1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Chuyến đi ngày cuối tuần (Chủ nhật 14/11: Phố Hiến - Làng hương xạ Cao Thôn)

Chủ đề trong 'Hồi ức về các chuyến đi' bởi paper_hn, 23/08/2010.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. paper_hn

    paper_hn Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    25/08/2004
    Bài viết:
    165
    Đã được thích:
    0
    Cuối cùng BCK cũng đi đc MCC!
    Xe của caovut đi (tự tiện tiết lộ) vẫn còn chỗ trống nhé ;)) Bạn nào định đi cùng thử gọi bác ý xem ;)

  2. BCK

    BCK Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    11/09/2010
    Bài viết:
    624
    Đã được thích:
    0
    Theo lịch trình của nhóm bạn đó thì xuất phát từ trưa rồi. Mình vừa đi Hà Giang về lại nhớ núi nhớ đèo với không gian rộng mở tha hồ fóng tầm mắt thưởng ngoạn. Tai hại thế đó [:D]
  3. alooooooo123

    alooooooo123 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    15/08/2007
    Bài viết:
    886
    Đã được thích:
    0
    Mình mới đi e này tuần trc :). Tiện đg các bạn nên ghé làng Thổ Hà trước, rồi hẵng sang chùa Bổ. Thổ Hà đẹp :D
    -----------------------------Tự động gộp Reply ---------------------------
    paper đi đi [-X

    =))
  4. duyhong5

    duyhong5 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    06/09/2010
    Bài viết:
    2
    Đã được thích:
    0
    Box này paper bỏ bê chẳng có uy tín j cả :(
  5. paper_hn

    paper_hn Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    25/08/2004
    Bài viết:
    165
    Đã được thích:
    0
    Ku hâm lắm. Lần sau cho ku ở nhà >:)

  6. fireworkswu

    fireworkswu Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/03/2006
    Bài viết:
    53
    Đã được thích:
    0
    Chuyến đi chùa Bổ Đà thế nào chị paper? Có đông vui như phiên chợ Chuông ko ạ?
    Sáng em đã rủ 1 bạn, định đi muộn hơn vì có việc, vậy mà việc ko xong nên chẳng đi được :(
  7. beoyeupro

    beoyeupro Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    09/09/2010
    Bài viết:
    3
    Đã được thích:
    0
    tuần sau đi vào chủ nhật đi bạn, mình đăng ký 1 suất !!!!
  8. paper_hn

    paper_hn Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    25/08/2004
    Bài viết:
    165
    Đã được thích:
    0
    Vì firework ko đi, cho nên buồn thảm lắm, vui làm sao đc :-"
    Tuần sau đi nhé :)

    -----------------------------Tự động gộp Reply ---------------------------
    Vâng ạ [:P]

    -----------------------------Tự động gộp Reply ---------------------------
    Hôm trước đã đi (theo thứ tự) chùa Tiêu Sơn - chùa Bổ Đà - đền Bà chúa kho.

    Sau đây là một số thông tin về chùa Tiêu Sơn của chuyến đi đó nhé

    Chùa Tiêu Sơn và pho tượng táng
    12/07/2009 19:38 (GMT+7)Kích cỡ chữ:

    Phong cảnh chùa Tiêu Sơn
    Đi theo đường Hà Nội - Bắc Ninh, đến ki-lô-mét 20 nhìn về bên trái, thấy có quả núi đất mọc lên giữa đồng lúa mênh mông. Tại lưng chừng núi, giữa rừng cây sum suê, thấp thoáng mái chùa cổ kính. Đó là chùa Tiêu Sơn, tên chữ Thiên Tâm tự, nay thuộc xã Tương Giang, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh.

    Nằm gần trung tâm Phật giáo Luy Lâu, lịch sử chùa Tiêu Sơn gắn liền với lịch sử dựng nước của dân tộc. Linh khí đất Tiêu Sơn đã sản sinh cho dân tộc một người con ưu tú. Đó là vua Lý Thái Tổ.

    Đến Tiêu Sơn, ngay trên đường lên nhà Tổ và chùa chính, ta gặp một nhà bia. Ở hai cột nhà bia đắp nổi đôi câu đối:

    Lý gia linh tích tồn bi ký

    Tiêu lĩnh danh khu đắc sử truyền

    (Dấu thiêng nhà Lý còn bia tạc,

    Danh thắng non Tiêu có sử truyền)

    Ở giữa nhà bia đặt một tấm bia bằng đá nhám kích thước 60 x 40 x 25cm, mặt chính khắc bốn chữ “Lý gia linh thạch”. Bia trước ở vách núi, ba mặt bị đất cỏ che lấp, khi chuyển vào nhà bia, người ta mới biết mặt sau có khắc chữ Hán. Ông Nguyễn Công Nha, người làng Đình Bảng đã dịch nghĩa. Xin trích một đoạn: “Chùa Thiên Tâm có Lý Vạn Hạnh chủ trì tăng viện người làng Cổ Pháp. Đặc biệt phía Đông chùa, bên tả ngạn sông Tương có bà họ Phạm khi lên chùa đèn nhang thường thấy một vị thần hầu đứng cạnh cột chùa. Người dạy đi theo vào giữa hang núi lấy của. Điềm hóa khói hương bay hiện Lục giáp thần thông. Từ ấy, sư bà ngẫm sự việc hiện nơi mặt đá lúc ngồi trên núi (thấy trong người có sự linh nghiệm khác thường). Rồi ngẫu nhiên thành có thai sinh người con họ Lý”.

