1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Chiến tranh thời Trung Cổ ở Châu Âu từ năm 500 -> 1500

Chủ đề trong 'Kỹ thuật quân sự nước ngoài' bởi hongsonvh, 19/10/2010.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. porthos

    porthos Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    12/10/2004
    Bài viết:
    964
    Đã được thích:
    0
    tồng chí viết người Norman là hậu duệ của Viking rồi lại thực chất là người Pháp thì các lọai @ không hiểu được đâu.Thực tế người Norman định cư ở phía Bắc nước Pháp nhưng sau độ 100 năm thì họ bị Pháp hóa vì hôn nhân pha trộn mà số lượng họ lại ít. Họ mất hết các tên họ của người Bắc Âu để mang tên họ Pháp và nói tiếng Pháp nhưng lại luôn tranh chấp với các vua Pháp đích thực. Thế nên đối với dân Anglo-Saxon thì họ là bọn Pháp xâm lược. Đối với các vua Pháp thì họ lại là bọn Anh cần tống cổ về bên kia eo biển. Chính họ dân Norman thì coi dân Saxon là lũ mọi rợ và tự hào nguồn gốc Pháp. Nhưng họ lại sử dụng lính Saxon để đánh nhau tranh giành lãnh địa trên đất Pháp với vua Pháp. Sau chiến tranh 100 năm thì cuối cùng họ bị đá về Anh và để hòa lẫn với thần dân cai trị thì họ dần dần Anh hóa.

    Về mặt chủng tộc thì các dân tộc lớn ở châu Âu đều là anh em họ với nhau. Anh được xếp vào dòng German nhưng thực chất pha máu Celt+Norman/Pháp. Pháp được xếp vào dòng Latin nhưng ngay cái tên France cũng nói lên nguồn gốc German. Đức thì dây mơ rễ má với Anh qua máu Saxon; với Pháp thì là 2 nửa của vương quốc Frank. Hà lan thì rất gần Đức hay liên quan đến các vùng cổ của Pháp như Flandre/Bourgogne...
  2. macay3

    macay3 LSVH - KTQSNN Moderator

    Tham gia ngày:
    26/10/2007
    Bài viết:
    2.959
    Đã được thích:
    1.590
    truy ngược về khoảng sau khi LM sụp đổ thì lịch sử Tây Âu thiếu sử, nên bi giờ việc xác định nguồn gốc các rợ là việc rất khó khăn, bảng danh biểu niên đại các rợ có trên mạng đa phần là ko chính xác.

    1 lô 1 lốc các loại dân tộc ko biết từ đâu chui ra - phía bắc sông Rhine (visigoth, ôtrogoth)? ,từ bắc âu (saxon) ? , trung âu (bungundy) ? , từ biển đen (Alan) ,....nên các học giả bí quá đành quy về tất cả có gốc german và giải thích chung là các bộ lạc phía bắc tràn vào đánh chiếm la mã. Rõ ràng việc gom chung như vậy là ko thỏa đáng, nếu tất cả cùng dây mơ rễ má với nhau thì họ đến từ đâu? là chủng đại Arian đến từ ấn độ hay dân bản xứ bắc âu?

    từ TK 6--Tk 9 cũng tình trạng chung, nhưng về phần dữ liệu có cụ thể hơn giúp cho việc nghiên cứu chính xác, thuyết phục hơn.
  3. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    --------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

    Hè hè bác Porthos nói đúng quá người Normand là hậu duệ của người Viking nhưng sau 100 năm bị Pháp hóa, William the Conqueror là người Normand nhưng chiếm ngôi vua nước Anh, nhưng chỉ 1->2 đời sau thì các vua nước Anh lại là thuộc giòng Plantagente, họ là các hoàng thân Pháp thực sự ở xứ Anjou. Giòng Plantagente có những hậu duệ lừng danh như vua Risa sư tử tâm... và hình như vua cuối cùng của dòng này là vua Risa gù - vị vua cuối cùng của Anh tử trận trên chiến trường ở cuộc chiến những bông hồng.


    [​IMG]
    May quá kiếm được cái bản đồ sắc nét hơn về nước Anh thế kỷ thứ 7->9, các bác chú ý nhá xứ Wales bị gọi là Refuge, đây là nơi người Breton bị người Saxon ép cho phải trốn lên đó mà ở
  4. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Chi tiết hơn về cuộc xâm lược của người Saxon vào vùng Đảo Anh ( British Island)





    [​IMG]
    Chiếc mũ sắt có mặt nạ, biểu tương của người Saxon khi xâm lược nước Anh




    [​IMG]
    Chân dung đặc trưng của một người lính, nông dân người Anglo-Saxon. Anh ta không có tiền để trang bị giáp trụ như các nhà quý tộc, hoặc các chiến binh chuyên nghiệp, và vũ khí cũng chỉ là những trang bị đơn giản như trùy gỗ và một con dao Scramasax - con dao truyền thống của người Saxon




    [​IMG]
    1. Sỹ quan kỵ binh của Đế chế La Mã đóng tại British thế kỷ thứ 4, lực lượng này bị gọi về để bảo vệ đế chế trước họa của người Goth
    2. Lính kỵ binh của Đế chế La Mã đóng tại British thế kỷ thứ 4, lực lượng này bị gọi về để bảo vệ đế chế trước họa của người Goth
    3. Thủy thủ người Saxon của hạm đội ven bờ do người La Mã thuê
    4. Sỹ quan bộ binh câó thấp của La Mã ở British đầu thế kỷ thứ 5.


    [​IMG]
    1. Một dân binh Roman- British ở thế kỷ thứ 6, đây chính là lực lượng bản địa của người Breton phải chiến đấu để tự vệ trước người Saxon, họ được trang bị đơn giản chỉ có khiên tròng và lao.
    2. Một kỵ binh người British ở phía Bắc, những người gốc Celtic ở phía Bắc luôn đấu tranh với người Saxon và cũng giành được nhiều thắng lợi, họ cũng khuynh loát lẫn nhau và lập ra vương quốc Alban rồi vương quốc Scotland
    3. Chiến binh bộ tộc xứ Welsh, do sự ra đi bất ngơ của người La Mã đã tạo ra một khoảng trống mà người Breton chưa kịp thích nghi với hoàn cảnh, thì người Saxon đã ùa vào để trám vào khoảng trống này nên người Breton luôn thua thiệt và phải tháo chạy về phía Tây


    [​IMG]
    1 Trang bị binh giáp của một vị vua người Angles ở đầu thế kỷ thứ 7, người Angles ( bây giờ hay được gọi là người Anglô) là một đồng minh thân cận của người Saxon, cùng vượt biển với người Saxon để chiếm đảo British
    2. Trang bị của một người lính Saxon ở vương quốc Mercia, vương quốc do người Saxon lập ra tại Anh, người chiến binh này vẫn tỏ rõ tính cách cực kỳ đặc trưng của người Saxon lúc đó - Man rợ và dũng cảm - chính vì vậy mà họ cởi trần và đi chân trần để chiến đấu và
    thậm trí coi khinh những người mặc binh giáp là hèn nhát
    3.4 Những chiến binh người Saxon với đầy đủ binh giáp tại thế kỷ thứ 7, do được trang bị tốt hơn, và có sự chỉ huy tập trung hơn nên người Saxon liên tục chiến thắng trước người Breton. Truyền thuyết nói răng Vua Arthur của người Breton cùng các hiệp sỹ bàn tròn của mình liên tục đánh thắng người Saxon, nhưng truyền thuyết là truyền thuyết thực tế thì người Breton bị đã bị người Saxon đánh bại và mất những phần đất đẹp nhất ở British Island



    [​IMG]
    Ảnh trên:
    1. Một quý tộc người Pictish ở thế kỷ thứ 8-9, không như người Breton ở phia Nam, người Pictish ở phía Bắc không chịu quy thuận triều đình La Mã và họ luôn tìm cách tập kích vào các vùng định cư của người La Mã, để rút quân La Mã về châu Âu với mục đích chống trả người Goth hoặc nội chiến, người La Mã đã thuê lính đánh thuê người Saxon để thay thế, thế là mang cáo về nhà.
    2. Một thợ săn người Pictish hoặc người British ở phía Bắc
    3. Một thủ lĩnh quân sự của người Pictish ở phía Bắc thế kỷ thứ 7, chú ý nha bác này cưỡi ngựa không có bàn đạp vì may ra lúc này chỉ có kỵ binh Hồi giáo ở Iberia là có bàn đạp thôi.
    Ảnh dưới: Quý tộc và các chiến binh người Breton, do ảnh hưởng của người La Mã nên về văn hóa của người Breton rất phát triển, có thể nói người Breton cũng dũng cảm không kém gì người Saxon nhưng họ thường thua trận vì họ không có sự chuẩn bị trước cho chiến tranh ( nên vũ khí của họ rất đơn giản) và một nguyên nhân nữa là trước đó họ chịu sự quản lý của người La Mã, đến lúc người La Mã bỏ đi thì họ thiếu một vị lãnh đạo thống nhất.



    [​IMG]
    Tranh vẽ một trận chiến của người Pictish với có vẻ như là kỵ binh của xứ Strathclyde (trận Strathclyde năm 744), người Pictish rất thiện chiến nên sau thế kỷ thứ 9 họ đã cùng người Breton ở phía Bắc đẩy lùi được người Saxon và lập nên vương quốc Scotland, và trong các thế kỷ tiếp theo họ lại liên tục giao chiến với người Anglo-Normand



    [​IMG]
    Tranh vẽ một chiến binh người Pictish với những trang bị vũ khí, người Pictish có một đặc điểm rất giống người Việt cổ là họ săm chổ đầy mình he he ( em nói không ngoa tổ tiên của người Việt hiện đại là người Bắc Âu di cư - bác nào không tin mời lên Quảng bá xem Em ơi Hà nội chóp - không kiến trúc Gothic thì là cái gì nhỉ? he he)



    [​IMG]
    Tranh vẽ một trường học cổ của người Pictish, ở đây có lẽ trẻ em được học cầm kiếm nhiều hơn học chữ


    [​IMG]
    Tranh vẽ người Pictish đi thuyền, đương nhiên họ là dân ở đảo nên phải biết đi thuyền nhưng họ nổi tiếng là những tay cướp cạn chứ không phải cướp biển như người Viking



    [​IMG]
    Cảnh người Pictish tấn công một đồn binh La Mã, lính La Mã trang bị tới tận răng nhưng gặp mấy bác rợ này thì cứ gọi là tẩu như phi


    [​IMG]
    Tranh vẽ một lính giáp kỵ và một lính giáo binh người Pictish, tay giáo binh còn mang theo hai chiếc lao


    [​IMG]
    Bức tranh có tên The Law of the Innocents, nó tả lại cảnh sau một trận đánh của người Pictish với người Saxon ở xứ Northumbrian, và cho thấy cảnh một nữ chiến binh nười Pictish chết trên chiến trường. Sau khi đạo Kitô thâm nhập được vào người Pictish thì họ cũng cấm không dùng phụ nữ để chiến đấu và chỉ huy binh lính.




    [​IMG]
    1. Tranh vẽ một vị vua của Anh thế kỷ thứ 9 ( lúc này ta đã có thể gọi Anh là Anglo-Saxon được rồi) vị vua này có thể là Alfred Đại Đế của xứ Wess.e.x ( Anh hùng của người Anh trong cuộc chiến chống lại người Viking) - Ông này đã theo đạo Kittô và nghe một tu sỹ giảng giải một cái gì đó - các tu sỹ là tầng lớp có học ở thời đó.
    2. Người đang giảng giải cho vị vua Anh là một tu sỹ dòng Benedic, như chúng ta đã biết người Viking thường hay cướp phá các tu viện nên tu sỹ có vũ trang cũng không có gì lạ cả.
    3. Ảnh một chiến binh của vương quốc Northumbrian, đây là một vương quốc lớn của người Saxon ở miền Trung đảo British nhưng vương quốc này về sau lại liên tục thua trận trước người Scotland và mất đi nhiều vùng lãnh thổ của nó



    [​IMG]
    1. Lính đánh thuê người Scandinavơ ở Anh thế kỷ thứ 10
    2. Hậu nhân của người Viking Đan Mạch tại Anh, một lính Anglo-Dane tại thế kỷ thứ 10, trong bài trước có đoạn một ông vua người Saxon cay cú vì bị thua và phải cống nạp liên tục cho người Đan Mạch đã nổi điên và cho giết sạch trẻ em người Anglo-Dane ở vùng của ông ta.
    3. Một quý tộc người Băc Âu ở Anh vào cuối thế kỷ 10 -> 11




    [​IMG]
    1. Ảnh một lính người Anglo-Dane ở Anh ở đầu thế kỷ 11
    2. Một chiến binh người Fyrd ở biên giới giữa thể kỷ 11
    3. Một kỵ binh người Anh ( Anglo- Saxon) tại vùng biên giới xứ Welsh giữa thế kỷ 11



    [​IMG]
    Tranh vẽ hai chiến binh người Saxon ở cuối thế kỷ thứ 10 khi người Saxon phải đương đầu với người Viking đến từ phương Bắc





    [​IMG]
    Theo lời tựa của bức tranh này thì đây là một trận giao chiến giữa người Saxon và người Viking Đan Mạch nhưng nhìn vào đây thì cũng khó mà biết được hai chiến bih đang giết nhau thuộc về quốc tịch nào, khả năng người bị đâm chết là người Saxon vì anh ta có đeo sau lưng con dao truyền thống của họ.



    [​IMG]
    Đây đích thị là một chiến binh người Saxon, người Saxon rất thạo dùng búa trận - trong trận chiến Hasting đa số binh lính người Saxon của vua Harold sử dụng búa trận ( không như những loại binh khí khác loại này ít tốn kém mà lại hữu dụng trong thời hòa bình hơ hơ)


    Nước Anh ( British) đã bị ****** Caesar chinh phục trong năm 55Trước Công Nguyên bởi vì những người Celt ở Anh ủng hộ của người Celt ở xứ Gaul, nhưng phía bắc của nước Anh chưa bao giờ được bình yên. Những chống đối lớn nhất đến từ Caledonia (Scotland),Ireland và xứ Wales, người dân ở những nơi này luôn luôn chống lại các quân đoàn La Mã một cách thành công. Người La Mã đã tạo lậpmột nền văn hóa Romano- British, nhưng ở miền Nam đặc biệt là ở tỉnh Kentium (ngày nay là hạt Kent) mà họ chiếm đóng, hệ thống phòng thủ bên ngoài của người La Tinh là tương đối yếu. Trong thế kỷ thứ 4 ngườiAngle, người Saxonvà Jute từ Đan Mạch và miền Bắc nước Đức đã xuống tàu của họ và các bờ biển của nước Anh (British )trong khoảng một thế kỷ.Chính quyền La Mã phải bổ nhiệm một sĩ quan quân đội đặc biệt, phụ trách bờ Saxon, để đối phó với họ. Các pháo đài được xây dựng dọc theo bờ biển phía đông và quân đội được gửi đến từ các bộ phận khác nhau của đế quốc để nắm giữ các pháo đài này.

    Khoảng năm 410 AD, người Visigoth tiến đến Roma - Thành phố Vĩnh Cửu, tất cả các đạo quân của La Mã đã bị thu hồi một cách vĩnh viễntừ nước Anh (British). Cuộc rút lui của người La Mã - mà Hoàng Đế La Mã Honorius cho là một cuộc rút quân tạm thời đã làm cho nước Anh ( British) trở nên ở một vị trí khá dễ bị tổn thương. Khi mà các đợt tấn công chết chóc của người Anglo-Saxon-Jute ngày càng tăng lên, người Romano-British gửi lời kêu gọi tới Rome để xin được giúp đỡchống lại quân kẻ cướp, nhưng không có câu trả lời Rome đã bị sụp đổ trước quân xâm lược người Germanic. Vì vậy lịch sử của quần đảo British thời hậu La Mã có những khác biệt cực kỳ quan trọng với các tỉnh cũ của La Mã tại lục địa.

