1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Asean, Trung Quốc, Biển Đông và Việt Nam

Chủ đề trong 'Giáo dục quốc phòng' bởi MMichelHung, 27/06/2010.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. hanhgl

    hanhgl Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    08/02/2010
    Bài viết:
    1.771
    Đã được thích:
    941
    Trình của chú bát đúng là ..ứt rồi. Thôi lo cơm áo gạo tiền cho vợ con nhờ, rồi nghiên cứu lại lịch sử cũng như nâng cao trình độ...chứ nhăng cuội thế này thì lên đây làm gì để rồi đội mũ bảo hiểm chống gạch đá không biết!? Đội lốt kiểu gì chăng nữa cũng không che nổi thân phận bán mình cho quỷ đâu nhá!
  2. senk

    senk Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/03/2012
    Bài viết:
    965
    Đã được thích:
    0
    http://quocphong.baodatviet.vn/Home...-dau-truong-tran-voi-My/201212/248307.datviet

    Trung Quốc không thể đấu trường trận với Mỹ
    Cập nhật lúc :10:53 AM, 20/12/2012
    Theo CSS, Sát thủ tàu sân bay DF-21D thực chất chỉ là sự thổi phòng quá mức năng lực của loại tên lửa này mà phía Trung Quốc đưa ra để cảnh báo Mỹ.

    Trung Hoa bệnh phu cũng chỉ có thế :-j
  3. MMichelHung

    MMichelHung Thành viên rất tích cực Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    14/12/2009
    Bài viết:
    7.599
    Đã được thích:
    7
    cái này ai cũng biết vậy mà cũng đăng lên báo:-j.Mình nghĩ một trong những yếu tố làm nên thành công của 1 đất nước là tính cách của dân tộc (con người) mà khựa đang thua Mỹ về điều này. Cho nên còn rất lâu nếu không muốn nói là mãi mãi chẳng theo kịp Mỹ
  4. Bat_Nhat_1_8

    Bat_Nhat_1_8 Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    12/10/2012
    Bài viết:
    470
    Đã được thích:
    0
    Sử gia Trung Quốc: Vua đầu tiên của Nhật Bản là người Hoa

    Từ Phúc, người vâng lệnh Tần Thủy Hoàng ra biển tìm thuốc trường sinh, được một số học giả Trung Quốc khẳng định chính là Thần Vũ thiên hoàng, vua khai quốc của Nhật Bản. Thực hư ra sao?


    [​IMG]Ảnh đã được thu nhỏ. Vui lòng nhấn vào đây để xem kích thước thật 1000x400.[​IMG]Hình ảnh này đã được thu nhỏ lại. Hãy click vào đây để xem hình gốc. Kích thước gốc là 1000x400.[​IMG]

    Thiên hoàng Thần Vũ là ai? Từ Phúc là ai?

    Thần Vũ (Jimmu) là thiên hoàng đầu tiên của Nhật, được coi là vị vua truyền thuyết vì ngoài những thông tin trong truyện dân gian, chưa có một sử liệu xác thực nào về ông. Thực ra, phải đến vị thiên hoàng thứ 29 là Kimmei (thế kỷ thứ 6), các nhà sử học mới xác định được niên đại và thẩm tra bằng các chứng cứ lịch sử.

    Người Nhật Bản coi thiên hoàng này là hậu duệ của Thái Dương thần nữ (vị thần trong Thần đạo Nhật Bản). Hiện ở tỉnh Nara vẫn có lăng mộ được coi là của Thần Vũ thiên hoàng. Hoàng gia Nhật Bản vẫn tuyên bố mình là hậu duệ của Thần Vũ.

    Còn Từ Phúc? Ông ta là người nước Tề, quê ở tỉnh Giang Tô, Trung Quốc, được Tần Thủy Hoàng sai ra biển tìm thần tiên để cầu thuốc trường sinh vào cuối thế kỷ thứ 3 trước công nguyên. Sau chuyến đi đầu tiên, Từ Phúc tâu đã tìm được núi tiên Bồng Lai, tận mắt trông thấy thuốc trường sinh nhưng không thể lấy đem về vì các vị tiên chê lễ vật quá ít. Tần Thủy Hoàng liền thể theo yêu cầu của các vị tiên, sai Từ Phúc đóng đội thuyền lớn, đem theo 500 đồng nam, 500 đồng nữ cùng nhiều thợ giỏi, những cung thủ xuất sắc và nhiều vũ khí, lương thực đi ra biển. Từ Phúc lại xuất hành và không bao giờ trở về nữa.

    Từ Phúc đi đâu? Sách “Sử ký” viết, Từ Phúc tìm được vùng bình nguyên quảng trạch, ở lại làm vua không về nữa. Sách “Tam quốc chí” của Ngô Thư và sách “Hậu Hán thư” đều viết là ông đến Đản Châu. Nhiều người cho rằng Đản Châu là Nhật Bản; còn bình nguyên quảng trạch (nghĩa là vùng đồng bằng, có nhiều hồ rộng) thì xét từ bờ biển nơi Từ Phúc ra đi, chỉ có vùng Bản Châu của Nhật là mang địa hình như vậy.

    Thế kỷ thứ 10, hòa thượng Nghĩa Sở cũng khẳng định Từ Phúc đem 500 đồng nam và 500 đồng nữ đến Nhật Bản, hậu duệ vẫn còn nhiều, đều gọi là Tần Thị (họ Tần) cả. Từ đó, truyền thuyết Từ Phúc đến Nhật ngày càng thịnh hành, có những truyền thuyết khẳng định ông chính là vị vua khai quốc của Nhật – thiên hoàng Thần Vũ. Niềm tin càng trở nên mạnh mẽ trước việc ở Nhật Bản có mộ Từ Phúc, đền Từ Phúc, cung Từ Phúc, đá Từ Phúc. Các truyền thuyết về ông cũng được lưu hành từ xưa ở Nhật, thậm chí người Nhật còn coi ông là vị thần về nghề nông và nghề thuốc, hằng năm tế lễ long trọng. Năm 1991, một công viên mang tên “Con đường Từ Phúc” cũng được xây dựng ở nước này.