    Ngay sau ngày bà Phạm Thị có thai, vì lễ giáo thời đó, từ chùa Tiêu bà đã không thể về quê mẹ ở Hoa Lâm. Bà được Lý Khánh Văn, em trai Lý Vạn Hạnh đưa về Đầm Sấu chăm sóc. Ngày 12 tháng 12 năm Giáp Tuất (974), bà sinh Lý Công Uẩn tại cái am nhỏ ở chùa. Từ đó ngôi chùa được dân gian gọi là chùa Dặn. Lý Công Uẩn tư chất thông minh lại được Lý Khánh Văn nuôi dạy chu đáo. Tháng 10 năm Kỷ Dậu (1009), Lê Long Đĩnh mất, được sự giúp rập của quốc sư Vạn Hạnh, Điện tiền chỉ huy sứ Lý Công Uẩn lên ngôi vua, tức vua Lý Thái Tổ, trở thành vị vua khai sáng triều Lý.

    Chùa Thiên Tâm quy mô to lớn. Trước đây, hằng năm có hàng trăm tăng, ni từ khắp nước về đây nghe kinh, giảng đạo. Trong nhiều thế kỷ, chùa là nơi khắc ván in các bộ kinh lớn của nhà Phật. Vào năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, ngôi cổ tự bỗng chốc đã biến thành đống tro tàn. May thay ở sườn núi còn khá nguyên vẹn 14 ngọn tháp, là nơi yên nghỉ của các vị sư tổ. Hình bóng ngôi chùa ta chỉ còn gặp thấp thoáng đâu đây trong những trang tiểu thuyết “Tiêu Sơn tráng sĩ” của nhà văn Khái Hưng.

    Vào những năm 80 của thế kỷ XX, chùa Tiêu Sơn đã được dựng lại đơn sơ trên nền móng cũ. Năm 1992, nhân dân địa phương công đức tiền của dựng ngôi bảo tháp thờ vọng Lý Vạn Hạnh ở trước tòa tam bảo; lại dựng tượng vị thiền sư trên đỉnh núi Tiêu. Tượng Lý Vạn Hạnh tạo ở thế tọa thiền cao 8m, mặt hướng về phía kinh thành Thăng Long. Năm 2001 dựng lầu Bồ Tát giữa hồ nước lớn trước chùa. Năm 2002 dựng nhà Tổ. Năm 2003 dựng tam bảo theo kiến trúc xưa.

    Điều đặc biệt là khi chùa Tiêu Sơn vừa hoàn thành việc tôn tạo thì các bô lão ở địa phương chợt nhớ đến lời của dân làng từ bảy tám mươi năm trước nói rằng ở ngôi tháp trước tòa tam bảo có cốt một nhà sư. Ngày ấy, qua khe gạch nứt vỡ người ta đã nhìn rõ hình hài pho tượng táng. Sau do chiến tranh và sợ bị động, nhà chùa đã xây bịt cửa tháp. Chắp nối lời kể và qua khảo sát thực tế, vị sư trụ trì đã xác định được vị trí của ngôi tháp đó. Tháp xây gạch cao hai tầng. Tầng một của tháp rộng 2,4m. Ở bốn mặt tầng hai của tháp có gắn các hoa văn trang trí bằng đất nung cỡ 30 x 30cm. Ở riềm bức họa gắn tại cửa chính có đắp nổi các chữ Hán viết theo lối chữ triện. Đọc các dòng chữ đã xác định được ngôi tháp này là của Hòa thượng Thích Như Trí, tên hiệu Tính Không và tháp được xây vào năm thứ tư niên hiệu Bảo Thái (1723). Hòa thượng Thích Như Trí là người có công trùng san và in nhiều bộ sách Phật học, trong đó có “Thiền uyển tập anh”. Trong lời tựa bản “Thiền uyển tập anh”, Nhà xuất bản Văn học in năm 1990, Hòa thượng Thích Thanh Tứ viết: “Thiền uyển tập anh là cuốn sách cổ của Phật giáo Việt Nam ghi lại các tông phái Thiền học và sự tích các vị thiền sư nổi tiếng vào cuối thời Bắc thuộc cho đến thời Đinh, Lê, Lý và một số ít vị lớp sau còn sống đến đầu đời Trần.

