1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

SHADOW FLIGHTS - Cuộc đối đầu giữa các phi công trinh sát và Vòm Sắt Liên Xô

Chủ đề trong 'Kỹ thuật quân sự nước ngoài' bởi anheoinwater, 23/09/2010.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. anheoinwater

    anheoinwater GDQP - KTQSNN Moderator

    Tham gia ngày:
    25/10/2007
    Bài viết:
    2.811
    Đã được thích:
    1.208

    Cám ơn lão Sui nhắc nhở, quả thật khi này bọn xe tăng nó chiếm khối thời gian của mình. Xin lỗi để anh em chờ. Mai tớ dịch tiếp, hôm nay chủ nhật chở thằng rể của ông đi chơi rồi.[:D]
  2. anheoinwater

    anheoinwater GDQP - KTQSNN Moderator

    Tham gia ngày:
    25/10/2007
    Bài viết:
    2.811
    Đã được thích:
    1.208
    Tái khởi động những “Nhiệm vụ đặc biệt”.

    Sau khi hủy bỏ phi vụ Ju Jitsu, John Crampton hoàn thành đợt công tác của mình với Phi đội số 101 vào tháng Bảy năm 1953, sau đó ông làm những việc vặt vãnh bàn giấy suốt mấy tháng trong vị trí sĩ quan tham mưu. Rồi ông nhận lệnh từ High Wycombe, họ cho biết các chuyến bay đặc biệt một lần nữa được tái khởi động. Crampton sẽ là chỉ huy. Vào lúc ấy, ông kể lại: "Tôi xem dự án này như là của riêng tôi và vô cùng khó chịu nếu có ai xen vào.”

    Crampton và các phi công khác từng tham gia Ju Jitsu được gọi trở lại tái phối hợp vào Tháng 3 năm 1954. Crampton nhận xét sau đó: "Căn cứ Sculthorpetrở lại như xưa, lại được cưỡi bốn“chiếc Cadillac thân dài” của Mỹ,quần áo bay cũng Mỹ và ngôn ngữ làm việc cũng rặt Mỹ." Crampton lo lắngtrong suốtmấy tháng đào tạo, ông sợ chiến dịch có thể bị đổ vỡ bởi vì có quá nhiều người ở đây có thể cảm nhận rằng có điều gì đóđang xảy ra, cho dù họ khôngthể biết chính xác đó là gì. Trong khi đó, các cơ trưởng thảo luận với nhau các vấn đề máy móc hoặcra lệnh cho các nhân viên phi hành toàn bằng cách sử dụng máy bộ đàm. Crampton cho rằng bất kỳ điệp viên Xô viết hoặc cảm tình viên cộng sản nào trong khu vựcđều có thể giám sát các hoạt động của căn cứ một cách dễ dàng.

    Trong thời gian huấn luyện, bốn chiếc máy bay được sơn lại một lần nữa với những dấu hiệu của RAF. Điều này gây ra một mối đe dọa bảo mật. Một sở thích phổ biến trong đầu những năm 1950 của các chú nhóc ở nước Anh là săn lùng chụp ảnh và ghi nhớ từng chiếc máy bay quân sự. ( Giống bác OV-10 nhỉ?). Mặc dù những chiếc B-45 của Không quân Mỹ đã được phổ biến ở Anh, nhưng một khi chúng mang ký hiệu RAF thì sẽ gây chú ý đặc biệt. Một chàng trai trẻ sống gần sân bay Prestwick kể lại sự phấn khích của mình khi nhìn thấy một chiếc RB-45C của RAF đang tiếp nhiên liệu trong sân bay. Anh ta và một số bạn bè của mình lấy chiếc máy ảnh Brownie của họ, luồn vào phía sau một tòa nhà cũ bỏ hoang và chụp ảnh chiếc máy bay khi nó lăn ra đường băng để cất cánh. Tuy nhiên, ngay sau khi chiếc máy bay vừa nhấc mình ra khỏi đường băng, an ninh sân bay lập tức xuất hiện và thu giữ máy ảnh của họ. Tất cả bị đưa đến đồn cảnh sát, cuộn phim bị hủy bỏ và cả đám bị mắng nhiếc tơi bời.

    ( Cẩn thận nhé bác Mười, cảnh sát Anh la hét chán thả về, an ninh quân đội nhà ta mà túm cổ thì ít nhất cũng ốm đòn:)))

    Crampton và Sanders quay lại Bộ chỉ huy Không quân Oanh tạc để nhận các kế hoạch bay. Cũng như lần trước, họ dự định ba đường bay. Hai đường phía Bắc gần như giống hệt phi vụ tháng 4 năm 1952, nhưng đường phía Nam kéo dài đến khoảng một ngàn dặm bên trong không phận của Liên Xô và có đến khoảng ba mươi mục tiêu phải chụp ảnh. Giống như trước, các bức ảnh radarscope sẽ được thực hiện trong màn đêm nhằm vào các căn cứ không quânchiến lược, các địa điểm phòng không, các thành phố, và các mục tiêu khác. Kể từ khi phi vụ xâm nhập đầu tiênđược thực hiện, người đứng đầu đơn vị kỹ thuật thuộc Bộ chỉ huy Không quân oanh tạc là "Lew" Llewelyn đã làm việc ngày đêm để nâng cao chất lượng các bức ảnh radarscope. Ông thậm chí đã nghĩ ra một cách sử dụng chúng để tạo ra hình ảnh nổi 3-D.



    Sĩ quan tình báo thông báo cho Crampton và Sanders về hệ thống phòng khôngmà họ sẽ phải đối mặt. Liên Xô đã có một mạng lưới radar có thể theo dõi những chiếc RB-45Csuốt đường bay, nhưng họ không có radar trang bị cho máy bay chiến đấu ban đêm. Điều này có nghĩa rằng các đơn vị điều khiển mặt đất phải dẫn đường cho những chiếc MiG cho đến khi chúng nhìn thấy được mấy chiếc máy bay trinh sát bằng mắt thường rồi mới có thể tấn công. Với loại RB-45Ccó tốc độ và caođộ lớn, thực hiện điều này rất khó khăn nên nguy cơ bị xếp vào loại nhỏ. Ngoài ra, với các tính năng của RB-45C, mối đe dọa từ súng pháo phòng không cũng xem như bị loại bỏ. Nhưng Crampton và Sanders cho rằng các dữ liệu SIGINT về phòng không của Liên Xô cũng quan trọng như các bức ảnh radarscope, nên các trạm mặt đất của RAF và chiếc máy bay SIGINTcủa Không quân Mỹphải luôn trong tình trạng báo động để chặnbắt liên lạc vô tuyến của Liên Xô. Bởi vì mỗi khi tổ chức một hoạt độngnhư thế này phải mất một vài tuần lễ, những phi vụ xâm nhập sẽ phải được thực hiện vào đúng ngày dự kiếntrước.

    Vào tối ngày 28-29 tháng tư, 1954, ba chiếc RB-45C của RAF cất cánh từ Sculthorpe và bayvề phía bắc Đan Mạch, nơi đó họ gặp những chiếc máy bay tiếp dầu. Sau khi nạp đầy thùng nhiên liệu và gửi lời chào cuối cùngđến sĩ quan vận hành hệ thống tiếp dầu, ba chiếc máy bay tắt đèn, chuyển hướng và đi vào màn đêm. Một trong hai đườngbay phía bắc được lái bởi Gordon Cremer, Bob Anstee và Don Greenslade. Đường còn lại được thực hiện bởi Harry Currell, John Hill, và Joe Acklam. Còn Crampton, Rex Sanders và McAlistair Furze bay đường bay phía nam, con đường dài và nguy hiểm nhất. Họ tự chọn đường bay đó cho chính mình.
  3. anheoinwater

    anheoinwater GDQP - KTQSNN Moderator

    Tham gia ngày:
    25/10/2007
    Bài viết:
    2.811
    Đã được thích:
    1.208
    Máy bay của Cramptonleo lên cao, bay xuyên qua những lớpmây mỏngcao độ 30.000 feet, trên ấy ông và Furze có thể nhìn thấy các ngôi sao. Sanders báo cáo các radar hiển thị bản đồ và thiết bị chụp ảnh đang làm việc hoàn hảo. Ông ta chịu trách nhiệm thông báo cho Crampton hướng bay mới, sau đó yêu cầu các đường bay thẳng đúng cao độ để chụp ảnh từng mục tiêu. Chúng nằm rải rác khắp miền nam Liên Xô, vì vậy chiếc RB-45C phải bay theo đường zig zag. Điều này, theo Sanders, đã làm cho đối phương khó nắm được đường bay chính của RB-45C và giúp nó an toàn hơn, nhưng lại kéo dài thời gian bay của nó trên lãnh thổ Nga."