    Các “chứng cứ” về việc Từ Phúc làm vua nước Nhật

    Để chứng minh giả thuyết Từ Phúc chính là thiên hoàng Thần Vũ, giới học giả Trung Quốc đưa ra nhiều lập luận trong các bài viết, công trình nghiên cứu của mình. Trong đó, Vệ Đình Sinh, học giả Hong Kong, là người tin tưởng mạnh mẽ nhất vào điều đó. Ông đưa ra nhiều điều trùng hợp, trước hết là về địa hình (về bình nguyên quảng trạch như đã nói ở trên), về thời đại (lúc Từ Phúc ra đi và khi Thần Vũ lên ngôi).

    Theo truyền thuyết, Thần Vũ lái thuyền đi chinh phục, trong khi các chứng cứ khảo cổ cho thấy ngay trước đó, Nhật Bản vẫn ở thời đồ đá, không thể đùng một cái phát triển nhảy vọt, chế tạo được ngay đội thuyền chiến hùng mạnh, nếu không phải Từ Phúc đưa từ Trung Quốc sang. Trên đường chinh chiến, Thần Vũ cho dừng quân để chế tạo vũ khí, tu sửa thuyền bè, điều cũng không thể làm nổi với trình độ ở Nhật thời đó. Thiên hoàng Thần Vũ cũng sử dụng đội quân nam và nữ, phù hợp với chi tiết Từ Phúc đem các đồng nam, đồng nữ ra biển.

    Có 6 trong số 7 thần ngũ hành xã tắc của nước Tề (quê Từ Phúc), 7 trong 8 thần đặc hữu nước Tề có mặt ở thần thoại Nhật Bản. Vệ Đình Sinh cho rằng, sự trùng hợp như vậy khó có thể coi là ngẫu nhiên. Lại nữa, theo kết quả khảo cổ, nền văn hóa cổ đại Nhật Bản chia thành hai hệ thống rõ rệt: một là nền văn hóa có từ trước trên đảo, hai là nền văn hóa tiếp sau nó, nhưng không kế thừa thành tựu cũ mà có trình độ cao vọt hẳn lên, với nhiều nét tương đồng với văn hóa Tề, Yên cuối thời Chiến quốc.

    Một số nhà khoa học Nhật Bản hứng thú với giả thuyết này đã thực hiện cuộc khảo sát trắc định chỉ số xương chóp đầu của người Nhật. Trong 5 năm, họ đo xương chóp đầu của 70.000 người sống ở 280 huyện thị, đủ để đại diện cho dân Nhật. Kết quả là chỉ số xương chóp đầu của đa số người Nhật hiện đại hoàn toàn giống chỉ số xương chóp đầu của người Trung Quốc các tỉnh Giang Tô, An Huy, Chiết Giang… Họ rút ra kết luận: tổ tiên của nhiều người Nhật từng cư trú ở ven bờ biển phía đông Trung Quốc.

    Người Trung Quốc thời đó có khả năng vượt biển đến Nhật không? Các học giả chứng minh là có, bởi trình độ đóng thuyền thời đó rất khá. Mặt khác, lúc đó đã có một tuyến đường biển từ bờ biển phía đông Trung Quốc đến các đảo Nhật Bản, và khoảng cách từ quê Từ Phúc đến miền nam nước Nhật không xa, các dòng hải lưu cũng rất thuận lợi cho hành trình này.

    Vẫn chỉ là truyền thuyết?

    Trong giới học thuật Trung Quốc, nhiều người “bĩu môi” cho rằng những luận cứ chứng minh Từ Phúc chính là Thần Vũ quá sức khiên cưỡng. Ngay cả việc thiên hoàng Thần Vũ là ai, bản thân người Nhật còn hiểu biết rất ít. Từ Phúc sau khi từ biệt Tần Thủy Hoàng đã đi đến đâu cũng không ai biết, tất cả chỉ là suy đoán. Đem hai câu chuyện mơ hồ ở hai đất nước để ghép vào nhau, chẳng qua cũng chỉ là cố chắp nối, gò ép để tin vào điều họ muốn tin mà thôi. Điều dễ tin hơn là: Từ Phúc không tìm được thuốc tiên, sợ bị Tần Thủy Hoàng trị tội nên không dám quay về nữa, thậm chí ông ta thừa biết không thể tìm được thuốc tiên nên chỉ giả vờ xuất hành chứ thực sự chả đi đâu xa.

    Cũng có thể đoàn thuyền của Từ Phúc đã đến được Nhật Bản, sinh sống và sinh con đẻ cháu ở đó; nhưng việc cố gán ông ta vào với thiên hoàng Thần Vũ – một nhân vật không chắc đã có thật – thì quá sức hoang đường. Đó là chưa kể niên đại của vị vua này cũng chỉ là truyền thuyết, không chứng minh được bằng lịch sử.

    Nhiều người Nhật hiện đại có tổ tiên xa xưa là người Trung Quốc, điều đó cũng bình thường bởi người ở Trung Quốc hoàn toàn có thể vượt biển di cư sang Nhật và để lại hậu duệ, nhưng đó không nhất thiết phải là Từ Phúc và những người đi cùng ông ta.

    Còn chuyện ở Nhật có rất nhiều di tích của Từ Phúc? Theo nhiều học giả, mộ Từ Phúc và các di tích liên quan nhiều khả năng chỉ là sự ngụy tạo của những người thích vẽ chuyện đời sau. Ngay nàng Vương Chiêu Quân cũng có vài ba ngôi mộ đó thôi! Những truyền thuyết về Từ Phúc lưu hành trong dân gian Nhật Bản có thể cũng được truyền từ Trung Quốc sang vào các đời sau lắm chứ, và từ đó dần dần làm mọc lên những ngôi đền hay “di tích” liên quan đến họ Từ.

