1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Asean, Trung Quốc, Biển Đông và Việt Nam

Chủ đề trong 'Giáo dục quốc phòng' bởi MMichelHung, 27/06/2010.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. Cuty1978

    Cuty1978 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    30/05/2012
    Bài viết:
    690
    Đã được thích:
    1
    Dân khựa nó chả ưa nhà mình thế ....Có méng thì chúng nó tung hô ,cũng như mấy cái báo lá cải mềnh thôi .Thế mới câu được view .
  2. Nguyen-Son

    Nguyen-Son Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    16/11/2012
    Bài viết:
    156
    Đã được thích:
    0
    Đồng chí nầy hỗn láo quá à :-w. Phải cho học 1 khóa cảm tình với nước CHNDTH trên raido như thời trước 75 mới xứng

    Xuyên tạc nó vừa vừa phải phải thôi. Mà đ.c là dốt lắm ấy nhá nhái chỗ nào chỉ coi ? không chỉ được thì tự động im mồm nín họng nghe chửa :-w
  3. Tran-Trung

    Tran-Trung Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    17/11/2010
    Bài viết:
    1.437
    Đã được thích:
    563
    Mày thấy cái chữ ký của tao chứ. =))
  4. dragonboy1080

    dragonboy1080 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    03/01/2006
    Bài viết:
    5.265
    Đã được thích:
    880
    Tên này chính là Gió Lồ..m bác ạ (nick cũ là Đông Phong, Đại Háng, Con Cháu Háng Tộc)

    Còn Phóng viên nhăn răng, Bờ nốc nhăn răng thuộc thế hệ t.r.o.l.l xuất hiện muộn hơn. Tên này vào đây làm chính trị không được ai hưởng ứng nên chắc cũng chuồn rồi!

    Dạo này không thấy lão Vê mát vào ca ngợi Tàu Khựa nữa nhỉ? Chắc chi nhánh công ty hắn mở ở TQ cũng đóng cửa rồi ==> hắn không đọc báo Khựa hàng ngày nữa ==> hết chuyện để chém!
  5. cuchuoi_kt115

    cuchuoi_kt115 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    28/04/2012
    Bài viết:
    4.232
    Đã được thích:
    2.113
    Vai trò của ASEAN trong việc giải quyết các tranh chấp tại Biển Đông
    Thứ sáu, 16 Tháng 11 2012 14:18
    Tranh chấp Biển Đông giữa Trung Quốc và một số quốc gia Đông Nam Á vẫn đang diễn ra ngày càng căng thẳng. Hi vọng về vai trò dàn xếp của Hiệp hội Các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) trong vấn đề này cho đến nay vẫn khá mờ nhạt do sự chia rẽ của các nước thành viên trước những biện pháp và các miềng mồi mà Trung Quốc đưa ra.
    http://nghiencuubiendong.vn/tin-ncb...-viec-giai-quyet-cac-tranh-chap-tai-bien-dong
    Ngu kiến của mình:Vấn đề hiện nay là chúng ta phải đoàn kết được các nước ASEAN. Phải đưa ra một tiếng nói chung. vì vậy ở thời điểm hiện tại chúng ta cũng phải đàm phán riêng với các nước với tuyên bố chủ quyền để đưa ra một phương án giải quyết hợp tình, hợp lý, thống nhất, cái nào là của mình, cái nào là của người ta. thì mọi chuyện có thể tiến triển hơn. mới đánh bại lòng tham vô đáy , và tư tưởng bành trướng của TQ. phải phá tan , phải cắt cái lưỡi vô lý của nó, bắt nó tự phải xóa bỏ đường lưỡi bò(Cái này thì phải sự dựa vào ASEAN, luật Biển 82, cộng đồng cuốc tế...).Sau đó mới tính chuyện đến tranh chấp đảo. Phải gỡ từng bước,từng nút, .... chứ ôm một cục búi nhùi mà gỡ thì không bao giờ xong. Mà không xong thì thằng TQ nó càng làm tới. Nó bẻ từng chiếc thì mình phải chơi từng nắm.
  6. Cuty1978

    Cuty1978 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    30/05/2012
    Bài viết:
    690
    Đã được thích:
    1
    HỆ GIỮA MỸ VỚI MIANMA

    TTXVN (Niu Yoóc 14/11)

    Với lời dân cho rằng chưa mấy quốc gia làm cho Mỹ thay đổi quan hệ với mình nhanh như Mianma, trang mạng “Al-Asiya” vừa đăng bài phân tích về mối quan hệ thay đổi rất nhanh giữa Mỹ với Mianma, nội dung như sau:

    Khi bà Aung San Suu Kyi, thủ lĩnh phe đối lập ở Mianma, người đã từng được nhận giải Nobel hòa bình, kết thúc chuyến thăm Mỹ và Tổng thống Mianma Thein Sein đọc một bài diễn văn tại cuộc họp Đại hội đồng Liên hợp quốc ở Niu Yoóc cùng trong tháng Chín vừa qua, thì Mỹ đã tiến thêm một bước lớn trong việc bình thường hóa quan hệ với Mianma. Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton thông báo sắp hủy bỏ việc cấm nhập khẩu các sản phẩm của Mianma sau khi xác nhận những tiến bộ đã đạt được của Mianma và khẳng định Mỹ ủng hộ tiến trình cải cách và mở cửa do Tổng thống Thein Sein khởi xướng và đang theo đuổi. Việc hủy bỏ dần những sự trừng phạt, bị áp đặt từ 15 năm nay đối với Hội đồng quân sự Mianma cầm quyền trước đây, là một dấu hiệu thực sự đầy hy vọng đối với quá trình tái thiết nền kinh tế của đất nước này. Đối với cường quốc số một thế giới thì việc mở cửa buôn bán với Mianma dường như chang có mấy ý nghĩa, nhất là về kinh tế, nhưng đối với Mianma, nước đang cố thoát khỏi nhiều năm bị cô lập, thì rõ ràng đây là một bước ngoặt trọng đại, mang rất nhiều ý nghĩa và hiệu ứng.

    Sau lệnh cấm vận đầu tiên do Tổng thống Bill Clinton ký và có hiệu lực vào tháng 5/1997 – cấm đầu tư vốn vào Mianma – cho đến việc đất nước ở Đông Nam Á này giải tán Hội đồng quân sự vào năm 2011, mối quan hệ giữa Mỹ và Mianma có thể tóm tắt bằng một câu: tẩy chay hoàn toàn về ngoại giao và cô lập toàn diện Mianma trên diễn đàn quốc tế. Để đáp lại những sự vi phạm lặp đi lặp lại về nhân quyền và các cuộc trấn áp đẫm máu của Hội đồng quân sự Mianma, Mỹ đã liên tục tăng cường các biện pháp trừng phạt kinh tế đối với đất nước này. Dưới thời Chính quyền Bush, đạo luật Dân chủ và Tự do cho Mianma, được thông qua hồi 2003 và một đạo luật khác ban hành năm 2008, đã cấm xuất khẩu dịch vụ tài chính cũng như việc nhập khẩu các sản phẩm của Mianma vào lãnh thổ Mỹ, phong tỏa các tài sản và không cấp thị thực cho nhiều nhà lãnh đạo quân sự cấpcao. Mianma bị Ngoại trưởng Mỹ lúc bấy giờ là bà Condoleezza Pvicexếp vào số những nước “tiền tiêu của nền bạo chúa”, cùng với Dimbabuê, Cuba và Bêlarút. Những sự trừng phạt này được duy trì và kéo dài đến khi Barack Obama lên cầm quyền ở Mỹ năm 2009. Nhưng từ khi chính phủ dân sự lên cầm quyền ở Mianma vào tháng 3/2011, các cuộc cải cách do Tổng thống Thein Sein thực hiện, đã gây tiếng vang và là sự bất ngờ đối với Mỹ và phương Tây. Tiếp đó, các nước này càng được khích lệ hơn khi Mianma bầu nhà đối lập San Suu Kyi vào Quốc hội, thả hàng trăm tù nhân chính trị và chấm dứt sự kiểm duyệt đối với báo chí, tiến hành đối thoại với phe đối lập và với các nhóm sắc tộc vũ trang khác nhauv.v… khiến họ, trước hết là ỹ đã đồng loạt xem xét lại mối quan hệ với Nâypiđô.