    Một chiếc RB-45C sơn ký hiệu Không quân Hoàng Gia. ( lưu ý: Nó vẫn thuộc sở hữu của Mỹ)
    [​IMG]

    [​IMG]

    Sanders ngồi trong mũi máy bay tiếp tục báo cáo rằng ông không gặp vấn đề rắc rối gì với các bức ảnh radarscope. Furze, ở chỗ ngồi của phi công phụ phía sau Crampton, đang bận rộn theo dõi các hệ thống của máy bay. Thế là mỗi mình Crampton ngồi chiêm ngưỡng khung cảnh chung quanh. Thỉnh thoảng, ông ta nhìn thấy những ánh chớp nhấp nháy từ dưới mặt đất phản ánh lên những đám mây. Chúng giống như những tia sét hoặc như những ánh chớp thường thấy khi ném bom rải thảm ban đêm. Chúng chẳng gây tổn hại nhưng làm Crampton thấy bối rối. Chiếc RB-45C đang bay ở độ cao 36.000 feet, tốc độ Mach 0,7, nó đã hoàn tất hầu hết các mục tiêu và đang quay về phía Nam hướng tới Kiev. Crampton nhận thấy rằng các ánh chớp trong mây dường như mỗi lúc càng nhiều hơn và luôn luôn tập trung ngay bên dướichiếc RB-45C của ông. Điều này, ông nghĩ, rất không bình thường đối với một hiện tượng tự nhiên, nhưng trước đó các sĩ quan tình báo trong cuộc họp đã bác bỏ khả năng Liên Xô sử dụng pháo phòng không. Dù vậy, ánh chớp đó chắc chắn trông giống hệt như lửa đạn pháo phòng không, ông đã chứng kiến chúng nhiều lần trong các phi vụ ném bom Đức Quốc xã những năm trước.

    Thình lình, một khoảnh khắc đứng tim, một đường thẳng băng của một viên đạn pháo phòng không vọt lên rồi bùng nổ vàng chóe khoảng hai trăm thước phía trước chiếc RB-45C, ngay đúng cao độ của chiếc máy bay. Crampton phản ứng theo bản năng, ông kéo cần mở tối đa lực đẩy và thực hiện một vòng xoay gấp cho đến khi máy bay hướng hẳn về phía tây. Sau đó ông bắt đầu từ từ hạ độ cao một trăm feet mỗi phút cho đến khi chiếc RB-45C đạt đến giới hạn tối đa tốc độ Mach của nó và bắt đầu gào rú. Ông phải giảm nhẹ động cơ nhưng vẫn tiếp tục hạ độ cao từ từ để giữ nguyên tốc độ tối đa đưa chiếc máy bay nhanh chóng thoát khỏi tầm nhắm của các pháo thủ bên dưới.

    Vào lúc này, Sanders gào qua máy liên lạc nội bộ: "Ê này, còn mấy tấm ảnh mà tôi phải chụp thì sao?" Từ vị trí của mình ở phần mũi, Sanders không thể nhìn thấy bên ngoài máy bay và không biết về các cụm khói đạn pháo phòng không. Crampton trả lời ngắn gọn là họ đang bị ngắm bắn, sau đó cho Sanders biết về các khẩu pháo phòng không. Rồiông yêu cầu cho biết đường bay để quay về Furstenfeldbruck, Tây Đức,điểm hẹn với máy bay tiếp dầu của họ đồng thời cũng là địa điểm hạ cánh khẩn cấp khi cần thiết. Crampton cũng thông báo với Furze yêu cầu anh ta liên tục quan sát, xem chừng có thể MiG xuất hiện nghênh cản họ. Chiếc RB-45C không được vũ trang và sẽ phải cố gắng trốn tránh những chiếc máy bay chiến đấu nhờ vào bóng tối. Tốc độ là rất quan trọng để tránh MiG nên Crampton lái chiếc RB-45C ngay sát giới hạn tốc độ Mach của nó. Ông hài hước kể lại sau đó: "Nó run run lên một cách trìu mến."

    Biện pháp phòng ngừa như vậy là cần thiết. Vì sau này người ta cho biết chỉ huy lực lượng phòng không Liên Xô tại khu vực Kiev Tướng Vladimir Abramov đã ra lệnh cho hai phi công MIG cất cánh tiêu diệt chiếc RB-45C. Các trạm radar điều khiển mặt đất đã cố gắng hướng dẫn những chiếc MiG đón đầu RB-45C nhưng may là không thể làm được. Ở cả hai phe, không chiếc máy bay nào nhìn thấy được chiếc nào. Hơn nữa, mặc dù Liên Xô nghĩ rằng chiếc máy bay đang bay trên lãnh thổ mình là một chiếc trinh sát, họ vẫn không loại trừ khả năng một cuộc tấn công hạt nhân. Liên Xô cũng xác định nhầm máy bay. Họ cho rằng họ đang đối đầu với một chiếc B-47 của Không quân Mỹ chứ không phải là RB-45C.

    Để tăng thêm tốc độ cho chiếc máy bay, trong thoáng chốc Crampton định ném bỏ hai thùng dầu phụ dung tích1.200 gallon gắn ở hai đầu cánh, đằng nào bây giờ chúng cũng đã cạn. Nhưng sau đó ông quyết định không làm điều này, vì mặc dù ném bỏ chúng đi có thể giúp bay nhanh thêm một vài hải lý/giờ, nhưng một khi các thùng dầu được tìm thấy thì Liên Xô sẽ có chứng cứ xác định người Mỹ đột nhập và gây ra một rắc rối quốc tế lớn. "Hơn nữa," ông nói sau đó, "tôi suy nghĩ nếu thả chúng xuống các con đườngTây Kiev vào lúc hai giờ sáng, chúng sẽ gây kinh hoàng hoảng loạn cho những phụ nữ và trẻ em dưới đó. Chúng tôi bay sang Nga không phải để làm điều ấy. "

    Bố trí chỗ ngồi của nhân viên phi hành đoàn và các thiết bị chính trong RB-45C
    [​IMG]

    Chuyến bay trở về dài khoảng một nghìn dặm,nhưng dường như đối với Crampton chúng là vô tận. Trong thời gian này, ông nghĩ về cái cách họ bay vào bị bắn. Những ánh chớp ông thấy trước đó cũng là từ các khẩu pháo phòng không. Những trận địa pháo đã ngắm vào họ, nhưng đã đánh giá sai độ cao của máy bay, các pháo thủ đã cài đặt độ cao phát nổ cho các viên đạn bên dưới độ cao thực sự của chiếc máy bay. Các khẩu đội pháo ở khu vực Kievđược độ cao chính xác hơn nhưng lại đánh giá quá cao tốc độ của chiếc RB-45C. Kết quả là các pháo thủ đã bắn đón đầu chiếc máy bay quá mức, và những viên đạn đã nổ xa vài trăm thước phía trước mũi .

    Cuối cùng, chiếc máy bay của Crampton vượt ra khỏi vùng trời Đông Âu và vào không phận Tây Đức. Phi hành đoàn nhìn thấy chiếc tiếp dầu đang chờ đợi, nhưng khi họ cố gắng tiếp nhiên liệu, cần tiếp dầu không thể chạm vào cửa nhận dầu của chiếc RB-45C. Crampton cho rằng thiết bị cân bằng ổn định máy bay có thể đã bị hư hại do pháo phòng không Kiev. Với chiếc máy bay chỉ còn ít nhiên liệu, Crampton phải chuyển hướng hạ cánh xuống Furstenfeldbruck. Họ được tiếp nhiên liệu trên mặt đất, sau đó cất cánh bay về căn cứ RAF Sculthorpe an toàn. Hai chiếc RB-45C còn lại thì hoàn thành nhiệm vụ của họ mà không xảy ra sự cố gì, mặc dù những chiếc MiG cũng đã bay lên cố gắng ngăn chặn họ.

    Giống như các phi vụ xâm nhập hồi tháng tư năm 1952,những nhiệm vụ đợt hai cũng thành công. Tuy nhiên, vì không có nhu cầu để tiếp tục các chuyến bay đặc biệt nữa, đơn vị được giải tán trong thời gian vài tuần sau đó. Các thành viên phi hành đoàn quay trở lại nhiệm vụ bình thường. Việc sử dụng RB-45C của Không quân Hoàng gia Anh được bao phủ trong bí mật suốt bốn thập kỷ tiếp theo.


    Kỳ sau: Không chiến trên bán đảo Kola.


    -----------------------------Tự động gộp Reply ---------------------------

    Crampton cùng các phi công thuộc đơn vị đặc biệt của mình:
    [​IMG]


    Quay lại phi vụ Ju Jitsu bị bãi bỏ đợt trước, lý do bãi bỏ ngay cả tác giả cuốn sách Shadow Flights cũng chưa biết. Bây giờ đã được giải mật. Lý do ở đây: (lại Mẽo)

    [​IMG]
  4. anheoinwater

    anheoinwater GDQP - KTQSNN Moderator

    Tham gia ngày:
    25/10/2007
    Bài viết:
    2.811
    Đã được thích:
    1.208
    Không chiến ở bán đảo Kola.
    Phi vụ trinh sát bằng B-47B được thực hiện bởi Đại tá Hillman và phi hành đoàn của ông trong tháng 10/1952 dường như là lần bay thâm nhập sâu duy nhất của chính quyền Truman. Ba tuần sau đó, Dwight D. Eisenhower được bầu làm tổng thống Hoa Kỳ. Trong vài tháng đầu tiên, chính quyền mới ra sức đánh giá lại toàn bộ chính sách quân sự của Mỹ, trong đó bao gồm cả các phi vụ xâm nhập Liên Xô.