    <FONT class=imageattach face=[/IMG]Khoảng năm 450, tất cả các liên hệ với Roma đã bị cắt đứtcác cuộc tấn công đã trở thành một cuộc di cư của người Germanic như các bộ tộc người Angle và Saxon vẫn tiếp tục – họ không chỉ còn là những kẻ cướp bóc nữa - nhưng mà là những người định cư (chuyển từ cướp của sang cướp đất). Trong số đó có một số người FRISIANS từ phía bắc Hà Lan, họ sử dụng ngôn ngữ Frisian – đây là loại ngôn ngữ có nhiều điểm giống ngôn ngữ của người Hà Lan và người Anh ngày này.

    Khi những kẻ xâm lược mở rộng cuộc chinh phục của họ, các cuộc xung độtvới những người Celtic và Romano-Britisth ở địa phương trở nên là điều không thể tránh khỏi.Người British đã chiến đấu dữ dội với những người định cư Saxon như họcó thể, nhưng dần dần họ bị buộc phải rút lui về phía Tâyđến các vùng an toàn đảo Ireland và đến được nơi ẩn náu trong vùng núi nonmà người Saxon gọi là Weallas(Xứ Wales - có nghĩa là đất của người nước ngoài).

    Thời nay còn lại rất ít những thông tin về những cuộc chiến khốc liệt và kéo dài ở thời này. Có khả năng là trong nhiều thế kỷdưới sự chiếm đóng của La Mã, người Breton và người Celticđã học được nghệ thuật chiến đấuphương pháp sử dụng các loại vũ khí của kẻ chinh phục họ (người La Mã ) cũng như việc người British bản địa đã được tuyển dụng trong các quân đoàn La Mã địa phương. Do đó, chúng ta có thể giả định một cách chắc chắn rằng người Romano-British chiến đấu chống lại người Anglo-Saxon với rất nhiều loại vũ khí của người Celtic cũng như là của người La Mã như đoản kiếm, giáo và lao hoặc pilum và một số lượng binh giáp nào đó kiểu La Mã gồm cả tấm giáp che ngực ( hộ tâm) và lá chắn.

    Khoảng thời giankhi mà người Anglo-Saxon xâm chiếm quần đảo British là một khoảng thời gian tương đối thiếu thông tin nên nó đã tạo nên một nền tảng lịch sử cho những câu chuyện thần thoại. Những câu chuyện về một trong những thủ lĩnh của người British trong giai đoạn này huyền thoại về vua Arthur, ông có lực lượng nhỏ các hiệp sĩ được trang bị đầy đủ và rất có kỷ luật, họ đã gây ra một số thất bại trongbước tiến quân của người Anglo-Saxons. Vua Arthur và các Hiệp sĩ bàn tròn của ông được đặt lên một vị trí tối cao trong các câu chuyện thần thoại của thời Trung cổ, từ một khởi đầu rất tầm thườngmù mịt Arthur đã trở thành một thủ lĩnh của người Breton - dux bellorum (một nhà lãnh đạo chiến tranh) trongThế kỷ thứ 6 AD, người chống lại những kẻ xâm lược người Saxon trong mười hai trận đánh lớn…

    Sau cái chết của vua Arthur - có lẽ là khoảng năm 540 AD người Saxon đã chiến thắngvà thống trị vùng đất mà bây giờnước Anh và đuổi đi những người dân sống lâu nhất ở đó. Vào đầucủa thế kỷ thứ 7, người Celt người Bretonchỉ còn giữ được rìa phía Tây của vùng Cornwall, xứ Wale và vùng Cumberlandtrong khi những người Celt khác lại định cư tại vùng Armorica (vùng Bretagne hay còn gọi là Brittany của Pháp). Người Angle-Saxon đã xóa đi hầu như tất cả các dấu vết của nền văn minh Roman.Họ đã thành lập một số vương quốc của người Saxon, một số cái tên của các vương quốc này vẫn còn tồn tại trong tên địa danh của các quận hoặc khu vực ở thời hiện đại như: Es***, Sus***, Wes***, Middle*** và East Anglia

    Một trong những đổi mới đáng kể của người Anglo-Saxon so với người Briton là tổ chức binh chế của quân đội của họ. Gone là những ngày tập trung của một quân đội chuyên nghiệp. Các dân định cư Anglo-Saxon đầu tiên đã tham giamột lực lượng vũ trang được gọi là fyrd.Fyrd lại được chia thành hai loại.The Great Fyrd (Fyrd bự ) không có gì để nghi vấn đây chính là lực lượng lính nghĩa vụ chủ yếu và thành phần chính là bộ binh với chỉ một số nhà giàu có đủ tiền để sắm một con ngựa. Select Fyrd (Fyrd chọn lọc) các chiến binh được chọn ra từ tầng lớp thegns - các chủ đất – những người sở hữu nhiều đất đai đến mức có một vai vế nào đó trong xã hội.

    Nói chung có thể chấp nhận được rằng người Anglo-Saxon chủ yếu chiến đấu như lực lượng bộ binh và họ chỉ sử dụng ngựa để vận chuyển đến trận chiến, nhưnghọ lại không biết nghệ thuật chiến đấu trên lưng ngựa, thậm chí cả những người giàu có.Có những ghi chép rằng ngựa chỉ được dùng làm phương tiện liên lạc để ra chuyển các mệnh lệnh ...


    Sơ lược về vũ khí và trang bị cá nhân của người Anglo-Saxon

    Các chiến binh được dự kiến sử dụngvũ khí thay mặt cho các thủ lĩnh của họ.Có vẻ như là " Một trong những binh khí được sử dụng nhiều nhất của người Saxon trong các trận đánh là ngọn giáo, và loại này lại được chia làm hai loại: Trường thương dài chín hoặc mười foot -được sử dụng bởikỵ binh và thường được gắn với một thanh ngang bảo vệ. Loại giáo ngắn hơn nằm ở giữa dạng thương và lao ( lance and javelin ) có thể dùng để phóng.

    Kiếm - thường dài ba foot - đây là một loại vũ khí cơ bản của kỵ binh dành riêng cho quý tộc. Những thanh kiếm được tìm thấy đầu tiên ở Anh không có quillons,thanh chắn bảo vệ tay mà chỉ gồm phần cán để cầm và phần lưỡi kiếm. Loại được tìm thấy muộn hơn dài khoảng 30inch vàcó phần cán rộng khoảng 2 inch, loại kiếm này có phần thân thẳng điểm đầu mũi kiếm tròn và có hai lưỡi kiếm sắc. Bao kiếm được làm bằng gỗ bọc da. Một số bao kiếmđược trang trí bằng những họa tiếtđược vẽ hoặc trạm khắc chúng được làm từ một chiếc khung bằng đồng hoặc những kim loại đắt tiền. Ở thời sau này khi người Saxon bắt đầu xâm chiếm nước Anh thì phần thanh chắn ngangở chuôi kiếm đã được thêm vào để bảo vệ bàn tay cầm kiếm, và thanh kiếm cũng trở nên sắc nhọn hơn, phần cán kiếm cũng được trang trí bằng các họa tiết. Một sốchiến binh fyrd giàu cóthậm trí còn dát vàng hoặc bạc lên chiếc chuôi thanh kiếm của mình, thậm trí họ còn nạm vào đó một viên đá quý.

    Rìu chiến là một vũ khí đặc trưng của các quốc gia phươngBắc. Người Anglo-Saxon dường như đã sử dụng ba loại: loại lưỡi hẹp, loại lưỡi rộng và loại búa lưỡi đôi kiểu Đan Mạch hoặc bipennis. Dao gămdao cũng được sử dụng một cách phổ biến. Chúng có nhiềukích cỡ, những chiếc cỡ lớn được sử dụng như những vũ khí thực sự;những loại cỡ nhỏ được sử dụng vào những mục đích khác.Mace, quẩy đá và cung tên cũng được sử dụng bởi bởi cá thể những người Anglo Saxon nhưng không được phổ biến một cách rộng rãi vì họ không ưa thích chúng lắm.
    Người ta có rất ít các thông tin về loại vũ khí phòng vệ của người Saxon như mũ sắt, khiên và áo giáp.Có lẽ về cơ bản ban đầu những Saxon thấy rằng các loại này là không thật cần thiết và chỉ dành riêng cho những người giàu có hoặc thủ lãnh của các fyrd. Tuy nhiên, khi các vương quốc của người Anglo-Saxon trở nên thịnh vượng thì các loại vũ khí phòng cũng dần dần được bổ sung. Loại mũ sắt phổ biến của người Saxonthường ở dạng Phrygian,nhưng một số bằng chứng cho thấy rằng họ cũng có loại mũ sắt hình bán cầuvà mũ sắt hình nón. Những chiếc mũ này được làm từ những chiếc khuôn bằng lá đồng hoặc sắt được gắn chặt với nhau trong đó những lá kim loại chủ chốt sẽ được uấn vòng quang cho đến đỉnh đầu. Đôi khi lá thép ở phía trước được kéo dài để tạo thành một miếng giáp bảo vệ mặt, được gọi là nasal (cái mũi) và nó đã trở thành rất phổ biến vào cuối thế kỷ thứ 10. Phía bên trong chiếc mũ sắt được cố định một lớp lót bằng da, đôi khi lớp lót này dài chum xuống cả gáy và có những họa tiết trang trí. Lá chắn của người Anglo-Saxon có thể được làm bằng gỗ chanh được bọc bằng da và chúng thường hình tròn, nhưng thỉnh thoảng cũng có hình bầu dụcvà lồi về phía trước. Đặc điểm phân biệt của loại vũ khí phòng thủ này là chúng có một chiếc núm khiên bằng sắt rỗng ở giữa. Nó có đường kính khoảng sáu inche, chiếc núm khiên được gắn chặt trên bề mặt của chiếc khiên và tạo nên một chiếc tay cầm cho cánh tay trái. Vì chiếc núm của nó thường được đóng một chiếc đinh nhọ nên chiếc lá chắn cũng được sử dụng như làmột loại vũ khí tấn công. Những chiếc lá chắn có thể được gia cố bởi các lá kim loại bằng sắt hoặc bằng đồng được tỏa ra từ chiếc núm khiên đến mép của chiếc lá chắn.

    Thật khó để có những ghi chép chính thức về các loại áo giáp. Loại áo giáp thông dụng của người Anglo-Saxon có thể là byrnie hoặc battle sark, một loại áo khoác được làm từ da hoặc áo có các lớp lót. Ngoài ra những người giàu nhất có nhất trong số các chiến binh thường có một chiếc áo dài là sản phẩm từ dệt may hoặc da thuộc với những chiếc vòng sắt hoặc da được cắt giống như những chiếc vảy cá, được xếp chồng lên nhau thành hình vuông hoặc hình chữ nhật. Chân của các chiến binh người Saxon thường được để trần hoặc được bảo vệ bởi những dây xà cạp bằng da.Vào cuối thời kỳ của người Saxon và vũ khíáo giáp của họ đã trở nên gần như giống hệt với những đồ trang bịcủa những chiến binh ở lục địa châu Âu, do có việc qua lại, trao đổi không ngừng trong thời kỳ trị vì của vua Edward the Confessor, đến thời gian cuộc chinh phục của người Norman trong năm 1066, sự khác biệttrong đồ trang bị đơn giản chỉ ở những chi tiết nhỏ.

    Các lãnh chúa địa phương Anglo-Saxon hồi đầu chỉ hơn chức danh aldermen (thủ lĩnh bộ tộc) có chút ít. Quyền lực của họ được dựa một phần vào quan hệ họ hàng nhưng phần nhiều là dựa vào danh tiếng về khả năng điều khiển chiến trận cũng như là sức mạnh uân sự của họ. Dần dần một hệ thống phân loại đã đượcphát triển tạo ra những vị vua nhỏ, Earls (các lãnh chúa), HouseCarles (các binh sĩ), và người làm ruộng cũng như một tầng lớp mới, đó là các giáo sĩ.
  5. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Alfred Đại Đế ( Vị vua vĩ đại của người Anglo - Saxon)



    Alfred Đại đế (năm 849 – > 26 tháng 10 năm 899) là vua của xứ Wess.e.x từ năm 871-> 899. Vua Alfred được tưởng nhớ vì đã có công chiến đấu chống lại người Viking để bảo vệ vương quốc Anglo-Saxon ở miền nam nước Anh và ông trở thành quốc vương duy nhất của nước Anh được phong tặng danh hiệu "Đại đế". Alfred là vị vua đầu tiêncủa người Saxon ở phía Tây tự phong danh hiệu " Vua của người Anglo-Saxon ". Các thông tin chi tiết về cuộc đời của ông được mô tả trong tác phẩm của vị học giả người xứ Wales và đức giám mục Asser. Vua Alfred là một người đàn rất hiếu học và luôn khuyến khích phát triển giáo dục và chú tâm cải thiện hệ thống pháp luật và cơ cấu hệ thống quân sự trong vương quốc của mình Ông được xem là một vị thánh bởi một số người Công giáo, nhưng ông chưa bao giờ được chính thức phong thánh.Cộng đồng Anh giáo tôn kính ông như một vị anh hùng của Giáo Hội Kitô giáo, trong một ngày lễ của ngày 26 tháng 10, và ông thường được mô tả trong các tấm kính màu trong các nhà thờ xứ của Giáo hội Anh giáo.

    Tuổi thơ

    Vua Alfred được sinh ra tại làng Wanating, bây giờ là vùng Wantage thuộc Oxfordshire. Ông là con trai út của vua Æthelwulf của xứ Wess.e.x với người vợ đầu tiên – bà Osburga. Trong năm 868 (năm 19 tuổi) vua Alfred kết hôn với công nương Ealhswith - con gái của Æthelred Mucil.

    Lúc mới được tuổi năm tuổi, người ta cho rằng Alfred đã được gửi đến Rome nơi mà theo các sử gia người Anglo-Saxon, ông đã được công nhận bởi Giáo hoàng Leo IV - người "xức dầu tấn phong cho ông làm vua". Nhà văn Victoria giải thích điều này như một bước cuối cùng chuẩn bị cho ông lên ngôi vua của xứ Wess.e.x. Tuy nhiên, việc lên ngôi của ông đã không thể được thực hiện vào thời điểm đó, vì vua Alfred có đến ba người anh trai cao tuổi hơn. Một lá thư tay của Giáo Hoàng Leo IV chỉ ra rằng vua Alfred lúc đó chỉ nhận được một lễ tấn phong chức "consul", có một sự hiểu lầm về chức danh này, dù là cố ý hay vô ý nó đã tạo ra những nhầm lẫn về sau này. Alfred cũng được đi kèm với cha mình trong một cuộc hành hương đến Rome nơi ông đã sống một thời gian tại một cung điện thuộc sở hữu của vua Charles Hói, vua của người Frank, khoảng từ 854-> 855. Khi trở về từ Rome trong năm 856, vua Æthelwulf bị lật đổ bởi con trai ông - Æthelbald. Với nguy cơ nội chiến đã lờ mờ hiện ra, những người có quyền cao chức trọng của vương quốc đã họp mặt tại một hội đồng để đưa ra một thỏa hiệp. Æthelbald sẽ giữ lại các quận ở phía tây (tức là vùng đất truyền thống của xứ Wess.e.x), và vua Æthelwulf sẽ cai trị ở phía đông. Vua Æthelwulf chết trong năm 858, xứ Wess.e.x đã liên tiếp được cai trị bởi ba người anh trai của vua Alfred theo thừa kế.