    Tóm lại, chuyện Từ Phúc chính là thiên hoàng khai quốc của Nhật Bản vẫn chỉ là truyền thuyết, không có chứng cứ xác thực nào. Việc người ta thực hiện bao nhiêu nghiên cứu, cố chứng minh giả thuyết đó là thật, chẳng qua cũng xuất phát từ tâm lý “thiên triều”, thích nhận về mình vai trò khai hóa văn minh cho các dân tộc khác mà thôi.

    http://kienthuc.net.vn/tham-cung/201...g-Quoc-890486/

    [​IMG]

    Công viên Từ Phúc tại Nhật Bản với tượng của Từ Phúc

    Cũng giống các nước ĐNA trồng lúa ăn cơm bằng đũa thôi :), vì tổ tiên của nông nghiệp lúa ĐNA là Thần Nông người Hán mà :)
  5. cuchuoi_kt115

    cuchuoi_kt115 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    28/04/2012
    Bài viết:
    4.234
    Đã được thích:
    2.113
    Bác nói vậy chứ có những cái mà Mẽo còn lâu mới sánh kịp Tung hoa đại háng nhá.:)) Công nghệ làm giả và Cải trang hiện nay Anh Bự đang đứng số một nhé.
  6. MMichelHung

    MMichelHung Thành viên rất tích cực Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    14/12/2009
    Bài viết:
    7.599
    Đã được thích:
    7
    bác hài vãi[:P]. Cứ nhìn về lịch xử, đâu là những nước văn minh,tiến bộ và có nền tảng khoa học công nghệ xớm nhất. Đó là phương Tây.Nói chung quan điểm cá nhân của mình cho rằng 1 phần những thành tựu đó là do phong cách con người, văn hóa,lối tư duy...đặc trưng của họ:-":-":-"
  7. HaNoiOld