    Ngày 23 tháng sáu năm 1953, Các sĩ quan tham mưu Không quân có một buổi thuyết trình tối mật về các hoạt động trinh sát trên không cho lãnh đạo mới của Không quân, Harold Talbott. Cuộc họp bắt đầu bằng câu nói: " Có nhiều thiếu sót lớn trong khả năng hiểu biết của chúng ta về sức mạnh và ý đồ của Liên Xô, điều này đặt an ninh quốc gia Hoa Kỳ vào tình thế may rủi." Sau khi mô tả các kết quả của chuyến bay xâm nhập vào bán đảo Chukotski, các sĩ quan thuyết trình cố gắng thuyết phục chính quyền mới cho phép tiếp tục và thực hiện một chương trình bay xâm nhập liên tục có quy mô lớn hơn nhiều so với trước. Mặc dù bay xâm nhập tầm ngắn vẫn có thể trinh sát được vài khu vực có mục tiêu quan trọng, nhưng các cơ sở sản xuất bom nguyên tử và các cơ sở tình nghi khác đều nằm ở phía tây dãy Ural và Siberia, chúng đòi hỏi phải xâm nhập thật sâu.

    Chương trình này có thể cung cấp hàng loạt các dữ liệu quan trọng. Sĩ quan thuyết trình lưu ý rằng chỉ riêng tại miền Tây Liên Xô đãđến mười tám căn cứ không quân chiến lược, hai căn cứ tàu ngầm, mười ba khu công nghiệp quốc phòng và khu tập trung quân sự cần thiết phải do thám. Ông ta tiếp tục: "Chỉ vài phi vụ là có thể xác nhận hay phủ nhận việc Không quân chiến lược Liên Xô có sắp sửa tấn công hay không. Đồng thời vác phi vụ này cũng sẽ cung cấp được thông tin về các loại máy bay, tên lửa, vũ khí trang bị, khí tài điện tử và các hệ thống vũ khí bất quy ước của Liên Xô. Những thông tin loại đó cực kỳ quan trọng [FONT=Arial]cho việc[/FONT][FONT=Arial] nghiên cứu và phát triển, mua sắm, lập kế hoạch [FONT=Arial]cho[/FONT][FONT=Arial] hiện tại và tương lai của lực lượng Mỹ.[/FONT][/FONT][FONT=Arial]”[/FONT][FONT=Arial][/FONT]

    [FONT=Arial]Sĩ quan[/FONT][FONT=Arial] thuyết trình dự kiến[/FONT][FONT=Arial]:[/FONT][FONT=Arial] "[FONT=Arial]Những loại [/FONT][FONT=Arial]máy bay[/FONT] hiện[FONT=Arial] ta[/FONT][FONT=Arial] đang[/FONT][/FONT][FONT=Arial] có[FONT=Arial] sẵn[/FONT][FONT=Arial],[/FONT] [FONT=Arial]chúng có thể [/FONT][FONT=Arial]bay[/FONT][/FONT][FONT=Arial] ở [FONT=Arial]độ cao [/FONT][FONT=Arial]40.000[/FONT][/FONT][SIZE=3] feet[FONT=Arial] và có khả năng rất tốt [/FONT][FONT=Arial]để[/FONT][/SIZE][COLOR=navy][SIZE=3] xâm nhập [FONT=Arial]vào trong[/FONT][FONT=Arial] [FONT=Arial]Vòm[/FONT][/FONT][FONT=Arial] [FONT=Arial]Sắt [/FONT][FONT=Arial]và[/FONT][/FONT][FONT=Arial] trở về an toàn." [FONT=Arial]Hậu[/FONT][FONT=Arial] quả[/FONT][/FONT][/SIZE][/COLOR][FONT=Arial][COLOR=navy][SIZE=3] chính trị [FONT=Arial]nếu[/FONT][/SIZE][/COLOR][FONT=Arial][SIZE=3][COLOR=navy] một chiếc máy bay Mỹ bị bắn rơi ở Liên Xô "[FONT=Arial]đã được[/FONT][FONT=Arial] tính toán rủi ro", nhưng [/FONT][FONT=Arial]sĩ quan thuyết trình[/FONT][FONT=Arial] nói thêm, "Các giá trị quân sự và chính trị của [FONT=Arial]những phi vụ [/FONT][FONT=Arial]trinh sát[/FONT][/FONT][FONT=Arial] [FONT=Arial]đáng giá[/FONT][FONT=Arial] hơn[/FONT][/FONT][FONT=Arial] [FONT=Arial]nhiều so với [/FONT][FONT=Arial]những hậu quả[/FONT][/FONT][FONT=Arial] tiêu cực có thể[FONT=Arial]xảy ra[/FONT][FONT=Arial].[/FONT][/FONT][FONT=Arial]”[/FONT][/COLOR][/SIZE]
    [FONT=Arial][COLOR=navy][/COLOR][/FONT]
    [FONT=Arial][SIZE=3][COLOR=navy]Sĩ quan[/COLOR][/SIZE][/FONT][FONT=Arial][SIZE=3][COLOR=navy] thuyết trình kết luận: "Chúng tôi [FONT=Arial]muốn nói lên yêu cầu được thi hành những hoạt động tình báo như thế này ngay[/FONT][FONT=Arial] bây giờ[/FONT][FONT=Arial]. [/FONT][/COLOR][/SIZE][FONT=Arial][SIZE=3][COLOR=navy]Chúng ta thiếu một chính sách tổng thể thuận lợi [FONT=Arial]cho việc[/FONT][FONT=Arial] lập kế hoạch và tiến hành [FONT=Arial]bay xâm nhập, chúng ta cần[/FONT][FONT=Arial] một cơ chế[/FONT][/FONT][FONT=Arial] đơn giản [FONT=Arial]để[/FONT][FONT=Arial] triển khai thực hiện [FONT=Arial]việc này với [/FONT][FONT=Arial]một[/FONT][/FONT][FONT=Arial] chính sách [/FONT][FONT=Arial]ưu tiên.[/FONT][FONT=Arial] Do đó chúng tôi khuyên [FONT=Arial]ông[/FONT][FONT=Arial] nên[/FONT][/FONT][FONT=Arial] công bố một chính sách cho phép bắt đầu [FONT=Arial]bay xâm nhập vào những vùng [/FONT][FONT=Arial]lãnh thổ[/FONT][/FONT][FONT=Arial] [FONT=Arial]nằm dưới sự [/FONT][FONT=Arial]kiểm soát[/FONT][/FONT][FONT=Arial] của Liên Xô [FONT=Arial]càng sớm càng tốt[/FONT][FONT=Arial].[/FONT] "[/FONT][/FONT][FONT=Arial][/FONT][/COLOR][/SIZE]
    [FONT=Arial][COLOR=navy][/COLOR][/FONT]
    [FONT=Arial][SIZE=3][COLOR=navy]Những khuyến nghị này[/COLOR][/SIZE][/FONT][/FONT][COLOR=black][FONT=Arial][COLOR=navy][SIZE=3] được chấp nhận bởi Tổng thống Eisenhower. [FONT=Arial]Vào[/FONT][/SIZE][/COLOR][FONT=Arial][COLOR=navy][SIZE=3] năm [FONT=Arial]kế tiếp[/FONT][FONT=Arial],[/FONT] [FONT=Arial]các phi vụ xâm nhập[/FONT][FONT=Arial] sâu [FONT=Arial]hơn [/FONT][FONT=Arial]đã được[/FONT][/FONT][/SIZE][/COLOR][FONT=Arial][COLOR=navy][SIZE=3] thực hiện. [FONT=Arial]Chúng[/FONT][FONT=Arial] thậm chí còn được tổ chức [FONT=Arial]nhanh chóng[/FONT][FONT=Arial] hơn[/FONT][/FONT][/SIZE][/COLOR][FONT=Arial][COLOR=navy][SIZE=3] so với [FONT=Arial]phi vụ [/FONT][FONT=Arial]B-47B [FONT=Arial]mà[/FONT][FONT=Arial] Tổng thống[/FONT][/FONT][/SIZE][/COLOR][FONT=Arial][COLOR=navy][SIZE=3] Truman [FONT=Arial]đã phê duyệt[/FONT][FONT=Arial],[/FONT] [FONT=Arial]những[/FONT][FONT=Arial] thủ tục giấy tờ [FONT=Arial]được giảm xuống [/FONT][FONT=Arial]mức thấp nhất[/FONT][FONT=Arial].[/FONT] Eisenhower [FONT=Arial]đích thân phê duyệt[/FONT][FONT=Arial] cho[/FONT][/FONT][FONT=Arial] kế hoạch bay,[/FONT] sau đó JCS sẽ hướng dẫn SAC [FONT=Arial]thi hành [/FONT][FONT=Arial]nhiệm vụ [/FONT][FONT=Arial]bay[/FONT][FONT=Arial].[/FONT] Trọng tâm là Siberia, ba [FONT=Arial]phi vụ[/FONT][/SIZE][/COLOR][FONT=Arial][COLOR=navy][SIZE=3] B-47B [FONT=Arial]nữa sẽ nhắm vào khu vực [/FONT][FONT=Arial]này[/FONT][FONT=Arial].[/FONT] [FONT=Arial]Vì[/FONT][/SIZE][/COLOR][FONT=Arial][COLOR=navy][SIZE=3] [FONT=Arial]phi vụ[/FONT][/SIZE][/COLOR][FONT=Arial][SIZE=3][COLOR=navy] 1952 đã [FONT=Arial]đem về những tấm ảnh chụp thông thường[/FONT][FONT=Arial] nên[/FONT][/COLOR][/SIZE][FONT=Arial][SIZE=3][COLOR=navy] ba [FONT=Arial]phi vụ sau[/FONT][FONT=Arial] chỉ [FONT=Arial]nhằm để [/FONT][FONT=Arial]cung cấp[/FONT][/FONT][FONT=Arial] hình ảnh radarscope. Khu vực bán đảo Kola [FONT=Arial]do[/FONT][FONT=Arial] [FONT=Arial]một phi vụ [/FONT][FONT=Arial]B[/FONT][FONT=Arial]-[/FONT][FONT=Arial]47B[/FONT][/FONT][FONT=Arial] khác nữa trinh sát[/FONT][FONT=Arial],[/FONT] [FONT=Arial]phi vụ này cũng chỉ nhằm chụp được [/FONT][FONT=Arial]các bức ảnh[/FONT][FONT=Arial] radarscope.[/FONT][/FONT][/COLOR][/SIZE]
    [FONT=Arial][COLOR=navy][/COLOR][/FONT]
    [FONT=Arial][COLOR=navy][/COLOR][/FONT]
    [FONT=Arial][SIZE=3][COLOR=navy]Vào mùa xuân[/COLOR][/SIZE][/FONT][/FONT][COLOR=black][FONT=Arial][COLOR=navy][SIZE=3] năm 1954, Eisenhower đã phê duyệt [FONT=Arial]phi vụ[/FONT][FONT=Arial] thứ hai [FONT=Arial]nhằm vào[/FONT][FONT=Arial] bán đảo Kola. JCS [FONT=Arial]ra lệnh[/FONT][FONT=Arial] cho [FONT=Arial]Phi đoàn[/FONT][FONT=Arial] trinh sát chiến lược 91[FONT=Arial]đóng[/FONT][FONT=Arial] tại [FONT=Arial]c[/FONT][FONT=Arial]ăn cứ không quân[/FONT][/FONT][FONT=Arial] Lockbourne ở Ohio [/FONT][FONT=Arial]thực hiện[/FONT][FONT=Arial].[/FONT] [FONT=Arial]Phi đoàn này [/FONT][FONT=Arial]gửi[/FONT][/FONT][FONT=Arial] một [FONT=Arial]phi [/FONT][FONT=Arial]đội[/FONT][/FONT][FONT=Arial] RB-47E và [FONT=Arial]một phi đội tiếp dầu [/FONT][FONT=Arial]KG97[/FONT][/FONT][FONT=Arial] [FONT=Arial]của họ đến căn cứ [/FONT][FONT=Arial]RAF[/FONT][/FONT][FONT=Arial] Fairford để chuẩn bị cho nhiệm vụ này. [FONT=Arial]Phi vụ trinh sát[/FONT][FONT=Arial] bán đảo Kola [FONT=Arial]được xem như[/FONT][FONT=Arial] [FONT=Arial]là[/FONT][FONT=Arial] nhiệm vụ [FONT=Arial]đầu tiên [/FONT][FONT=Arial]của[/FONT][/FONT][FONT=Arial] [FONT=Arial]loại máy bay[/FONT][FONT=Arial] RB[/FONT][FONT=Arial]-[/FONT][FONT=Arial]47E[/FONT].[/FONT][/FONT][FONT=Arial][/FONT][/FONT][/FONT][/FONT][/FONT][/FONT][/SIZE][/COLOR][FONT=Arial][COLOR=black][FONT=Arial]
    [/FONT][/COLOR][/FONT][/FONT][/COLOR][/FONT][/FONT][/FONT][/FONT][/FONT][/FONT][/FONT][/FONT][/COLOR][/FONT][/FONT][/FONT]
  5. anheoinwater