    Đức Giám mục Asser đã kể những câu chuyện về tuổi thơ của Alfred khi ông giành được một giải thưởng từ một số lượng lớn các bài thơ bằng tiếng Anh. Câu chuyện này có thể là có thật, hoặc nó có thể là một huyền thoại dùng để minh họa cho tình sự hiếu học của Alfred. Truyền thuyết cũng kể rằng thời trẻ Alfred dành nhiều thời gian tại Ai-len tìm thuốc chữa bệnh. Alfred đã gặp khó khăn với vấn đề sức khỏe trong suốt cuộc đời của ông. Người ta cho rằng ông có thể đã bị bệnh Crohn. Tượng của Alfred ở Winchester và Wantage miêu tả ông như là một chiến binh vĩ đại. Có bằng chứng cho thấy ông không có một thể chất mạnh mẽ, và mặc dù không thiếu sự can đảm, ông đã được chú ý nhiều bởi trí tuệ của mình hơn là một nhân vật hiếu chiến.

    Dưới sự cai quản của vua anh - Æthelred

    Trong suốt các triều đại ngắn ngủi của hai trong số ba người anh lớn tuổi của ông, Æthelbald và Æthelbert của xứ Wess.e.x, Alfred không được đề cập đến nhiều. Tuy nhiên, cuộc sống công cộng của ông đã bắt đầu khi anh trai thứ ba của ông lên nắm quyền, vua Æthelred của xứ Wess.e.x trong năm 866. Đó là thời gian mà Đức Giám mục Asser trao cho ông danh hiệu "secundarius" duy nhất, đây có thể chỉ và một chức vụ tương tự như là chức vụ - tanist – của người Celtic, một người thừa kế được công nhận để có mối liên kết chặt chẽ với vị vua đang trị vì. Có thể là sự sắp xếp này đã từng bị gạt đi bởi vua cha của Alfred, hoặc bởi các thành viên của Witan (một tổ chức được tập hợp từ những người được cho là thông thái nhất để làm cố vấn cho nhà vua của người Anglo-Saxon từ TK thứ7 -11), để ngăn chặn việc các tranh chấp về thừa kế mà có thể làm cho Æthelred (anh trai của Alffred ) lao vào một trận nội chiến. Việc bố trí một người có quyền kế vị là một hoàng tử làm một chỉ huy quân đội là điều thường gặp trong các bộ tộc Germanic cũng như người Thụy Điển và người Frank, những người mà người Anglo-Saxon có những mối liên quan chặt chẽ.

    Năm 868, Alfred được ghi nhận là đã chiến đấu bên cạnh vua Æthelred trong một nỗ lực không thành công để đẩy cuộc xâm-lược của người Đan Mạch ra khỏi Vương quốc Mercia ở giáp ranh (đây cũng là một vương quốc của người Anglo-Saxon). Trong xấp xỉ hai năm sau đó xứ Wess.e.x vẫn được yên lành bởi vì Alfred đã trả tiền cho Viking để đất nước của mình được yên ổn. Tuy nhiên vào cuối năm 870 người Đan Mạch lại kéo đến quê hương ông. Các năm tiếp theo sau đó được gọi là "những năm chiến trận của Alfred". Chín trận đánh lớn đã nổ ra với những kết quả hoàn toàn khác nhau, mặc dù địa điểm và ngày nổ ra hai trong số các trận đánh đã không được ghi lại. Tại Berkshire là một trận đánh thắng lợi của Alfred - trận Englefield ngày 31 tháng 12 870. Sau đó là một loạt các thất bại nặng nề tại trận bao vây Reading vào ngày 05 tháng 1 năm 871, bốn ngày sau đó Alfred đã giành một chiến thắng rực rỡ tại trận Ashdown ở vùng Downs Berkshire, cũng có thể là ở gần vùng Compton hoặc Aldworth. Vua Alfred được đặc biệt ghi nhận bởi đã chiến thắng trong trận chiến này. Tuy nhiên, cuối tháng đó vào ngày 22 tháng Giêng, người Anh lại bị đánh bại tại Basing và vào ngày 22 tháng ba tại Trận Merton (có thể là Marden ở Wiltshire hoặc Martin ở Dorset), trong trận đánh này vua Æthelred đã bị giết. Hai trận đánh mà bây giờ người ta không biết rõ điạ danh có thể đã xảy ra ở giữa khoảng thời gian này.

    Vị vua thời chiến

    Những cuộc chiến ban đầu, bị đánh bại và rút lui

    Trong tháng 4 năm 871 sau khi vua Æthelred chết, Alfred được kế thừa và lên ngôi vua của xứ Wess.e.x và phải mang gánh nặng bảo vệ nó, mặc dù thực tế thì vua Æthelred có hai ngườ con trai nhỏ tuổi tên là Æthelhelm và Æthelwold. Việc thừa kế là đúng theo quy định của thỏa thuận mà Æthelred và Alfred đã đồng ý trước đó một năm khi hội quân tại Swinbeorg. Hai anh em đã đồng ý rằng bất cứ người trong số họ sống lâu hơn người kia sẽ thừa kế tài sản mà vua cha Æthelwulf đã di chúc lại cho các con trai của mình. Các con trai của người đã chết sẽ chỉ nhận được tài sản và của cải mà người cha của họ chia cho họ. Những điều trong thỏa thuận không được công bố công khai là người anh-em trai nào còn sống sót sẽ làm vua. Do cuộc xâm lược của Đan Mạch đang nổ ra nên những cháu trai trẻ tuổi của Alfred có lẽ đã không tranh cãi với ông về việc kế vị. tuy nhiên căng thẳng giữa Alfred và cháu trai của ông, sẽ phát sinh sau này trong triều đại của ông.

    Trong khi ông đang bận rộn với các nghi lễ để chôn cất cho người anh trai của mình, Người Đan Mạch lại đánh bại người Anh – mà ông vắng mặt - ở một địa điểm mà nay không ai nhớ được tên và sau đó họ lại đánh bại người Anh một lần nữa và lần này có sự hiện diện của ông tại Wilton vào tháng 5. Những thất bại liên tiếp tại Wilton xóa đi mọi hy vọng còn lại của Alfred là đẩy những kẻ xâm lược ra khỏi vương quốc của mình. Thay vào đó ông bị buộc phải đàn phán để "tạo dựng hòa bình" với họ. Các nguồn tài liệu cổ không nói rõ các điều khoản của hòa bình là những gì. Đức cha Asser mang vàng cất dấu ra khỏi đống rơm (để tài trợ cho Alffred – ông này là vua công giáo), và tuyên bố rằng "người ngoại đạo" sẽ đồng ý rút khỏi khu vực và thực hiện đúng theo lời hứa của họ và, thực sự thì quân Viking đã rút khỏi Reading vào mùa thu năm 871 để trú đông ở Mercian London . Mặc dù Asser hoặc các nhà chép sử Anglo-Saxon đã không đề cập, nhưng nhiều khả năng là Alfred đã phải trả tiền mặt để người Viking rút lui, giống như người Mercian đã phải làm trong năm sau đó. Trong những năm tiếp theo người Đan Mạch tiến hành chiếm đóng các vùng khác của nước Anh. Tuy nhiên, trong năm 876 dưới sự chỉ huy của thủ lĩnh mới của họ - Guthrum – người Đan Mạch lại vượt qua quân đội Anh và tấn công rồi chiếm đóng Wareham ở Dorset. Vua Alfred đã cố gắng phong tỏa họ, nhưng đã không thể chiếm lại Wareham bằng các cuộc tấn công. Thay vào đó ông lại quyết định tiến hành đàm phán hòa bình, việc đàn phán hòa bình có liên quan đến việc trao đổi con tin và cùng lời thề mà người Đan Mạch phải thề dưới một "chiếc nhẫn thiêng – Holly Ring" cùng với việc thề trước thần Thor ( thần của người Bắc Âu). Tuy nhiên người Đan Mạch lại nuốt lời thề của họ và sau khi đã giết sạch tất cả các con tin họ lại kéo đi trong màn đêm để đến thành phố Exeter tại vùng Devon. Ở đó, Alfred lại phải tiến hành vao vây và phong tỏa họ và việc một hạm đội cứu viện của họ đã bị đánh tan bởi một cơn bão, người Đan Mạch buộc phải quỳ gối. Họ rút lui về Mercia nhưng trong tháng 878, họ lại tiến hành một cuộc tấn công bất ngờ vào Chippenham, một thành lũy ở đó Alfred đã ở lại trong dịp Giáng sinh ", và hầu hết những người ở đó đã bị người Viking giết chết, ngoại trừ vua Alfred và ông ta với một đội quân nhỏ của mình làm một con đường bằng gỗ và rút vào một vùng đầm lầy và sau ngày lễ Phục Sinh, ông đã cho lập một pháo đài tại Athelney trong vùng đầm lầy của xứ Somerset, và từ pháo đài này ông tiếp tục chiến đấu chống lại các kẻ thù của mình ". Từ pháo đài của ông tại Athelney - một hòn đảo trong đầm lầy ở gần phía Bắc Petherton, Alfred đã có thể phát động một phong trào kháng chiến rất có hiệu quả, ông tập hợp các chiến binh từ các vùng Somerset, Wiltshire và Hampshire. Đây là thời điểm tồi tệ nhất trong lịch sử của các vương quốc Anglo-Saxon, tất cả các vương quốc còn lại của họ đã thất thủ trước những người Viking, và chỉ một mình xứ Wess.e.x là vẫn còn đứng vững.

    Phản công và chiến thắng

    Trong tuần thứ bảy sau ngày lễ Phục Sinh [Ngày 04-Ngày 10 Tháng 5 năm 878], ở gần vùng Whitsuntide, Alfred cưỡi ngựa đến vùng 'Egbert of Stone' - phía đông của vùng Selwood, nơi ông hội họp với "tất cả người của vùng Somerset và của Wiltshire và một phần của vùng Hampshire - ở phía bên này của eo biển [có nghĩa là vùng phía tây của Southampton Water] và họ rất mừng khi được nhìn thấy ông ". Cuộc nổi dậy của Alfred từ chiến lũy ở vùng đầm lầy của ông là một phần của một kế hoạch tấn công được lên kế hoạch một cách cẩn thận bao gồm sự nổi dậy của ba fyrd ( ba cánh quân) từ ba quận. Sự kiện này có nghĩa là nhà vua không chỉ có sự trung thành của các quận công, các lãnh chúa hoàng tộc và thậm chí cả các tùy tùng của nhà vua (những người sẽ tham gia tấn công cùng lính nghĩa vụ và sẽ dẫn đầu lực lượng này), nhưng họ vẫn duy trì vị trí của họ ở chính quyền tại các địa phương và sẵn sàng tập hợp theo lời hiệu triệu của Alfred và đến để chuẩn bị chiến đấu. Người của Alfred cũng đề xuất một hệ thống trinh sát và truyền tin tinh xảo. Alfred đã giành được một chiến thắng quyết định trong Trận Ethandun, trận này đã xảy ra ở một địa điểm gần Westbury, Wiltshire. Sau đó ông đuổi theo người Đan Mạch đến tận chiến lũy của họ ở Chippenham và tiến hành vây hãm bỏ đói làm họ phải quy hàng. Một trong những điều kiện đầu hàng là Guthrum (thủ lĩnh của người Viking Đan Mạch) phải chuyển sang Kitô giáo và ba tuần sau đó vua Đan Mạch cùng với vị 29 thủ lĩnh của ông được rửa tội tại lâu đài của Alfred ở Aller gần Athelney và Alfred nhận Guthrum làm người con tinh thần (spiritual son), "buổi lễ làm phép tự nguyện" đã diễn ra với những lễ hội lớn kéo dài tám ngày tại dinh thự hoàng gia ở Wedmore - Somerset, sau đó Guthrum hoàn thành lời hứa của mình và rời Wess.e.x. Ngày nay không có bằng chứng cho thấy Alfred và Guthrum đã thỏa thuận một hiệp ước chính thức tại thời điểm đó, cái gọi là Hiệp ước Wedmore là một sáng tạo của các nhà sử gia hiện đại. Hiệp ước của Alfred và Guthrum bằng tiếng Anh được bảo quản ở trường Corpus Christi College - Cambridge (bản thảo số 383) và một bản dịch tiếng Latinh được gọi là Quadripartitus là những đàm phán sau này, có lẽ là vào năm 879 hoặc 880, khi vua Ceolwulf II của Mercia đã bị lật đổ. Đó là hiệp ước phân chia vương quốc của Mercia. Theo điều kiện của hiệp định này ranh giới giữa vương quốc của Alfred và Guthrum sẽ là sông Thames và sông Lea. Nói cách khác, Alfred đã mở rộng vương quốc của mình cả sang vùng Ceolwulf, bao gồm cả Tây Mercia và Guthrum chiếm phần phía Đông của Mercia và thành một một vương quốc Đông Anglia mở rộng (từ đó về sau vùng này được gọi là Danelaw). Hơn thế nữa, theo các điều khoản của hiệp ước, Alfred có quyền kiểm soát thành phố London và các nguồn tài nguyên của nó - ít nhất là trong thời gian trước mắt. Lãnh thổ của vương quốc Ess.e.x (Đông Saxon) bị chiếm giữ bởi vua Tây Saxon kể từ thời của vua Egbert, đã không được làm rõ trong hiệp ước này, vì Alfred có ưu thế quân sự và chính trị nên người ta sẽ rất ngạc nhiên nếu ông chịu thừa nhận bất cứ sự tranh chấp nào về lãnh thổ với người con đỡ đầu mới của mình.

    Những năm hòa bình và tái thiết London

    Với việc ký kết Hiệp ước giữa Alfred và Guthrum, một sự kiện được tổ chức long trọng đã diễn ra vào khoảng năm 880 khi người của Guthrum bắt đầu đến và định cư tại East Anglia, Guthrum đã được vô hiệu hóa và không còn là một mối đe dọa. Cùng với thỏa thuận này một đội binh người Đan Mạch rời hòn đảo và căng buồn đến Ghent. Tuy nhiên Alffred vẫn còn bị buộc phải đối mặt với một số mối đe dọa từ người Đan Mạch. Một năm sau đó khoảng năm 881 Alfred đã có một trận hải chiến nhỏ trên biển với bốn chiếc tàu "đi trên đại dương" của người Đan Mạch. Hai trong số những chiếc tàu này bị phá hủy và những chiếc khác phài quy hàng lực lượng của Alfred. Đây là những cuộc đụng độ nhỏ tương tự như những toán cướp độc lập người Viking cướp như trong một thời gian dài nhiều thập kỷ mà họ phải chịu đựng.

    Sau khi ký kết hiệp ước với Guthrum, Alfred không phải tham gia bất kỳ một cuộc xung đột quy mô lớn nào trong một khoảng thời gian. Mặc dù đây là khoảng thời gian tương đối hòa bình nhà vua vẫn phải đối phó với một số cuộc tấn công và xâm nhập của người Đan Mạch. Trong số đó có một cuộc đột kích xảy ra tại Kent, một liên minh của các tiểu quốc ở phía Đông Nam nước Anh trong năm 885, đây có thể coi là cuộc đột kích lớn nhất kể từ khi kết thúc những trận chiến với Guthrum. Các ghi chép của Asser cho thấy địa điểm của các các cuộc tấn công ăn cướp của người Đan Mạch là thành phố Rochester của người Saxon, thậm chí họ còn xây một pháo đài tạm thời để bao vây thành phố. Để đối phó với đợt xâm nhập này Alfred đã dẫn đầu một đội quân Anglo-Saxon tấn công người Đan Mạch chứ không chỉ quân đội của xứ Wess.e.x làm cho người Đan Mạc phải bỏ chạy khỏi bãi biển của họ và đi thuyền đến một phần khác của nước Anh. Lực lượng Đan Mạch này được cho rút lui và rời khỏi Anh vào mùa hè năm sau.