    HaNoiOld Thành viên gắn bó với ttvnol.com Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    13/06/2010
    Bài viết:
    1.059
    Đã được thích:
    199
    Có bài này đọc cũng hay nên xin phép post lên tuy rằng hơi tốn tài nguyên, xin cả nhà thông cảm [:P]
    "Làm cho nhân dân hai nước hiểu được, hiểu đúng mối quan hệ lịch sử này là một việc làm cần thiết, thậm chí rất cần thiết trong bối cảnh hiện nay.
    [​IMG]
    [​IMG]Có thể khẳng định, quan hệ hai nước Việt Nam và Trung Quốc là một mối quan hệ đặc biệt. Nó đặc biệt ở sự gần gụi, tương đồng. Không chỉ tương đồng về chế độ chính trị, về phương thức tổ chức xã hội và phát triển kinh tế trong thời kỳ hiện đại mà trước hết ở sự gần gụi láng giềng, ở sự gần gụi văn hóa, lịch sử. Ít nhất mối quan hệ này đã tồn tại từ khi lịch sử thành văn được ghi lại, hơn hai ngàn năm trước.
    Một ví dụ là ngay từ thời Tần Thủy Hoàng đã lưu truyền câu truyện về tướng Lý Ông Trọng, một người to lớn dị thường và có tài thao lược của đất Giao Chỉ, làm đến chức Tư lệ hiệu úy của nước Tần, giúp Hoàng đế dẹp loạn miền Tây Vực khiến quân Hung nô còn khiếp oai ngay cả khi ông đã nằm xuống.
    Làm cho nhân dân hai nước hiểu được, hiểu đúng mối quan hệ lịch sử này là một việc làm cần thiết, thậm chí rất cần thiết trong bối cảnh hiện nay, khi mà những sự tranh chấp về lợi ích lãnh thổ có nguy cơ vượt khỏi tầm kiểm soát và phủ mây đen lên mối quan hệ ấy.
    Trong tinh thần đó, chúng tôi hoan nghênh loạt bài viết dưới mái chung: "Những điều không thể không nói ra" mà Tạp chí "Tri thức thế giới" của Trung Quốc đăng tải vào dịp này năm ngoái. Đó là các bài: "Lịch sử và sự thật: Diễn biến quan hệ Trung - Việt trước năm 1949" (Tôn Hồng Niên, Nghiên cứu viên Trung tâm Nghiên cứu lịch sử biên cương, Viện KHXH Trung Quốc) - "Quan hệ Trung - Việt từ 1949 đến nay" ( Vu Hướng Đông, Giám đốc Học viện Chủ nghĩa Mác, Chủ nhiệm Phòng Nghiên cứu Việt Nam, Đại học Trịnh Châu) - "Những biến thiên trăm năm qua trong chiến lược ngoại giao với các nước lớn của Việt Nam" (Tôn Hồng Niên, Vương Thâm, Trung tâm Nghiên cứu Việt Nam, Đại học Trịnh Châu) - "Viện trợ Trung Quốc cho Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ" (Lục Đức An, Trung tâm Nghiên cứu Việt Nam, Đại học Trịnh Châu) và "Vấn đề biên giới trên đất liền và trên biển giữa Việt Nam với các nước láng giềng Đông Nam Á" (Trương Minh Lượng, Viện Nghiên cứu Đông Nam Á, Đại học Tế Nam).
    Tất cả được đăng trong số 14, ra tháng 7 năm 2011. Như cách đặt vấn đề và như chúng tôi có thể hiểu, các tác giả muốn vẽ lên một bức tranh chân thực về những gì diễn ra trước hết trong quan hệ Việt - Trung, và sau nữa là trong quan hệ giữa Việt Nam với các nước láng giềng, qua đó góp phần điều chỉnh nhận thức của người này người khác, ở phía bên này hoặc bên kia.Ý định ấy là tốt và cần thiết. Lời lẽ trong các bài viết cũng tương đối vừa phải, trừ vài ngoại lệ.
    Tuy nhiên, hoặc do quan điểm, nhận thức, hoặc do nguồn tư liệu dựa vào thiếu khách quan, nhiều nội dung trong loạt bài này đã không phản ánh sự thật, làm hỏng mục đích mà người viết có thể muốn đặt ra.
    Vì một số lý do, trong khuôn khổ bài viết này chúng tôi chưa có ý định trao đổi toàn bộ và triệt để các vấn đề mà "Những điều không thể không nói ra" đã đề cập. Chúng ta còn có nhiều dịp và nhiều cách để cùng nhau tìm đến sự thật.
    * *​
    1. Lịch sử thành văn của nước Việt - nghĩa là những điều được ghi lại trên giấy trắng mực đen - xuất hiện khá muộn, hàng ngàn năm sau công nguyên. Hai lý do chủ yếu: chữ viết xuất hiện muộn và cả một thiên niên kỷ mất độc lập được gọi là "thời kỳ Bắc thuộc" - một ngàn năm Bắc thuộc. Lịch sử Việt Nam trong những năm tháng này còn là một phần lịch sử Trung Hoa, điều dù muốn hay không cũng phải thừa nhận. Và dù muốn hay không cũng phải thừa nhận, với Việt Nam một ngàn năm ấy là một ngàn năm không bình yên, nói một cách khiêm tốn.
    Liệu có cần thiết phải nhắc lại những chuyện " sát phu, hiếp phụ", "bỏ xác cho hổ đói lên rừng bắt chim chả, chặt ngà voi; chịu để giao long ăn thịt xuống biển mò ngọc trai, kiếm đồi mồi" cung phụng các quan cai trị? Rồi một ngàn năm độc lập, những cuộc xâm lược từ phương Bắc đã để lại những gì tưởng chỉ cần nhắc đến một câu của thi hào Nguyễn Trãi thế kỷ thứ XV, "Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn / Vùi con đỏ dưới hầm tai họa", viết trong " Đại cáo bình Ngô".
    Những cuộc xâm lược của Tống, Nguyên, Minh, Thanh trong kỷ nguyên độc lập của Việt Nam đều hết sức khốc liệt, đâu có phải quan hệ giữa hai nước trong thời kỳ này"trên tổng thể là hòa bình, hữu nghị". Tác giả của "Diễn biến quan hệ Việt - Trung trước năm 1949"chỉ thừa nhận một cuộc xâm lược đến từ phía Bắc, đó là cuộc xâm lược của nhà Nguyên trong thời kỳ này (và lịch sử chính thống của Trung Quốc cũng chỉ thừa nhận như vậy) còn thì "phần nhiều những cuộc xung đột và chiến tranh giữa hai nước là do giới phong kiến Việt Nam quấy nhiễu biên giới Trung Quốc gây ra".