    anheoinwater GDQP - KTQSNN Moderator

    Tham gia ngày:
    25/10/2007
    Bài viết:
    2.811
    Đã được thích:
    1.208
    Không giống như những chiếc B-47B cải tiến được sử dụng trong các phi vụ xâm nhập trước đó, chiếc RB-47E là một phiên bản trinh sát thật sự dựa trên nền tảng chiếc máy bay ném bom B-47E. Chuyến bay thử nghiệm đầu tiên của RB-47E đã được thực hiện vào ngày 3 -7-1953, rồi sau đó nó được đưa vào hoạt động chính thức trong tháng mười một. Thay đổi dễ thấy nhất là mũi của máy bay được tăng kích thước để có thể chứa một camera khổng lồ K-38, chiếc camera này được gắn hướng ống kính về phía trước. Thêm 3 camera K-17 được gắn trong khoang bom. Những hệ thống trong chiếc RB-47B cũng khác biệt so với những máy bay trước đó, bao gồm cả việc thay thế mấy khẩu súng máy bằng một cặp pháo 20mm. Mặc dù vậy, tháp súng đuôi vẫn chưa đáng tin cậy cho lắm.ffice:office" />

    Sáng sớm ngày 08 Tháng 5, 1954, ba đội bay RB-47E dự một buổi thuyết trình nhiệm vụ. Hai trong số họ sẽ bay đến một điểm cách một trăm dặm về phía bắc thành phố cảng Murmansk của Liên Xô, sau đó quay mũi và bay trở lại nước Anh. Đội bay thứ ba, bao gồm Đại úy Harold "Hal" Austin (phi công), Đại úy Carl Holt (phi công phụ) và Thiếu tá Vance Heavilin (hoa tiêu), lại phải nghe thuyết trình một cách riêng biệt bởi hai nhân viên tình báo SAC. Họ phải tiếp tục bay xuống phía nam, đi sâu vào không phận Liên Xô chụp ảnh chín sân bay, người ta nghi ngờ ở những nơi đó có loại máy bay chiến đấu mới nhất là MiG-17 đang đóng quân. Đường bay của họ trong không phận Liên Xô dài đến 600 dặm, đi từ Murmansk về phía nam tới Arkhangelsk, sau đó ngoặt về phía tây nam để đến Onega, cuối cùng quay về phía tây để thoát khỏi không phận Liên Xô.

    Bachiếc RB-47E cất cánh từ căn cứ RAF Fairford vào khoảng 7:00, sau đó tiếp nhiên liệu từ máy bay tiếp dầu KC-97 ngoài khơi bờ biển Na Uy. Mấy chiếc RB-47E tiếp tục bay với đội hình giãn rộng khi chúng vượt qua Mũi Bắc của Na Uy, sau đó chúng quay về hướng nam tiến đến Murmansk. Đến điểm đã định trước, hai chiếc RB-47E quay ngược lộ trình để bay về. Những phi công trên hai chiếc ấy ngạc nhiên nhìn chiếc RB-47E của Austin tiếp tục bay về phía nam.

    Máy bay của Austin vượt qua bờ biển Liên Xô vào giữa trưa, nó bay với độ cao gần 40.000 feet và tốc độ 440 hải lý/giờ. Austin sau đó kể lại: "Bầu trời trong sáng như gương, có cảm giác như đánh một tiếng chuông thì nó sẽ ngân vang trên toàn bộ phần phía tây lục địa." Vance Heavilin mở khoang chứa bom, bật camera radarscope. Sau đó, Carl Holt nhớ lại, chiếc RB-47E bắt đầu tạo ra các vệt hơi nước "như sáu mũi tên màu trắng chỉ theo hướng của chúng tôi." Sự hình thành của các vệt hơi nước này không hề khớp với dự báo thời tiết trước chuyến bay, thế là bỗng dưng mấy tay phi công MiG có một hướng dẫn trực quan về vị trí của chiếc máy bay xâm nhập.

    Mục tiêu đầu tiên của RB-47E là hai sân bay lớn gần Murmansk. Khi họ bay qua sân bay thứ nhất, Holt có thể nhìn thấy mấy chiếc MiG đang xoay vòng rộng để lấy độ cao, ông biết chỉ còn vấn đề thời gian trước khi chúng tiếp cận được chiếc RB-47E.

    Khi chiếc RB-47E chụp xong ảnh của sân bay thứ hai, ba chiếc MiG đã tham gia vào đường bay của nó. Chúng không bắn chiếc máy bay Mỹ, chỉ bay cách khoảng nửa dặm ở hai bên cánh. Trong khi các phi công MiG quan sát để nhận dạng chiếc RB-47E, Austin và phi hành đoàn của ông vẫn tiếp tục bay theo đúng như kế hoạch dự định trước. Khoảng 25 phút sau, một nhóm sáu chiếc MiG bay đến. Giống như bộ ba trước đó, họ chỉ quan sát chiếc máy bay đột nhập. Phi hành đoàn RB-47E chụp ảnh được thêm hai sân bay chính gần Arkhangelsk, sau đó họ bắt đầu chuyển sang phía tây nam, hướng đến các sân bay kế tiếp. Họ đã bay trong không phận Liên Xô khoảng một giờ, phần lớn thời gian đó có MIG bay theo “hộ tống”.