    Không lâu sau khi cuộc tấn công không thành công của người Đan Mạch vào hạt Kent Alfred phái hạm đội của ông đến Đông Anglia. Mục đích của chuyến thám hiểm này còn có nhiều tranh luận, mặc dù Asser tuyên bố rằng chuyến xuất quân này là để cướp bóc. Sau khi đi ngược lên sông Stour hạm đội của Alfred đã gặp tàu của người Đan Mạch – khoảng từ 13 đến 16 (các nguồn đưa các thông tin khác nhau về số lượng) và một cuộc chiến xảy ra sau đó. Hạm đội của người Anglo-Saxon đã chiến thắng và theo ghi chép của Huntingdon thì chúng được chất "đầy chiến lợi phẩm." Các đội chiến thắng đã bị bắt không biết khi cố gắng để thoát ra sông. Tại cửa sông Stour hạm đội của Alfred đã bị tấn công bất ngờ bởi một hạm đội Đan Mạch. Các đội tàu của Đan Mạch có thể đã đánh bại hạm đội của Alfred vì nhiều khả năng đội tầu này đã bị suy yếu trong trận đánh trước đó.


    Một năm sau đó vào năm 886 Alfred tái chiếm thành phố London và hồi sinh sự sống của nó. Alfred uỷ quyền quản lý thành phố cho người con rể của mình - Æthelred, Quận công của Mercia. Sự phục hồi của London diễn ra rất nhanh trong nửa sau của những năm 880 và được cho là quá trình tái thiết đã xoay quanh một kế hoạch xây dựng thêm các đường phố mới, xây thêm công sự ở phía ngoài các bức tường được xây từ thời La Mã và một số nguồn tin cho rằng kết quả của các công trình xây dựng này chính là các công sự trên bờ Nam của sông Thames. Đây cũng là thời gian mà gần như tất cả các nhà sử gia đều đồng ý rằng những người dân Saxon của một nước Anh còn chưa thực sự thống nhất đã quy phục Alfred. Tuy nhiên đây không phải là một điều ngẫu nhiên vì trước đó Alfred đã được biết đến như là vua của nước Anh, trong thực tế ông thì không bao giờ chấp nhận các danh hiệu cho bản thân mình. Sự thật thì sức mạnh của người Anh mà Alfred đang nắm giữ vào thời điểm này dường như xuất phát chủ yếu từ sức mạnh quân sự của xứ Tây Saxon (Wess.e.x), Alfred đầu cầu để kết nối các mối liên hệ về mặt chính trị từ những người đang cai trị những người như con rể của ông ở Mercia và tài năng về quản lý của Alfred.

    Giữa giai đoạn tái thiết London và nối lại các cuộc tấn công quy mô lớn của người Đan Mạch ở đầu triều đại của Alfred vào năm 890 đã không có nhiều biến cố lớn. Thời hòa bình tương đối của những năm 880 cuối cùng bị xáo động bởi cái chết của em gái của Alfred – Æthelswith - người đã chết trên đường đến Rome trong năn 888. Trong cùng năm đó Tổng-giám-mục Canterbury - Æthelred cũng qua đời. Một năm sau đó Guthrum hoặc Athelstan - theo tên rửa tội của ông, cựu đối thủ của Alfred và là vua của Đông Anglia đã chết và được chôn cất tại Hadleigh, Suffolk. Cái chết của Guthrum đã đánh dấu một sự thay đổi trong việc xử lý về mặt chính trị của Alfred. Nó ( cái chết của Guthrum ) cũng tạo ra một khoảng trống quyền lực và sẽ khuấy các vị lãnh chúa đầy tham vọng về quyền lực khác một mong muốn về vị trí của mình trong những năm tiếp theo. Những năm của cuộc sống trong hòa bình của Alfred đã đến lúc phải khép lại và chiến tranh đã được nhìn thấy trên đường chân trời.


    Những cuộc tấn công nữa của người Viking bị đẩy lùi


    Sau thời gian tạm lắng vào mùa thu năm 892 hoặc năm 893, người Đan Mạch tiếp tục tấn công một lần nữa. Vị trí của họ ở lục địa Châu Âu khá bấp bênh, họ vượt sang đảo Anh với 330 chiếc tàu được chia thành hai bán đội. Họ tự cố thủ, lực lượng lớn hơn đóng tại Appledore, Kent và lực lượng nhỏ hơn dưới sự chỉ huy của Hastein đóng ở Milton, cũng ở Kent. Những kẻ xâm lược đã mang theo vợ và con cái cùng đi họ, điều này cho thấy của nỗ lực lần này có ý nghĩa chinh phục và định cư. Alfred trong năm 893 hoặc 894 đã chiếm một vị trí mà từ đó ông có thể quan sát được cả hai đội tầu của đối phương. Trong khi ông tổ chức một cuộc đàm phán với Hastein thì người Đan Mạch tại Appledore gây chiến và tiến về phía Tây Bắc. Họ đã đánh bại người con trai lớn của Alfred, Edward nhưng lại bị đánh bại trong một trận đánh lớn ở Farnham - Surrey. Họ bỏ chạy và lẩn tránh trên một hòn đảo ở Colne Hertfordshire, nơi họ đã bị bao vây và cuối cùng bị buộc phải đầu hàng. Một phần của đội quân này quay trở lại Ess.e.x và sau một thất bại tại trận Benfleet, họ lại gia nhập với lực lượng của Hastein ở Shoebury.

    Alfred đang trên đường đi để tiếp viện cho con trai của ông tại Thorney khi ông nghe nói rằng người Đan Mạch ở Northumbrian (vương quốc này của người Saxon cũng đã bị người Đan Mạch chiếm) và Đông Anglian đã bao vây Exeter và một thành trì không tên trên bờ Bắc Devon. Alfred vội vã về phía tây và thiết lập cuộc vây hãm Exeter. Kết cục của những trận xung đột tại các nơi khác đã không được ghi lại. Trong khi đó, lực lượng của Hastein lại hành quân lên Thames Valley, có thể với ý định tương trợ những người anh em của họ ở phía tây. Nhưng họ đã bị chặn lại bởi một lực lượng lớn được chỉ huy bởi ba Công tước của Mercia, Wiltshire và Somerset và bị bắt buộc phải đi về phía tây bắc, cuối cùng bị đánh bại và phong tỏa tại Buttington. Một cố gắng để vượt qua các chiến tuyến của người Anh đã bị đánh bại. Những người thoát được vòng vây đã rút lui đến Shoebury. Sau đó, sau khi thu thập được quân tiếp viện, họ đã tiến hành một cú xốc lên bất ngờ vượt qua chiều ngang của nước Anh và chiếm đóng bức tường La Mã đổ nát của thành phố Chester. Người Anh đã không cố gắng tiến hành một cuộc phong tỏa trong mùa đông, nhưng họ đã phá hủy tất cả các nguồn cung cấp vào thành phố. Đầu năm 894 (hoặc 895), muốn có thực phẩm người Đan Mạch bị bắt buộc phải quay về Ess.e.x một lần nữa. Vào cuối năm đó và đầu năm 895 (hoặc năm 896), năm Đan Mạch chèo các con tàu của họ ngược sông Thames và Lea và bố trí phòng ngự ở khoảng hai mươi dặm (32 km) về phía bắc London. Một cuộc tấn công trực tiếp vào chiến tuyến của người Đan Mạch nhưng không thu được thành công, sau đó trong năm, Alfred đã tìm thấy một phương tiện để chặn dòng sông và ngăn chặn các lối ra của các tàu của người Đan Mạch. Người Đan Mạch đã nhận ra rằng họ đã được rõ ràng giỏi hơn. Họ tấn công ra bắc về phía tây và trú đông tại Cwatbridge gần Bridgnorth. Năm tiếp theo, năm 896 (hoặc năm 897), họ đã từ bỏ cuộc đấu chiến. Một số đến và nghỉ ngơi ở Northumbria, một số người đến Đông Anglia. Những người không có mối ràng buộc ở Anh thì rút về lục địa châu Âu.

    Tổ chức lại hệ thống quân sự

    Tái tổ chức lại fyrd

    Tình trạng gần như thảm họa của mùa đông năm 878, thậm chí ở cấp độ còn cao hơn so với chiến thắng trong mùa xuân, để lại dấu ấn sâu sắc của nó tới nhà vua và đã ảnh hưởng vào các chính sách tiếp theo của ông. Trong hai thập kỷ của triều đại của ông, Alfred tiến hành tổ chức lại hệ thống quân sự của vương quốc của mình, củng cố nền kinh tế của vương quốc Saxon thông qua một chính sách cải cách tiền tệ và quy hoạch đô thị. Alfred Đại Đế theo đuổi thực hiện các chương trình đầy tham vọng, bởi ông đã nhìn thấy nó là trách nhiệm của chính mình với cương vị của một ông vua. Các kế hoạch của ông đòi hỏi một lượng nhân công và tài chính cực kỳ lớn. Thậm chí đây là lý do để tước quyền sở hữu của các vùng đất ở các vị trí chiến lược của Giáo Hội. Tái tổ chức fyrd thành một quân đội thường trực, kết vòng xung quanh xứ Wess.e.x với một số lượng lên tới ba mươi đơn vị đồn trú trong các pháo đài ở các thành thị và nỗ lực đóng mới các con tàu lớn hơn cho hạm đội hoàng gia đã gây nhiều tốn kém và chính vấn đề này đã tạo ra sự phản kháng từ giới quý tộc cũng như tầng lớp nông dân. Nhưng điều này là hoàn toàn đáng giá, khi người Viking quay trở lại vào năm 892 họ thấy một vương quốc được bảo vệ bởi một quân đội thường trực cực kỳ cơ động và một mạng lưới các pháo đài đồn trú và chính hệ thống này đã kiểm soát hướng đi của các con sông và các đường cái quan La Mã.

    Alfred đã phân tích những khiếm khuyết của hệ thống quân sự mà ông đã thừa kế và thực hiện những thay đổi để khắc phục chúng. Sự sắp xếp về hệ thống quân sự của Alfred ở Wess.e.x gồm ba yếu tố: xây dựng hơn ba mươi đơn vị đồn trú ở các thị trấn (burh) dọc theo các con sông và con đường La Mã của Wess.e.x; tạo ra một lực lượng cơ động, bao gồm các quý tộc và các chiến binh thuộc hạ của họ và lực lượng này được chia thành hai đội quân, một trong số đó là luôn luôn sẵn sàng chiến đấu; và sự gia tăng của sức mạnh Hải quân của Wess.e.x thông qua của việc bổ sung thêm rất nhiều tàu lớn vào hạm đội hiện có. Mỗi yếu tố có ý nghĩa khắc phục các khiếm khuyết của hệ thống quân sự của Tây Saxon những khiếm khuyết này đã lộ ra khi phải đương đầu với các cuộc xâm lược của người Viking. Nếu theo hệ thống hiện tại ông không thể tập hợp lực lượng đủ nhanh để đánh chặn quân cướp biển người Viking cực kỳ cơ động, câu trả lời rõ ràng là phải có một lực lượng thường trực luôn luôn sẵn sàng chiến đấu. Điều này kéo theo sự thay đổi của các fyrd của Tây Saxon từ các nhóm các chiến rải rác và liên kết họ lại thành một đội quân thường trực cực kỳ gắn kết. Nếu vương quốc của ông thiếu những cứ điểm mạnh để cản trở sự tiến quân của đối phương, ông sẽ cho xây dựng chúng. Nếu đối phương tấn công từ biển, ông sẽ phản công lại họ bằng sức mạnh hải quân của mình. Một nét đặc trưng là tất cả các đổi mới của Alfred đều bắt nguồn từ hoàn cảnh thực tế của Tây Saxon, và tạo ra những thứ mà người Saxon gọi là ba gánh nặng thường xuyên - common burden là việc xây dựng cầu cống, sửa chữa pháo đài và phục vụ các chiến dịch của nhà vua mà tất cả các chủ sở hữu đất tư nhân và đất của hoàng gia đều phải có trách nhiệm với nhà vua. Alfred Đại Đế thể hiện tài năng của ông tổ chức lại quân đội và thành trì - burh đây chính là các yếu tố của một hệ thống quân sự chặt chẽ. Nếu Alfred chỉ đơn độc cải cách các fyrd -burh hoặc chỉ tạo dựng một phòng thủ ( mà không có lực lượng cơ động) là không đủ để chống lại những người Viking, vì họ ( người Viking ) có những ưu điểm chiến lược của họ, đó chính là hai yếu tố: Cơ động và Bất ngờ.

    Hệ thống Burghal - Hệ thống phòng thủ chiều sâu

    Alfred Đại đế đã tạo ra những gì mà các nhà chiến lược hiện đại gọi là một hệ thống phòng thủ theo chiều sâu, và một trong đó là việc xây dựng những burh hoặc borough của Alfred, đây không phải là những công trình lớn như những pháo đài bằng đá to lớn ở cuối thời La Mã vẫn còn rải rác ở bờ biển phía Nam của nước Anh (ví dụ như các pháo đài Pevensey và Richborough). Thay vào đó, các pháo đài phòng thủ cấp quận chủ yếu là các công trình bằng đất lớn, các bờ vách đất lớn được bao quanh bởi những chiếc hào rộng. Các bức tường bằng đất nung có thể được tăng cường bởi gỗ Palisades, mà vào thế kỷ thứ 10 đã chiếm chỗ của những bức tường đá. (hệ thống phòng thủ của Alfred vẫn được giữ nguyên ở Wareham, một thị trấn trên bờ biển phía nam nước Anh.) Kích thước của các công trình phòng thủ khác nhau rất nhiều, từ công sự nhỏ bé như ở Pilton tới hệ thống phòng thủ lớn như Winchester. Rất nhiều công trình phòng thủ trên thực tế là là một hệ thống pháo đài kép hoặc mỗi pháo đài được xây dựng ở một bên sông và chúng nối với nhau bằng một cầu giống như một chiếc công sự của Charles Hói ở thế hệ trước. Như vậy một hệ thống pháo đài kép sẽ chặn được tuyến giao thông trên con sông, những người Viking sẽ phải chèo thuyền dưới một cây cầu có lực lượng đồn trú, và họ sẽ phải đối đầu một cách đầy rủi ro với các hòn đá, mũi giáo hoặc các mũi tên được bắn từ hệ thống phòng thủ trên để đi ngược dòng sông. Ba mươi hệ thống pháo đài đã được xây dựng trên khắp toàn vương quốc Tây Saxon và đều ở một cách thức như vậy và mỗi công trình chỉ cách nhau hơn hai mươi dặm, một ngày hành quân từ một pháo đài trung tâm. Chúng (hệ thống phòng thủ) cũng được định vị ở gần khu phòng thủ của Hoàng gia để cho phép nhà vua kiểm soát một cách tốt hơn các cứ điểm phòng thủ của mình. Những gì không được công nhận đầy đủ là làm thế nào hệ thống phòng thủ thống trị các tuyến đường giao thông của vương quốc như giao thông đường sông, tuyến đường La Mã, và các trackway lớn. Alfred dường như đã có "những con đường cao tốc" (hereweges - "tuyến đường quân sự ") để liên kết các hệ thống phòng thủ với nhau. Một hệ thống đèn hiệu rộng rãi để cảnh báo về sự tiếp cận của đội tàu Viking và có lẽ quân đội cũng lập tức được tập hợp vào thời gian này. Trong ngắn hạn, ba mươi pháo đài đã hình thành một hệ thống tích hợp các pháo đài.