    Cần phải nói rõ những điều này. Một, chỉ một lần duy nhất nhà nước phong kiến Việt Nam có cuộc Bắc phạt và cũng chỉ với một mục đích duy nhất là phá cuộc chuẩn bị xâm lược Việt Nam của nhà Tống. Đó là vào ngay thời kỳ đầu sau Bắc thuộc, năm 1075, nhà Lý (Việt Nam) phát hiện nhà Tống (Trung Quốc) lập các tiền đồn tích trữ binh lương ở Quảng Tây nhằm chuẩn bị tiến đánh "Giao Châu" (nước Việt) nên đã xuất quân, đánh xong lập tức rút ngay về phòng ngự mà vẫn không tránh khỏi cuộc tiến quân ồ ạt sau đó của nhà Tống.
    Hai, có lẽ chỉ dựa vào chính sử do các triều đại phong kiến Trung Quốc để lại mà các tác giả của "Những điều không thể không nói ra" không thừa nhận có các cuộc xâm lược Việt Nam của Tống, Minh, Thanh. Bởi vì "chính sử" luôn tìm cách mô tả đấy là những cuộc hành binh khôi phục trật tự, lập lại ngôi vương chính danh được các triều đình phong kiến Trung Quốc thừa nhận (nhưng là những phế để, phế triều đã bị sóng triều lịch sử Việt Nam gom về bến rác).
    Sự thực như thế nào? Lấy ví dụ cuộc tiến quân dưới danh nghĩa "phù Trần, diệt Hồ" của nhà Minh đầu thế kỷ XV. "Phù Trần diệt Hồ" ở chỗ nào khi diệt xong cha con Hồ Quý Ly rồi liền bắt các kỳ hào, bô lão ký vào một tờ biểu dâng lên rằng: "Nay họ Trần không còn ai nữa, vả đất An Nam vốn là Giao Châu ngày trước, xin được đặt lại quận huyện như cũ" (theo "Minh sử").
    Nhưng có một thực tế là con cháu nhà Trần vẫn nổi lên ầm ầm chống lại quân Minh, lập nên một triều đại được lịch sử gọi là "kỷ Hậu Trần" thì người Minh lại gọi là "giặc" và phái binh đàn áp! Một thời kỳ "Bắc thuộc mới" kéo dài 20 năm với chính sách đồng hóa quyết liệt (tất cả sử sách nước Nam đều bị thu hết về Kim Lăng), với sưu cao thuế nặng, bắt phu khai mỏ vàng mỏ bạc rồi "chim chả, ngà voi" tận thu tận diệt khiến dân tình vô cùng khổ sở. Phải một cuộc kháng chiến gian khổ máu xương dằng dặc 10 năm của Lê Lợi - Nguyễn Trãi cuối cùng mới đưa được "cuộc phù Trần" về bên kia biên giới.
    Làm sao có thể nói trong kỷ nguyên độc lập của Việt Nam ở thiên niên kỷ thứ hai, "giới thống trị Trung Quốc bấy giờ hoàn toàn không chủ động can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam" được? Và ngay trong thời kỳ được coi là giao kết hòa hiếu giữa hai nước trong quan hệ "tông phiên" thì các triều đình phong kiến Việt Nam vẫn luôn bị sách nhiễu, áp lực.
    Chỉ riêng việc đòi hỏi cung phụng, cống nạp - nhất là những sản vật quý hiếm - cũng trở thành gánh nặng tài chính cho nước Việt, gánh nặng khổ ải cho thứ dân, không thể nói là "không đáng kể", "tổng giá trị (của các đồ cống nạp) luôn thấp hơn đồ "hồi tặng" (từ phía triều đình Trung Quốc)" được.
    Năm 1950, khi đích thân tiếp và tiễn đoàn cố vấn quân sự của nước Trung Hoa nhân dân sang giúp Việt Nam kháng Pháp, Chủ tịch Mao Trạch Đông căn dặn: "Các đồng chí phải nói với nhân dân Việt Nam rằng tổ tiên chúng ta đã có lỗi với Việt Nam, chúng ta xin tạ tội và nguyện một lòng một dạ ra sức giúp Việt Nam đánh bại thực dân Pháp" (trích Hồi ký xuất bản bằng tiếng Hán của các Cố vấn Trương Quang Hoa, Vũ Hóa Thẩm, Đặng Kim Ba).
    Thủ tướng Chu Ân Lai trong lần đầu tiên sang thăm Việt Nam năm 1955, việc đầu tiên mà ông làm là đến thắp hương Đền thờ Hai Bà Trưng, những nữ tướng Việt Nam kiệt xuất trong thế kỷ thứ nhất cầm quân nổi dậy chống quân xâm lược nhà Hán và đã anh dũng hy sinh. Thiết nghĩ không cần phải dẫn thêm những ý kiến phát biểu của các nhà lãnh đạo khác như Diệp Kiếm Anh, Vi Quốc Thanh... xung quanh vấn đề này.
    Tuy nhiên, cũng cần phải khẳng định, mối quan hệ tổng thể giữa hai nước láng giềng Việt Nam và Trung Quốc suốt mấy ngàn năm lịch sử không phải là một bức tranh tối màu, nhất là quan hệ dân gian. Trong sự phát triển và trưởng thành của mình, người Việt, nước Việt đã tiếp thu và học tập được nhiều từ nền văn hóa - văn minh Trung Hoa. Đấy cũng là một trong nguyên nhân dẫn đến sự gần gụi, hiểu biết giữa nhân dân hai nước. Đấy cũng là thực tế hiển nhiên không thể phủ định. Không thể có chuyện giới nghiên cứu khoa học, nghiên cứu lịch sử Việt Nam trong trăn trở tìm về nguồn cội lại bỏ qua những giá trị xác định để thay bằng những lập luận"khoác lác", "hư cấu"? Càng không thể tưởng tượng ra rằng nó có mục đích "đưa vào nội dung giáo dục quốc dân" để làm băng hoại quan hệ hữu nghị giữa hai nước, hai dân tộc.
    2. Nửa sau của thế kỷ trước (thế kỷ XX), Việt Nam đã phải liên tục chiến đấu chống lại hai cuộc chiến tranh không cân sức: Kháng Pháp và kháng Mỹ. Cùng với nhân dân toàn thế giới, Trung Quốc đã có sự ủng hộ và giúp đỡ to lớn, có hiệu quả về cả vật chất lẫn tinh thần cho cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam. Vào thời kỳ cao điểm, khi Mỹ trực tiếp đổ quân vào tham chiến - có lúc lên đến hơn nửa triệu - nhiều chính phủ và tổ chức nhân dân trên thế giới đã tuyên bố sẵn sàng gửi quân chí nguyện đến giúp đỡ Việt Nam, nếu được phía Việt Nam chấp nhận.
    Với tinh thần tự lực cánh sinh, dựa vào sức mình là chính và cũng xét tới các hệ lụy, Chính phủ Việt Nam không chủ trương nhận quân tình nguyện chiến đấu, đặc biệt là bộ binh, và đã bày tỏ sự cảm ơn chân thành của mình đến thiện chí năm châu. Những quân nhân nước ngoài có mặt ở phía Bắc Việt Nam lúc ấy bao gồm một số lượng hạn chế các cố vấn và chuyên gia quân sự Liên Xô trong các binh chủng kỹ thuật (tên lửa phòng không, không quân ...), một vài biên đội không quân của CHDCND Triều Tiên mà lãnh đạo nước này mong muốn được đưa sang để thực tập chiến đấu.