    Đây là tác phẩm không những có giá trị về lịch sử Phật giáo mà còn là một tác phẩm truyền kỳ có giá trị về văn học, triết học và văn hóa dân gian.

    Cho đến nay chúng ta chỉ có bản trùng san in năm Vĩnh Thịnh 11 (1715) thời Hậu Lê và bản in cổ nhất được Hòa thượng Thích Như Trí và các môn đồ của ngài khắc in ở chùa Tiêu Sơn, Từ Sơn, Bắc Ninh”.

    Nhằm bảo quản lâu dài di cốt của một bậc cao tăng, ngày 5-3-2004, được sự đồng ý của chính quyền địa phương và các cơ quan chuyên môn, cửa tháp đã được mở. Ở vòm tháp có pho tượng Hòa thượng Thích Như Trí rất đẹp. Vẻ mặt tượng sống động và tự nhiên. Sư ngồi thiền trong tư thế “bán già” rồi viên tịch. Da tượng nom tựa đất nung. Nhìn dáng vẻ, biết lúc sống sư là người phương phi cao khoảng 1,7m. Đáng tiếc là nằm chỗ môi trường ẩm thấp trong nhiều năm đến nay pho tượng không còn nguyên vẹn nữa. Ở giữa sống mũi và mắt trái có lỗ thủng. Tay phải bị vỡ từ khuỷu tay. Tay trái vỡ cách nách 5cm đến hết bàn tay. Đùi phải bị thủng một lỗ to và vỡ từ đầu gối xuống đến ống chân. Điều làm những người nhìn thấy pho tượng vô cùng ngạc nhiên là ở những chỗ xương bị gãy vỡ, người ta thấy xương tủy như còn tươi.

    Ngày 11-3-2004, pho tượng được các phật tử rước tới chùa Duệ Khánh cách chùa Tiêu Sơn 3km để tiến hành tu sửa. Sau khi khử trùng, diệt nấm mốc đã tiến hành gắn chắp các phần xương bị gãy vỡ rồi sơn phủ nhiều lớp sơn ta ở bên ngoài. Khác với hai pho tượng chùa Đậu ở huyện Thường Tín, tượng chùa Tiêu Sơn không thếp vàng thếp bạc mà người phục chế phải tái hiện được da tượng như lúc mới phát hiện.

    Sau khi tu bổ, tượng được bảo quản trong hòm kính, có khí nitơ và đặt ở vị trí trang trọng tại chùa Tiêu Sơn để nhân dân và phật tử khắp nơi đến chiêm bái.

    Công việc tu bổ tượng chùa Tiêu Sơn diễn ra trong ba tháng. Người đảm trách công việc là PGS.TS Nguyễn Lân Cường, nhà nhân chủng học, người đã phục chế thành công các pho tượng táng ở chùa Phật Tích, Bắc Ninh và pho tượng chùa Đậu, huyện Thường Tín, Hà Nội.

    Trần Văn Mỹ (Hà Nội mới)
    -----------------------------Tự động gộp Reply ---------------------------
    [​IMG]

    Gần bảy tháng sau khi được rước ra khỏi ngôi tháp cổ ngày 26-9, pho tượng di thể của thiền sư Như Trí đã được tu bổ, khôi phục xong. Nhưng chung quanh pho tượng táng (viên tịch nhưng thân xác không phân hủy) cực kỳ quý giá thứ tư được tìm thấy ở Việt Nam, vẫn còn rất nhiều bí ẩn.

    Phát hiện đã... 60 năm

    Ngày 5-3-2004, trước sự chứng kiến của hàng trăm nhà sư, phật tử và đại diện chính quyền địa phương, ngôi tháp cổ đã được khai mở. Và nhục thân Thiền sư Như Trí trong tư thế ngồi kiết già được rước ra, bị hư hỏng nặng: tay rụng, mắt trái thủng, toàn thân nứt nẻ. Nơi cất giữ tượng ẩm thấp, nước vẫn tiếp tục nhỏ xuống từ các mạch vữa lở lói. Trên tháp có tấm bia nhỏ ghi: Đây là "Viên Tuệ tháp" được đệ tử nối pháp của ngài là Tính Phong (cùng hàng môn nhân) dựng vào mùa xuân năm 1723 đời vua Lê Dụ Tông, niên hiệu Bảo Thái thứ tư. Như vậy pho tượng và ngôi cổ tháp đã có ít nhất 281 năm tuổi.

    Tuy nhiên, đây không phải là lần đầu tiên pho tượng được phát hiện. Theo nhà sư Đàm Chính trụ trì chùa Tiêu Sơn cách đây hơn 60 năm, đã có một người nhìn thấy hình pho tượng và lấy que chọc thủng mắt trái. Sau đó, lỗ hổng trên tháp được nhà chùa bít lại nhưng không ai nghĩ đó là di thể thật của một thiền sư.