    Trong vòng vài phút, hai nhóm, mỗi nhóm có ba chiếc MiG-17 bắt đầu tiếp cận RB-47E từ phía sau. Bất kỳ sự phỏng đoán gì về ý định của sáu chiếc MiG-17 cũng đã nhanh chóng biến mất. Chiếc MiG-17 đầu tiên bắt đầu lao đến từ phía sau bên trái. Các khẩu pháo gắn dưới mũi chiếc tiêm kích bắt đầu khai hỏa, Austin và Holt có thể nhìn thấy những vệt đạn pháo vọt ngang phía trên và phía dưới máy bay họ. Do đang ở tốc độ và độ cao lớn, việc điều khiển chiếc MiG-17 trở nên rất khó khăn, làm cho phi công khó có thể nhắm bắn chính xác vào mục tiêu. Chiếc MiG bay vượt qua ở bên dưới chiếc RB-47E rồi ra phía trước nó mà không bắn trúng được phát nào. Austin cho chiếc RB-47E chúi mũi giảm độ cao, sau khi chúi xuống vài ngàn feet, tốc độ của nó đã tăng thêm được 20 hải lý/giờ.Còn Holt thì cố gắng bắn trả, nhưng ông nhận thấy những khẩu súng sau đuôi không hoạt động. Ngoài ra, màn hình radar cũng tắt ngấm, do đó Holt phải cố gắng nhắm bắn bằng mắt thường.

    Holt vẫn cố gắng làm cho khẩu súng bắn được khi chiếc MiG-17 thứ hai bắt đầu đợt tấn công của nó. Lần này, chiếc máy bay chiến đấu bay thẳng đến ngay phía sau chiếc RB-47E. Austin sau đó kể lại, "Thật là đáng sợ khi chứng kiến những vệt đạn bay qua khắp chung quanh máy bay của chúng tôi." Austin nói với Holt rằng: “Ông cố mà làm cho mấy khẩu khẩu súng đó bắn được, còn không thì chiếc MiG tiếp theo sẽ bắn thẳng vào ống xả động cơ của chúng ta,chúng ta sẽ là con vịt giời chết. Khi chiếc MiG-17 thứ ba bắt đầu đợt tấn công của nó. Holt, vẫn nhắm mục tiêu bằng mắt và cảm thấy "mình giông giống Wyatt Earp," siết cò bắn ra một loạt ngắn. Ông bắn hụt chiếc MiG, nhưng tay phi công MiG thấy ánh lửa từ nòng súng và vội vàng ngoặt ngang bỏ dở đợt tấn công của mình. Các phi công MiG khác trở nên thận trọng hơn, họ bay ở một góc khoảng bốn mươi độ về phía bên hông RB-47E, vị trí này cho phép họ ở bên ngoài góc bắn của súng đuôi. Họ không biết rằng khẩu súng đuôi giờ đây đã hỏng hẳn và không thể bắn được nữa, bất chấp những nỗ lực khắc phục của Holt.

    Chiếc MiG-17 thứ tư bắt đầu lượt bắn của nó, nó lao đến với một góc bốn mươi lăm độ hoặc nhiều hơn. Điều này làm cho viên phi công MiG càng khó ngắm bắn hơn. Mặc dù vậy, một trong những viên đạn pháo của anh ta trúng vào phía trên cánh trái, cách thân máy bay 8 feet, vào ngay cánh tà. Các mảnh vỡ bắn ra trúng vào thân máy bay ngay gần thùng nhiên liệu chính số 1. Đội bay cảm thấy một chấn động rõ rệt. Viên đạn phá hỏng hệ thống liên lạc nội bộ radio UHF, làm cho nó kẹt cứng vào kênh 13, tần số của trạm chỉ huy. Bất chấp những thiệt hại và sự sợ hãi, đội bay vẫn tiếp tục bay thực hiện những nhiệm vụ còn lại của họ. Austin tin rằng điều này là do sự lì lợm, do các đội bay đã trải qua kiểu đào tạo SAC của Le May".

    Chiếc RB-47E, sau khi chụp những tấm ảnh cuối cùng mà nhiệm vụ đề ra, quay về phía tây và hướng đến Phần Lan. Sáu chiếc MiG gần cạn nhiên liệu và phải bỏ dở cuộc săn đuổi, nhưng chiếc RB-47E nhanh chóng đối diện với ba chiếc MiG-17 khác. Hai trong số chúng lao vào tấn công, nhưng tốc độ quá cao khiến họ bắn hụt. Chiếc MiG-17 thứ ba kéo lên, tay phi công cố gắng giữ cho chiếc Mig có thể bay dọc theo phía bên phải chiếc RB-47E, "đủ gần để bắt tay," Austin nhớ lại, và hai chiếc cặp kè với nhau trong khoảng 2 đến 3 phút. Vào thời điểm này, chiếc RB-47E và mấy chiếc MiG-17 săn đuổi đã vào hẳn trong không phận Phần Lan, nhưng điều này không ngăn được hai chiếc MiG kia ngừng bắn. Có thời điểm, một phi công MiG thậm chí đã cố gắng lao chiếc MiG của mình vào chiếc RB-47E để tiêu diệt nó. Anh ta lao trượt, vì chiếc MiG bị mất thăng bằng (stall) rơi lộn vòng ngay dưới RB-47E. Một trong những camera đã chụp được một đợt tấn công áp sát của MiG-17. Cuối cùng, những chiếc MiG hoặc do gần hết nhiên liệu hoặc do bị ra lệnh quay về nên đành bỏ dở cuộc săn đuổi trên không phận Phần Lan. Phi công chiếc MiG-17 thứ ba đang bay lắc lư bên cạnh đã đưa tay lên chào đội bay RB-47E một cách đau khổ, rồi quay trở về biên giới Liên Xô.

    Những thử thách của Austin và phi hành đoàn của ông vẫn chưa qua. Họ đã bay quá khoảng ba mươi phút so với kế hoạch, và họ không biết những thiệt hại ở cánh và thân máy bay sẽ ảnh hưởng như thế nào đến mức tiêu thụ nhiên liệu của nó. Lúc đầu, nó trông không đến nỗi tệ. Chiếc RB-47E bay về phía điểm hẹn với chiếc tiếp dầu KC-97 đang chờ đợi ngoài khơi bờ biển Na Uy. Khi Austin cố gắng liên lạc với KC-97, tất cả những gì ông nghe được từ viên phi công KC-97 là anh ta đã rời khỏi khu vực. Khi RB-47E ra khỏi bờ biển Na Uy, tình trạng nhiên liệu đã trở nên tệ hơn. Austin tăng độ cao lên 43.000 feet và cho động cơ quay ở tốc độ hành trình tối đa. Tất cả những gì họ đã vượt qua sẽ là vô ích nếu nhiên liệu cạn kiệt, những bộ phim quay được sẽ bị mất nếu chiếc máy bay rơi.

    Khi RB-47E đến khoảng cách một trăm dặm với bờ biển Anh, Austin thông báo radio để báo động cho những chiếc KC-97 tại căn cứ RAF Brize Norton cất cánh khẩn. Do radio UHF bị hư hỏng, phi công chiếc tiếp dầu là Jim Rigley chỉ nghe được loáng thoáng có một hai từ, nhưng chúng cũng đủ cho anh ta để nhận ra giọng nói của Austin. Rigley xin phép cất cánh nhưng RAF lại đang một trường hợp khẩn cấp nên họ từ chối không cho phép cất cánh. Rigley bèn thông báo rằng: “Tôi cứ bay đấy!” rồi ông ta cất cánh. Austin sau đó kể lại ông chưa bao giờ hồi hộp hơn khi nhìn thấy một chiếc máy bay như khi ông nhìn thấy chiếc KC-97 từ xa như vậy, ông thở phào khi nhận ra đó đúng là KC-97 tiếp dầu khi nó đến gần. Ông kéo vào vị trí, và chiếc tiếp dầu bắt đầu bơm nhiên liệu cho RB-47E. Holt sau đó cho biết tất cả các đồng hồ đo nhiên liệu đã báo zero khi cần tiếp dầu tiếp xúc với máy bay.

    Sau khi được bơm 12.000 pound nhiên liệu, Austin tách máy bay ra khỏi ống tiếp nhiên liệu, chào các nhân viên điều khiển ống tiếpbay về phía căn cứ RAF Fairford. Họ bay thấp ngang tháp không lưu và quay vòng. Đáp lời họ, các nhân viên điều khiển không lưu bật sáng đèn xanh ra hiệu cho phép hạ cánh. Họ hạ cánh bình thường, lăn ra khỏi đường băngdừng lại trên một đoạn đường dẫn. Sau khi họ dừng lại, cánh cửa hầm mở ra và trưởng phi đoàn leo lên những bậc thang. Lời đầu tiên của ông nói với ba người phi công là: "Cái loại chim chóc chết tiệt gì bị các anh đâm trúng vậy?”
  6. anheoinwater

    anheoinwater GDQP - KTQSNN Moderator

    Tham gia ngày:
    25/10/2007
    Bài viết:
    2.811
    Đã được thích:
    1.208
    Kết quả
    <FONT class=imageattach size=3 face=Arial onload=[/IMG]Trận không chiến tại bán đảo Kola đã không tránh được việc gây chú ý. Ngày hôm sau, Bộ quốc phòng Thụy Điển cho biết một nhóm các máy bay không rõ quốc tịch đã từ Phần Lan vượt qua không phận Thụy Điển. Ngày 15 tháng 5 -1954, một tờ báo Phần Lan đăng tin các cư dân ở miền Bắc Phần Lan đã nghe được âm thanh của một trận không chiến bằng máy bay phản lực vào ngày 08 Tháng Năm. Tờ báo nói thêm: "Có thể đó là người Nga và người Mỹ." Tuy nhiên, Bộ Ngoại giao Phần Lan phủ nhận tất cả. Một phát ngôn viên của Không quân Hoa Kỳ tại Wiesbaden Tây Đức tuyên bố không có máy bay Mỹ nào hoạt động trong khu vực đó, Không quân hoàn toàn chẳng biết gì về việc này. Còn phía Liên Xô thì im lặng.