    Chính phủ Trung Quốc cũng đã nhiều lần bày tỏ thiện chí sẵn sàng gửi quân tình nguyện đến Việt Nam trong các tuyên bố công khai cũng như trong những lần gặp gỡ trực tiếp lãnh đạo Việt Nam. Kết quả là đã dẫn tới các ký kết giữa hai nước về việc đưa bộ đội hậu cần (công binh) của Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc vào giúp việc khắc phục giao thông bị phá hoại bởi cuộc chiến tranh phá hoại của không quân Mỹ ở Miền Bắc.
    Trung Quốc cũng đề nghị đưa vào cả bộ đội pháo cao xạ để bảo vệ lực lượng công binh tác nghiệp. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã rất quan tâm đến lực lượng này. Người yêu cầu các nhà lãnh đạo Quân đội Việt Nam không đưa bộ đội Trung Quốc đến những vùng quá khó khăn ác liệt vì bạn chưa quen.
    Thời kỳ đó, không quân Mỹ chia chiến trường Bắc Việt Nam thành ba vùng tác chiến: Vùng đánh phá tự do suốt ngày đêm từ Thanh Hóa trở vào vĩ tuyến 17, là vùng ác liệt nhất. Vùng thứ hai, vùng đánh phá có trọng điểm bao gồm Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định và các vị trí chiến lược phía nam đường số 5. Vùng thứ ba, đánh phá có chọn lọc, là các tuyến giao thông phía bắc đường số 5.
    Chấp hành chỉ thị của Chủ tịch Hồ Chí Minh, bộ đội Trung Quốc đã được bố trí tác nghiệp trong vùng từ phía bắc đường số 5 đến biên giới Việt - Trung. Các lực lượng chí nguyện Quân Giải phòng Trung Quốc đã chiến đấu, phục vụ chiến đấu dũng cảm, quên mình vì nghĩa lớn, đồng cam cộng khổ với nhân dân Việt Nam, không chỉ góp phần khắc phục đường sá bị phá hoại, giúp Việt Nam làm mới nhiều con đường, nhiều công trình mà còn tham gia chiến đấu, trực tiếp bắn rơi hơn 100 máy bay Mỹ. Tổng cộng đã có hơn 310.000 lượt bộ đội Trung Quốc có mặt trên chiến trường miền Bắc Việt Nam từ năm 1965 đến năm 1968 (nói chung, 6 tháng thay quân một lần) trong đó hơn 1000 chiến sĩ hy sinh (hơn 4000, bao gồm cả các chiến sĩ bị thương).
    Theo đề nghị của phía Trung Quốc, các liệt sĩ Trung Quốc đã được chôn cất tại trên 40 nghĩa trang ở Việt Nam và hiện nay vẫn được chính quyền và nhân dân các địa phương coi sóc, tu tạo.
    3. Phía Trung Quốc từng xuất bản một cuốn sách công bố 7 lần xuất quân ra nước ngoài của Quân Giải phóng Nhân dân từ sau ngày thành lập nước CHND Trung Hoa, trong đó quá nửa là xuất quân sang Việt Nam. Điều đau lòng là, hầu hết những lần xuất quân đến Việt Nam ấy đều được mô tả là để "đánh trả", "trừng phạt" cái quốc gia mà Trung Quốc từng coi là anh em (đến bây giờ có lẽ vẫn là "anh em" vì lãnh đạo hai bên nói chung vẫn ôm hôn nhau theo kiểu "các nước anh em" thường làm).
    Chúng tôi sẽ không đề cập đến ở đây bản chất các cuộc "đánh trả""trừng phạt" ấy - xin trở lại một dịp khác, nếu cần thiết - mà chỉ xin trao đổi những gì liên quan được nêu ra từ các bài viết trong "Những điều không thể không nói ra".
    Thứ nhất, phải khẳng định rằng, trừ cuộc "tiến quân" trong giai đoạn 1965 -1968 nhằm chi viện nhân dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ mà tôi vừa đề cập, tất cả các cuộc tiến quân khác (1974: đánh chiếm Hoàng Sa - Trung Quốc gọi là Tây Sa; 1979: Chiến tranh biên giới Việt - Trung; 1983 - 1984: đánh chiếm các điểm cao chiến lược ở tỉnh Hà Giang - Trung Quốc gọi là Lão Sơn (và xung quanh); 1988: đánh chiếm một số đảo ở Trường Sa - Trung Quốc gọi là Nam Sa) đều do Trung Quốc âm thầm khởi binh rồi bất ngờ đánh úp, nhằm lúc đối phương chưa sẵn sàng chuẩn bị. Tất cả đều giống nhau, không ngoại lệ. Làm gì có cái gọi là "sự xâm lăng, khiêu khích từ phía Việt Nam"? Mưu kế chiến tranh từ thời Tôn Tử đã chẳng lạ gì phương sách mà sau này L.Hart và nhiều tác gia quân sự đông tây phải ngả mũ, "Nguyên cớ ư ? Ở ta!"
    Thêm nữa, sau năm 1975, mặc dù giành được nguyện vọng ngàn đời là độc lập dân tộc, thống nhất non sông, Việt Nam hoàn toàn bị kiệt quệ bởi ba mươi năm chiến tranh (nền kinh tế Việt Nam bị tụt đến đáy trong thập niên 75 - 85 là một minh chứng). Lo ăn, lo mặc cho dân mình còn chưa xong lẽ nào Việt Nam còn muốn mang sức kiệt đi đánh nước người? Mà đó lại là quốc gia hùng mạnh Trung Quốc và còn hơn thế nữa, một đất nước đã có sự ủng hộ to lớn cho Việt Nam trong kháng chiến! Ơn vừa mới đó mà đã quên được ư? Trọng ơn là truyền thống của dân tộc này, không ai có thể bới ra được chứng cứ ngược lại!
    Và do đó phải thừa nhận là Việt Nam đã bị bất ngờ khi cuộc chiến tranh tháng 2/1979 xảy ra. Có thể có xung đột cường độ thấp nhưng là cả một cuộc chiến tranh với sự tiến quân ồ ạt của hàng chục sư đoàn đối phương trên toàn tuyến biên giới là điều chưa được phía Việt Nam tiên liệu.