    Nhiều năm sau, dư luận được dịp sửng sốt vì sự phát hiện ra ba pho tượng táng của Thiền sư Nguyễn Khắc Minh, Nguyễn Khắc Trường ở Chùa Đậu, thiền sư Chuyết Tuyết ở chùa Phật Tích, nhưng vẫn không ai để ý đến câu chuyện pho tượng ở Tiêu Sơn tự, dù đây là ngôi chùa có lịch sử 1.000 năm, đã từng là Trung tâm thuyết giảng và đào tạo về Phật giáo lớn nhất Việt Nam, dưới thời quốc sư Lý Vạn Hạnh và một số đệ tử nối pháp trụ trì.

    Mãi đến năm 1995, khi các nhà lãnh đạo thiền phái Trúc Lâm có dịp về thăm chốn Tổ Tiêu Sơn, sự việc này được xới lại và chín năm sau, tháng 3-2004, pho tượng mới được rước ra khỏi tháp.

    Kỳ công độc nhất vô nhị

    Dự án tôn tạo, tu bổ tượng được PGS.TS Nguyễn Lân Cường, họa sĩ sơn mài Đào Ngọc Hân, với sự tham gia của Viện 69 Bộ Tư lệnh bảo vệ **** Chủ tịch ***********, Viện Khoa học công nghệ Việt Nam... thực hiện trong bốn tháng.

    Trong suốt quá trình đó, những nghiên cứu di cốt đã cho kết luận: Thiền sư Như Trí là một người đàn ông, cao xấp xỉ 1,65m, viên tịch trong độ tuổi từ 45 - 50.

    Một vị chức sắc Phật giáo cho rằng ở cái tuổi đó mà thiền sư Như Trí đã luyện được cách khiến di thể bất hoại là một kỳ công độc nhất vô nhị.

    Qua vị trí sắp xếp các xương; qua phương pháp phân tích phổ hồng ngoại, các nhà khoa học cũng nhận thấy: Thiền sư được phủ sơn ta (sơn mài truyền thống) và các phụ gia khác ngay sau khi viên tịch.

    Một trong những phát hiện kỳ thú nhất là trong bụng nhục thân có một khối to hợp chất bằng quả bưởi . Hợp chất này, sau khi phân tích bằng phương pháp nhiễu xạ tia X, có thể khẳng định: đây là các chất vô cơ có cấu trúc tinh thể, và nó là các chất còn lại của phần phủ tạng trong bụng thiền sư.

    Như vậy đây cũng là pho tượng táng cả ngũ tạng, đặc biệt hơn các xác ướp Ai Cập (để bảo vệ di thể không hư hoại, người Ai Cập phải mổ bụng, đưa hết lục phủ ngũ tạng, óc ra ngoài).

    Việc chụp phim X - quang pho tượng đã cho thấy nhiều điều hết sức mới mẻ: Sau khi bồi lớp thứ nhất, người xưa đã đặt một tấm đồng lớn trên lưng (chiều dài 65cm, rộng 15cm) và một tấm đồng trên ngực (rộng 22cm) thiền sư, rồi mới bồi thêm lớp nữa. Ngang và dọc trên đầu, cổ và bắp tay là những dải băng bằng đồng có các kích thước khác nhau từ 4 - 21mm.

    Các nhà khoa học tuyên bố đây là hiện tượng lần đầu tiên được phát hiện ở Việt Nam . Những tấm đồng này có khả năng giúp cho tư thế ngồi của thiền sư vươn thẳng, tránh bị cúi gập xuống ở phần cổ, lưng và có thể bảo vệ hộp sọ.

    Từ các phát hiện trên, chứng tỏ phương thức táng tượng của Việt Nam rất độc đáo và đạt trình độ rất cao. Phương thức táng này cũng đã được phát hiện ở Trung Quốc với tên gọi "giáp trữ tất".

    Công việc trùng tu sở dĩ kéo dài hơn dự kiến là vì pho tượng hư hại quá nặng và tính chất táng có nhiều điểm mới mẻ.

    Đầu tiên, các nhà khoa học tiến hành phải tiến hành diệt khuẩn, nấm mốc và côn trùng. Sau đó quy trình được bảo đảm nghiêm ngặt: bọc vải, bó, hom, lót, thí... với 13 lớp sơn và thếp bạc.

    Tu bổ hoàn thành, pho tượng nặng 34kg, chiều cao tư thế ngồi 78,5cm, được đặt trong một khám sơn son thếp vàng có hộp kính kín dày 10mm (do nhà máy kính Đáp Cầu đúc) chứa đầy khí ni tơ để bảo vệ, đặt ở nhà Tổ chùa Tiêu Sơn.

    Một phiên bản khác của tượng được làm bằng composite và 10 lớp sơn, vải, mạt cưa nặng 55,5kg đặt trong thân ngôi tháp cổ để du khách và phật tử chiêm bái.