    Chuyến thăm của Ngoại trưỏng Mỹ Hillary Clinton tới Mianma vào tháng 12/2011 đánh dấu việc nước này được trở lại diễn đàn quốc tế. Đây là thời điểm mang tính lịch sử vì chưa từng có một ngoại trưởng Mỹ nào tới thăm Mianma trong suốt 50 năm qua. Thay cho sự công nhận những tiến bộ đã đạt được của Mianma, Mỹ đã thông báo hủy bỏ dần những hạn chế trong khi vẫn duy trì khuôn khổ pháp lý của các biện pháp trừng phạt, chứng tỏ Mỹ vẫn tỏ thái độ thận trọng vì họ vẫn sợ rằng nhũng bước tiến ấy (của Mianma) không phải là không thể đảo ngược. Tháng 4/2012, lệnh trừng phạt cấm xuất khẩu một số dịch vụ tài chính trong đó có dịch vụ nhân đạo, dân chủ, giáo dục, xã hội và y tế, đã được hủy bỏ. Ngày 17/5/2012, Mỹ bổ nhiệm ông Derek Mitchell làm Đại sứ Mỹ đầu tiên tại Mianma sau 22 năm. Ngày 12/7/2012, Tổng thống Mỹ Barack Obama thông báo giảm bớt các biện pháp trừng phạt kinh tế chống Mianma, cho phép Mỹ đầu tư vốn vào đây, nhưng tất nhiên vẫn phải nằm dưới sự giám sát chặt chẽ của các cơ quan chức năng của Mỹ. Dù các doanh nghiệp Mỹ vẫn chưa thật thoải mái khi làm ăn tại Mianma, song họ đã có thể đầu tư vào các lĩnh vực khác nhau, nhất là dầu khí. Rất nhanh chóng, các doanh nghiệp lớn của ngành công nghiệp Mỹ đã thấy ở Mianma một cõi thần tiên mới và ngày 31/7 họ đã tháp tùng Ngoại trưởng Mỹ H. Clinton tới Campuchia, bên lề cuộc họp cấp cao ASEAN, để gặp gỡ Tổng thống Mianma. Trong suốt mùa Hè năm 2012, General Electric, PepsiCo và Coca-Cola là những doanh nghiệp đầu tiên của Mỹ ồ ạt tiến vào Mianma. Ngày 20/9/2012, trong khi Bà đầm Rănggim (San Suu Kyi) bắt đầu chuyến thăm Mỹ và tuyên bố tin tưởng vào chính phủ mới ở Mianma, thì Mỹ đã rút những cái tên, như Thein Sein và Chủ tịch Hạ viện Mianma Shwe Mann khỏi “danh sách đen”. Cuối cùng, ngày 26/9/2012, sau khi gặp Tổng thống Mianma Thein Sein bên lề khóa họp 67 Đại hội đồng LHQ, bà Hillary Clinton đã thông báo hủy bỏ những lệnh trừng phạt cấm nhập khẩu. Với sự trở lại của các mặt hàng “Made in Burma’’ trên thị trường Mỹ, một luồng gió mới đang thổi vào nền kinh tế Mianma, và một cơn gió lạc quan đối với xã hội dân sự, nước đã phải chịu nhiều thiệt thòi, trong đó nạn thất nghiệp rất cao, do sự tẩy chay của Mỹ nhất là trong lĩnh vực dệt may mà Mianma đã từng là một nhà xuất khẩu quan trọng sang Mỹ. Bằng cách mở cửa thị trường Mỹ, Chính quyền Obama vừa mới mang lại cho Mianma cơ hội tự do tăng trưởng, trong khi nơi đây hiện là một trong những nước nghèo nhất khu vực.

    Vào đầu mùa Thu năm 2012, trong khi Bà Đầm Rănggun và Tổng thống Thein Sein cùng được chào đón trên đất nước của cường quốc số một thế giới, thì Mianma đã dần dần lấy lại được vị trí của mình trong cộng đồng quốc tế. Từ Bill Clinton đến Barack Obama, 15 năm trừng phạt của Mỹ đã đánh vào nền độc tài quân sự và buộc chính phủ dân sự mới phải tiến hành các cuộc cải cách. Đã quá nhiều năm chịu ảnh hưởng lớn từ Trung Quốc, nay Mianma mới mở được cửa sang thị trường Mỹ, vừa để đẩy mạnh nền kinh tế của mình vừa mở rộng mối quan hệ ngoại giao với Mỹ. Đối với Mỹ, đây cũng là phương tiện để áp đặt ảnh hưởng của mình trong một khu vực mang tính chiến lược giữa hai cường quốc là Ấn Độ và Trung Quốc, trong khi khu vực châu Á-Thái Bình Dương đang trở thành một thách thức chủ yếu đối với chính sách đối ngoại của Mỹ. Năm 2013, khi Mianma đăng cai thế vận hội Đông Nam Á, sẽ là cơ hội để người ta biết thêm về đất nước mới mở cửa này. Năm 2014, Mianma sẽ là Chủ tịch luân phiên của ASEAN và đến năm 2015 Mianma sẽ gia nhập Khu vực thương mại tự do ASEAN. Là nước có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, trước đây Mianma chỉ đại diện cho lợi ích khu vực mặc dù vẫn phải chịu sự trừng phạt về quan hệ kinh tế với các nước láng giềng, giờ đây Mianma có thể trở thành một trong những chủ thể chủ chốt của ASEAN, được các cường quốc phương Tây thèm muốn nếu như nước này vẫn tiếp tục thực hiện chính sách mở cửa và tìm ra một giải pháp cho các cuộc xung sột sắc tộc của đất nước mình.

    Một năm rưỡi sau các cuộc bầu cử không đáng tin cậy mà đại diện của Hội đồng quân sự giành thắng lợi, ngày 1/4/2012, nước Cộng hòa liên bang Mianma đã tổ chức cuộc bầu cử Quốc hội từng phần, được người dân Mianma coi là dân chủ và trung thực với việc Liên đoàn quốc gia vì dân chủ (NLD, đối lập của bà Aung San Kyi) đã giành được đa số tuyệt đối (43 trong số 44 ghế). Và đây được coi là bước tiến rất quan trọng nữa trong quá trình mở cửa của đất nước này.

    Rõ ràng là từ khi thành lập chính phủ dân sự vào tháng 3/2011 và chỉ định người đứng đầu Nhà nước không mặc quân phục mà mặc bộ trang phục dân tộc, đất nước Mianma đã có bước tiến đáng kế, một sự tiến triển đầy bất ngờ mà không ai có thể đoán trước được tại một đất nước khép kín và nằm dưới ách của chế độ quân sự độc tài trước đó. Một khuôn khổ thể chế và chính trị mới có lợi cho sự chuyển tiếp mang tính dân chủ, phi bạo lực đã thắng thế (dù là tạm thời) trước những người bảo vệ truyền thống quyền lực từ một nửa thế kỷ nay là các nhà quân sự, một lực lượng đầy ảnh hưởng, hùng mạnh và có thế lực.

    Nếu vào quí đầu của năm 2011, người dân Mianma và các nhà quan sát nước ngoài còn phải hỏi liệu có nên tin tưởng vào bước tiến mới mẻ của nhà cầm quyền Mianma không, thì giờ đây, dù chưa thật sự thỏa mãn vì những cải cách ở Mianma chưa đụng chạm tới tất cả các lĩnh vực cần thiết, nhưng người ta đã cảm nhận được sự năng động và quyết tâm trong việc thực hiện thay đổi, thể hiện ý chí và niềm tin bằng một trào lưu cải cách muốn đoạn tuyệt với quá khứ tồi tệ. Đây cũng là cơ hội thể hiện quyết tâm của cựu thủ tướng (dưới thời Hội đồng quân sự) và là cựu tướng, còn bây giờ là Tổng thống Thein Sein. Những cam kết ông đưa ra rất thuyết phục, dường như không ai có thể nghi ngờ về tính chân thành.

    Tuy nhiên, sự tiến triển được nhiều người dân Mianma ủng hộ và đa số các nước mong muốn này dù diễn ra một cách êm ả, thuận lợi, song vẫn gặp phải những trở ngại nhất định. Phe những người bảo thủ và các nhà quân sự vẫn tranh cãi về cơ hội và lợi ích của một sự chuyển hướng như vậy, nhằm chống lại phe cải cách và những người tán thành một Mianma mới. Vẫn còn những vấn đề mà thiện chí vẫn phải rất khó khăn để thuyết phục được tất cả mọi người, thuyết phục được 55 triệu người dân Mianma và cộng đồng quốc tế. Chính phủ đang dự định tiến hành thương lượng với hai nhóm quân phiến loạn sắc tộc cuối cùng là Kachin của KIA và Karen của KNU, tiến hành cải cách triệt để môi trường kinh tế và tài chính, hiện đang còn rất bấp bênh, không phù hợp, tạo cơ hội cho nạn tham nhũng và làm cho các nhà đầu tư nước ngoài lo ngại.

    Nhưng, những khó khăn ấy không phải là cơ bản, rõ ràng cơ hội đang đến với Mianma, khi chính sách đầy tham vọng của Tổng thống Thein Sein đang nhận được sự ủng hộ rộng rãi của cộng đồng quốc tế cũng như sự đồng tình của đại bộ phận dân chúng trong nước, và của cả các định chế tài chính khu vực và quốc tế, như Ngân hàng phát triển châu Á (ADB), Ngân hàng thế giới (WB) và Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF). Và nữa, những chuyến thăm lịch sử của nhiều chính khách nước ngoài, như chuyến thăm đầu tiên của Ngoại trưởng Anh từ nửa thế kỷ nay, rồi Ngoại trưởng Pháp v.v… cũng là những minh chứng cho sự công nhận tiến bộ hướng tới dân chủ ở Mianma./.
  7. Cuty1978

    Cuty1978 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    30/05/2012
    Bài viết:
    690
    Đã được thích:
    1
    NHỮNG THÁCH THỨC ĐỐI VỚI ĐẢNG CỘNG SẢN TRUNG QUỐC

    TTXVN (Oasinhtơn 9/11)

    Ngày 8/11, Hội đồng Quan hệ Đối ngoại Mỹ đăng bài phân tích “Đảng Cộng sản Trung Quốc” của tác giả Beina Xu, trong đó đáng chú ý có đề cập đến các thách thức về quản trị đất nước và phân tích dự báo chính sách đối nội, đối ngoại của Trung Quốc sau Đại hội XIII, Đảng Cộng sản Trung Quốc. Nội dung cụ thể như sau:

    Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) với hơn 82 triệu đảng viên đang trải qua thời kỳ chuyển giao quyền lực then chốt một lần trong mỗi thập kỷ. Người ta sẽ chứng kiến thế hệ lãnh đạo thứ năm của nước này đưa ra chương trình nghị sự trong tương lai cho nền kinh tế lớn thứ hai trên thế giới. Trong khi Trung Quốc duy trì độc quyền chính trị kể từ khi thành lập, các tác động của việc tăng trưởng kinh tế nóng của nước này đã làm gia tăng bất ổn chính trị – xã hội, cản trở sự nổi lên của Trung Quốc như một cường quốc thế giới. Một loạt các vụ bê bối chính trị cũng đã cho thấy những cuộc tranh giành quyền lực mạnh mẽ trong nội bộ tổ chức đảng. Trong khi sự thay đổi lãnh đạo hầu như không ảnh hưởng ngay lập tức đến chính sách và đường lối của ĐCSTQ, những chỉ dấu về việc bổ nhiệm các vị trí lãnh đạo mới có thể làm sáng tỏ phương cách mà Trung Quốc sử dụng để duy trì vị thế của mình trên trường quốc tế.