    Thứ hai, cần phải nói rõ một điều: Việt Nam chưa bao giờ tuyên bố Trường Sa và Hoàng Sa (Nam Sa và Tây Sa) là của một quốc gia nào khác ngoài Việt Nam. Và càng không có việc Việt Nam đã "hoàn toàn thay đổi lập trường" về vấn đề này. Câu chuyện như sau: Năm 1958, sau khi Trung Quốc tuyên bố chủ quyền về lãnh hải 12 hải lý, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã gửi thư cho Thủ tướng Chu Ân Lai bày tỏ sự ủng hộ tuyên bố ấy, chỉ đơn giản như vậy. Sự ủng hộ đó là thiện chí nếu tính tới cuộc xung đột giữa nước Trung Hoa nhân dân với Đài Loan trong vùng Kim Môn, Mã Tổ lúc bấy giờ. Còn trong năm 1974, khi xảy ra sự việc Trung Quốc đánh chiếm Hoàng Sa (Tây Sa), chính các bên đang quản lý thực tế vùng biển này là Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam và Chính phủ Việt Nam Cộng hòa đã lên tiếng phản đối.
    Thứ ba. Bắt đầu từ sự xâm lược của thực dân Pháp thế kỷ XIX lập nên xứ Đông Dương thuộc Pháp rồi tiếp đến là cuộc chiến tranh do Mỹ gây ra giữa thế kỷ XX mà mà vận mệnh của ba nước Đông Dương gắn chặt với nhau: chung một kẻ thù, chung một mục đích giải phóng và độc lập dân tộc. Trong cuộc đấu tranh chung, Việt Nam đã nhận được sự ủng hộ và giúp đỡ to lớn của nhân dân Lào, nhân dân Campuchia anh em và Việt Nam cũng hết lòng vì đất nước và nhân dân bạn. Làm theo lời dạy đầy ý nghĩa của Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Giúp bạn là giúp mình", hàng chục vạn chiến sĩ Quân tình nguyện Việt Nam đã không tiếc xương máu chiến đấu quên mình trên đất nước Lào và đất nước Campuchia, không nhằm một mục đích tiểu bá, đại bá hay Liên bang Đông Dương nào hết.
    Một khi chiến tranh kết thúc, tình hình yên ổn trở lại và được nhân dân bạn cho phép, tất cả các lực lượng này đã rút hết về nước, bao gồm cả những liệt sĩ đã nằm xuống trên đất Lào, Campuchia cũng được quy tập về đất mẹ Việt Nam (con số được quy tập đến nay đã là gần 50.000 liệt sĩ). Việt Nam, Lào, Campuchia ngày nay lại cùng đoàn kết, giúp đỡ nhau phát triển đất nước mình, với tư cách là những quốc gia độc lập, có chế độ chính trị riêng biệt, điều mà cả thế giới đều thấy rõ.
    Đáng ngạc nhiên là trong bài "Vấn đề biên giới trên bộ và trên biển giữa Việt Nam và các nước Đông Nam Á", tác giả gợi lại vấn đề không có thực là "lãnh thổ K.K.K""một phần đất đai Campuchia bị mất vào tay Việt Nam". Với mục đích gì vậy? Tác giả có biết rằng trong tháng 8 năm 2012 vừa qua chính đại diện của nước CHND Trung Hoa tại Liên Hợp quốc đã bỏ phiếu bác bỏ yêu cầu được có tiếng nói tại tổ chức quốc tế này của cái gọi là "phong trào K.K.K"? Sự trung thực cộng sản - nếu có thể gọi như vậy - là ở chỗ nào?
    Thứ tư. Có những sự thực ít người biết đến, nhưng chẳng lẽ những người chủ trì một tạp chí có tên tuổi trong ngành như "Thế giới tri thức" lại ở trong trường hợp như vậy? Tôi muốn đề cập câu chuyện về điểm cao khống chế 1509 mà Trung Quốc gọi là Lão Sơn. Trong bài "Quan hệ Việt - Trung từ năm 1949 đến nay", tác giả đã mô tả những trận đánh đẫm máu, ác liệt để giành khu vực này vào năm 1984 như là cuộc chiến đấu vinh quang chống lại sự xâm lược của quân đội Việt Nam.
    Hơn nữa, chúng tôi còn được biết, nơi đây nay đang trở thành một điểm du lịch của phía Trung Quốc với những trưng bày và thuyết minh bất chấp chân lý, bất chấp mọi sự nhẫn nhịn, trên thực tế phá hoại quan hệ Việt-Trung mà các bạn bày tỏ muốn vun đắp. Liệu có cần phải đánh thức "sự thật lịch sử"?
    Cuối cùng, về câu chuyện hoang đường "Việt Nam bắt nạt Trung Quốc", "Việt Nam luôn áp dụng phương châm đối đầu trực diện với Trung Quốc, một bước không lùi", để thay lời kết luận, tôi xin kể hai chuyện nhỏ : Tháng 1/1979, khi quân đội Việt Nam mở chiến dịch phản công đánh trả cuộc xâm lấn toàn diện của chế độ Pôn Pốt với một tốc độ tiến quân mà các hãng thông tin trên thế giới mô tả là nhanh như điện sẹt, các mũi tiến công và vu hồi đã sẵn sàng khép chặt biên giới Campuchia - Thái Lan trong "tích tắc", thì lập tức nhận được lệnh buông lỏng, nhờ đó mà bộ sậu lãnh đạo Khơme đỏ chạy thoát. Nhưng mục đích đã đạt được: Không để một ai trong số hàng ngàn chuyên gia cố vấn quân sự và dân sự "người nước ngoài" bị kẹt lại hoặc bị bắt giữ.
    Câu chuyện thứ hai là tháng 2 năm ấy (1979), bị bất ngờ bởi cuộc tấn công của Quân đội Trung Quốc, các lực lượng phòng ngự Việt Nam tạm thời bị đẩy lui khỏi tuyến biên giới. Nhưng ngay sau cuộc phòng ngự, bộ đội Việt Nam đã tổ chức phản công và một chiến dịch - chiến lược tiến công quy mô với lực lượng mạnh cả xung lực lẫn hỏa lực nhằm vào đối phương đang tập trung ở một thành phố biên giới đã được triển khai. Mọi sự đã sẵn sàng và đây chắc chắn là một đòn giáng trả mạnh mẽ, gây thương vong nặng nề. Chỉ ít giờ trước thời điểm nổ súng, chiến dịch được hủy bỏ khi phía Trung Quốc tuyên bố bắt đầu cuộc triệt thoái.
    Thẳng thắn và mà nhìn nhận, quan hệ Việt Nam - Trung Quốc bản chất là một mối quan hệ tích cực và cần phải như vậy. Xin được đề cập đến vào một dịp khác. Bài viết này của tôi không có mục đích tranh luận, ngay cả về phương diện học thuật. Nó đơn giản chỉ là "những điều không thể không nói ra", không thể không làm rõ vậy thôi.
    ---------------------------------------------
    Chú thích: Những chữ để nghiêng trong bài này là trích từ "Những điều không thể không nói ra" hoặc từ các cuốn sách xuất bản ở Trung Quốc (TG).
    TS VŨ CAO PHAN (TUẦN VIỆT NAM)