    Sự hiện diện của các hệ thống đồn trú trên các tuyến đường chính của Wess.e.x là một trở ngại lớn cho quân xâm lược người Viking, đặc biệt là những người mang đầy ắp chiến lợi phẩm. Chúng cũng từng là nơi trú ẩn cho người dân của vùng nông thôn xung quanh. Nhưng những pháo đài không phải là những điểm phòng thủ tĩnh. Chúng được thiết kế để hoạt động kết hợp với quân đội cơ động thường trực của Alfred. Quân cơ động và các pháo đài phòng thủ cùng nhau đã tước đi những lợi thế chiến lược của người Viking: Bất ngờ và Cơ động. Theo truyền thống, quá nhiều rủi ro cho người Viking khi để lại một pháo đài nguyên vẹn chắn ngang đường về của mình, nhưng cũng nguy hiểm như vậy nếu họ cố gắng để chiếm lấy một hệ thống pháo đài. Thiếu trang thiết bị bao vây hoặc không được phát triển một học thuyết bao vây – công thành siegecraft, những người Viking thường không thể chiếm được những pháo đài bằng cách tấn công trực diện. Thay vào đó, họ thường tiến hành bao vây và làm cho quân phòng thủ bị đói và phải quy hàng, đây sẽ là thời gian để nhà vua đến cứu viện cho họ với đội quân cơ động của mình, hoặc các đội quân đồn trú ở các pháo đài lân cận sẽ đến để trợ giúp cho pháo đài bị bao vây. Trong một số trường hợp, những người đi săn đã trở thành bị đi săn, khi lực lượng đồn trú và lực lượng cơ động cùng tham gia với nhau truy đuổi quân cướp biển. Trong thực tế, người ta chỉ ghi nhận được một thành công của người Viking khi tấn công lực lượng đồn trú vào năm 892 của thế kỷ thứ 9, khi một người Viking phải tấn công cực kỳ giữ dội vào một pháo đài phòng thủ sập sệ ở cửa sông Lympne thuộc vùng Kent.

    hệ thống burghal của Alfred là một cuộc cách mạng trong quan niệm chiến lược của nó và có khả năng rất tốn kém để xây dựng chúng. Khi viết tiểu sử của Alfred, Asser viết rõ ràng rằng rất nhiều quý tộc đã miễn cưỡng thực hiện theo những gì có vẻ như là họ chưa từng nghe thấy và muốn có, ngay cả khi họ chấp nhận cho ‘ các nhu cầu thông thường của vương quốc’ khi Asser nhắc nhở họ. Bản thân chi phí xây dựng là rất lớn, nhưng vẫn còn các chi phí bảo trì cho các pháo đài và duy trì các đơn vị đồn trú thường trực của họ. Một tài liệu đáng chú ý ở đầu thế kỷ 10, được gọi là Hidage Burghal, cung cấp một công thức để xác định bao nhiêu người là cần thiết cho một đội quân đồn trú ở một pháo đài, dựa trên công thức một chiến binh trên mỗi 5,5 yard (5 mét) tường thành. Với công thức này thì trên lý thuyết cần tổng cộng 27.071 người lính để đồn trứ ở các hệ thống phòng thủ, đó là điều không thể đạt được trong thực tế. Ngay cả khi chúng ta giả định rằng lực lượng cơ động của Alfred là nhỏ bé, chỉ khoảng 3.000 lính kỵ binh thì nhân lực cho các pháo đài phòng thủ của ông vẫn là điều phải suy nghĩ.

    Phát triển Hải quân Anh

    Alfred cũng đã tự thử thách chính bản thân mình ở việc tổ chức lực lượng hải quân. Trong năm 897 ông đã ra lệnh xây dựng một hạm đội nhỏ, có lẽ một chục hay khoảng như vậy các tầu longship có 60 mái chèo với kích thước to gấp hai lần tàu chiến của người Viking. Như Victoria đã khẳng định, đây không phải là sự ra đời của Hải quân Anh. Xứ Wess.e.x đã từng sở hữu một hạm đội hoàng gia trước đó. Anh trai của Alfred - Vua Athelstan của xứ Kent và Công tước Eahlhere đã đánh bại một đội tàu Viking ở năm 851, thu giữ chín chiếc tàu và bản thân Alfred đã tiến hành các hoạt động hải quân ở năm 882 và 884. Nhưng rõ ràng tác giả của quấn Lịch sử người Anglo-Saxon có thể đã cho rằng trong năm 897 Alfred đã đánh dấu một sự phát triển quan trọng trong lực lượng hải quân của xứ Wess.e.x. Các sử gia hãnh diện cho hoàng gia của mình bằng cách khoe khoang rằng tầu của Alfred không chỉ lớn hơn, mà còn mau lẹ, vững chắc hơn và đi được vào những vùng nước sóng gió hơn cả tầu của người Frisian hoặc tàu Đan Mạch. (có thể là với sự trợ giúp của Asser, Alfred đã có các thiết kế của tàu chiến của Hy Lạp và La Mã, với các thành tầu cao hơn, và được thiết kế để chiến đấu hơn là để đi biển) Alfred đã có ý tưởng về một sức mạnh hải quâm: nếu ông có thể đánh chặn các hạm đội đột kích trước khi họ có thể đổ bộ, ông có thể bảo vệ vương quốc của mình khỏi bị tàn phá. Tàu của Alfred có thể đã chiếm ưu thế trong lý thuyết, tuy nhiên trong thực tế chúng đã chứng tỏ là những con tầu quá lớn để có thể cơ động tốt trong các vùng biển ở gần các cửa sông và các con sông, nơi duy nhất mà một ‘ trận hải chiến có thể xảy ra’. (Các tàu chiến của thời này không được thiết kế để triệt phá tầu đối phương mà là để làm tàu vận chuyển quân. Một trận hải chiến thường là tàu của quân ta sẽ áp sát vào mạn của một tàu đối phương, tại thời điểm này thủy thủ đoàn của hai chiếc tàu sẽ tấn công lẫn nhau và cố gắng nhảy sang boong tầu địch Kết quả là một cuộc chiến giống như trên bộ với những màn đánh nhau tai bo trên hai con tàu)

    Trong một ghi chép về một trận chiến hải quân trong năm 897, hạm đội mới thành lập của Alfred đã chặn sáu tàu Viking ở cửa một dòng sông nào đó dọc theo phía nam nước Anh. Người Đan Mạch đã cập bờ một nửa số tầu của họ, hoặc là để các tay chèo của họ nghỉ nghơi hoặc để tìm kiếm thức ăn, thực phẩm. Tàu của Alfred ngay lập tức di chuyển và khóa lối thoát ra biển. Ba tàu Viking đã cố gắng vượt qua đội hình của tầu Anh. Chỉ có một tầu chạy thoát được. Alfred đã cho chặn hai chiếc tầu kia lại. Áp sát tầu của người Viking bằng các tầu của mình, các thuyền viên tầu Anh nhảy lên tàu của đối phương và tiêu diệt tất cả những người trên hai tàu. Một con tàu đã cố găng thoát khỏi, được như vậy chỉ là vì tất cả các tàu lớn của Alfred đã trở nên bị mắc cạn khi thủy triều xuống. Những gì xảy ra sau đó là một trận đánh trên bộ của các thủy thủ đoàn của các con tàu bị mắc cạn. Tầu của người Đan Mạch nhẹ hơn và sẽ thoát được mà không cần đợi tới lúc thủy triều lên. Khi thoát khỏi bị mắc cạn người Đan Mạch vội vã quay trở lại tàu của họ, những con tầu được trang bị nhẹ hơn, với một thiết kế nông hơn đã có thể thoát trước khi tàu của Alfred có thể làm được điều này. Một cách bất lực, người Anh đứng nhìn xem người Viking chèo thuyền qua mũi họ. Tuy nhiên, quân cướp biển cũng đã bị thương vong rất lớn (120 người chết theo sử sách), và họ lại gặp khó khăn khi chèo thuyền biển. Hai trong số ba tàu bị đuổi thoát khỏi bờ biển Susse.x. Các thủy thủ của chiếc tầu bị đắm đã được đưa tới nơi ở của Alfred tại Winchester và họ liền bị treo cổ.
    Ngoài ra vua Alfred Đại đế cũng tăng cường các biện pháp cải cách hành chính, thuế má, hệ thống luật pháp, đổi mới quan hệ đối ngoại, quan tân đến Tôn giáo và văn hóa … nhưng những vấn đề này không liên quan đến quân sự nên không được đề cập đến.

    Sau khi Vua Alfred qua đời những người nối nghiệp ông không đủ tài năng và uy tín để làm người Đan Mạch sợ hãi và thế là không chỉ một lần họ lại kéo sang nước Anh. Phải đến năm 1066 ( tức la độ xấp xỉ 80 năm sau khi vua Alfred qua đời) khi vua Harold Goodwison đánh bại người Viking Nauy thì các cuộc tấn công cướp bóc của người Viking mới kết thúc, nhưng chỉ sau đó vài ngày người Saxon lại bại trận trước người Normand và câu chuyện về nước Anh lại rẽ sang một ngả hoàn toàn khác.
  6. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Đông - Nam Châu Âu thời đầu Trung Cổ