    Austin, Holt và Heavilin được đích thân Tướng LeMay tham vấn tại tổng hành dinh SAC. Họ không được xem những tấm ảnh họ đã chụp, nhưng LeMay cho họ biết chúng rất tốt. Trong buổi gặp mặt đó, LeMay hỏi Austin: "Nhờ đâu các anh không bị bắn hạ?" Austin trả lời ông tin chắc là họ sẽ bị bắn hạ nếu tay phi công MiG-17 dám tấn công trực tiếp từ phía sau máy bay, dám bay thẳng vào tháp pháo phía sau của chiếc RB-47E. LeMay đồng ý, và nhận xét thêm: "Tôi tin rằng đa số bọn phi công tiêm kích là lũ hèn nhát."

    (Hehe, quân đội nào cũng vậy, luôn có hiềm khích ghen ghét giữa các quân binh chủng, cùng là không quân mà bọn phi công ném bom với tiêm kích cũng vặc nhau như chó với mèo.)

    Holt luôn tin rằng giữa Hoa Kỳ và Liên Xô chỉ là một cuộc “chiến tranh lạnh”, không phải là "chiến tranh nóng." Nên trong cuộc họp này ông nói với Tướng LeMay một cách ngây thơ: "Thưa ngài, họ đã thật sự cố gắng bắn hạ chúng tôi." LeMay đang rít điếu xì gà đắt tiền của mình, ông tạm ngừng, nghiêng người lại và trả lời: "Thế ông muốn họ sẽ làm gì? Bay lên tặng ông một que kem à?"

    Tướng LeMay trao tặng ba người phi công mỗi người hai huân chương Distinguished Flying Cross thay vì một huân chương Silver Star. Khi trao tặng , LeMay xin lỗi họ vì không thể trao họ huân chương Silver Star, ông giải thích rằng huy chương đó cần sự chấp thuận của một hội đồng xét duyệt mới được trao tặng, mà hội đồng đó lại không được phép biết về phi vụ này.

    Austin còn nhận được một phần thưởng riêng. Sau khi chiếc RB-47E bị "va chạm vào mấy con chim mòng biển", nó cần phải đưa vào sửa chữa lớn. Các nhân viên bảo trì mặt đất cắt ra một phần vỏ máy bay. Chính giữa miếng vỏ ấy là một lỗ thủng to tướng do bị trúng đạn pháo. Khoảng ba tuần sau phi vụ, lão sếp đơn vị bảo trì của phi đội đã đến gõ cửa nhà của Austin cùng với miếng vỏ ấy, nó được gắn lên một cái khung gỗ. Lão ấy tặng nó cho Austin và nói thêm rằng lão không muốn bất cứ ai trong căn cứ này nhìn thấy Austin cùng với món quà này.

    Mặc dù giá trị của các phi vụ xâm nhập bí mật vào Liên Xô đã được chứng minh rõ ràng, nhưng những thiệt hại trên các chiếc Canberra của Không quân Hoàng gia và RB-47E của Austin cho thấy những nguy cơ. Mặc dù vậy, việc tiếp tục bay xâm nhập là một nhu cầu bức thiết cho bên tình báo, đặc biệt là về chương trình tên lửa của Liên Xô. Tháng 5-1954, ngay sau việc chiếc RB-47E suýt bị hạ, Philip G. Strong thuộc Cơ quan tình báo khoa học của CIA đã thuyết phục Dulles bên DCI, ông này phải miễn cưỡng yêu cầu không quân chấp thuận cho thực hiện một phi vụ xâm nhập vào bãi thử tên lửa Kapustin Yar. Không quân và CIA có một số cuộc họp trong vài tháng kế tiếp, nhưng cuối cùng các phi vụ đã bị không quân bác bỏ vào tháng 10-1954. Những rủi ro chính trị của việc bay xâm nhập ban ngày vào các khu vực được bảo vệ chặt chẽ của Liên bang Xô viết là quá cao để có thể được chấp nhận.

    Những phi vụ bay đêm vẫn có thể được thực hiện với mức độ rủi ro chính trị chấp nhận được, nhưng bay đêm đồng nghĩa với việc chỉ chụp được các bức ảnh radarscope, không thể chụp các bức ảnh thị giác thông thường. Ít nhất bốn phi vụ bay đêm đã được thực hiện vào vùng phía tây Liên Xô trong khoảng thời gian một năm sau khi chiếc RB-47Ecủa Austin suýt bị bắn hạ. Phi vụ đầu tiên trong số này, khoảng vài tháng sau đó, là một chuyến bay ban đêm đến Moscow. Tuy nhiên trong suốt chuyến bay này, chiếc RB-47E gặp phải một cơn gió quá mạnh so với dự báo. Điều này khiến chiếc máy bay tiêu hao nhiên liệu với tốc độ nhanh hơn nhiều so với kế hoạch, và nó phải quay trở về khi chưa chụp ảnh được tất cả các mục tiêu định sẵn. Dù sao thì chiếc máy bay đã quay về an toàn.


    Ba phi vụ khác được thực hiện trong tháng 3 năm 1955, là một sự lặp lại phi vụ xâm nhập của Không quân Hoàng gia Anh đã thực hiện trước đó. Lần này do ba chiếc RB-45C của Không quân Mỹ thực hiện, do Thiếu tá John Anderson dẫn đầu. Cũng giống như phi vụ trước của Không quân Hoàng gia, họ thực hiện ba đường bay, riêng đường bay vào khu vực Ukraine có xa hơn về phía nam hơn so với đường bay số hai do Crampton lái. Ba chiếc RB-45C cất cánh từ căn cứ RAF Sculthorpe và leo lên đến độ cao 35.000 feet khi họ bay về phía đông. Chúng đồng thời vượt qua biên giới của các nước vùng Baltic, Ba Lan, và Tiệp Khắc. Các phi hành đoàn thực hiện thành công tất cả các mục tiêu được giao, bao gồm cả các căn cứ quân sự và những thành phố. Người Xô viết cho cất cánh rất nhiều máy bay chiến đấu để đuổi theo họ, nhưng các đơn vị điều khiển mặt đất Liên Xô không thể xác định vị trí đánh chặn cho những chiếc MiG. Tất cả mấy chiếc RB-45C hạ cánh an toàn xuống Tây Đức và các phi đội đều nhận được huân chương Distinguished Flying Cross.
  7. anheoinwater

    anheoinwater GDQP - KTQSNN Moderator

    Tham gia ngày:
    25/10/2007
    Bài viết:
    2.811
    Đã được thích:
    1.208
    Tiếp tục các chuyến bay xâm nhập tầm ngắn.

    Sau khi kết thúc Chiến tranh Triều Tiên, nhu cầu bay xâm nhập tầm ngắn vào vùng Viễn Đông để trinh sát các mục tiêu ở Liên Xô, Trung Quốc, và Bắc Triều Tiên là vẫn cần thiết. Yêu cầu các chuyến bay được gửi từ người chỉ huy FEAF đến các bộ tư lệnh cao hơn và JCS. Nếu họ chấp nhận, yêu cầu sẽ được gửi cho Tổng thống Eisenhower. Sau khi tổng thống chấp thuận, cấp thẩm quyền sẽ gửi xuống những mệnh lệnh cụ thể cho đơn vị hành động. Kế hoạch bay được đạo diễn bởi bốn sĩ quan chỉ huy và một sĩ quan tình báo ở tổng hành dinh FEAF. Ngày và thời gian bay dựa trên các yếu tố như hướng mặt trời, thời tiết, tình trạng thiết bị và phi công, tình hình trong khu vực mục tiêu, và sự sẵn sàng của các đơn vị hỗ trợ như SIGINT cùng các đơn vị cứu hộ trên không, trên biển.


    Để thực hiện các chuyến bay, một đơn vị đặc biệt được thành lập vào cuối năm 1953, trực thuộc Phi đội Trinh sát 15 Tacucal đóng tại Căn cứ không quân Komaki Nhật Bản. (Phương châm của đơn vị là " We killum with fillum.") Chỉ huy đơn vị là Thiếu tá Robert E. "Red" Morrison, đội của ông bao gồm tám phi công đã có kinh nghiệm bay với loại RF-86F, đó là máy bay chiến đấu F-86 đã gỡ bỏ các khẩu súng máy và cải tiến để mang ba camera. Hai camera K-22, trang bị ống kính tiêu cự 40-inch đặt ở hai bên chỗ ngồi của phi công, chúng có chất lượng hình ảnh gần như ảnh nổi. Một camera lập bản đồ K-17 với ống kính 6-inch có góc quay rộng được đặt ở phía trước bên dưới chỗ ngồi của phi công. Những thay đổi bên ngoài có thể nhận thấy chỉ là một phần lồi ra ở hai bên thân máy bay, đó là chỗ chứa camera. Máy bay còn được sơn lên mũi những lỗ súng máy giả để cho trông giống như một máy bay tiêm kích F-86 bình thường. Nhưng do những thay đổi, chiếc RF-86F chỉthể đạt được tốc độ tối đa Mach 0,9. Để mở rộng tầm xa cho nó, họ gắn thêm hai thùng nhiên liệu 200-gallon và hai thùng 120-gallon.