    Đảng Cộng sản Trung Quốc triệu tập Đại hội Đảng 5 năm một lần để xác định các chính sách lớn và bầu chọn Ban Chấp hành Trung ương bao gồm khoảng 370 ủy viên trong đó có các bộ trưởng, các quan chức quản lý cấp cao, lãnh đạo tỉnh và người đứng đầu quân đội. Ban Chấp hành Trung ương sẽ bầu chọn Bộ Chính trị, trong đó có 25 thành viên.

    Bộ Chính trị lựa chọn ủy ban thường vụ gồm 9 người có chức năng là tâm điểm của quyền lực và sự lãnh đạo của ĐCSTQ. Hồ cẩm Đào, cựu lãnh đạo của Đoàn Thanh niên Cộng sản có vị trí cao nhất là Tổng bí thư, ************* và người đứng đầu quân đội. Thủ tướng Ôn Gia Bảo là người đứng đầu chính phủ.

    Diễn tiến được theo dõi sát sao nhất tại Đại hội 18 ĐCSTQ vào tháng 11 là việc số lượng ủy viên Thường vụ Bộ Chính trị có thể giảm từ 9 xuống còn 7 thành viên. Phó ************* Tập Cận Bình được dự kiến sẽ thay vị trí của Hồ Cẩm Đào, trong khi đó, Phó Thủ tướng thường trực Lý Khắc Cường sẽ thay thế Ôn Gia Bảo. Việc khoảng 70% thành viên của ba cơ quan lãnh đạo quan trọng nhất là ủy ban Thường vụ Bộ Chính trị, Chính phủ và Quân ủy Trung ương sẽ được thay thế làm cho sự kiện chuyển giao lãnh đạo tại Đại hội này trở nên quan trọng và có ý nghĩa nhất trong vòng ba thập niên qua.

    Những thách thức về quản trị đất nước

    Trong những thập kỷ gần đây, các sự kiện mang tính toàn cầu và xung đột nội bộ đã một số lần đưa ĐCSTQ đến bên bờ sụp đổ. Cuộc bạo loạn Thiên An Môn năm 1989 và sự sụp đổ của Liên Xô vào đầu thập niên 1990 đã gây ra một loạt các cuộc khủng hoảng hiện hữu đối với ĐCSTQ. ĐCSTQ đã thực hiện các đánh giá có hệ thống về nguyên nhân sụp đổ của Liên Xô và tiến hành cải cách trong nội bộ hệ thống đảng, theo đó các nguyên nhân được xác định là một đảng – nhà nước cứng nhắc với một hệ tư tưởng giáo điều, giới tinh hoa bảo thủ, các tổ chức đảng không hoạt động và một nền kinh tế trì trệ.

    Kể từ đó đến nay, ĐCSTQ đã thể hiện một khả năng kỹ trị nhằm thích ứng đối với các áp lực phát triển của xã hội do sự tăng trưởng kinh tế chóng mặt của Trung Quốc mang lại. Đảng của ngày hôm nay “đang gia nhập vào luồng cao tốc của quá trình toàn cầu hóa. Richard McGregor viết trong cuốn sách “The Party” vào năm 2010 rằng điều này đến lượt nó đem lại hiệu quả kinh tế lớn hơn, tỷ lệ lợi nhuận cao hơn và an ninh chính trị lớn hơn”.

    Tuy nhiên, các nhà lãnh đạo cao nhất trong cơ cấu quyền lực của Trung Quốc ngày hôm nay thiếu tầm nhìn dài hạn cho đảng, điều mà các nhân vật cải cách như Hồ Diệu Bang của thập niên 1980 đã có được hay như Hồ Cẩm Đào thúc đẩy sự minh bạch lớn hơn trong đảng hay việc cải cách thị trường tự do của Đặng Tiểu Bình, điều đã hiện đại hóa nền kinh tế của Trung Quốc.

    Quản trị thực tế của Trung Quốc có thể cực kỳ phân cấp. Trong khi các ủy viên Bộ Chính trị giữ trách nhiệm đưa ra các chính sách và bổ nhiệm nhân sự các bộ, họ không quản lý danh mục đầu tư hàng ngày mà Chính phủ thực hiện. Các tỉnh của Trung Quốc được quyền tự chủ rất lớn, và các quan chức lãnh đạo cấp dưới tỉnh được chính quyền trung ương bố nhiệm gần như có toàn quyền kiểm soát. Chính sách có thể bắt nguồn “ngẫu nhiên” từ các cơ quan và các bộ hoặc từ các viện nghiên cứu chính sách và các cố vấn. Ông Pei cho biết “Không có một cách được cài đặt sẵn đưa ra chính sách ở Trung Quốc”.

    Có thể phải mất từ 2 đến 3 năm các luật và quy định mới được thực hiện. Đôi khi các chính sách như vậy phải trải qua quá trình thử nghiệm, trong đó một số tỉnh phải thực hiện việc này. cấu trúc cũng thiếu một hệ thống kiểm tra và đối trọng mà ở đó các quan chức địa phương phải có trách nhiệm giải trình về việc thực hiện chính sách.

    Việc thiếu trách nhiệm giải trình đã làm tích tụ các bất bình, khiếu nại về bất bình đẳng thu nhập, thiếu bảo vệ người tiêu dùng, chiếm đoạt đất đai và các vấn đề nhân quyền. Nhiều người trong số này đã công khai đưa các vấn đề này trên Internet, làm xói mòn mạnh mẽ sự kiểm soát của ĐCSTQ về truyền thông chính trị. Vụ việc Trần Quang Thành và việc người tiêu dùng Trung Quốc bày tỏ sự phẫn nộ xung quanh vụ hàng ngàn trẻ em bị nhiễm độc do sữa có chất melamine, về lâu dài chính quyền trung ương đã buộc phải có hành động đối với những lo ngại về tính an toàn của các sản phẩm Trung Quốc.

    Chính sách đối nội và đối ngoại

    Có lẽ cấp bách nhất đối vói ĐCSTQ là xử lý vấn đề bất bình đẳng thu nhập rất lớn do sự bùng nổ kinh tế của Trung Quốc tạo ra. Vào giữa năm 2012, ĐCSTQ đã công bố một khuôn khổ phân phối thu nhập mới được thiết lập để khắc phục khoảng cách ngày càng tăng. Sự nổi lên của Trung Quốc như một siêu cường kinh tế đã gia tăng thách thức về quản trị khi tầng lóp trung lưu của Trung Quốc ngày càng mở rộng. Đặc biệt, Trung tâm nghiên cứu Pew cho biết “các tác dụng phụ của sự tăng trưởng kinh tế nhanh chóng, bao gồm cả khoảng cách giữa người giàu và người nghèo, giá cả tăng cao, ô nhiễm, sự suy giảm của nền văn hóa truyền thống là mối quan tâm lớn, và cũng có những lo ngại ngày càng gia tăng về tham nhũng chính trị”.

    Chăm sóc y tế cũng là một chủ trương lớn của ĐCSTQ khi lực lượng dân số đang già đi ngày càng lớn, đã thúc đẩy chính phủ phải nỗ lực mở rộng chi trả bảo hiểm. Chi tiêu về chăm sóc sức khỏe sẽ tăng gần gấp ba lần, đạt 1 nghìn tỷ USD mỗi năm vào năm 2020 từ mức 116 tỉ USD năm 2011. Bảo hiểm y tế hiện nay chi trả cho hơn 95% dân số Trung Quốc. ĐCSTQ cũng đã điều chỉnh chính sách năng lượng, trong đó đề ra các chủ trương của Trung Quốc trong 5 năm tới bao gồm việc phát triển năng lượng sạch để giảm khí cácbon.

    Trong khi đó, quyền lực đang lên của Trung Quốc trên trường quốc tế đã làm cho họ nhiều lần không nhượng bộ trên mặt trận chính sách đối ngoại và tạo ra nhận thức mang tính phổ biến về một quốc gia với sức mạnh bành trướng, hung hăng. Nước này đã đặt cược vào tuyên bố kiên quyết về chủ quyền lãnh thổ đối với các đảo ở Biển Hoa Đông và Hoa Nam (Biển Đông) – một động thái đẩy Trung Quốc vào vị trí chống lại các nước láng giềng ASEAN và đã gây ra sự rạn nứt và bế tắc ngoại giao tại khu vực láng giềng này. Trung Quốc đã thể hiện tiếp tục hỗ trợ cho các chế độ thù địch với Mỹ trong đó có Xyri và Iran. Bắc Kinh cũng đã phản đối kế hoạch hợp tác hải quân Mỹ – Hàn Quốc ở Biển Hoàng Hải, đồng thời phản ứng kịch liệt đối với việc Mỹ bán vũ khí cho Đài Loan, đình chỉ đối thoại an ninh cấp cao nhất và công bố các biện pháp trừng phạt chưa từng có tiền lệ đối với các công ty Mỹ có quan hệ với Đài Loan.

    Một số chuyên gia cho rằng trong khi quyền lực tương đối của Trung Quốc đã phát triển đáng kể so với tăng trưởng kinh tế của nước này, các nhiệm, vụ chính trong chính sách đối ngoại của Trung Quốc vẫn còn tính chất phòng thủ, chống lại các can thiệp từ nước ngoài, tránh thiệt hại lãnh thổ, đồng thời duy trì tăng trưởng kinh tế. Andrew J. Nathan và Andrew Scobell viết trên tờ “Foreign Affairs” rằng điều đã thay đổi là “Trung Quốc hiện đang hộinhập sâu vào hệ thống kinh tế thế giới mà các ưu tiên đối nội và khu vực đã trở thành một phần của nhiệm vụ lớn hơn: xác định một vai trò toàn cầu phục vụ các lợi ích của Trung Quốc, mà không phải chỉ là giành được sự thừa nhận từ các cường quốc khác”.