    Đế quốc Rome - Byzantine đến thế kỷ thứ 10



    Tóm lược những sự kiện lớn của Đế quốc Byzantine



    226 Ardashir lật đổ triều đình Pathia.
    235 Hoàng Đế Alexander Severus bị sát hại bởi binh lính của mình.
    243-4 Hoàng Đế Gordian bị đánh bại bởi Shapur I của Ba Tư.
    251 Hoàng Đế Decius chết trong trận chiến chống người Goth.
    260 Người Batư đánh bại và bắt sống Hoàng Đế Valerian. Người Frank xâm chiếm xứ Gaul; Người Alamanni xâm chiếm Italy, các cuộc khởi nghĩa xảy ra ở Balkans.
    261-68 Vua Odaenathus của Palmyra chiếm kiểm soát các tỉnh phía Đông của Đế chế.
    262-67 Người Goth xâm chiếm Tiểu Á.
    271 Hoàng Đế Aurelian cho rút quân La Mã ra khỏi Dacia (Rumani ngày nay). Bức tường hình tròn được xây dựng xung quanh Rome.
    272 Hoàng Đế Aurelian đánh bại người Palmyra.
    275 Hoàng Đế Aurelian bị ám sát.
    284 Diocletian lên ngôi Hoàng đế
    293 Tetrarchy với Maximian đồng làm Augustus, Constantius vàGalerius đồng làm Caesars.
    305 Diocletian và Maximianthoái vị.
    312 Constantine chiếm Rome sau trận Milvian Bridge.
    324 Constantine đánh bại Licinius và trở thành hoàng đế duy nhất.
    337 Cái chết của Hoàng Đế Constantine ở giai đoạn đầu của chiến dịch chống Ba Tư.
    353 Hoàng Đế Constantius II đánh bại kẻ soánngai vị Magnentius và thống nhất lại đế chế.
    335 Julian cùng Constantius làm Caesar.
    357 Hoàng Đế Julian đánh bại người Alamanni tại trận Strasburg.
    361 Cái chết của Hoàng Đế ConstantiusII.
    363 Hoàng Đế Julian tiến hành cuộc xâm lược vào Ba Tư và chết (không nói rõ nguyên nhân).
    376 người Goth vượt qua sông Danube.
    378 Valens bị đánh bại và chết tại Adrianople (Edirne).
    382 Hoàng Đế Theodosius định cư người Goth vùng Balkan nhưfederates.
    394 Hoàng Đế Theodosius đánh bại Eugeniuskẻ soán ngôithống nhất lại đế chế.
    395 Cái chết của Hoàng Đế Theodosius, Đế chế lại bị phân chia giữa Arcadius và Honorius.
    406 Các bộ lạc Germanic ở sông Rhine xâm phạm biên giới.
    408 Stilicho bị tử hình.
    410 Rome bị công phá bởi Alaric và người Visigoth.
    418 Người Visigoth định cư ở Aquitania.
    429 Người Vandal chạy sang châu Phi.
    445 Attila trở thành vị vua duy nhất của người Hung.
    451 Attila xâm nhập xứ Gaul và bị đánh bại tạiCatalaunian Plains (gần Troyes).
    453 Attilachết.
    455 Vandal công phá Rome.
    476 Odoacer (người Visigoth) phế truất Romulus Augustulus,Hoàng đế cuối cùng phía Tây.
    493 Theoderic chiếm được Ravenna và giết chết Odoacer.
    502 Người Kavadh chiếm tỉnh miền Đông đế chế và xâm nhậpAmida (Diyarbakir).
    505 Thỏa thuận ngừng chiến ở biên giới phía đông; tiến trình xây dựng Dara được bắt đầu.
    507 Clovis và người Frank đánh bại người Visigoth tạiVouillé.
    527 Chiến tranh lại tiếp tục ở phía đông, Justinian lên ngôi Hoàng Đế
    532 "Hòa bình vĩnh cửu " được ký với Ba Tư.
    533 Belisarius (tướng tài của Đông Đế chế)đánh bại người Vandalthu hồi châu Phi.
    540 Belisarius tiến vào Ravenna và xóa sổ vương quốc của người Ostrogoth. Khusro I xâm nhập các tỉnh phía đôngchiếm Antioch.
    542 Xuất hiện của bệnh dịch hạch.
    546 Totila (vua của người Visigoth )tái chiếm Rome.
    552 Narses đánh bại và giết chết Totila tại BustaGallorum.
    562 Ký kết hiệp ước 50 năm hòa bình với Ba Tư.
    568 Người Lombard xâm lược Italy.
    572 Hoàng Đế Justin II khởi động cuộc chiến tranh mới biên giới phía đông.
    578/9 Người Avar bắt đầu cuộc xâm lược vào vùng Balkan.
    586/7 Người Slav tập kích đến tận thành phố Athens và Corinth.
    591 Chấm dứt chiến tranh với Ba Tư.
    602 Cuộc nổi dậy của quân đội Balkan vàMaurice bị lật đổ khỏi ngai vàng.
    610 Heraclius chiếm Constantinople và giết chết Phocas.
    614 Ngươi Ba Tư chiếm thành phố Jerusalem.
    622 Nhà tiên tri Muhammad rời khỏi Medina (Hijra).
    626 Người Avar bao vây thành phố Constantinople với sự hỗ trợ của người Ba Tư.
    627 Heraclius (Hoàng Đế Byzantine) đánh bại người Ba Tư tại Nineveh.
    632 Cái chết của Muhammad.
    636 Người Ả Rập đánh bại người La Mã tại sông Yarmuk.
    638 Người Ả Rập chiếm giữ thành phố Jerusalem.
    639 Người Ả Rập tấn công Ai Cập.
    642 Người Ả Rập chiếm thành phố Alexandria.
    651 Cái chết của Yazdgard III, người cuối cùng của triều đại Sassanid cai trị Batư.
    661 Mu'awiyah trở thành Caliph tạiDamascus ( người Ả Rập)
    663 Người Ả Rập xâm chiếm bán đảo Tiểu Á hàng năm và tàn phá nó, nhưng cứ đến mùa thu thì họ lại phải trở về căn cứ của họ ở Syria
    668 Constantine IV lên ngôi Hoàng Đế Byzantine
    670 Quân lính của Mu'awiya ( người Ả Rập) chiếm Kyzikos, trên bờ biển Marmora đối diện với Constantinople, và Smyrna
    674-678 Muawiya bắt đầu tiến hành một cuộc bao vây lớn vào thành phố Constantinople. Cuộc bao vây này dựa trên ưu thế trên biển ban đầu của Ả Rập, bởi vì trên bộ thì các bức tường của thành phố cơ bản bất khả xâm phạm.
    685 Triều đại đầu tiên của Hoàng Đế Justinian II
    695-717 Hoàng đế yếu ớt và Đế chế gần như ở trong tình trạng vô chính phủ, trong 695 một cuộc nổi dậy đã nổ ra, được lãnh đạo bởi một viên tướng danh tiếng nhất của hoàng đế - Leontios, một người Isaurian đã bị Justinian thất sủng. Cuộc nổi dậy đã thành công và Leontios trở thành hoàng đế. Justinian là bị hành hình bằng cách cắt mũi.
    695 Leontios chỉ cai trị một thời gian ngắn, triều đại của ông được đánh dấu một cách đáng chú ý nhất mộtbệnh dịch hạch bùng phát. Leontios cử Apsimar – thống lĩnh lực lượng hải quân đếnBắc Phi trong một nỗ lực để tái chiếm khu vực này từ tay người Ả Rập
    698 Mặc dù thua trận (trước người Ả Rập) nhưng Apsimar vẫn tự tuyên bố là hoàng đế - Tiberios II và ông ta mang quân quay về để chiếm thành phố Constantinople với sự trợ giúp của các Faction Green. Tiberios rất tích cực trong việc tiến hành xây dựng các công trình phòng thủ cho Đế Chế, như việc cho sửa chữa các bức tường dọc theo bờ biển của thành phố Constantinople, và ông đã can thiệp quân sự vào Síp và Syria.
    705 Với sự giúp đỡ của người Khazar, Justinian trở về Constantinople và một lần nữa lại lên ngôi Hoàng Đế. Justinian II là một trong số rất ít các Hoàng Đế của Byzantine có thể lấy lại ngôi vua tiếp tục chỉ trị vì sau khi bị mất ngôi.
    711 Justinian phái một hạm đội chống lại Cherson,nhưng binh sĩ lại nổi loạn và tuyên bố Bardanes - chỉ huy của họ phải là hoàng đế, ông này tự xưng tên là Hoàng Đế Philippikos. Được sự hỗ trợ bởi của người Khazar, Philippikos chiếm giữ Constantinople cũng trong năm 711 và Justinian II lại phải chạy trốn khỏi thành phố
    713 Triều đại Philippikos không thành công về mặt quân sự và người Ả Rập đã có một loạt các chiến thắng ấn tượng. Có lẽ vì lý do này quân đội lại một lần nữa nổi dậy, Philippikos bị lật đổ và bị chọc mắt. Hội đồng Hoàng gia chính thức tuyên bốArtemios trở thành hoàng đế Anastasios II. Ông này ngay lập tức đảo ngược các chính sách về tôn giáo của người tiền nhiệm của mìnhcho phục hồicác tòa án mà Philippikos đã bãi bỏ
    715 Lại một cuộc đảo chính quân sự nữa nổ ra và Anastasios II bị lật đổ, Theodosios III được đưa lên ngôi. Vị Hoàng đế mới có thểcũng con trai của Tiberios II, Tuy nhiên, chỉ hai năm một cuộc nổi dậy quân sự nổ ravà đưa Leo III lên ngai vàng, Theodosios thoái vị và trở thành một thầy tu.
    717 hoàng đế Leo III lên ngôi ở Byzantina.
    717-718 Người Ả Rập lại tiến hành bao vây thành phố Constantinople, cuộc bao vây thành phố Constantinople bắt đầu vào tháng 8 năm 717, được hỗ trợ bởi lực lượng hải quân của Sulayman. Hoàng Đế Leo III đã giành được một chiến thắng ở bán đảoTiểu Ávà tấn công vào hậu quân của người Ả Rập, trong khi người Bulgar ( dưới sự chỉ huy của vua Tervel) thì lại hợp công từ phía Tây, và lửa Hy Lạp lại một lần nữa đốt cháy các đội tàu của Ả Rập. Kết quả là Maslama phải rút lui vào tháng 8 năm 718 sau khi bị tổn thất cực kỳ nặng nề (có nguồn tin nói người Hồi giáo) bị người Bulgar tàn sát tới 30.000 người (nhưng người Bungary ngày nay trên một trang web nói họ đã tiêu diệt khoảng 60 -> 90.000 lính Ả Rập và họ mới là người cứu Châu Âu khỏi người Hồi Giáo chứ không phải là Charles Martel he he).
    726 Bắt đầu quá trình Byzantine Iconoclasm, Hoàng Đế Leo III giành chiến thắng quyết định tạiNicaea trong năm này.
    730 Hoàng Đế Leo III triệu tập một cuộc họp của Hội đồng cố vấn (silention) Hoàng gia của mìnhvà tuyên bố tôn kính các ikon (Chúa biết là cái gì) là bất hợp phápvà ra lệnh tịch thu tài sản của họ.
    740 Hoàng Đế Leo III giành được chiến thắng quyết định tại Akroinon và cho đến cuối triều đại của ôngbán đảo Tiểu Á đã trở nên tương đối an toàn khi phải chống chọi lại các cuộc tấn công của người Ả Rập
    741 Constantine V, con trai Leo III của kế thừa ngôi báu và lên ngôi Hoàng Đế Byzantine, triều Isaurian đạt đến đỉnh cao quyền lực của nó, và ông này tiếp tục các chính sách cứng rắng như đập phá các tượng thánh tượng chính sách cứng vào truy bức hoàn toàn các Iconophiles (hoặcthỉnh thoảng được gọiIconodoules).
    741 Một cuộc đảo chính ngay lập tức nổ ra được lãnh đạo bởi người anh/ em rể Artabasdos của Hoàng Đế, ngườidường như có những chính kiến trái ngược với Leo về Iconoclasm. Artabasdos bước đầu đánh bại Constantine kiểm soát thành phố Constantinople.
    743 Constantine đánh bại được người anh/ em rể Artabasdos và giành lại quyền kiểm soát thủ đô và chọc mắt của Artabasdos và của con trai của ông ta.
    750 Sự sụp đổ của triều đại Umayyad và thay thế nó bằng triều đại Abbasid vào năm đó.
    751 Thành phố Ravenna rơi vào tay người Lombard và chức vị Tổng giám mục của Ravenna ngừngtồn tại.
    763 Constantine theo đuổi một chính sách hiếu chiến chống lại người Bulgarsvà ông đã đánh thắng và nghiền náthọ trong trận Anchialos.
    775 Leo IV người Khazar lên ngôi Hoàng Đế - ông là con trai của Constantine V với người vợ gốc Khazar củaông này - Irene, nên ông này thường được gọi là "Leo – người Khazar" rất ít các thông tin được biết đến về triều đại của Leo IV, nhưng có điều chắc chắn là ông đã tiến hành nhiều chiến dịch chống lại người Ả Rậpở Tiểu Á và người Bulgaria, trong thực tế, ông qua đời vì một cơn sốt vào năm 780 trong khilãnh đạo quân đội để chống lại người Bulgaria.
    708-790 Triều đại của Irene mặc dù mục tiêu chính của bà ta luôn luôn có vẻ làkhôi phục lại ikons, Irene cũng có mối quan tâm mạnh mẽ và chủ động về các vấn đề như quân đội chính trị, ta là người phụ nữ duy nhất của Byzantine tự phong cho mình danh hiệu " emperor " của đàn ông.
    787 Lần đầu tiên khôi phục lại các ikon
    790 Khi Constantine VI đã được 19 tuổi (Hoàng đế đã trưởng thành ), Constantine đã tìm cách cai trị đất nước theo cách của mình
    795 Constantine VI đã ly dị vợ và cưới một bà vợ khác, việc này gây ra rất nhiều tai tiếng vì lý do tôn giáo.
    797 Vào cuối năm một số người ủng hộ Irene đã bắt giữ vị hoàng đế trẻ tuổi và chọc mắt ông sau đó Constantine đã chết, có thể là do nguyên nhân từ sự việc này
    802 Hoàng đế Nikephoros lên ngôi, đây là người dường như cũng có kinh nghiệm về quân sự cùng với các kỹ năng quản lý hành chínhngười nguồn gốc từ hoàng gia Ghassanid đầy danh tiếng.
    811 Nikephoros dẫn đầu một chiến dịch lớn chống lại người Bulgar để chiếm lại Pliska và buộc Hãn Krum phải chấp nhận điều kiện hòa bình. Nikephoros muốn gây sức ép bằng một cuộc chiến hy vọng người Bulgar sẽ thất bại hoàn toàn. Tại thời điểm mà ông thành công nhất thì Nikephoros và toàn bộ quân đội của ông bị tiêu diệt trong một cuộc phục kích - Hoàng đế đã bị tử trận.
    811 Hoàng Đế Michael I Rangabe lên ngôi, ông này là con rể kiêm người kế vị Nikephoros, Michael I Rangabe lúc đó đang giữ danh hiệu kouropalates, đây là một danh hiệu chỉ dưới Hoàng đế.
    813 Trong khi Michael đang cố gắng để chống lại hãn Krum thì một trong những viên tướng của ông ta - Leo, thống lĩnh của vùng Anatolikon– đã đảo chính và chiếm thành phố Constantinople.Hoàng Đế Michael đã bị lật đổ và bị lưu đày, Leo V người Armenia lên làm hoàng đế.
    814 Khan Krum đột ngột qua đời vào tháng 4 năm 814. Leo đã kết một hiệp định hòa bình 30 năm với con trai của Krum.
    814 Trong khi đó, Leo lại cho phục hồi Iconoclasm trong đế quốc. Ông thành lập một ủy ban để điều tra vấn đề này, dưới sự điều hành của Grammatikos John.
    815 phục hồi lại Iconoclasm.
    820 Một trong những trợ thủ thời chinh chiến của Leo V - Michael của Amorian - tham gia vào một âm mưu chống lại hoàng đế, bị phát hiện và Michael đã bị kết án tử hình nhưng người của ông này kịp thời sát hại Hoàng Đế Leo và tuyên bố Michael là hoàng đế.
    820 Michael II nhà Amorian 820-9 là một người lính và người cai trị thực tế. Ông có lẽ mình là một người thuộc phái Iconoclast ( đập phátượng thánh).
    821 Cuộc khởi nghĩa của Thomas người Slav, Thomas kiểm soát hầu hết bán đảo Tiểu Á trong hainăm (821-3) vàbao vây Constantinople, lực lượng của ông bị phân tán bởi sự can thiệp của Khan Bulgar Omurtag, trong năm 823 Thomas bị thất bại và chặt đầu.
    Trong 826/ 8 Đảo Crete bị chiếm bởi các đạo quân chinh phạt người Ả Rập từ Tây Ban Nha.
    827/ 9 Người Ả Rập từ Tây Ban Nha đã có thể thiết lập cứ điểm dừng chân ở Sicily.
    829 Michael II được kế vị bởi con trai ông, Theophilos, người đã được trao vương miện như một đồng hoàng đế trong 821. Không giống như cha mình, Theophilos là một người có học và cũng thu được nhiều thành công về mặt quân sự, tuy nhiênthời trị vì của Theophilos lại xảy ra các thảm họa cho Đế Quốc
    831 Thành phố Palermo rơi vào tay người Ả Rập Ummayad Tây Ban Nha.
    841 Tất cả các phần phía tây ffice:smarttags" />Sicily rơi vào tay người Ả Rập.
    839 Người Ả Rập xâm chiếm miền nam Italy, chiếm giữ Taranto và do đó cắt vùng đất củaĐế quốc Byzantine Italy làm hai phần.
    837 John Grammatikos trở thành giáo trưởng ( patriarch)một cuộc bức hại các Iconophiles lại bắt đầu.
    842 Theophilos chết để lại vợ Theodora và con trai MichaelIII - khi đó chỉ mới 3 tuổi nhưng đã được nối ngôi làm hoàng đế
    846 Đại công quốc Moravia đã lớn mạnh và vị vua vĩ đại nhất của họ - Hoàng tử Ratislav tìm cách duy trìđộc lập từ khuynh hướng bành trướng của người Frank nên đã quyết định cải thiện bang giao với Đế quốc Byzantine.
    856 Dưới sự chỉ huy của vịtướng Petronas– chú của Hoàng đế Michael III- quân đội Byzantine có được những thành công đáng kể, đặc biệt là ở phía Đông. Petronas tiến tới tận sông Euphrates (Iraq ngày nay), vượt qua nó và tấn công vương quốcAmida
    860 Thành phố Constantinople bị tấn công bất ngờ từ người Rhos– những người được coi là tổ tiên của người Nga,cũng trong năm này Umar– tiểu vương của xứ Hồi giáo Meletine, được hỗ trợ bởi người Paulicians, đã tấn công sâu vào lãnh thổ Byzantine quay trở về với số chiến lợi phẩm đáng kể.
    862 Hoàng tử Ratislavyêu cầu Constantinople các nhà truyền giáo đến đất của mình để thay thế cho các giáo sỹ người Frank, những người đã tổ chức một giáo hội độc lập trong lãnh thổ của mình.
    863 Ba năm sau Umarcủa xứ Meletine quen mui lại mò sang một lần nữa, nhưng lần này ông ta đã bị mắc bẫy của một đội quân được chỉ huy bởi Petronas (và có thể chính bởi Michael), vị tiểu vương đã thiệt mạng và thực tế thì toàn bộ quân của ông cũng bị tiêu diệt.


    <?xml:namespace prefix = o ns = "urn:schemas-microsoft-com
  7. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Tóm lược những sự kiện lớn của Đế quốc Byzantine (tiếp)