    ("We killum with fillum." Mình giữ nguyên không dịch vì đây là một trò chơi chữ. Chữ Killum rất đa nghĩa, có thể hiểu là “giết chúng” hay “sung sướng với phụ nữ” đều được. Còn nhiều nghĩa nữa cho từ Killum, nhưng trong bối cảnh này thì hai nghĩa trên là đủ. Còn chữ Fillum chỉ đơn giản là tấm phim hay bộ phim.)

    Đơn vị thực hiện tổng cộng chín phi vụ xâm nhập vào các sân bay tại Liên Xô và Trung Quốc trong khoảng thời gian từ tháng 4-1954 đến tháng 2-1955, và ít nhất ba phi vụ trong tháng 7 và tháng 8 năm 1955. Mục tiêu bao gồm Vladivostok, đảo Sakhalin, Sovetskaya Gavan, Dairen, và Thượng Hải. Thông thường, có từ 2 đến 4 chiếc máy bay phối hợp để thi hành một phi vụ. Họ bay vào ban ngày ở độ cao trung bình giữa 45.000 đến 48.000 feet, và chỉ bay khi nào điều kiện thời tiết bảo đảm khí thải thoát ra từ động cơ của họ sẽ không hình thành vệt mây trắng .

    Một trong những phi vụ đầu tiên đơn vị thực hiện là do Trung úy Robert J. Depew và Trung úy Rudolf Anderson, Jr bay vào tháng 1,1954. Các khu vực mục tiêu là thành phố cảng Dairen của Trung Quốc và các cơ sở quân sự do Liên Xô kiểm soát ở cảng Arthur. Ngay cả với bốn thùng nhiên liệu, đường bay vẫn quá dài vì họ xuất phát từ Nhật Bản. Họ cất cánh từ căn cứ không quân Komaki lúc 04:00 và bay tới căn cứ không quân K-8 bên ngoài Kunsan, Hàn Quốc. Ở đấy các cuộn phim được lắp vào và nhiên liệu được tái nạp. Điều này phải được thực hiện thật nhanh chóng, bởi vì việc xuất hiện RF-86F ở Hàn Quốc là vi phạm thỏa thuận ngừng bắn, thỏa thuận này không cho phép hai bên đem đến thêm bất cứ chiếc máy bay nào đến Bắc hay Nam Triều Tiên một khi đã ngưng bắn. Lặc lè với một tấn nhiên liệu mang thêm trong hai thùng xăng mỗi thùng 200 gallon, chiếc máy bay cất cánh và bay về hướng Trung Quốc.

    Ảnh một chiếc RF-86F ở Hàn Quốc, các bồ có thể nhìn thấy rõ mấu lồi ở chỗ chứa camera bên cạnh chỗ ngồi của phi công cùng các hình vẽ giả như các họng súng máy sơn gần mũi máy bay.

    [​IMG]
  8. anheoinwater

    anheoinwater GDQP - KTQSNN Moderator

    Tham gia ngày:
    25/10/2007
    Bài viết:
    2.811
    Đã được thích:
    1.208
    Khi các thùng xăng phụ cạn kiệt và được vứt bỏ cho nhẹ, Depew và Anderson lên được độ cao khoảng 54.000 feet. Depew sau đó nói rằng ông luôn cố gắng bay càng cao càng tốt để tránh radar với MiG,đồng thời để tránh cho máy bay của mình tạo ra vệt mây.Như vậy là chiếc EF-86F đã lên đến 12.000 feet cao hơn độ cao trung bình của nó nên việc điều khiển khá khó khăn. Chiếc RF-86F bay ngóc mũi lên trênhọ cảm thấy như thể nó luôn bên bờ vực thất tốc, mất điều khiển (stall). Để tránh thường hợp này, họ hạ các cánh tà xuống khoảng một inch đến một inch rưỡi. Nhưng độ cao như thế lại có một lợi ích là mức tiêu thụ nhiên liệu mỗi giờ bay được hạ xuống ở mức thấp. Cuối cùng, Depew và Anderson đã nhìn thấy đất liền ở phía trước. Thành phố cảng Dairen hiện ra thật rõ ràng và họ chụp ảnh tất cả một cách dễ dàng. Sau đó hai máy bay thực hiện một cú ngoặt rộng 180 độ sang trái và chụp ảnh Cảng Arthur chỉ cách đó một khoảng ngắn về phía tây. Không có dầu hiệu nào cho thấy chúng bị phát hiện. "Nhưng," Depew sau đó kể lại, "chúng tôi không dại gì ở lâu trong khu vực." Họ bay trở lại K-8, nơi đó người ta gắn lại cho họ thùng xăng phụ 120-gallon mới, tiếp nhiên liệu đầy đủ, rồi bay về Nhật Bản.


    Ngày hôm sau, Depew và Anderson đi đến trụ sở FEAF tại Tokyo để xem ảnh họ chụp. Đây là lần duy nhất mà Depew được thấy kết quả của nhiệm vụ ông thực hiện, và ông luôn nhớ về nó như là một kinh nghiệm tuyệt vời. Trong lúc xem ảnh, một đại tá kêu lên: "Jesus Christ, nhìn vào tất cả những chiếc tàu ngầm đây này." Depew cùng anh ta xem xét tấm ảnh và họ tính ra có đến mười bốn hoặc mười lăm chiếc tàu ngầm tất cả. Ngày hôm sau, Depew và Anderson bay trở lại căn cứ không quân Komaki. Họ chẳng được nói với các phi ông khác là họ đã đi đâu.

    Phi vụ dài nhất và khó khăn nhất được thực hiện bởi Thiếu tá Morrison vào ngày 19 tháng hai 1955. Nhiệm vụ ban đầu được dự kiến ​​là một phi vụ gồm hai máy bay đi chụp ảnh một sân bay gần thành phố Khabarovsk của Liên Xô. Thành phố này nằm cạnh sông Amur, con sông biên giới giữa Liên Xô và Trung Quốc.

    Phi vụ đã gặp rắc rối ngay sau khi cất cánh. Khi hai chiếc RF-86F bay qua biển Nhật Bản, đồng đội của Morrison báo hiệu rằng anh ta bị trục trặc kỹ thuậtphải quay trở lại sân bay. Morrison đành tiếp tục một mình. Vào lúc ông đến gần không phận của Liên Xô thì hai thùng xăng phụ đầu tiên cạn kiệt và được vứt bỏ. Đến khi cặp thứ hai cạn, ông bấm nút thả chúng ra thì một thùng bị kẹt cứng. Phải gánh trọng lượng của nó nên ông không thể đạt đến độ cao như kế hoạch đề ra. Để bổ sung cho những lộn xộn ấy, tốc độ và hướng của những cơn gió trên cao cũng chẳng giống như những gì người ta đã dự đoán trước chuyến bay.

    Hậu quả, vào thời điểm mà theo tính toán ban đầu là sẽ đến Khabarovsk thì ông vẫn chưa nhìn thấy thành phố nào cả. Morrison chỉ có thể nhìn thấy sông Amur nên ông bay dọc theo nó. Ông dùng máy định hướng sóng radio trên máy bay để tìm hướng phát của Đài phát thanh Khabarovsk. Khi đã dò được, ông theo hướng đó mà bay đến. Cuối cùng thì thành phố cũng hiện ra, đầu tiên Morrison lộn chiếc RF-86F sang bên trái, sau đó lộn sang bên phải. Điều này cho phép ông ta nhìn thấy rõ mặt đấtđiều chỉnh chính xác đường bay để hướng thẳng đến sân bay mục tiêu. Sau đó Morrison bật camera và ông cảm thấy chiếc RF-86F rùng mình. Đó là thùng xăng bị kẹt bây giờ mới tách khỏi máy bay. Cái thùng xăng phụ với tất cả các dấu hiệu ký hiệu của Không quân Mỹ đã rơi thẳng xuống Khabarovsk. Morrison chụp ảnh thành công sân bay, nhưng máy bay của ông bây giờ còn khá ít nhiên liệu. Ông phải vạch một đường bay mới cho mình, hướng thẳng về căn cứ không quân Chitose, Nhật Bản. Cuối cùng thì chiếc máy bay của ông ta cũng ló dạng giữa các đám mâyhướng đến đường băng. Bởi vì chiếc máy bay đã quá nhẹ nên ông rất khó khăn để bắtchạm xuống đường băng. Khi ông quay ra khỏi đường băng hướng vào bãi đỗ, động cơ đột nhiên tắm lịm. Chiếc RF-86F đã hết nhiên liệu.