    Các chuyên gia cho rằng nhìn chung, mục tiêu hợp lý cho lãnh đạo mới ở Trung Quốc là tránh một mối quan hệ đối nghịch với Mỹ, mặc dù sự thay đổi lãnh đạo tới đây không đủ đưa ra những thay đổi đáng kể hoặc ngay lập tức trong lĩnh vực này. Một số người khác cho rằng quan hệ Mỹ – Trung sẽ bị ảnh hưởng cho đến khi Trung Quốc điều chỉnh chính sách đối ngoại và cấu trúc chính trị cấp tiến hơn, bắt đầu với việc bình thường hóa các mối quan hệ trone khu vực của nước này.

    ***

    TTXVN (Bắc Kinh 13/11)

    Tại thời điểm diễn ra kỳ họp Lưỡng hội (Quốc hội và Chính hiệp) năm 2010, Cửu tam học xã – một trong 8 đảng phái dân chủ tham chính ở Trung Quốc có thành phần nòng cốt là các phần tử trí thức thuộc giới khoa học công nghệ – đã công bố kết quả một cuộc điều tra nghiên cứu cho thấy chênh lệch về thu nhập ở Trung Quốc lúc đó là hơn kém nhau 24 lần. Tuy nhiên, cho đến nay, sau 8 năm chuẩn bị nhưng phương án cải cách phân phối thu nhập ở nước này vẫn chưa được triển khai.

    Ngày 17/10 vừa qua, Thủ tướng Ôn Gia Bảo xác nhận phương án tổng thể về cải cách phân phối thu nhập sẽ được công bố trong quý IV này. Tin cho biết phương án sẽ bao gồm thời gian biểu và lộ trình cải cách, trong đó điều chỉnh lại kết cấu thu nhập ban đầu sẽ là trọng tâm trong cải cách phân phối thu nhập thời gian tới.

    Mới đây, Mạng Nhân dân thuộc Nhân dân nhật báo ở Trung Quốc đã triển khai đợt điều tra nghiên cứu chuyên đề về phân phối thu nhập, điều tra và phân tích từ nhiều góc độ khác nhau. Mạng Tân Hoa ngày 2/11/2012 đã đăng bài tổng hợp của Tô Hải Nam, Phó Chủ tịch Hiệp hội lao động kiêm Chủ tịch Hội đồng chuyên nghiệp lương lao động Trung Quốc, phân tích những ý kiến bất đông đã gây trì trệ trong cải cách phân phối thu nhập, từ đó đề xuất xã hội cần sớm đạt được tiếng nói chung, đẩy nhanh cải cách phân phối thu nhập trong bối cảnh cấp bách.

    Bước vào thế kỷ 21, trong quá trình “chiếc bánh” kinh tế của Trung Quốc nhanh chóng lớn thêm, làm thế nào để phân phối “chiếc bánh” đó cho hợp lý ngày càng trở thành vấn đề dân sinh to lớn được các giới trong xã hội bàn luận như một đề tài nóng. Trung ương Cửu tam học xã đã đề xuất một loạt yêu cầu về đi sâu cải cách, điều chỉnh hợp lý quan hệ phân phối thu nhập, và đã đưa ra phương án triển khai chiến lược của mình. Giới học giả và các giới khác trong xã hội, bao gồm đông đảo quần chúng nhân dân cũng đã thảo luận một cách nhiệt tình và sâu sắc, trình bày các quan điểm, trong đó không ít quan điểm, còn đi đến đối lập và va chạm nhau.

    Một số năm gần đây số lượng sách chuyên đề, báo cáo điều tra, các bài báo, bình luận rất nhiều, đề cập đến nhiều phương diện, tính hệ thống tăng lên, có thể khái quát phân thành ba loại: Một là, đã đạt hoặc cơ bản đã đạt tiếng nói chung; hai là, qua thảo luận hy vọng đạt tiếng nói chung; ba là, khó đạt tiếng nói chung.

    I. Quan tâm cả gốc đến ngọn, cải cách đồng bộ đi đến nhất trí



    Xét theo tình hình thứ nhất, hiện nay nội dung đã đạt được chủ yếu có một số phương diện sau:

    Thứ nhất, nhận định về mức độ vấn đề phân phối thu nhập, vấn đề phân phối thu nhập và phân phối của cải ở Trung Quốc tồn tại các sai sót nghiêm trọng, đã đến lúc phải được giải quyết, đặc biệt là đã muộn mất vài năm so với yêu cầu “cùng giàu có” mà đồng chí Đặng Tiểu Bình đã nêu ra từ 20 năm trước đây là “khi đã đạt được mức sống khá giả vào cuối thế kỷ này (thế kỷ 20), vấn đề này sẽ dứt khoát phải được nêu ra như một vấn đề nổi cộm và cần được giải quyết”.

    Thứ hai, nhận thức về các vấn đề nổi bật trong phân phối thu nhập, vấn đề nổi bật trong phân phối thu nhập ở Trung Quốc biểu hiện ở chỗ quan hệ phân phối thu nhập và phân phối của cải không hợp lý, khoảng cách thu nhập và chênh lệch về tài sản có xu hướng không ngừng mở rộng, điều này đã đi ngược lại với tính chất “cùng giàu có” của Chủ nghĩa xã hội ở Trung Quốc, về vấn đề này, dù là quan điểm nào cũng đều không có gì khác biệt.

    Thứ ba, phân tích nguyên nhân của vấn đề thu nhập, vấn đề phân phối thu nhập ở Trung Quốc là do nguyên nhân ở nhiều phương diện tạo nên như chế độ phân phối chưa được kiện toàn, tệ nạn trong thể chế kinh tế xã hội và những bất hợp lý trong phương thức phát triển kinh tế và trong cơ cấu kinh tế.

    Thứ tư, tư duy trong giải quyết vấn đề. Phải có cách suy nghĩ mang tính chất hệ thống từ những vấn đề dưới tầng sâu, nhằm vào những nguyên nhân thuộc nhiều phương diện dẫn đến vấn đề phân phối thu nhập và phân phối của cải, dựa vào tư duy cải cách đồng bộ, trị cả gốc lẫn ngọn mới có thể từng bước giải quyết vấn đề tồn tại.

    II. Đâu là vấn đề chưa đạt tiếng nói chung – bất đồng chủ yếu



    Xét theo tình hình thứ hai và thứ ba, về đại thể có thể phân tích từ ba phương diện sau:

    Bất đồng trong nhận thức về vấn đề cơ bản cần được loại bỏ
    - Một là xuất phát điểm trong nhận thức cơ bản về phân phối thu nhập và cải cách phân phối thu nhập là giống nhau. Trên cơ sở phân tích lý luận về kinh tế thị trường tự do, đã có một bộ phận trong giới học giả bàn luận, chứng minh vấn đề phân phối thu nhập và đối sách trong vấn đề này ở Trung Quốc. Những người khác chủ yếu vận dụng lý luận phân tích xuất phát từ tình hình thực tế của Trung Quốc, kết luận rút ra được từ hai phương diện cách nhau rất xa. Bộ phận thứ nhất nhấn mạnh vai trò của cơ chế thị trường, phản đối hoặc không tán thành việc chính phủ can thiệp; Những người ở diện thứ hai cho rằng cơ chế thị trường không hiệu quả và coi trọng vai trò điều tiết của chính phủ.

    Nghiên cứu sâu hơn sẽ thấy hệ thống kinh tế thị trường do chính phủ chủ đạo xây dựng chứ không phải sinh ra một cách tự nhiên, không để cho chính phủ phát huy vai trò là không thể giải quyết được vấn đề, nhưng nếu tránh để cho chính phủ quản lý những việc không nên quản, quản không được và quản không tốt thì quả thực sẽ là một đề tài lớn cần phải đi sâu nghiên cứu. Vì thế, hai phương diện nhận thức nói trên có điểm dung hòa và tiếp nhận lẫn nhau, cần dung hòa một cách thích hợp, kết hợp giữa cánh tay vô hình và cánh tay hữu hình.

    - Hai là phán đoán những bất đồng về trọng tâm của vấn đề phân phối. Một số người cho rằng vấn đề phân phối ở Trung Quốc chủ yếu là phân phối của cải không hợp lý, phân phối thu nhập, đặc biệt là phân phối trả công lao động không được rõ ràng. Còn lại đa số cho rằng phân phối thu nhập và phân phối của cải đều có vấn đề, hơn nữa phân phối thu nhập, nhất là phân phối trả công lao động và mở rộng lợi ích của người lao động là có liên quan trực tiếp và người dân hết sức quan tâm nên không thể coi thường.

    Trên thực tế, hai kiểu nhận thức nói trên không hề mâu thuẫn, cách mà chúng ta gọi phân phối thu nhập hiện nay là nói đến phương thức phân phối lớn, hàm nghĩa bao gồm phân phối thu nhập và phân phối của cải, có phân phối thu nhập mang tính bề nổi và mang tính tiềm ẩn, có dạng lưu chuyển (lưu lượng) và dạng dự trữ (tồn lượng), phải coi chúng như một hệ thống lớn để phân tích và nghiên cứu đối sách chứ không phải cắt chúng ra thành nhiều mảnh, chỉ làm nổi bật phương diện nào đó nhưng lại coi thường phương diện khác.

    - Ba là nhận thức khác nhau về phân tích nguyên nhân trọng điểm tạo nên vấn đề phân phối thu nhập. Có một số người cho rằng do chính phủ can thiệp quá nhiều vào hoạt động kinh tế vi mô đã tạo nên vấn đề phân phối, và chúng cũng được tạo nên do các hình thức lũng đoạn, bao gồm lũng đoạn trong các lĩnh vực hành chính, quyền lực, tài nguyên và thị trường. Một kiểu quan điểm khác cho rằng nguyên nhân liên quan đến nhiều phương diện, nhiều tầng nấc, nếu chỉ nhấn mạnh một phương diện nào đó là không toàn diện.