    864Từ lúc này Xứ Bulgaria nắm trong vùng ảnh hưởng của Byzantine,và việc chuyển hóa được người Bulgaria là một trong những thành tựu lớn nhất và quan trọng nhất về chính trị và văn hóa của Byzantine.
    (867Triều đại của Basil I, ông là Macedonia được sinh ra ở Thrace hoặc Macedonia. Ông đã kết hôn với Eudokia Ingerina, nhân tình của vị Hoàng đế trước đó.
    872 Christopher, em rể của Basil I đánh bại người Paulicians phá hủy thủ đô Tephrike, nhưng ông này lại bị giết bởi một bộ hạ phản bội.
    878 Tại Sicily, thành phố Syracusev ốn đã dài chịu một cuộc bao vây dài ngày của người Ả Rập, cuối cùng đã thất thủ.
    886 Basil I chết (trong một tai nạn săn bắn).
    886 Bắt đầu Triều đại của Leo VI– ông này không phải là con trai ruột của Basil mà là của Michael III.
    893 Symeon đang theo học ở Constantinople được gọi về để cai trị vương quốc Bulgaria và trở thành vua của nước này. Chiến tranh giữa Byzantin và Bungaria có thể nổ ra bất cứ lúc nào về các vấn đề thương mại.
    894 Symeon quyết định buộc phải khai chiến tranh và ông đã xâm chiếm lãnh thổ của Byzantine.
    869 Symeon đánh bại quân đội Byzantine trước khi đồng ý ký kết một Điều ước hòa bình trong đó nêu rõ Byzantine phải có nghĩa vụ nộp cống cho Bulgaria.
    902 Các hoạt động quân sự của Byzantine ở phương Tây đương nhiên bị suy yếu do kết quả củacuộc xung đột với Symeon, và Taormina - thành lũy cuối cùng của Byzantineở Sicily đã bị người Ả Rập chiếm.
    904 Leo của xứ Tripoli, một cựu giáo dân Kitô, đã dẫn đầu một hạm đội lớn
    từ Syria để tấn công Constantinople, nhưng ông ta lại quay ra tấn công Thessaloniki. Thessaloniki, thành phố quan trọng thứ hai của đế quốc, đã khôngchuẩn bị trước cho cuộc tấn công và nó nhanh chóng thất thủ.
    907 Người Rhos ngày càng đóng vai trò lớn hơn với Byzantine. cũng năm này Hoàng tử NgaOleg (của Kiev) đưa một hạm đội lớn đến Constantinople và ký hiệp ước về thương mại với Byzantine.
    912 Leo VI qua đời được thừa kế bởi Alexander - em trai của ông.
    913 Alexander từ chối trả tiền cống nộp cho người Bulgaria theo hiệp ước năm 896 và ngay lập tức đã Symeonđã phát động chiến tranh với Byzantine. Alexander thua trận và chết. Symeon đã vượt qua lãnh thổ Byzantine và đóng quân trước các bức tường của Constantinople (trongmùa hè năm 913).
    919 Romanos (con trai của một nông dân tiếng Armenia và chỉ huycủa hải quân Byzantine) đẩy lui được người Bungaria lấy lại quyền kiểm soát Constantinople và bố trí cho một cuộc hôn nhân của Constantine VII với con gái của mình Helena.
    920 Romanos lên ngôi đồng hoàng đế vàtừ thời điểm này trên thực tế thực tế ông là chủ nhân của đế quốc.
    924 Bzantine và Bulgaria sau đónổ ra một cuộc chiến kéo dài để kiểm soát Serbia, cuối cùng thì Symeon giành chiến thắng.
    926 Romanos tấn công Croatia, lúc này đang được cai trị bởi vị vua đầu tiên của họ Tomislav, kết quảlà ông này chuốc lấy một thất bại thảm hại.
    927 Symeon lúc này dường như tiếp tục lên một kế hoạch tấn công nữa vào Byzantine nhưng ông này lại đột ngột qua đời.
    934 John Kourkouas– một vị tướng tài của Romanos đã thu được một thành công cực kỳ quan trọng khi bắt xứ Meletine phải đầu hàng.
    941 Người Nga (Rhos) lại tiến hành một cuộc tấn công bất ngờ vào Constantinople. Kourkouas trở về từ mặt trận phía Đông và đánh bại họ trong một trận chiến có ý nghĩa quyết định trên bộ .
    944 Một hiệp ước đã ký kết giữa Constantinople và người Nga bổ sung nhiều trong số các điều khoản của hiệp ước năm 911, nhưng cán cân lợi thế đã rõ ràng chuyển về phía người Byzantine. Cuối năm đó Kourkouas bao vây Edessa,kết quả là sự đầu hàng của Mandylion, chiếm lại một trong những di tích lớn nhất của Kitô giáo.Tuy nhiên Romanos đã không thể tận hưởng những kết quả từ những chiến thắng của mình. năm 931 Christopher - người con trai tài năng nhất của Hoàng đế đã chết. Romanos cho rằng những người con trai ít tuổi của ông không đủ khả năng để cai trị đất nướccuối cùng ông dường như đã quyết định trao trả quyền lực cho vịHoàng đế hợp pháp, Constantine VII.
    944 Những người con trai trẻ tuổicủa Romanos tiến hành một cuộc đảo chính và họ đã lật đổ cha mình, ông này phải sống lưu đày trong một tu viện, và họ tự nắm quyền lực.
    945 Một cuộc phản đảo chính nổ ra vào đầu năm 945, các con trai của Romanos gia nhập cuộc sống lưu đày cùng cha của họ và vị Hoàng đế hợp pháp lên nắm quyền.
    957 Đế quốc Byzantine ngày càng thu được nhiều thành công bởi Nikephoros Phokas ( người thay thế người cha mình như là domestikos.)Những nỗ lực về ngoại giao của Constantine VII đã đến đượcnhững nới cách nơi xa Đế chế như triều đình của Caliph Abd-ar Ummayyad-Rahman ở Tây Ban Nha vàOtto I Đức. Tuy nhiên đặc biệt quan trọng là sự chuyển đổi ( về tín ngưỡng) và chuyến thăm Constantinople của công chúa Nga Olga- nhiếp chính của Vladimir, con trai nhỏ của bà ta.
    959 Constantine VII chết và ông được kế vị bởi con trai củamình - Romanos II.<FONT class=imageattach onload=[/IMG]961 Cả hai Hoàng Đế Leo VI và Constantine VII trước đó đã có những nỗ lực lớn nhưng không thành công để tái chiếm đảo Crete, nhưng trong năm này quân lính dưới sự chỉ huy của domestikos - ( Nikephoros Phokas) cuối cùng đã chiếm được hòn đảo sau một trận đánh kéo dài.Sau đó Phokas Nikephoros quay trở về phía Đông, nơi ông thu được nhiều thành công đáng kể, thậm chí ông đã thử chiếm Aleppo, thủ đô của Said-ad-Daulah ( người Ả Rập)





    [​IMG]
    Bản đồ cho thấy sự xâm nhập của các tộc người rợ vào Đế Quốc La Mã kể từ thế kỷ thứ 3 SCN
  8. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    ( để mọi người dễ hiểu các bài viết về Đê chế Byzantin em xin bổ xung các bài viết về các dân tộc sống chung với họ thời đó như người Vandal, Visigoth, Ostrogoth, Hun (Hung)... mời các bác góp ý )



    [​IMG]
    Bản đô vị trí nơi người Vandal và người Lugii - người anh em của người Vandal cư trú tại thế kỷ thứ 1 SCN trước khi họ kéo vào vùng đất của Đế Chế La Mã ( Màu xanh lá cây), vùng này có thể là Balan ngày nay?.



    Người Vandal

    Người Vandal là một bộ tộc người Đông Germanic ở thời cuối của Đế chế La Mã trong thế kỷ thứ 5, có lẽ thành tựu nổi tiếng nhất của họ là cuộc bao vây Rome trong năm 455. Mặc dù họ cũng chẳng tồi tệ hơn những quân xâm lược khác vào thời cổ đại, nhưng nhà văn thời đầu phục hưng và thời hiện đại có xu hướng lý tưởng hóa thành phố Rome và đổ lỗi rằng người Người Vandal đã tiêu hủy nó. Việc này đã dẫn đến việc đúc đồng tiền có biểu tượng "Vandal", có nghĩa là hủy diệt một cách vô tri, đặc biệt là defacing những tác phẩm nghệ thuật vốn được hoàn thành bởi rất nhiều công sức.

    Thủ lĩnh của người Goth - Theodoric Vĩ Đại, vua của người Ostrogoth và là nhiếp chính vương của người Visigoth, là đồng minh qua hôn nhân với người Vandal cũng như với người Burgundy và Frank dưới sự cai trị của Clovis I. Giống như những người Goth, người Vandal nên được coi là những người kế thừa hơn là kẻ phá hoại của nền văn hóa cổ thời cuối La Mã.

    Nguồn gốc và lịch sử ban đầu


    Một số nhà khảo cổ và sử học xác định người Vandal thuộc nền văn hóa Przeworsk và họ đã tranh cãi xung quanh khả năng liệu có sự tiếp xúc giữa người Người Vandal và những người thuộc chủng khác, các nhà chép sử La Mã cho rằng người Vandal có thể là một tập hợp của các bộ lạc người Slavic và người Germanic – người Lugii ( hay còn được gọi là người Lygier, Lugier hoặc Lygian). Một số học giả tin rằng hoặc Lugii là một cái tên trước đây của người Vandal, hoặc người Vandal là một phần của tập hợp các bộ lạc người Lugian, được tạo ra bởi các bộ lạc người German và Slav. Nhà sử học Jordanes lại cho rằng người Vandal cũng sử dụng ngôn ngữ Gothic và cái tên gọi Vandalic cũng có một chút gì đó liên quan tới người Gothic. Những tộc người thuộc nền văn hóa Przeworsk (có thể là người Lugii) có tục hỏa táng. Hỏa táng cũng là tập tục của bộ tộc người Phổ - Prussian ở vùng Baltic. Tại Phổ các nhà khảo cổ tìm thấy cả dấu vế của hỏa táng và chôn cất được tiến hành bởi các bộ lạc Đức. Các di tích của nền văn hóa Przeworsk chủ yếu là ở những vùng đầm lầy nơi mà người La Mã đã đề cập đến các bộ lạc Lugii.

    Tràn vào Đế chế La Mã


    Người Vandal được chia thành hai nhóm bộ tộc, Silingi và Hasdingi. Vào thời điểm cuộc chiến Marcomannic (166-180) bộ tộc Silingi sống trong một vùng được ghi nhận bởi Tacitus là Magna Germania. Trong thế kỷ thứ 2 bộ tộc Hasdingi, dẫn đầu bởi các nhà vua Raus và Rapt (hoặc Rhaus và Raptus) di chuyển về phía nam và lần đầu tiên tấn công vào lãnh thổ của người La Mã ở vùng hạ sông Danube. Khoảng năm 271 Hoàng đế La Mã Aurelian đã phải chiến đấu với họ để bảo vệ các vùng đất ở phần giữa con sông Danube. Cuối cùng thì họ đã ký kết hòa bình với người La Mã và định cư ở miền tây vùng Dacia và Pannonia.

    Theo quấn Getica của Jordanes, giữa người Hasdingi và người Goth có các cuộc xung đột vào thời gian trị vì của Hoàng Đế Constantine. Vào lúc đó, người Vandal đang sống trong những vùng đất mà sau này là sinh sống của người Gepid, nơi họ bị bao vây "ở phía đông bởi người Goth, ở phía tây là người Marcomanni, ở phía bắc là người Hermanduri và phía nam là người Hister (Danube). " người Vandal bị tấn công bởi vua Gothic Geberic và vua của họ - Visimar đã bị giết. Sau đó người Vandal di cư đến vùng Pannonia, nơi mà sau này Hoàng Đế Constantine (khoảng năm 330) đã cấp cho họ những vùng đất ở bên bờ phải của sông Danube, họ sống ở đó trong 60 năm tiếp theo.


    Khoảng thời gian này, người Hasdingi được Kitô hóa. Trong triều đại của Hoàng đế Valens (khoảng năm 364-78) người Vandal đã theo Arianism, giống như người Goth trước đó, đây một niềm tin chống đối lại Ki Tô chính thống Nicene ( Nicene orthodoxy) của Đế chế La Mã. Tuy nhiên cũng có một số người Vandal theo dòng chính thống sống phân tán với họ, trong số đó người là nổi tiếng nhất là Magister militum Stilicho, tể tướng ( the chief minister ) của Hoàng đế Honorius.



    [​IMG]
    Qua tấm bản đồ này ta có thể thấy hành trình của người Vandal ( mũi tên mầu xanh sẫm)



    [​IMG]
    Dưới sưc ép của người Hun, lần lượt người Vandal, người Alan, người Goth... lần lượt phải di cư - qua đây ta có thể thấy người Hun đáng sợ như thế nào.


    Trong năm 400 hoặc 401, có thể do các cuộc tấn công của người Hung, người Vandal dưới sự lãnh đạo của vua Godigisel, cùng với đồng minh của họ (người Alan Sarmatian và người Suebians Germanic) di chuyển về phía tây và tiếp tục tiến vào lãnh thổ La Mã. Một số người Silingi ( bộ tộc người Vandal anh em) cùng tham gia với họ sau đó. Người Vandal đã đột kích tỉnh Raetia của La Mã vào mùa đông năm 401/402. Từ đó sử gia Peter Heather kết luận rằng vào thời điểm này người Vandal ở những vùng xung quanh Trung và Thượng sông Danube.


    Ở xứ Gaul


    Trong năm 406 người Vandal tiếp tục tiến phía tây từ Pannonia dọc theo sông Danube mà không gặp nhiều khó khăn, nhưng khi đến sông Rhine họ đã gặp sự kháng cự từ người Frank và những người dân Latinh ở miền bắc xứ Gaule. Hai mươi nghìn người Vandal và cả người Godigisel đã chết trong các cuộc chiến, nhưng sau đó với sự giúp đỡ của người Alan họ đã cố gắng đánh bại người Frank, và vào ngày 31 tháng 12 năm 406 người Người Vandal vượt qua sông Rhine xâm chiếm Gaul và tàn phá nó một cách khủng khiếp. Theo mô tả của Gunderic - người con trai của Godigisel, người Vandal vừa đi vừa cướp phá về phía tây và phía nam tới tận vùng Aquitaine.


    [​IMG]
    Tranh vẽ một chiến binh người Vandal ( người mặc áo giáp ) va mot chien binh người Alan đang chuẩn bị chiến đấu với kẻ thù


    [​IMG]
    Tranh vẽ các quý tộc người Alan đang ngồi tuý luý, có tài liệu nói người Alan đến từ vùng Ossetia ngày nay, lúc đó họ là đồng minh thân cận của người Vandal và vua của người Vandal cũng tự phong là vua của người Alan luôn.


    Ở xứ Hispania

    Ngày 13 tháng 10 năm 409 họ vượt qua dãy núi Pyrenees và tiến vào bán đảo Iberia. Ở đó, người của bộ tộc Hasdingi cũng được ban cho các vùng đất của La Mã như Foederati ở trong vùng Gallaecia (phía Tây Bắc) và người Silingi ở Hispania Baetica (phía Nam), trong khi người Alan chiến vùng đất ở Lusitania ( phía Tây) và khu vực xung quanh Carthago Nova. Người Suebi cũng kiểm soát một phần xứ Gallaecia. Người Visigoth – những người đã xâm chiếm vùng Iberia trước khi chiếm vùng đất ở Septimania (miền Nam nước Pháp), đã đánh bại người Alan vào năm 416, giết chết vua Tây Alan - Attaces. Phần còn lại của người dân Alan quy tụ xung quanh người Vandal dưới sự lãnh đạo của nhà vua Vandal - Gunderic. Sau đó các nhà vua Vandal ở Bắc Phi đều tự phong cho mình là Rex Wandalorum et Alanorum ( Vua của người Vandal và Alan ).

    Tên gọi vùng Hồi giáo Ả Rập ở Iberia là Al Andalus và biến thể của nó - Andalusia, có thể được bắt nguồn từ cách người Berber phát âm tên của Vandal: "Wandal". Tuy nhiên giả thuyết này vẫn còn có nhiều tranh chấp và tên gọi thay thế cho Andalusia vẫn còn đang được đề xuất.


    Vương quốc Vandal tại Bắc Phi


    Người Vandal theo Genseric vua mới của họ (cũng còn được biết đến như là Geiseric) vượt biển sang châu Phi trong năm 429. Mặc dù không có con số chắc chắn về số lượng của người Vandal và đã có các cuộc tranh luận về tính lý của nó,các nhà sử gia ước tính dựa trên "sự khẳng định Procopius rằng Người Vandal và người Alan có số lượng khoảng 80.000 khi họ di chuyển đến Bắc Phi, ước tính của Heather cho rằng họ có thể có một đội quân khoảng 15.000-20.000 người. Theo Procopius, người Vandal đến châu Phi theo yêu cầu của Boniface - thủ lĩnh quân sự ở vùng này. Tuy nhiên, người ta cho rằng người Vandal di cư sang châu Phi để tìm kiếm nơi chú ẩn an toàn, họ đã bị tấn công bởi một đội quân La Mã năm 422 và thất bại trong việc có một hiệp ước với họ. Tiến về phía đông dọc theo bờ biển người Vandal bao vây Hippo Regius năm 430. Phía trong thành phố Saint Augustine và các linh mục của ông đã cầu nguyện cho sự rút lui của những kẻ xâm lược vì họ biết rõ rằng sự sụp đổ của thành phố sẽ dẫn đến sự tử vong của rất nhiều người La Mã theo Cơ Đốc. Ngày 28 tháng 8 năm 430, sau ba tháng bị bao vây, Thánh Augustine (người đã 75 tuổi) đã chết có lẽ vì đói hoặc căng thẳng mặc dù các cánh đồng lúa mì bên ngoài thành phố vẫn nằm im lìm và không được thu hoạch. Sau 14 tháng cái đói và bệnh tật không thể tránh khỏi đã tàn phá cả những người dân bên trong và người Vandal ở bên ngoài bức tường của thành phố.