    Mãi cho đến 28 Tháng Ba 1955, Depew mới thực hiện chuyến bay thứ hai của mình. Đây là phi vụ xuất phát từ căn cứ K-8 để chụp ảnh Bắc Triều Tiên. Ông và đồng đội George Best cất cánh, vượt qua vĩ tuyến 38, sau đó bay từ tây sang đông khu phi quân sự của Bắc Triều Tiên. Chuyến bay thứ hai vào Bắc Triều Tiên cũng với đồng đội Best được thực hiện ngay sau đó. Phi vụ thứ tư cũng là cuối cùng của Depew thực hiện vào cuối tháng bảy hoặc đầu tháng 8 năm 1955. Depew và Henry Parsons bay ra khỏi căn cứ không quân Chitose cuối phía bắc Hokkaido. Khu vực mục tiêu là quần đảo Kurile và Sakhalin. Lúc họhướng về khu vực đó, thời tiết bắt đầu xấu đi. Khi tình hình trở nên quá rõ ràng rằng họ không thể chụp ảnh các mục tiêu, họ đành quay về hạ cánh xuống Chitose. Sau khi hạ cánh, Parsons nói rằng ông đã nhìn thấy một chiếc MiG bay bên dưới họ trong suốt chuyến bay. Depew không biết đích xác chiếc Mig ấy có phải bay lên để ngăn chặn họ hay không, nhưng đây là lần duy nhất phát hiện thấy một máy bay tiêm kích của đối phương. Depew tin rằng ông là phi công duy nhất trong đơn vị có đến bốn phi vụ xâm nhập, cũng là phi công duy nhất đã bay vào cả Trung Quốc, Bắc Hàn và Liên Xô.
  9. anheoinwater

    anheoinwater GDQP - KTQSNN Moderator

    Tham gia ngày:
    25/10/2007
    Bài viết:
    2.811
    Đã được thích:
    1.208
    Việc giám sát các khu vực ven biển của Trung Quốc đại lục đối diện Đài Loan cũng được tiếp tục sau khi Chiến tranh Triều Tiên kết thúc. Trong mùa xuân năm 1955, báo cáo tình báo thu thập được cho thấy có thể quân Trung Quốc cộng sản đang tập trung đến khu vực này. Trung tá Marion E. Carl, chỉ huy Phi đội Marine Photo 1 (VMJ-1), đã được lệnh di chuyển các máy bay F2H-2P Banshee của đơn vị trinh sát sang Đài Loan để chuẩn bị bay xâm nhập đại lục. Carl là phi công Ace đầu tiên của TQLC trong Thế chiến II, sau là phi công thử nghiệm nên ông taphi công TQLC đầu tiên lái máy bay trực thăng và máy bay phản lực.Ông cũng đã lập kỷ lục tốc độ thế giới với chiếc D-558-I Skystreak và kỷ lục độ cao thế giới với chiếc D-558-II Skyrocket.

    Ngày 11 tháng 5 năm 1955, chỉ một tuần sau khi Carl được thông báo nhiệm vụ mới, phi vụ đầu tiên bằng hai chiếc F2H-2Pđã hoàn thành nhiệm vụ mà không có sự cố. Ngày hôm sau, bốn chiếc bay theo hai cặp hướng về đại lục. Carl dẫn đầu một cặp, nhưng lần này thì gặp sự cố. Hạm đội 7 đã chỉ đạo các phi vụ phải được tiến hành độ cao 40.000 feet, bởi vì các bức ảnh chụp tại độ cao này sẽ đạt được tỷ lệ chính xác cao. Tuy nhiên, độ cao này khiến mấy chiếc F2H-2P tạo ra những vệt mây trên trời. Khi Carlphi công số 2 của ông đã bay sâu vào khoảng bốn mươi dặm trong nội địa, ông ngoái lại và thấy hai chiếc MiG đang tiến đến từ bên dưới, phía sau máy bay của họ. Ngay lập tức, ông chúi mũi máy bay xuống, hướng thẳng về phía những chiếc MiG và bay vượt qua chúng. Sau đó ông thực hiện động tác Split-S, mở phanh tốc độ và lao thẳng xuống. Chiếc Banshee rung bần bật với tốc độ chạm Mach lúc nó lao đến gần sát mặt đất. Carl nhìn lại, tin rằng ông đã bị tách khỏi phi công số 2 của mình những đường bay tốc độ cao. Ông rất ngạc nhiên khi thấy anh ta vẫn giữ đúng vị trí yểm trợ của mình. Họ vượt qua bờ biển Trung Quốc và hạ cánh trở lại tại Đài Loan. Sau này, khi Carl tỏ ý thán phục với phi công số 2 về cách anh ta giữ được cho hai máy bay kèm sát nhau, anh ta trả lời: " Đại tá, tôi không thể để mất ông bên trong Trung Quốc Đỏ được."

    Động tác Spit-S, các bồ xem giải thích ở đây: http://en.wikipedia.org/wiki/Split_S

    Mặc dù họ đã trốn thoát không hề hấn gì, Carl vẫn đến gặp Phó Đô đốc Mel Pride để yêu cầu một số thay đổi trong kế hoạch bay. Ông muốn những quyết định chọn độ cao cho các phi vụ phải dựa trên tỷ lệ chính xác vừa mức cần thiết. Bởi vì độ cao 40.000 feet, máy bay sẽ tạo ra những vệt mây có thể được nhìn thấy từ xa cả trăm dặm, làm họ mất yếu tố bất ngờ. Ngoài ra, những người thiết kế nên chiếc Banshee tỏ ra quá kém cỏi. Chỉ cần tốc độ xuống khoảng 30 hải lý/giờ là thất tốc mất điều khiển cận Mach là rung lắc dữ dội. Phó Đô đốc Pride đồng ý, và từ đó mấy chiếc F2H-2P được quy định bay ở độ cao 30.000 feet. Carl cũng thuyết phục được Pride hủy bỏ lệnh cũ, theo đó các phi công và máy bay không được mang theo bất kỳ dấu hiệu, ký hiệu nào xác thực họ là ai. Điều này, Carl lập luận, làm cho một khi phi công bị bắt thì anh ta sẽ bị xem là điệp viên chứ không phải là tù binh chiến tranh, khiến họ có thể bị hành quyết. Cuối cùng, Carl yêu cầu máy bay chiến đấu hộ tống. Pride bảo rằng ông có thể cho phi đội VMJ-1 bốn máy bay chiến đấu F2H-2 Banshee, nhưng hiện không có phi công lái chúng. Carl bèn cho một số phi công trinh sát tham dự một khóa học không chiến cấp tốc, và các phi vụ xâm nhập sẵn sàng đ tiếp tục.

    Vấn đề lớn nhất không phải là hệ thống phòng không của Trung Quốc mà là thời tiết. Trong những tháng tiếp theo, Carl đã bay thêm mười mộtphi vụ, luôn luôn trong một máy bay tiêm kích F2H-2. Trong sáu phi vụ liên tiếp, ông buộc phải hủy bỏ giữa chừng khi vừa tiếp xúc bờ biển hoặc có khi đã đến tận khu vực mục tiêu sâu trong đất liền 120 dặm, vì chúng bị che khuất bởi những đám mâybao phủ. Mặc dù người Trung Quốc vẫn tiếp tục phóng MiG lên trời để đuổi theo mấy chiếc F2H-2P, không có va chạm nào xảy ra. Một radar của Mỹ nằm trên một trong những hòn đảo ven biển theo dõi mấy chiếc Banshee và MiG, họ thông báo qua radio cho các phi công TQLC vị trí của MiG. Mấy chiếc Banshee nhờ vậy không có khó khăn gì để tránh máy bay chiến đấu Trung Quốc. Thời tiết trở nên quang đãng vào đầu tháng 6 năm 1955. Vào ngày 6, Carl đã thực hiện một phi vụ rất thành công. Nhưng phi vụ cuối cùng của ông vào ngày 12 đã bị hủy ngang bởi những đám mây. Ngày hôm sau, đơn vị nhận lệnh ngưng hành động. Các bức ảnh họ mang về cho thấy không có bằng chứng nào về một cuộc xâm lược Đài Loan sắp xảy ra.

    Một chiếc tiêm kích F2H-2 Banshee:
    [​IMG]

    Và một chiếc trinh sát F2H-2P: Lưu ý phần mũi kéo dài để gắn các loại camera.
    [​IMG]

    Không biết chiếc F-2 này có ảnh hưởng gì đến chiếc A-37 mà chúng ta thường thấy trong chiến tranh Việt Nam hay không? Nhưng rõ ràng thiết kế hai chiếc gần như giống hệt nhau, khác ở chỗ A-37 có phần thân to hơn và bẹt hơn, giúp tăng lực nâng và hạn chế thất tốc mất điều khiển khi bay tốc độ thấp (điều này rất cần thiết cho máy bay tấn công mặt đất). F-2 là của hãng McDonell, còn A-37 là của Cessna.
  10. maison2510

    maison2510 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    05/01/2009
    Bài viết:
    1.030
    Đã được thích:
    727
    Nhưng theo ông thầy dậy Luật của em thì Nhà nước cảnh sát đại loại là Nhà nước mà pháp luật được đặt lên cao nhất. Ông í giải thích logic hơn cơ nhưng e chỉ nhớ cái í chính như vậy bác ạ.
    Hj, lan man 1 tí ^^

Chia sẻ trang này