    Quan điểm thứ nhất có lý ở mức độ nhất định, còn quan điểm thứ hai kỳ thực cũng không mâu thuẫn. Nguyên nhân mà quan điểm thứ hai nói đến về những tệ nạn trong thể chế kinh tế xã hội đã bao hàm cả nguyên nhân mà quan điểm thứ nhất đề cập tới, vì thế cả hai loại quan điểm có thr dung hợp lẫn nhau.

    - Bốn là nhận thức khác nhau về con đường cơ bản để giải quyết vấn đề phân phối thu nhập. Một kiểu nhận thức cho rằng con đường cơ bản đế giải quyết vấn đề là đặt trọng tâm vào cải cách thể chế kinh tế xã hội, thậm chí là cả chế độ chính trị tương ứng, đặc biệt là loại bỏ sự can thiệp quá sâu của chính phủ vào nền kinh tế vi mô, dẫn đến tệ độc quyền trong các lĩnh vực hành chính, quyền lực, tài nguyên, thị trường…, chế độ phân phối thu nhập, đặc biệt là cải cách chế độ phân phối tiền công lao động trong đó có thể bỏ qua không tính, nhất là không thể coi đó là phương hướng chủ đạo; Một kiểu nhận thức khác cho rằng con đường cơ bản là phải chú trọng cả gốc lẫn ngọn, vừa cải cách chế độ phân phối thu nhập, vừa chú trọng cải cách hoặc điều chỉnh trong các phương diện liên quan đến tệ nạn trong thể chế kinh tế xã hội và kết cấu kinh tế ở tầng sâu. Cách nhận thức thứ nhất có lý ở mức độ nào đó nhưng lại quá nhấn mạnh đến khả năng thoát ra khỏi cải cách tự thân của chế độ phân phối thu nhập, hơn nữa có thể thu hút toàn bộ sự chú ý của mọi người vào các lĩnh vực ngoài xây dựng kinh tế như xây dựng xã hội, xây dựng chính trị, khó khăn vừa lớn lại vừa không thuận lợi để thao tác, có thể sẽ biến thành một thứ giả tưởng về cải cách vô thời hạn. Hơn nữa, kiểu nhận thức này cũng không mâu thuẫn với kiểu nhận thức sau về bản chất, mà chỉ là nhấn mạnh hơn đến việc trị tận gốc. Còn trong kiểu nhận thức thứ hai, về cải cách ở tầng sâu là đã bao hàm nội dung trị gốc trong kiểu nhận thức thứ nhất, vì thế hai kiểu nhận thức này cũng có thể kết hợp lại với nhau được.

    2. Quan điểm khác nhau về vấn đề cụ thể có hy vọng đạt tiếng nói chung

    Có rất nhiều nhận thức khác nhau liên quan đến vấn đề cụ thể, trong bài này chỉ lựa chọn phân tích sơ lược vấn đề chủ yếu.

    Thứ nhất, liệu có phải tỉ trọng thu nhập của cư dân, tỉ trọng về trả công lao động đang có xu hướng giảm, và sẽ còn tiếp tục giảm? Một quan điểm cho rằng đó là phán đoán sai, một quan điểm khác lại cho rằng nếu xét trên tổng thể thì hai loại tỉ trọng đó ở Trung Quốc đang thể hiện xu hướng giảm. Sở dĩ có những kết quả tính toán khác nhau là do liên quan đến các số liệu hiện hành được hoàn thiện một cách không có hệ thống, chênh lệch độ tính toán không thống nhất. Để có những kết quả tính toán như nhau đòi hỏi phải thông qua những số liệu giống nhau được sử dụng thống nhất, đồng thời bổ sung sử dụng số liệu khác thông qua điều tra điểm, lựa chọn những con đường khác để tính toán, kiêm nghiệm lẫn nhau để xác nhận. Trên cơ sở mọi người đều nhận thức được về sự bất hợp lý trong quan hệ phân phối thu nhập và phân phối của cải, khoảng cách chênh lệch không ngừng lớn thêm, từ đó vấn đề đặt ra là: Cách tính toán mới bị nghi ngờ liệu hai tỉ trọng nói trên có phải đang có xu hướng thấp đi, cách tính này phải không ảnh hưởng đến cách nhận định về tính chất nghiêm trọng trong vấn đề phân phối ở Trung Quốc, không được vì thế mà làm chao đảo đối sách của trung ương về đẩy nhanh cải cách thu nhập.

    Thứ hai là liệu có phải các khoản thuế trong tầm vĩ mô ở Trung Quốc đang có chiều hướng tăng lên? về điểm này có một quan điểm cho rằng xét theo chiều ngang thì đều không nặng so với chiều dọc, một quan điểm khác lại cho rằng đang có chiều hướng nặng thêm. Bất đồng ở đây cũng liên quan đến chênh lệch tính toán có phải đã bao gồm cả các khoản thu nhập tài chính ngoài dự toán hay không, có thể tiếp tục phải định lượng những số liệu này để phân tích, rút ra kết luận mới chuẩn xác hơn; nhưng hiện nay ít nhất cũng phải đạt nhận thức chung cơ bản về những nội dung như kết cấu giữa thuế thu và chịu thuế ở Trung Quốc không hợp lý, cần phải điều chỉnh, thuế thu phải thể hiện tốt hơn nữa vai trò chức năng trong việc điều tiết quan hệ phân phối bất hợp lý hiện hành, thu chi tài chính cần phải gia tăng tỉ trọng, về dân sinh, khống chế và giảm thiểu chi tài chính “tam công” (nhà nước chi trả ba khoản về chiêu đãi khách, phương tiện đi lại và đi nước ngoài đều bằng tiền công), thông qua phân phối lại để gia tăng tỉ trọng thu nhập của cư dân, tiếp tục rút ngắn khoảng cách giàu nghèo…. Ở đây cũng cần nhấn mạnh là không được vì tranh luận để ảnh hưởng đến quyết tâm cải cách phân phối.

    Thứ ba, khoảng cách giàu nghèo ở Trung Quốc được tạo ra bởi khác biệt về thu nhập hay khác biệt về tài sản? Vấn đề này có thể tiếp tục tính toán, không nhất thiết phải phân định rõ cần chú trọng loại nào hơn, chỉ cần đưa ra được định nghĩa về phân phối lớn, sẽ không ảnh hưởng đến việc chúng ta quan tâm tìm kiếm toàn diện vấn đề phân phối và nguyên nhân thực sự của vấn đề phân phối.

    Thứ tư, giải quyết khoảng cách chênh lệch trong phân phối chủ yếu phải đầu tư vào việc phân phối lần một hay phân phối lần hai (phân phối lần thứ nhất là tiền lương chính được trả do công sức bỏ ra theo quy luật thị trường; phân phối lần hai là nhà nước hỗ trợ theo diện chính sách bằng nguồn tiền thu thuế tăng lên). Một quan điểm cho rằng chủ yếu chỉ cần bỏ công sức vào phân phối lần hai, một quan điểm khác lại cho rằng cần đồng thời đầu tư vào cả hai lần. Chỉ cần xem những yếu tố sản xuất tham gia phân phối lần một hiện nay, trong đó bao gồm đất đai, vốn, nhân công lao động, quản lý, công nghệ… đã tồn tại rất nhiều bất công là sẽ có thể rút ra được kết luận cần thiết phải có biện pháp để giải quyết những vấn đề này như thế nào. Có thể nói những vấn đề thuộc lĩnh vực phân phối lần hai về cơ bản đều liên quan đến phân phối lần một. Vì thế, những tồn tại về phân phối lần một hay phân phối lần hai cũng đều cần thiết phải giải quyết bằng cách áp dụng biện pháp cải cách, cần nhấn mạnh trong phân phối lần một chính phủ không được vượt giới hạn, chủ yếu thông qua nguyên tắc kiện toàn các yếu tố sản xuất, loại bỏ ngăn cách thị trưòng, cải cách chế độ tài chính thuế vụ, giám sát xử lý những hành vi vi phạm pháp luật trong phân phối thị trường yếu tố sản xuất… để giải quyết vấn đề tồn tại, đồng thời nắm được một giới hạn: Tất cả những việc gì thuộc về người dân kiếm tiền theo đúng pháp luật sẽ không được can thiệp, không phân chia lời lãi, còn những gì thuộc về những việc gây nguy hại công bằng chính nghĩa trong xã hội sẽ phải quản lý. Đồng thời, trong phân phối lần hai phát huy tốt hơn nữa tác dụng của việc tái phân phối, điều tiết khoảng cách giàu nghèo, cùng thúc đẩy từng bước giải quyết vấn đề.

    Thứ năm, nâng cao mức lương tối thiểu, thi hành chính sách cụ thể như cùng bàn bạc về vấn đề lương, về vấn đề này, một quan điểm cho rằng những chính sách như vậy không có tác dụng, mà tác dụng phụ có thể còn lớn hơn; Một quan điểm khác cho rằng việc thi hành những chính sách đó là rất cần thiết. Trong quan điểm thứ nhất, xuất phát từ lo lắng chính phủ thông qua những chính sách như vậy để can thiệp quá sâu vào thị trường sức lao động là có lý ở mức độ nào đó, quả có hiện tượng là địa phương cá biệt cưỡng chế quy định trong thời kỳ nhất định phải nâng mức lương tối thiểu lên đến bao nhiêu, hoặc mở rộng diện bàn bạc tập thể về lương đến đâu. Trên thực tế, việc nâng cao mức lương tối thiểu, theo “Quy định mức lương tối thiếu” là liên quan đến cách tính, đến căn cứ và trình tự để tính. Quy hoạch 5 năm lần thứ 12 cũng chỉ xác định chỉ tiêu mang tính dự kiến chứ không phải chỉ tiêu mang tính ràng buộc đối với việc nâng cao mức lương tối thiểu, Việc tiến hành bàn bạc tập thể, theo quy định của pháp luật hữu quan là có điều kiện mang tính tiền đề và là yêu cầu liên quan chứ không phải do chính phủ cưỡng chế thúc đẩy.