    P/s : Thằng Bat_cut kia, mày cút ngay. Đừng có chọc ngoáy[r37)]
  8. Tran-Trung

    Tran-Trung Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    17/11/2010
    Bài viết:
    1.437
    Đã được thích:
    563
    Nhật chuẩn bị kịch bản chiến tranh với Trung Quốc
    11/01/2013 16:35
    (TNO) Có ba trong số năm kịch bản chiến tranh được Bộ Quốc phòng Nhật vạch ra gần đây liên quan đến cuộc đối đầu giữa Lực lượng Phòng vệ Nhật và Quân đội Giải phóng Nhân dân Trung Quốc (PLA), theo tờ The Diplomat hôm 9.1.

    Hai kịch bản chiến tranh còn lại liên quan đến tên lửa đạn đạo của CHDCND Triều Tiên và Nga, theo tờ tạp chí ở Nhật, song những kịch bản hàng đầu vẫn là cuộc khủng hoảng ở biển Hoa Đông.

    Kịch bản đầu tiên được xem xét là một cuộc chiến giữa Trung Quốc và Nhật tại quần đảo tranh chấp Senkaku/Điếu Ngư ở biển Hoa Dông.

    Kịch bản thứ hai là sự mở rộng của kịch bản thứ nhất, với việc cuộc chiến ở Senkaku/Điếu Ngư mở rộng và PLA âm mưu chiếm các đảo Ishigaki và Miyako của Nhật ở phía tây Đài Loan.

    [​IMG]

    Kịch bản thứ ba, gây nhiều tranh cãi nhất, tập trung vào viễn cảnh Nhật sẽ phản ứng như thế nào trước một cuộc tấn công Đài Loan vào năm 2021 của Trung Quốc. Năm 2021 được chọn vì nó trùng với dịp kỷ niệm 100 năm ngày thành lập đảng Cộng sản Trung Quốc.

    Theo kịch bản này, PLA sẽ chủ yếu trông cậy vào các tàu đổ bộ, biệt kích, tên lửa đạn đạo và phong tỏa bằng máy bay chiến đấu để đạt được mục tiêu.

    Mặc dù kịch bản xác định rõ cuộc chiến trước hết chỉ liên quan đến PLA và Đài Loan, nó vẫn nêu ra khả năng Trung Quốc sẽ tấn công các căn cứ Mỹ và Nhật ở Okinawa, đồng thời sử dụng các tên lửa đạn đạo tầm xa như DF-21D và DF-31 để đe dọa các tàu sân bay trong khu vực và phía tây nước Mỹ nếu quân đội Mỹ cố gắng can thiệp vào cuộc xung đột, theo tờ The Diplomat.

    Điều đáng chú ý là Nhật sẽ có trách nhiệm chi viện Đài Loan trong trường hợp PLA giao chiến với lực lượng của hòn đảo này, theo tường thuật mới đây của tờ Sankei Shimbun.

    Trong nhiều năm qua, từng có các đồn đoán về việc liệu Tokyo có can thiệp nếu PLA đánh chiếm Đài Loan hay không.

    Theo các tường thuật vào năm 2007, các quan chức Nhật và Mỹ từng cân nhắc kế hoạch phối hợp hành động trong trường hợp này vì lo ngại sức mạnh quân sự ngày càng gia tăng của Trung Quốc. Theo đó, Nhật sẽ cung cấp hỗ trợ ở hậu phương cho lực lượng Mỹ, theo quy định trong Quy tắc hướng dẫn thực thi Hợp tác quốc phòng Mỹ - Nhật.

    Theo tờ Asahi Shimbun vào hôm 10.1, Nhật và Mỹ sẽ khởi động việc xem xét lại các nguyên tắc trên nhằm củng cố liên minh này trong thời gian tới.

    Các quan chức ngoại giao và quốc phòng hai nước sẽ mở các cuộc đàm phán ở Tokyo về hướng dẫn thực thi sớm nhất vào ngày 16.1.

    Không phải ngẫu nhiên mà những nỗ lực vào năm 2007 cũng xảy ra khi Thủ tướng Shinzo Abe nắm quyền lần thứ nhất.

    Theo tờ The Diplomat, trước động thái hung hăng của Trung Quốc trong năm 2012 ở biển Hoa Đông và biển Đông, các quan chức Nhật cảm thấy họ khó có thể yên ổn trước viễn cảnh đảo Đài Loan thuộc quyền kiểm soát của Trung Quốc. Do vậy, Tokyo có thể nghiêng về việc bảo đảm rằng hòn đảo này sẽ duy trì vai trò rào chắn tự nhiên trước sự bành trước của Trung Quốc.
  9. DuroDakovicM95Degman

    DuroDakovicM95Degman Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    10/05/2012
    Bài viết:
    1.510
    Đã được thích:
    586
    Có cho tièn cüng chã giám bem Senkaku, de roi xem! An hiep nhà ngèo nhu Vit thì còn dc, dung den nhà giàu hã? quên nhá, nó tát cho véo mòm.
  10. Bat_Nhat_1_8

    Bat_Nhat_1_8 Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    12/10/2012
    Bài viết:
    470
    Đã được thích:
    0
    He he DF-41/5 bắn tới cả Mỹ rồi. Mà TQ hiện tại ko muốn đánh ai hết đồng chí à [-(. Mỹ đang là chủ nợ, TQ chơi đòn "cây gậy và củ cà rốt" là đủ rồi. Nhân dân nhật cũng sắp đuổi cổ Mỹ rồi, cần gì đánh nữa ? TQ chỉ muốn ko còn bóng ********* Mỹ nào ở Châu Á, ĐNA, ĐBA là đủ rồi.
    ----------------------------- Tự động gộp bài viết ---------------------------
    Ai nói TQ thua Mỹ ? TQ giờ ngang toàn diện Mỹ rồi (Thể Thao, Văn Hóa, Quân Sự, Địa Chính Trị), chỉ có kinh tế Mỹ hơi nhỉnh xíu thôi (vì nhờ xâm lược vơ vét)

Chia sẻ trang này