    Theo Gia đình và Xã hội
    -----------------------------Tự động gộp Reply ---------------------------
    [​IMG]

    [​IMG]

    Ảnh: st :))
  9. manhhoaishb

    manhhoaishb Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    03/07/2010
    Bài viết:
    15
    Đã được thích:
    0
    Mình theo dõi diễn đàn cũng lâu rồi nhưng mới tham gia gần đây.
    Bọn mình vẫn phải làm sáng thứ 7 nên nếu có tuor chủ nhật lòng vòng Hà Nội thì cho mình đăng ký với nhé.
    ym: manh_hoaikh29328
    sđt: 0949596636
  10. paper_hn

    paper_hn Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    25/08/2004
    Bài viết:
    165
    Đã được thích:
    0
    Tiếp về chùa Tiêu Sơn của chuyến đi trước. Đây là địa danh được nhắc đến trong "Tiêu Sơn tráng sĩ" (nv Khái Hưng).
    Dưới đây là một hồi của TSTS:

    Hồi 4 - Tiêu Sơn Kết Nghĩa

    Đã lâu nay cửa tam quan chùa Tiêu sơn rào kén hẳn hàng ba, bốn lần tre, hóp và chông chà.
    Khách thập phương phải đi qua một con đường vòng chạy theo chu vi trái đồi, rồi rẽ ngoặt ra phía bên. ở đó có một cái cổng nhỏ hẹp nhưng xây rất kiên cố. Qua lần cổng, một hàng bậc gạch cao và giốc đưa đến nhà trai. Như thế , đứng trên ngọn đồi hay trong lầu Tiêu Lĩnh nhìn xuống có thể biết ai sắp đến chùa, nhất lại có một cái lạch nước rất sâu ngăn chận đồi ra với con đường vòng. Cái lạch ấy, sư Phổ T nh cho đào để lấy đất đắp bức tường dài bao bọc quanh đồi. Và cũng nhờ việc to tát ấy mà nhà sư đã được dân làng nức nở ca tụng công đức. Họ cho nhà sư đắp tường đào hào như thế không những chỉ có một mục đích giữ chùa, mà còn có mục đích che chở cho dân quanh vùng trong khi nhiễu loạn, vì hạt ấy, họ sợ hãi bọn Nguyễn Đoàn, Phạm Thái lắm, tuy chỉ sợ bóng sợ gió.
    ý chừng Phổ T nh thiền sư cũng biết vậy, nên ngay ở cửa tam quan, có dán một tờ yết thị nói cửa từ bi không hẹp, ai sơ quân cường đạo cướp bóc cứ vào chùa nương náu ít ngày, nhà chùa sẵn lòng dung nạp.
    Kỳ thực chỉ có đồ đảng của Phổ Tĩnh là hay lui tới cửa chùa và tờ yết thị kia không có mục đích gì khác là để che mắt quan quân. Chẳng thế có khi trong chùa tụ họp đến hàng trăm người mà viên phân phủ Từ sơn vẫn không lưu ý tới, cho rằng đó toàn là lulung bọn quê mùa yếu hèn, nhút nhát đến ẩn núp. Không những thế, viên phân phủ còn nhân tờ chiếu của vua Quang Trung bắt bỏ hết chùa nhỏ trong các làng đệ dựng một ngôi chùa lớn ở mỗi phủ, mỗi huyện, mà đệ tờ bẩm lên quan trấn thủ xin lấy chùa Tiêu sơn làm chùa chính thức được trụ trì, ở chùa ấy.
    Tuy việc tư xin bị đình bãi, vì từ khi vua Quang Trung thăng hà, vua Quang Toản và thái sư Bùi Đắc Tuyên không còn lưu tâm gì đến công việc cải cách thiền học nữa, nhưng lòng tín nhiệm của quan quân hạt Kinh Bắc đối với Phổ T nh thiền sư, nhờ việc đó mà ngày một thêm vững chặt.
    Lòng tính nhiệm hầu hoàn toàn ấy đã giúp đồ đảng bí mật của Quang Ngọc hoành hành dễ dàng ở vùng Kinh Bắc, vì những viên kiện tướng của chàng đều là các sư ông, sư bác mà tay quan trọng nhất là Phạm Thái tức sư ông Phổ Chiêu chùa Linh Đài, làng Nghiêm Xá.
    Chiều hôm trước nhân sư bác chùa Đình Bảng đến báo có một bà hoàng phi bị bắt giải về giam ở phủ Từ sơn, Quang Ngọc liền hốt hoảng chít vội cái khăn vuông xuống tận mắt và khoác vội vào mình cái mền nâu cũ, cho người ta không nhận được ra đi.