    Nếu không tìm hiểu tình hình mà phủ nhận toàn bộ những chính sách đó thì hiển nhiên sẽ là phiến diện. Thông qua tranh luận về quan điểm, chúng ta có thể đi đến được nhận thức chung: Vừa không biến những chính sách trên thành thần dược linh đơn trong giải quyết phân phối thu nhập, cũng không được phủ nhận một cách đơn giản tính chất cần thiết và tính khả thi của những chính sách đó, phải coi đó là biện pháp cấu thành trong công trình cải cách phân phối của cả hệ thống, xác định đúng vị trí và vai trò của những chính sách này.

    3. Quan điểm khác nhau khó đạt tiếng nói chung

    Một số nhóm lợi ích đã phản đối việc điều chỉnh liên quan đến lợi ích của mình, hoặc các nhóm lợi ích do ở các vị trí khác nhau trong kết cục lợi ích hiện hành nên đã hình thành nhận thức đối lập nhau khi nhận định về một số quan hệ lợi ích và biện pháp điều chỉnh lợi ích. Ví dụ như không thừa nhận có ngành nghề độc quyền, hay như ví dụ khác cho rằng phân phối thu nhập có chênh lệch là rất bình thường, hơn nữa chênh lệch hiện không lớn, mà vẫn còn phải tiếp tục mở rộng V.V.. Với những nhận thức như vậy những người đương sự hoặc nhóm đương sự sẽ không thể hoặc rất khó đi đến được tiếng nói chung, hơn nữa lại thường gây khó khăn cho việc hình thành dòng nhận thức chủ lưu trong xã hội, đồng thời sẽ cản trở sự ra đời của những quyết sách lớn.

    III. Thời gian không đợi – Đẩy nhanh cải cách phân phối thu nhập

    Với loại quan điểm thứ nhất, cần tăng cường nhận thức về cải cách, cụ thể hóa cách phân tích định lượng, đem lại cơ sở nhận thức tư tưởng chắc chắn hơn cho việc điều chỉnh hợp lý quan hệ phân phối thu nhập và phân phối của cải.

    Với loại quan điểm thứ hai, cần tăng cường trao đổi hiểu biết lẫn nhau, sớm hình thành nhận thức chung về cải cách; đối với một bộ phận trong đó mà trước mắt tranh luận chưa đi đến kết quả, hơn nữa không ảnh hưởng đến nhận định cơ bản, có thể tạm gác lại tranh luận, nhẩt là phải đề phòng không để những tranh luận như vậy ảnh hưởng đến nhận định cơ bản về vấn đề phân phối ở Trung Quốc hiện nay, làm chao đảo quyết tâm đi sâu cải cách phân phối.

    Với loại quan điểm thứ ba, nếu công tác điều chỉnh quan hệ lợi ích được đông đảo quần chúng nhân dân chấp nhận hoặc bị phản đối thì cần thiết phải do cấp lãnh đạo trên cao hạ quyết tâm chính trị, cho ra đời quyết sách mang tính chất công bằng và quyền uy; Nếu các bên lợi ích liên quan không thỏa thuận được, hơn nữa nếu ý kiến của quần chúng nhân dân không mạnh lắm thì cũng có thể gác lại tranh luận để tránh gây cản trở cho việc xác định những quyết sách và chính sách lớn.

    Trước mắt, không còn thòi gian chờ đợi đi sâu cải cách phân phối thu nhập, vì thế, chúng ta phải nhanh chóng quy tụ tiếng nói chung, tìm điểm đồng gác lại bất đồng, đặt nền tảng nhận thức tư tưởng đẩy nhanh cải cách phân phối thu nhập và phân phối của cải. Chúng ta đã muộn hơn 10 năm so với yêu cầu “dứt khoát phải được nêu ra như một vấn đề nổi cộm và giải quyết” vấn đề phân phối mà lãnh tụ Đặng Tiểu Bình đã đề xuất. Bước tiến cải cách phân phối tuyệt đối không thể tiếp tục trì hoãn.

    ***

    TTXVN (Hồng Công 12/11)

    Theo tờ “Tín báo ” (Hồng Công) ngày 10/11, nhân dịp Đại hội 18 ĐCS Trung Quốc, dư luận quốc tế dồn dập đánh giá về thành tựu 30 năm cải cách mở cửa của Trung Quốc, trong đó có 10 năm dưới sự lãnh đạo của Hồ Cẩm Đào và Ôn Gia Bảo. Tất cả đều cho rằng từ năm 1981 đến nay, Trung Quốc đã giảm được hơn 600 triệu người nghèo, đây là điều chưa từng có trong lịch sử phát triển kinh tế – xã hội loài người; đồng thời, Trung Quốc cũng xóa nợ gần 30 tỷ nhân dân tệ (NDT) cho các nước nghèo hoặc các nước kém phát triển nhất, cam kết cho hưởng thuế suất bằng không đối với 97% sản phẩm chịu thuế của các nước kém phát triển nhất có quan hệ ngoại giao với Trung Quốc, đây cũng được đánh giá là cống hiến quan trọng của Trung Quốc đối với kinh tế thế giới.

    Giới quan sát Bắc Kinh cho biết trong số hơn 600 triệu người thoát nghèo nói trên, hầu hết là nông dân, điều này rõ ràng là có liên quan tới các biện pháp xóa bỏ thuê nông nghiệp, gia tăng bù giá nông nghiệp, thúc đẩy sáng tạo khoa học kỹ thuật thực hiện sản xuất nông nghiệp… của Chính phủ Trung Quốc trong 10 năm qua. Mặc dù vậy, xét về tổng thể, nông dân vẫn là những người nghèo nhất ở Trung Quốc.

    Định rõ quyền tài sản đất đai hỗ trợ nông dân làm giàu

    Làm thế nào có thể giải quyết thực sự vấn đề “tam nông”, mở rộng con đường cho nông dân làm giàu, thay đổi triệt để diện mạo nông thôn?

    Các chuyên gia “tam nông” của Trung Quốc (trong đó có Giáo sư Từ Dũng, Viện trưởng Viện Nghiên cứu nông thôn Trung Quốc) đều cho rằng Đại hội 18 cần có bố trí mới, cần bắt tay từ ba lĩnh vực, bao gồm định rõ quyền tài sản đất đai của người nông dân, thực hiện “thôn dân tự trị”, đẩy nhanh bước đô thị hóa nông thôn.

    Giáo sư Từ Dũng là một ngưòi nổi tiếng, đã có thời gian dài nghiên cứu về vấn đề “tam nông” và được mệnh danh là “học giả Trường Giang”, hồi tháng 11/2006 từng được mời tới Trung Nam Hải để thuyết giảng về vấn đề nông thôn cho các lãnh đạo Trung Quốc. Theo Từ Dũng, mâu thuẫn lớn của nông thôn Trung Quốc hiện nay được tạo bởi sự hỗn loạn quản lý của “tam tư” (3 nguồn vốn gồm tài sản, quỹ và tiền vốn). Trong vấn đề quản lý “tam tư”, hạt nhân là vấn đề quyền tài sản đất đai, bởi việc đất đai bị bán làm bùng phát các sự kiện đông người, khiến toàn bộ xã hội như ngồi trên miệng núi lửa, khó có thể ổn định được. Nói cho cùng, các vấn đề xã hội nông thôn hiện nay ở Trung Quốc chính là do tính mơ hồ của quyền tài sản đất đai gây ra.

    Quốc hữu hóa đất đai và tư hữu hóa đất đai là hai cách nghĩ khác nhau, Quốc hữu hóa đất đai, các cấp chính quyền nắm giữ đất đai thuận tiện thúc đẩy tốc độ phát triển kinh tế càng nhanh hơn. Nếu như quyền tài sản đất đai được xác định thực sự rõ ràng, giá thành đất đai sẽ cao, chính quyền địa phương sẽ không thể chào hàng “giá đất bằng không” để thu hút vốn đầu tư, chính quyền địa phương đương nhiên hy vọng ra sức làm cho quyền tài sản đất đai mơ hồ hóa. Chính vì quyền tài sản đất đai mơ hồ nên xuất hiện tình trạng bất họp lý là giá bồi thường cho mỗi mẫu đất trong dự án đường cao tốc Bắc-Nam là 2.000 NDT, song nông dân thực tế chỉ nhận được vài trăm NDT, như vậy làm sao không nổ ra các sự kiện mang tính quần chúng?

    Từ Dũng cho biết, ở Trung Quốc, người nông dân lẽ ra là người giàu có nhất, bởi lẽ đất đai ở Trung Quốc rất khan hiếm; song nông dân Trung Quốc hiện nay đích thực là những người nghèo nhất. Nông dân Hàn Quốc và Đài Loan do được hưởng sự tăng giá của đất đai, lợi ích thu được từ đất đai trở thành tiền vốn tạo nghiệp ban đầu của nông dân, với tiền vốn này, họ đã trở thành chủ của các doanh nghiệp vừa và nhỏ, không chỉ tự làm giàu cho mình mà còn kéo theo sự phát triển của kinh tế – xã hội. Lẽ ra nông dân Trung Quốc cũng nên được đi theo con đường này, nay nhìn lại, con đường này ở Trung Quốc khá dài và gian nan. Theo phán đoán của Từ Dũng, khả năng nổ ra các sự kiện lớn đông người do vấn đề phân phối lợi ích đất đai Bất công gây ra tới đây tuy không nhiều, song các sự kiện nhỏ, lẻ tẻ sẽ không thể tránh khỏi.

