết làm sao liên lạc được với đơn vị của chồng. Rồi chính tai chị nghe rõ mồn một trong danh sách báo, đài đăng về 74 chiến sĩ hy sinh và mất tích tại Trường Sa, có tên người chồng yêu quý của mình. Chị đau đớn muốn được chết theo anh. Nhưng nghĩ tới mầm sống anh để lại, chị biết mình phải sống vì đứa con yêu thương và thay anh phụng dưỡng cha mẹ già. Không lâu sau, trung đoàn 83 thuộc bộ Tư lệnh Hải quân gửi giấy báo tử thông báo anh Trần Thiên Phụng đã hy sinh – mất tích. Đến lúc đó thì chị tin rằng con trai mình thực sự đã mồ côi cha. Còn bố chồng chị ngày đêm chỉ biết bắc đàn cầu an cho linh hồn người con trai xấu số được siêu thoát.


    Anh Phụng và chị Thiên trong ngày gặp lại ở Quảng Ninh năm 1991. Ảnh:
    [​IMG]

    Cũng không biết vì sao những lá thư của anh Phụng gửi về từ nhà lao Trung Quốc lại không đến được tay chị và gia đình. Không nhận được thư hồi âm của gia đình, anh Phụng lại càng đau đớn hơn vì anh hiểu hơn ai hết sự tuyệt vọng của vợ con, cha mẹ ở quê nhà. Những dòng nhật ký anh viết dành tặng vợ, con đọc lại không ai khỏi nặng lòng: “Con của ba, con có ngoan không, có khoẻ không? Ba mong rằng ba sẽ được trở về sớm với con và gia đình ta một ngày sớm nhất. Ba sẽ kể cho con nghe về trận chiến đấu anh dũng của ba và đồng đội cho con và gia đình ta nghe nhé. Lúc ấy con sẽ cảm thấy đầy tự hào về người cha thân yêu của con...” Rồi những dòng chữ yêu thương anh dành tặng vợ: “Thiên em thật yêu, thật nhớ của anh. Giờ này em đang làm gì ở nhà với con. Sao em không trả lời thư cho anh. Ở bên này anh đợi tin em và gia đình đến cháy lòng. Anh chỉ bị thương và giờ đang là tù binh ở Trung Quốc. Anh mong sớm được trở về với em và gia đình ta... Thương em ở nhà một mình vất vả sớm hôm...”.

    Hơn một năm sau kể từ khi anh bị bắt làm tù binh và ở trại giam Trạm Giang, Trung Quốc, chị Thiên mới nhận được tin chồng mình vẫn còn sống. Chị không tin được vào mắt mình khi đọc dòng tin nhắn của anh qua bức thư do hội Chữ thập đỏ quốc tế gửi đến.“Tôi chạy ào tìm đứa con trai ôm chặt vào lòng và hét vào mặt con: ba của con còn sống, ba sẽ sớm được trở về với mẹ con mình...”, chị nhớ lại.

    Trải qua bao sóng gió dâu bể, cuộc trùng phùng của vợ chồng anh chị cũng đến. Sau hơn ba năm bị bắt làm tù binh (hơn bốn năm kể từ ngày đi bộ đội), anh cùng tám đồng đội được Trung Quốc trao trả về Việt Nam vào ngày 2.9.1991, qua đường cửa khẩu Hữu Nghị Quan ở Lạng Sơn. Các anh được về an dưỡng tại Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh. Chị đã ra tận Móng Cái đón chồng. Cuộc trùng phùng trong hạnh phúc của vợ chồng anh Phụng cùng tám đồng đội khác là một kỷ niệm mà họ không bao giờ quên. Những giọt nước mắt lăn dài trên gò má của anh và chị. Những nụ hôn anh chị trao cho nhau ngày gặp lại cháy bỏng tình yêu sau bao năm đợi chờ vô vọng. Cả không gian chìm ngập trong hoa và nước mắt hạnh phúc. Ít hôm sau, các anh chia tay nhau, mỗi người mỗi hướng trở về quê hương.

    Sau cuộc trùng phùng đặc biệt ấy, vợ chồng anh Phụng lại có thêm hai người con nữa. Cả ba người con của anh chị nay đã khôn lớn. Riêng anh ốm đau liên miên, không còn sức khoẻ sau những ngày tháng bị giam tù nên chẳng làm được gì nhiều để đỡ đần giúp chị cuộc sống hàng ngày. Cả gia đình trông chờ vào nồi bún bán vào buổi sáng của chị. Đồng lương thương binh của anh mỗi tháng gần 600.000 đồng không đủ tiền mua thuốc chữa bệnh...

    bài và ảnh: Lâm Quang Huy



    http://sgtt.vn/Thoi-su/161684/Chuyen-cua-nguoi-linh-mang-so-49.html
  9. Wehrmacht1

    Wehrmacht1 Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    18/12/2007
    Bài viết:
    852
    Đã được thích:
    2
    Trong mấy người cựu Xê-quy-88 ở Quạng Trị thì anh Phụng là khá nhất vì vay được của thị xã ĐH mua được một máy xay mở cửa hàng xay xát ngô, bột mỳ thuê nên còn có đồng ra đồng vào.
  10. Jamelee

    Jamelee Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    30/04/2010
    Bài viết:
    328
    Đã được thích:
    9
    Thì mừng cho anh í [r24)]

    @Que mát: Cảnh báo thêm thịt heo nữa, cũng đang căng lắm, nhà nhà người người ăn thịt heo mà không thấy ngon như xưa nữa, rõ khổ cho toàn ngành an ninh thực phẩm

Chia sẻ trang này