    Nguyên chàng vẫn biết rằng từ khi thành Thăng Long mới vỡ, người em thứ ba vua Lê là Lan quận công Duy Chí đem bà hoàng phi họ Nguyễn chạy lên Tuyên Quang rồi chiêu dụ những người thổ hào cùng nhau lo toan việc hưng phục.
    Nhưng Duy Chí mới chống chọi với quân Tây sơn được vài tháng ở Bắc Lạc thì bị bắt bỏ cũi giải về Phú Xuân hàng hình cùng với hết thảy các tướng tá. Hoàng Phi liền rời Tuyên Quang trở về hạt Kinh Bắc ẩn núp ở trong các nhà bình dân. Quân Tây sơn thường đi lùng bắt mà không được, vì người Kinh Bắc vẫn còn mến tiếc nhà Lê, không ai chịu tố cáo nơi hoàng phi trú ẩn.
    Khi đã dò biết đích xác rằng hoàng phi bị bắt, Quang Ngọc vào hàng cơm nhà Ngỗng ở phố phủ, định sai chủ quán, một đảng viên của đảng Tiêu sơn, đưa ngay tin đến Nghiêm xá cho Phạm Thái. Chẳng ngờ gặp giữa lúc Lê Báo đang uống rượn và nói nhiều câu khảng khái. Chàng liền dốn ngồi lại để xem ông khách trẻ tuổi kia là người thế nào, nhất chàng lại như bị cái sức vóc vạm vỡ và nét mặt tươi như hoa của kẻ kia lưu luyến.
    Việc cần kíp thứ nhút của Quang Ngọc khi đã đưa Lê Báo về tới chùa là viết thư sai người tức tốc đến Kinh Bắc giao Nhị Nương đem về Nghiêm xá cho Phạm Thái. Chàng biết tất có binh mã đuỗi theo con đường Từ sơn - Kim Lũ, nên chàng không cho người mang thư đi lối ấy. Chàng lại biết đàn bà, con gái ít khi bị ngờ vực, khám xét, nên việc thông tin tức chàng thường giao cho bọn họ.
    Vào khoảng cuối giờ Tỵ, Phạm Thái tới chùa Tiêu sơn. Quang Ngọc đã dứng chờ ở chân đồi. Hai người lớn tiếng chào nhau:
    "A di đà phật?" - Lê Báo đâu?
    Quang Ngọc cũng khe khẽ đáp lại:
    - Trong chùa.
    - Có việc gì quan hệ nữa không?
    - Có, chốc nói chuyện.
    Lên đến đầu bực thang gạch, nghe có tiếng mõ lớn thưa thớt rời rạc. Phạm Thái mỉm cười, theo Quang Ngọc qua cái cửa nách bước vào chùa trên. Một nhà sư đầu mới cạo nhẵn thín, khoác áo cà sa ngồi ở cái bục gỗ trước bàn thờ, miệng lẩm nhẩm đọc kinh, tay uể oải gõ mõ. Hình như nhà sư chú hết tinh thần vào sự tụng niệm, nên không biết có hai người vừa vào, tuy họ đã cất tiếng chào:
    "A di đà phật?" Thấy người kia không nhúc nhích, Quang Ngọc đưa mắt liếc Phạm Thái, mỉm cười rồi lại gần bàn thờ gọi:
    - Lê Báo?
    Lê Báo vờ không nghe rõ, vẫn ngồi đọc kinh, mắt chăm chăm để vào quyển sách chữ lớn mở đặt trên giá. Quang Ngọc cáu tiết, đến sau lưng ghé vào tai nói:
    - Mới tu được một buổi mà đã mộ đạo thế ư?
    Bấy giờ Lê Báo mới rời quyển kinh, ngước mắt nhìn lên, nhoẻn miệng cười:
    - Không, đệ có đọc kinh đâu, đệ ngâm thơ đó chứ?
    Cả ba người cùng cười ồ. Bỗng một chú tiểu ở ngoài đi vào để thắp hương.
    Các nhà sư lại im bặt, nét mặt người nào người ấy đều có vẻ thành kính, nhu mì, kín đáo. Phổ Tĩnh vờ hỏi Lê Báo:
    - Sư cụ bên ấy vẫn được mạnh đấy chứ?
    Lê Báo hấp tấp đáp lại:
    - Thưa ngài....
    Phổ Chiêu vẻ mặt trang nghiêm vội đỡ lời:
    - Bạch sư ông, cụ Phổ Mịch nhờ ơn Phật tổ vẫn được mạnh như thường.
    Phổ tĩnh mỉm cười rồi quay ra bảo chú tiểu, ý chừng mới tu ở chùa này:
    - Gọi chú Mộc?
    Một lát sau, bước vào một người to lớn, gân cốt nở nang, cặp mắt tròn xoe, da dẻ hồng hào.
    Phổ Tĩnh hất hàm hỏi:
    - Nó mới đến, chú đã biết tâm địa ra sao mà dám cho lên chùa trông nom việc đèn nhang?