    Các chuyên gia “tam nông” chỉ ra rằng theo như Thủ tướng ôn Gia bảo từng nói “đất đai là sự đảm bảo của nông dân, không thể lấy đi”, Đại hội 18 này Trung Quốc rất có thể phải tiến hành cải cách quyền tài sản đất đai, định rõ quyền lực của nông dân đối với quyền tài sản đất đai, khi xảy ra mâu thuẫn về quyền tài sản đất đai giữa quan với dân, cần để cho nông dân có lực lượng “đấu tranh”, không thể để quan chức chuyên quyền độc đoán, từng bước tháo gỡ nút thắt, như thế mới tránh được nổ ra các sự kiện mang tính quần chúng; điều then chốt nằm ở chỗ cần ủng hộ sự trưởng thành của lực lượng “đấu tranh” nông dân, và “đấu tranh” có tổ chức không đi theo hướng cực đoan.

    Qua nhiều năm nghiên cứu đối với nông thôn, Từ Dũng phát hiện ra sự quản lý cai quản nông thôn hiện nay ở Trung Quốc đa phần theo kiểu duy trì ổn định. Sự kiện Ô Khảm ở Quảng Đông (bùng phát do lượng lớn đất đai của nông dân bị bán mất) đã khiến những người lãnh đạo ý thức được rằng phương thức quản lý cai quản nông thôn theo kiểu duy trì ổn định đã không giải quyết được vấn đề, cần phải tiến hành cải cách mang tính thể chế, thực hiện quản lý dân chủ thôn dân mang tính tổng hợp.

    Thôn dân tự trị, quản lý dân chủ

    Từ Dũng nhận thấy biện pháp cai quản cơ sở của Bí thư Tỉnh ủy Quảng Đông Uông Dương là “đòn tổng hợp”, là cách cai quản hệ thống hóa, bắt đầu giải quyết từ “gốc” của vấn đề, cái gốc này chính là quản lý “tam tư”. Cách giải quyết là chế độ hóa việc công khai thôn vụ (eông việc của thôn), để cho càng nhiều nông dân tham gia quản lý. Một trong ba điểm tìm kiếm của Quảng Đông là phân tách kinh tế – chính trị, bí thư thôn không kiêm nhiệm lãnh đạo hợp tác xã kinh tế; hai là lượng hóa quyền cổ đông, thay đổi tình trạng hợp tác xã cổ phần chỉ nằm trong tay cán bộ, tài sản tập thể đến với nông dân rõ ràng hơn, lượng hóa quyền lợi cổ phần tới cá nhân; ba là thành lập ủy ban giám sát thôn vụ, bắt đầu giám sát ngay từ khi ra quvết sách, ủy ban giám sát thôn vụ đã được thành lập trước tiên ở thôn Quầng Dục, tới đây sẽ được mở rộng ra toàn tỉnh.

    Một mô hình quản lý dân chủ, tự trị của thôn dân khác là ở thị trấn Bạch Sa huyện Trung Mâu tỉnh Hà Nam, nơi có khoảng 40.000 nhân khẩu. Từ năm 2009, tổ thôn dân số 7 của thôn Xã Kiều thuộc thị trấn này đã có hình thức đặc biệt và mộc mạc, thông qua chế độ đại biểu liên hộ và “5 miếng dấu” để thực hiện tự trị tổ thôn dân. Trước tiên, vì là người “ăn nói chắc chắn” trong nhà, anh Phan được đại gia đình gồm 10 người của mình cử làm “đại diện gia đình”, sau đó anh cạnh tranh với đại diện của 10 gia đình khác, căn cứ vào uy danh tích lũy trong thời gian dài, anh Phan đã trổ rõ tài năng và trở thành “đại diện liên hộ”, tức là anh có thể đại diện cho l1 hộ mưu cầu lợi ích. 8 vị đại diện liên hộ được bầu ra từ cách làm trên cùng tổ trưởng tổ thôn dân tạo thành “ủy ban tổ thôn dân”, các công việc trong thôn đều do tập thể cơ quan này nghiên cứu, ý kiến chung sau khi hình thành còn cần phải đóng dấu của “ủy ban tổ thôn dân” mới có hiệu Lực. Ủy ban tổ thôn dân khắc một con dấu, chia thành 5 phần, tổ trưởng tổ thôn dân giữ một phần, 4 phần khác do 4 đại diện liên hộ mỗi người giữ một phần. 8 đại diện liên hộ chia thành 2 nhóm, mỗi nhóm luân phiên giữ 4 phần của con dấu chung.

    Nhận xét về mô hình này, nhà nghiên cứu Đảng Quốc Anh thuộc Trung tâm Nghiên cứu Kinh tế Nông thôn Viện Khoa học Xã hội Trung Quốc cho rằng, điểm sáng tạo mới của chế độ đại diện liên hộ nằm ở chỗ nó cho người nông dân quyền lợi dân chủ nhiều hơn, trong một phạm vi nhất định có thể phòng ngừa chuyên quyền độc đoán, có tác dụng quan trọng đối với cân bằng quyền lực. Trên thực tế, dân chủ thôn dân kiểu giống như “5 miếng dấu” trong 10 năm qua ngày càng nhiều. Hiện nay, trên 98% ủy ban thôn trên toàn Trung Quốc thực hiện bầu chọn trực tiếp, 85% thôn thành lập chế độ Hội nghị thôn dân hoặc Hội nghị đại biểu thôn dân… có thể nói mỗi nơi có những đặc sắc riêng.

    Con đường đô thị hóa cải thiện nông thôn

    Theo giới quan sát, một chỉ tiêu quan trọng của tiến trình phát triển của Trung Quốc là thu hẹp khoảng cách giàu nghèo, và điều này sẽ được thực hiện thông qua không ngừng phát triển đô thị hóa nông thôn. Ngày 31/10/2012, Tổ Nghiên cứu Chiến lược Phát triển bền vững Viện Khoa học Xã hội Trung Quốc công bố “Báo cáo Đô thị hóa kiểu mới của Trung Quốc năm 2012”, trong đó nói rằng đến năm 2017 tỉ lệ đô thị hóa của Trung Quốc sẽ đạt 51,3%, dân số thành thị lần đầu tiên vượt qua dân số nông thôn. Các số liệu cho thấy trong 10 năm qua, Trung Quốc bình quân mỗi năm có gần 21 triệu nông dân chuyển ra thành thị, trong đó bao gồm rất nhiều công nhân-nông dân. Dự kiến trong vòng 20 năm tới sẽ có gần 500 triệu nông dân muốn thực hiện “đô thị hóa”, và 5-10 năm tới sẽ là thời kỳ then chốt của tiến trình đô thị hóa ở Trung Quốc. Quá trình này đang quyết định liệu Trung Quốc có nắm được cơ hội để tiếp tục viết nên kỳ tích hay không.

    Đa số học giả cho rằng đô thị hóa của Trung Quốc là động lực chủ yếu nâng đỡ sự phát triển trong tương lai của Trung Quốc. Lượng lớn dân số thường trú tại thành thị sẽ tạo ra tiềm năng chi tiêu khổng lồ cho sự phát triển của thành thị, giúp cho sự phát triển kinh tế hiện nay của Trung Quốc vượt qua trạng thái dựa nhiều vào đầu tư.

    Nhà khoa học Giáo sư Ngưu Văn Nguyên, Chủ tịch Viện Khoa học Xã hội Trung Quốc cho rằng tỉ lệ đô thị hóa của Trung Quốc phá vỡ mức 50% tất sẽ gây ra sự biến đổi xã hội sâu sắc, kết cấu xã hội cũng sẽ xuất hiện thay đổi to lớn, tầng lớp trung lưu sẽ bước lên vị trí hàng đầu trong xã hội. Dự kiến đến khoảng năm 2030, Trung Quốc sẽ hình thành một tầng lớp trung lưu với quy mô nhất định và khá ổn định, điều này sẽ tạo cơ sở vững chắc cho Trung Quốc cơ bản thực hiện hiện đại hóa và đạt được trình độ nước phát triển hạng trung trên thế giới vào giữa thế kỷ này.

    Theo báo mạng Asia Times Online, trong bối cảnh tầm ảnh hưởng của Bắc Kinh tiếp tục mở rộng, các nhà phân tích Trung Quốc đang ngày càng lo lắng về khả năng yếu kém của nước này trong việc gây ảnh hưởng đến các vấn đề quốc tế, đặc biệt là sự trỗi dậy của Trung Quốc, đã bị đánh giá – gọi đó là “quyền có tiếng nói” hay “quyền thuyết trình.” Ví dụ, việc phương Tây lo lắng về việc Trung Quốc sử dụng chất kích thích trong các kỳ Olympic thể hiện sự yếu kém của Trung Quốc và sức mạnh của truyền thông Đông phương học tại phương Tây làm giảm bớt thành tựu và năng lực của Trung Quốc.

    Mặc dù quan điểm này không mới, tuy nhiên một cuộc thảo luận chính thức đã được yêu cầu phải tiến hành khẩn cấp kể từ sau mùa Hè, với nội dung đề cập đến khoảng cách giữa sức mạnh của Trung Quốc với tư cách là nền kinh tế đứng thứ hai thế giới và khả năng của Bắc Kinh trong việc định hình các giá trị và những thảo luận quốc tế.

    Câu hỏi mà các nhà phân tích Trung Quốc phải đối mặt là làm thế nào để Bắc Kinh có thể giải quyết được sự mất cân bằng này, bởi việc khắc phục điểm yếu của Trung Quốc là mộí “chiến lược khẩn cấp cần thiết giống như sự cạnh tranh giữa các nước đang nổi lên”.

    Ý tưởng về “quyền có tiếng nói” hay “quyền thuyết trình” là một sự mở rộng của quyền lực mềm, liên quan đến sự ảnh hưởng và hấp dẫn của hệ tư tưởng và hệ thống giá trị của một quốc gia. Giống như một phân tích quan trọng mùa Hè này đã mô tả nó, “quyền thuyết trình” phụ thuộc vào hệ tư tưởng của ai, đặc biệt là hệ thống giá trị của ai, những câu trả lời tốt nhất phù hợp với các vấn đề toàn cầu và tạo động lực thúc đẩy cho sự phát triển và tiến bộ nhân loại”. Xét trên góc độ này, Bắc Kinh cần “đối mặt với sự thật tàn nhẫn rằng phương Tây rất mạnh trong khi Trung Quốc lại yếu thế” và bắt đầu học cách làm thế nào để giao tiếp hiệu quả hơn với các “khán giả” nước ngoài.

    Minh chứng về sự yếu kém của Bắc Kinh được thể hiện trong việc các chính sách và thành quả của Trung Quốc trên trường quốc tế cũng như nội bộ trong nước. Ở trong nước, người dân Trung Quốc phàn nàn rằng chính sách đối ngoại của Bắc Kinh quá mềm yếu. Trên trường quốc tế, chính phủ các nước phàn nàn rằng chính sách đối ngoại của Trung Quốc quá cứng rắn. Điều này cho thấy Bắc Kinh phải làm rõ với cả trong nước và quốc tế về việc Trung Quốc sẽ sử dụng sức mạnh đang gia tăng của mình ra sao và loại hình thế giới nào mà Trung Quốc mong muốn.

    Chìa khóa để làm điều này là củng cố quyền được có tiếng nói của Trung Quốc. Hơn thế nữa, bất chấp những thành tích của Trung quốc kể từ khi bắt đầu Cải cách và Mở cửa, một số nhân tố phương Tây đã sử dụng “quyền thuyết trình” của họ để truyền bá về “Thuyết về mối đe dọa Trung Quốc,” biến Trung Quốc thành “con quỷ”, tăng cường chủ nghĩa bảo hộ thương mại và ngăn cản sự phát triển hòa bình của Trung Quốc.

    Sự yếu kém của Trung Quốc bắt nguồn từ một số nguyên nhân. Đầu tiên là có sự mâu thuẫn trong việc thúc đẩy một bộ giá trị tổng thể và tôn trọng việc không can thiệp vào vấn đề chính trị của một quốc gia. Cho đến khi chính sách ngoại giao của Trung Quốc còn bị chi phối bởi nguyên tắc không can thiệp vào vấn đề chính trị của một quốc gia, Bắc Kinh sẽ cảm thấy khó khăn trong việc phá vỡ ưu thế của phương Tây về quyền thuyết trình.

    Điều thứ hai là Trung Quốc không cần thiết xây dựng những quan điểm mới về việc các nước làm thế nào để tự vận hành hoặc tìm được vị thế của mình trong một thế giới đang ngày càng hòa nhập. Như một nhà phân tích quân sự tại Học viện Chỉ huy Nam Kinh đã viết, nếu Trung Quốc chỉ chuyển đổi hoặc áp dụng các quan điểm của phương Tây, thì sự lan tỏa “các quan điểm Trung Quốc” sẽ bất lợi so với các giá trị của phương Tây và đẩy Trung Quốc vào thế bị động.

    Vấn đề thứ ba là việc thúc đẩy giá trị của sự lựa chọn phát triển riêng của mỗi quốc gia theo như hoàn cảnh của quốc gia đó không đưa ra định hướng rằng các tư tưởng của phương Tây tạo ra những sự lựa chọn kinh tế và chính trị dựa trên lý trí và lý tưởng. Điều này làm suy giảm đặc trưng trong mô hình phát triển của Trung Quốc như quyền của một quốc gia lựa chọn mô hình chủ nghĩa xã hội mang đặc sắc Trung Quốc. Vì vậy, Trung Quốc cần làm tốt hơn việc công khai và giải thích kinh nghiệm của Trung Quốc về “tìm kiếm sự thật từ thực tế”, các chính sách cải cách và mở cửa, “lấy thực tiễn làm tiêu chuẩn của sự thực” và xã hội hài hòa.

    Bước đầu tiên trong việc tăng cường “quyền thuyết trình” của Trung Quốc là nâng cao sự hiểu biết tinh tế hơn về các đối tác nước ngoài. Vì thiếu sự nghiên cứu chuyên sâu về thái độ từ bên ngoài, những người truyền giáo Trung Quốc đôi lúc đưa ra thông điệp rằng có thể có một sự tự thể hiện tích cực của văn minh Trung Quốc, nhưng lại không được tiếp nhận tích cực từ phía nước ngoài. Thách thức đối với Bắc Kinh là làm thế nào bảo đảm tiếng nói của Trung Quốc đến tai những người khác – điều không xảy ra trong hiện tại và cần được nghiên cứu thêm, đặc biệt là làm thế nào thúc đẩy sự thâm nhập quốc tế của chủ nghĩa xã hội mang đặc sắc Trung Quốc.

    Theo Ngô Anh – Phó Giám đốc Trung tâm quan điểm quốc tế thuộc Đại học Ngoại ngữ Thượng Hải, Trung Quốc có thể nâng cao quyền có tiếng nói với ba bước. Đầu tiên, Bắc Kinh cần mạnh mẽ hơn trong việc đề ra các thảo luận quốc tế. Thứ hai, Trung Quốc cần phá vỡ được định hướng của truyền thông phương Tây và truyền thông một cách mạnh mẽ, trách nhiệm để nới rộng không gian thuyết trình quốc tế của Trung Quốc. Cuối cùng, Trung Quốc nên tập trung nghiên cứu về truyền thông phương Tây, xem những phản hồi về những nỗ lực của Trung Quốc để định hình quan điểm công chúng.

    Một trong những cách mà Trung Quốc có thể cải thiện ảnh hưởng của mình là tiếp tục thúc đẩy chính sách “Hướng ra bên ngoài” cho các cơ quan truyền thông Trung Quốc, chẳng hạn như hỗ trợ cho Tập đoàn Truyền thông Phương Nam trong các vấn đề ngoài Quảng Đông. Từ kinh nghiệm này, các nhà báo Trung Quốc có thể học các luật về truyền bá văn hóa.

    Trung Quốc cũng cần phải cẩn trọng trong việc nâng cao quyền truyền thông, bởi việc có một ảnh hưởng lớn hơn đối với các vấn đề quốc tế không phải hoàn toàn tốt. Chính sách Cải cách và Mở cửa của Trung Quốc khiến phương Tây tin rằng Trung Quốc đang trên con đường hội nhập với mô hình phát triển của phương Tây.

    Theo đuổi “quyền có tiếng nói” của Trung Quốc là điểm bắt đầu cho sự kết thúc niềm tin đó và đưa ra một thông điệp rõ ràng rằng tiến trình của Trung Quốc là khác biệt. Tuy nhiên, theo chuyên gia phân tích truyền thông Trương Chí Châu của Đại học Thanh Hoa, Trung Quốc không thể tiến lên mà không thách thức các quan điểm của phương Tây bôi xấu những thành tựu của Trung Quốc – chẳng hạn như lý thuyết về hòa bình dân chủ, chính sách quyền lực lớn hơn, kết thúc lịch sử… và do đó chỉ ra những chặng đường phát triển khác nhau của Trung Quốc./.
  8. Javelin

    Javelin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    02/10/2010
    Bài viết:
    1.338
    Đã được thích:
    138
  9. hanhgl

    hanhgl Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    08/02/2010
    Bài viết:
    1.771
    Đã được thích:
    941
    Sự nồng ấm lên quan hệ ngoại giao, kinh tế giữa Myanma với Mỹ và phương Tây phần nào cảnh báo đau rát với TQ một nước đang sử dụng quyền lực mềm, viện trợ hào phóng về ODA cho một số nước ĐNA (Dĩ nhiên họ sẽ lấy lại bằng "viện trợ" CN, KT củ chuối và lực lượng lao động từ TQ rất hùng hậu và tham lam) tiềm ẩn nhiều nguy cơ khống chế KTXH, chính trị, dân số... dần dần quy phục nước sở tại như mong ước tột cùng của Mao CT!!!!???
    Nếu sự chuyển đổi và cập nhật giá trị phương tây của Myanma đến sớm chắc chắn chắn TQ sẽ có chiến lược tiếp cận khác thân thiện hữu hảo hơn để níu kéo các quốc gia vốn chịu ảnh hưởng lớn từ họ. Ai mà biết chú Cam, chú Laos...sẽ update bước đi mạnh dạn của Myanma nếu đây là hình mẫu tốt!? Tham thì thâm, gieo nhân nào gặt quả đó, chắc chắn những nước đang bị TQ mua chuộc ve vãn sẽ nhận ra "tình ý" sâu sắc chết người của anh cả béo Đại Lục, để rồi quay lưng lạnh nhạt với người tình bụng phệ mắt híp.
    Chẳng biết thế sự thay đổi ngược hướng có làm thức tỉnh anh cả béo bớt tham lam và tạo dựng thiện ý chân thành với các bạn nhỏ xung quanh nhà. Việt Nam rất mong sự dũng cảm và tự tin vươn mình của các bạn cùng trang lứa thoát ra vòng tay "người tình" lớn ba trợn phương Bắc để anh chàng đông gioăng này tỉnh ngộ.:-w=D>

    Cái này có phải chăng TQ đang cập nhật, chỉnh sửa đường lối: http://vnexpress.net/gl/the-gioi/2012/11/trung-quoc-se-ban-ve-bo-quy-tac-bien-dong/
  10. lytramphong6789

    lytramphong6789 Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    01/07/2012
    Bài viết:
    609
    Đã được thích:
    8
    Ngày xưa học địa lý có nhớ ông thầy nói, nền kinh tế Thái lan do 9 gia đình nắm đến 80% rồi. Mình tin chắc trong số đó toàn là bọn gốc hoa thôi. Xem tivi thằng nào Thái chính với Thái tàu nhận rõ, công nhận gái có lai máu tàu nhìn lung linh thật. Với lại quan chức cấp cao cũng thấy..... giống tàu quá. Vài chục năm nữa, cái bán ĐNÁ này ko biết bao nhiêu % viết chữ nho nhỉ?

Chia sẻ trang này