    - Bạch sư ông, nó ở trong bọn thủ túc chân thành của đệ tử. Đệ tử xin cam đoan chịu hết trách nhiệm.
    Phổ T nh hơi gắt:
    - Đành vậy, nhưng cứ phòng bị trước thì vẫn hơn. Tiệc đã sửa soạn xong chưa?
    - Bạch sư ông đã.
    - Có nhiều rượn ngon đấy chứ?
    - Bạch sư ông, đủ cả. Đệ tử đã cho xong đâu đấy ở trên lầu Tiêu Lĩnh.
    - Được, ta không cần đến chú nữa.
    Chú tiểu lễ phép cúi đầu chào, đi ra. Phổ T nh đóng cửa cẩn thận mà nói rằng:
    - Thôi, bây giờ chúng ta không còn lo sợ điều gì, cú việc bình tĩnh mà đánh chén, vì muốn lên Tiêu Lĩnh tất phải qua chùa, mà cửa chùa thì đóng khóa kiên cố lắm.
    Thấy Phạm Thái thì thầm nói chuyện với Lê Báo, Quang Ngọc quay lại hỏi hai người :
    - Chỗ quen biết cả đấy. Mà dù chưa quen biết thì rồi cũng phải quen biết. Anh hùng trong thiên hạ phỏng được bao người, sao không cùng nhau làm việc đại nghĩa.
    Phạm Thái đáp:
    - Ngu đệ vẫn được nghe đại danh của quan Thiên thơ khu mật viện sự. Nay được gặp ngài thực lấy làm hân hạnh.
    Quang Ngọc thẳng thắn cười lớn:
    - Ngài? Cái tiếng xưng hô ấy không được ổn bỏ nó đi.
    Lê Báo cũng nói:
    - Phải, chỗ anh em sao lại gọi thế?
    Quang Ngọc bàn:
    - Muốn chính kỳ danh, trước hết phải chính kỳ vị. Ngày xưa anh em Lưu, Quan, Trương kết nghĩa tại vườn đào, rồi lập nên cơ nghiệp kinh thiên động địa.
    Vậy ngày nay, sao chúng ta không theo gương ấy mà cũng kết làm anh em?
    Lê Báo vỗ tay, thét vang như tiếng lệnh:
    - ồ? Phải đấy? Hay? Hay? ý đại huynh hay lắm! Phạm Thái mỉm cười:
    - Trong ba anh em mình chẳng biết có ai giống Lưu Huyền Đức, Quan vân Trường không, như giống Trương Dực Đức thì Lê hiền hữu thực là giống như đúc.
    - Vậy đệ xin làm em út chứ sao.
    Quang Ngọc hỏi:
    - Hiền hữu niên canh bao nhiêu?
    - Mười chín tuổi.
    - Thế thì hiền hữu là em út hẳn đi rồi, vì Phạm quân hơn hiền hữu một tuỗi.
    Phạm thái khiêm tốn:
    - Nhưng Lê hiền hữu giòng dõi tôn thất nhà Lê, ngu đệ xin nhường là anh.
    Phổ T nh vội gạt:
    - Không được, chỉ có một điều đáng kể:
    Ai hơn tuổi là anh.
    - Hiền huynh đã dạy như thế, thì hai em hẳn phải vâng theo. Vậy bây giờ chúng ta phải thề ra sao?
    Lê Báo hỏi:
    - ở chùa này cũng có thờ Quan Công đấy chứ?
    Quang Ngọc cười:
    - Chùa nào lại chẳng thờ đức Thánh Quan.
    - Thế thì hay lắm. Chúng ta cứ đến trước bàn thờ ông ấy mà thề.
    - Phải đấy, phải đấy?
    Ba người liền cùng nhau lại bàn thờ Quan Clông. Lê Báo bảo hai bạn:
    - Trông Quan vân Trường lẫm liệt oai phong lắm nhỉ? Có lẽ vẻ lẫm liệt oai phong ấy là nhờ ở bộ mặt đỏ, mà muốn có một bộ mặt đỏ tất phải uống nhiều rượn Vậy trước khi phát thệ, sao ta không đem rượn lên dâng ngài rồi cùng nhau uống thực say đã?
    Quang Ngọc cười:
    - Vì say rượn hiền hữu suýt bị thiệt mạng ở tửu quán, thế mà vẫn không chừa?
    Lê Báo lấy làm xấu hổ với Phạm Thái, nói chữa thẹn:
    - Hiền huynh tưởng ngu đệ say à? Ngu đệ uốn gấp năm, gấp mười thế cũng chẳng thấm vào đâu. Chẳng qua giữa lúc bất ngờ bị chúng nó đẩy cái bàn vào người, nên ngu đệ ngã đó mà thôi.
    Phạm Thái vốn thích rưỡn mà uống bao nhiêu cũng không say, liền đỡ lời bạn:
    - Lê hiền hữu nói rất đúng. Lễ phát thệ long trọng này không có rượn sao được?
    Dút lời, Quang Ngọc đi thẳng lên lầu Tiêu L~nh. ở lại trước bàn thờ Quan Công, Phạm Thái sẽ bảo Lê Báo:
    - Nghe nói tửu lượng hiền hữu khá lắm.
    - Vâng, cũng khá. Hôm nay xin uống thi.
    - Thi cái gì chứ thi uống rượn thì không bao giờ ngu đệ dám nhận lời.
    - Sao vậy?
    - Vì kẻ tu hành phải giới tửu.
    - Thế thì buồn lắm nhỉ?
    Quang Ngọc bê xuống một bình rượn lớn và hỏi hai người:
    - Ngần này đã đủ chưa?
    Lê Báo đáp:
    - Cũng tiềm tiệm. Nhưng rượn có ngon không đấy? Chứ rượn của thằng cha chủ quán, ngu đệ uống hôm qua không thể nuốt được.
    Phạm Thái cười:
    - ấy là không thể nuốt được đấy, chứ nuốt được thì không biết hiền hữu say tới đâu?
    Quang Ngọc cũng cười:
    - Hai chú không ngại. Rượn đây tôi thửa mãi tận ở Thủ Khối chính hiệu hoàng cúc Nhưng ta làm lễ đã rồi hãy hay.
    Quang Ngọc nói:
    - Bây giờ mỗi người thề một câu. Tôi hơn tuổi được hai hiền đệ tôn làm anh xin thề trước.
    Chàng liền quỳ trước bàn thờ Quan Công và dõng dạc khấn rằng:
    - Ngày xưa Quan thánh đế có kết nghĩa với Lưu Huyền Đức, Trương Dực Đức tai vườn đào, thề cùng sống cùng chết để cùng nhau phò nhà Hán, cứu giúp muôn dân. Ngày nay ở nước Việt Nam chúng tôi trăm họ loạn lạc, bị lầm than chẳng kém đời hậu hán, hai anh em lũ giặc Tây sơn đem quân đi ăn cướp phá đánh đuổi vua chúng tôi phải chạy trốn sang bên quý quốc, giết cha chúng tôi, giết họ hàng chúng tôi, vậy trước bàn thờ ngài ba chúng tôi là Trần Quang Ngọc, hai mươi nhăm tuổi, Phạm Thái hai mươi tuổi, Lê Báo mười chín tuổi, xin theo gương ngài cùng họ Lưu, họ Trương, kết nghĩa anh em, trước là để phò nhà Lê, sau nữa là để rửa thù cho cha chúng tôi. Tôi thề rằng tôi coi Phạm Thái, Lê Báo như hai anh em ruột, cùng hai người sống chết có nhau. Nếu tôi ở không đúng lời thề xin chết như thế nầy.
    Dút lời chàng bẻ hương ra làm hai đoạn mà vứt xuống đất. Phạm Thái thề cũng như Quang Ngọc. Đến lượt Lê Báo. Chàng rót thêm vào chén rượn thờ, rồi tự rót cho mình một chén đầy giốc một hơi cạn. Đoạn chàng bảo hai người:
    - Hai hiền huynh thề như thế không được, nghe ngu đệ đây nè.
    Tức thì chàng vào quì trước bàn thờ và lớn tiếng khấn:
    - Tôi đây Lê Báo tuy mới mười chín tuổi đầu nhưng trong ba năm nay tôi đã đi chu du khắp nước, vì vậy tôi biết dân tình rất khổ sở. Tôi nhớ sách Mạnh Tử có câu:
    Dân vì quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh. Thế mà họ coi nước như tư sản của họ, không tưởng gì đến dân, đến xã tắc nữa. Vì vậy ba chúng tôi là Trần Quang Ngọc, Phạm Thái, Lê Báo cùng nhau kết anh để ra tay tôn phò một vị nhân quân biết coi dân làm trọng. Tôi thề rằng (vừa nói vừa rót rượn vào chén) tôi xin giữ trọn đạo làm em út dốc lòng tuân theo mệnh lệnh của đảng trưởng là ông anh cả Trần Quang Ngọc của tôi, nếu tôi trái lời thề ấy thì nguồn ngày xanh của tôi cũng cạn như chén rượn này.
    Cùng với câu thề, chén rượn cùng hết. Quang Ngọc và Phạm Thái đưa mắt nhìn nhau mỉm cười. Rồi Quang Ngọc rót ba chén rượn đầy mà nói rằng:
    - Xin uống cạn chén rượn để chúc cho tình huynh đệ chúng ta ngày thêm bền chặt với non sông Nam Việt.
    Uống xong Phạm Thái khen:
    - Rượn của hiền huynh ngon lắm.
    Lê Báo nghĩ thầm:
    "Đã giới tửu mà còn biết rượn ngon?" Quang Ngọc mời hai bạn lên lầu Tiêu Lĩnh dự tiệc. Lê Báo sợ bỏ quên mất bình rượn, vội vàng bê theo.

Chia sẻ trang này