    [​IMG]
    Bản đồ vương quốc Vandal ở Bắc Phi ở khoảng giữa thế kỷ thứ 5 SCN



    Hòa bình đã được ký kết giữa những người La Mã và người Vandal trong năm 435 qua một hiệp ước cho phép người Vandal kiểm soát vùng ven biển Numidia. Geiseric lại phá vỡ hiệp ước này vào năm 439 khi ông ta xâm chiếm tỉnh Proconsularis châu Phi và bao vây Carthage. Thành phố đã bị chiếm giữ mà không cần phải chiến đấu, người Vandal tiến vào thành phố trong khi hầu hết các cư dân của nó đang tham dự các cuộc đua ở các trường đua. Genseric đã biến nó thành thủ đô của mình và tự phong cho mình thành vua của người Vandal và người Alan để biểu thị sự tham gia của người Alan vào liên minh của ông ở Bắc Phi. Sau khi chinh phục các vùng Sicily, Sardinia, Corsica và quần đảo Balearic, ông đã xây dựng vương quốc của mình thành một quốc gia mạnh mẽ.


    Người Vandal tiến hành đột kích vào Sicily ở năm 440, tuy nhiên Đế quốc La Mã phương Tây đã quá bận tâm vào chiến tranh ở xứ Gaul và không có phản ứng nào cả. Theodosius II - Hoàng đế của Đế quốc Đông La Mã đã cử một đội quân viễn chinh để đối phó với người Vandal trong năm 441 Tuy nhiên khi đội quân này còn ở rất xa Sicily thì Valentinian III - Hoàng Đế của Đế quốc La Mã phương Tây đã ký kết hòa bình với người Vandal trong năm 442. Theo hiệp ước thì người Vandal được quyền kiểm soát Byzacena, Tripolitania, một phần của xứ Numidia và khẳng định quyền kiểm soát của họ với vùng Proconsular ở châu Phi.


    Công phá thành phố Rome năm 455


    Trong những năm ba mươi năm, với một hạm đội lớn Genseric đã cướp phá các bờ biển của cả Đông và Tây Đế Chế. Tuy nhiên sau cái chết của Attila the Hun thì người La Mã có đủ khả năng để chuyển sự chú ý của họ trở lại với người Vandal, những người đang kiểm soát một số vùng đất giàu có nhất của cựu đế chế.



    [​IMG]
    Tranh vẽ cảnh người Vandal cướp phá Rome. Sau này các sử gia cường điệu hoá sự cướp phá của người Vanda chứ thực ra thì họ cũng chỉ tàn bạo như mọi quân xâm lược đã từng chiếm Rome mà thôi

    Trong một nỗ lực để kéo gấp người Vandal vào với của đế quốc, Valentinian III đã gả con gái của mình cho con trai của Genseric. Tuy nhiên trước khi "hiệp ước" được ký kết thì sự bất ổn về chính trị một lần nữa đóng vai trò quan trọng trong sự sai lầm ngớ ngẩn của Rome. Petronius Maximus đã giết Valentinian III và cướp ngôi vị trong một nỗ lực để chiếm quyền kiểm soát đế quốc. Quan hệ ngoại giao giữa hai vương quốc bị đổ vỡ và trong năm 455 Hoàng hậu Licinia Eudoxia đã viết một lá thư để yêu cầu con trai của Genseric giải cứu bà, người Vandal đã chiếm Rome cùng với Hoàng hậu Licinia Eudoxia và con gái của bà - Eudocia và Placidia.


    Nhà sử gia Prosper xứ Aquitaine ghi lại các sự kiện ở thế kỷ thứ 5 rằng trong ngày 02 tháng 6 năm 455, Giáo hoàng Leo vĩ Đại đã gặp Genseric và cầu xin ông này đừng tàn sát và phá hủy thành phố và chấp nhận sự cướp phá. Ảnh hưởng của Đức Giáo Hoàng đã cứu được Rome, tuy nhiên người Vandal đã rời đi với vô số hiện vật có giá trị bao gồm cả các chiến lợi phẩm từ Đền thờ Jerusalem được đưa đến Rome bởi Hoàng Đế Titus. Eudoxia và con gái của bà - Eudocia được đưa tới Bắc Phi.


    Người La Mã phản công


    Từ hậu quả của việc người Vandal bao vây Rome và bá quyền của họ ở Địa Trung Hải, Đế quốc La Mã đã thấy rằng việc tiêu diệt vương quốc của người Vandal là điều hết sức quan trọng. Đợt tấn công trả đũa đầu tiên là vào năm 460 khi cả hai đế quốc La Mã phương Đông và phương Tây đều tung các hạm đội của mình ra để chống lại người Vandal. Người Vandal chiếm được hạm đội của Đế quốc La Mã phương Tây, và phá hủy hạm đội của Đế quốc La Mã phương Đông qua việc sử dụng tàu hỏa công. Theo sau các cuộc tấn công, người Vandal cố gắng xâm nhập vào bán đảo Peloponnese (Hy Lạp ngày nay) nhưng bị lui bởi người Maniot ở Kenipolis với những tổn thất nặng nề. Để trả thù người Vandal đã bắt giữ 500 con tin ở Zakynthos, giết chết và chặt họ ra từng mảnh rồi ném xác họ xuống biển trên đường quay về Carthage. Trong năm 470 người La Mã từ bỏ chính sách chiến tranh chống lại người Vandal. Ricimer – tướng của Đế quốc La Mã phương Tây ký kết một hiệp ước với người Vandal và vào năm 476 Genseric đã có thể ký kết một nền "hòa bình vĩnh viễn" với Constantinople. Quan hệ giữa hai quốc gia cho thấy một veneer của bình thường. Từ năm 477 trở đi người Vandal đã phát hành tiền kim loại riêng của mình. Chúng là những đồng kim loại bằng đồng và tiền xu bằng bạc với mệnh giá thấp...

    Mặc dù người Vandal đã tự vệ thành công từ các cuộc tấn công từ người La Mã và họ thiết lập quyền bá chủ trên các đảo phía tây Địa Trung Hải, nhưng người Vandal đã không thành công trong các cuộc xung đột của họ với người Berber ở phía nam của vương quốc Vandal. Người Berber là nguyên nhân chính của những thất bại của người Vandal trong thời kỳ năm 496-> 530.


    Thoái trào


    Theo quấn Bách khoa Công giáo toàn thư ( Catholic Encyclopedia) năm1913: "Genseric là một trong những vị vua mạnh mẽ nhất của" Kỷ di cư - era of the Migrations ", đã chết vào ngày 25 tháng 1 năm 477 ở khoảng 88 tuổi. Theo luật thừa kế người con trai cao tuổi nhất của nhà vua được thừa kế ngai vàng. Do đó ông được kế vị bởi Huneric - con trai ông (477-484), người lúc đầu tiên chấp nhận những người Công giáo do nể sợ Constantinople, nhưng sau năm 482 ông bắt đầu bức hại người Manichaeans và người Công giáo". Có một sự xung đột dữ dội về tôn giáo tại vương quốc của người Vandal giữa những người Vandal theo giáo phái Arian ( một nhánh của Công giáo nhưng bị coi là theo tà thuyết) và những người Vandal theo dòng Kitô chính thống ( chúa Ba ngôi – Trinitarian ) bao gồm cả những người theo Catholic and Donatist. Các giáo chủ Công giáo hoặc bị bức hại hoặc bị lưu đầy, tài sản của những người theo Công giáo có thể bị tịch thu tuy theo quan hệ tốt xấu giữa triều đình Vandal và La Mã

    Gunthamund (484-496), người thừa kế và là anh em họ của Huneric và về mặt nội bộ tìm kiếm hòa bình với những người Công giáo và một lần nữa chấm dứt các cuộc đàn áp. Bên ngoài sức mạnh quân sự của người Vandal đã giảm sút kể từ sau cái chết của Genseric và người Gunthamund bị mất phần lớn Sicily trước người Ostrogoth và phải chịu áp lực ngày càng tăng từ người Moor bản địa.

    Vẫn theo Bách khoa Công giáo toàn thư năm 1913 " Vua Thrasamund (năm 496-523) do sự cuồng tín về tôn giáo của mình tỏ ra thù địch với người Công giáo nhưng ông này hài lòng với những cuộc đàn áp không đổ máu ".

    Sự hỗn loạn kết thúc


    Hilderic (523-530) là vị vua Vandal cởi mở nhất đối với Giáo Hội Công Giáo. Ông duy trì sự tự do tôn giáo do đó Công giáo lại một lần nữa được tổ chức lại tại Bắc Phi. Tuy nhiên, ông lại không quan tâm về các vấn đề quân sự và để cho một thành viên trong hoàng tộc - Hoamer phụ trách vấn đề này. Khi Hoamer phải chịu một loạt thất bại trước người Moor, những người trong phái Arian hoàng tộc đã dẫn đầu một cuộc nổi dậy và đề cao tín ngưỡng tà thuyết ( Arian ) trong tầm quốc gia và người anh em họ của ông - Gelimer (530-533) trở thành vua. Hilderic, Hoamer và những người thân của họ bị Hilderic bị lật đổ, bỏ tù và giết chết trong năm 533.

    Hoàng đế Byzantine - Justinian I tuyên chiến với ý định phục hồi Huneric lên ngôi vua của Vandal. Khi một đoàn quân viễn chinh của Byzantine đang tiến tới thì phần lớn quân đội và hải quân của người Vandal dưới sự chỉ huy của Tzazo – người anh em của Gelimer lại đang ở Sardinia để đối phó với một cuộc nổi loạn. Kết quả là đội quân của Đế quốc Đông La Mã được chỉ huy bởi Belisarius đã có thể đổ bộ mà không bị kháng cự ở khoảng 10 dặm (16 km) từ Carthage. Gelimer nhanh chóng tập hợp một đội quân và chiến đấu với Belisarius ở trận Ad Decimum; người Vandal đã chiếm ưu thế trong trận chiến cho đến khi anh trai và cháu trai của Gelimer là Ammatas và Gibamund bị giết trận chiến. Sau đó Gelimer bị ngã lòng và bỏ chạy. Belisarius nhanh chóng chiếm lấy Carthage khi chỉ phải chiến đấu với những người Vandal còn sống sót.

    Ngày 15 tháng 12 năm 533, Gelimer và Belisarius lại đụng độ một lần nữa ở trận Tricamarum, ở khoảng 20 dặm (32 km) từ Carthage. Một lần nữa người Vandal lại chiến đấu tốt nhưng rồi họ lại vỡ trận khi – Tzazo - anh trai của Gelimer ngã gục trong trận chiến. Belisarius nhanh chóng tiến lên để chiếm lấy Hippo - thành phố lớn thứ hai của Vương quốc Vandal và trong năm 534 Gelimer đầu hàng người La Mã và kết thúc Vương quốc của người Vandal.

    Vùng Bắc Phi (ở thời kỳ của người Vandal là phía bắc và phía đông của các quốc gia Algeria và Tunisia ngày nay) một lần nữa trở thành một tỉnh La Mã, kể từ đó người Vandal bị trục xuất. Hầu hết các phần còn lại của người Vandal bị rời đi Saldae (ngày hôm nay được gọi là Béjaïa thuộc Kabyl ở phía Bắc Algeria) nơi họ hòa nhập với những người Berber. Một số khác đã được về phục dịch tại triều đình Byzantine hoặc đã bỏ trốn tới hai vương quốc Gothic (Vương quốc Ostrogoth và Visigoth), một số phụ nữ người Vandal có chồng là binh lính của Byzantine lại định cư ở phía Bắc Algeria và Tunisia. Các chiến binh người Vandal được tổ chức thành năm trung đoàn kỵ binh (của Đông Đế chế ) và được gọi là Vandali Iustiniani và đóng quân ở biên giới Ba Tư. Một số phục vụ cho đạo quân riêng của tướng Belisarius. Quấn Bách khoa Công giáo toàn thư 1913 nói rằng "Gelimer đã được đối xử một cách kính trọng và nhận được những tài sản lớn ở Galatia. Ông cũng được dự định để xếp hạng thân tộc nhưng ông đã phải từ chối vì không sẵn sàng thay đổi đức tin Arian". Theo những ghi chép của sử gia Roger Collins: " Những người Vandal còn lại sau đó được chuyển tới thành phố Constantinople để được tuyển vào quân đội triều đình Byzantine và như vậy các bản sắc dân tộc của họ đã biến mất"
  9. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Người Visigoth


    [​IMG]
    Bản đồ sự di chuyển của người Visigoth vào Đế chế La Mã


    Người Visigoth là một trong hai nhánh chính của người Goth - một bộ lạc người Đông Germanic; Ostrogoth là bộ tộc còn lại. Đây là một trong những bộ lạc người man rợ xâm nhập vào Đế quốc La Mã trong Thời kỳ Di cư (Migration Period). Những người Visigoth đầu tiên được La Mã hóa trong thế kỷ thứ 4, ban đầu là ở trong vùng Balkan, nơi họ tham gia một số cuộc chiến tranh với Rome. Một đội người Visigoth theo Alaric I cuối cùng đã di chuyển đến Italy và tiến hành cuộc bao vây nổi tiếng vào thành phố Rome trong năm 410.

    Cuối cùng thì những người Visigoth cũng đã định cư ở miền nam xứ Gaul như là foederati (Hiệp ước - những người không phải là nô lệ của người La Mã nhưng họ cũng không được cấp quyền công dân La Mã, họ sẽ cung cấp nhân sự cho các chiến dịch quân sự của La Mã – có thể coi là Đồng minh) của những người La Mã. Họ nhanh chóng thành lập vương quốc riêng của mình với thủ đô ở Toulouse. Họ dần dần mở rộng quyền kiểm soát của mình sang vùng Hispania, ép người Vandal và Alan phải di dời đi chỗ khác. Họ đã thiết lập được quyền kiểm soát của mình ở xứ Gaul trong một thời gian ngắn cho đến sau trận Vouillé vào năm 507, khi họ bị đánh bại bởi người Frank dưới sự lãnh đạo của Clovis I. Sau đó, ở phía bắc của dặng núi Pyrenees người Visigoth chỉ còn giữ được vùng lãnh thổ duy nhất của mình – vùng Septimania và vương quốc của họ bị giới hạn trong vùng Hispania.

    Khoảng năm 589, người Visigoth dưới sự lãnh đạo của Reccared I, trước đây theo tín ngưỡng Arian Kitô đã huyển đổi sang đức tin Nicene (đạo Kitô chính thống) và những đặc điểm khác biệt về dân tộc (như về tổ tiên, ngôn ngữ, tôn giáo, bộ tộc ăn mặc, vv) giữa người Visigoth-La Mã và người Hispano-La Mã bị xâm lược dần dần biến mất. Liber Iudiciorum (Bộ luật của người Visitghot – được hoàn thành vào năm 654) bãi bỏ các điều luật cũ vì các điều luật này phân biối xử giữa người La Mã và người Visigoth, tất cả các công dân của vương quốc sẽ không còn là ngươ La Mã hay người Goth mà họ đều trở thành người hispani. Ở thế kỷ tiếp theo vương quốc được cai trị bởi Hội đồng các giám mục Toledo. Các nguồn thông tin về lịch sử cho thế kỷ thứ 7 tương đối l. Trong 711 hoặc à ít ỏi, trong năm 712 rất nhiều thủ lĩnh người Visigoth bao gồm cả vua của họ đã bị giết trong trận Guadalete bởi một lực lượng xâm lược người Ả Rập và Berber. Sau đó vương quốc sụp của người Visigoth đã sụp đổ nhanh chóng, tuy nhiên những người Goth sống sót vẫn cố gắng gây dựng lại vương quốc riêng của họ đặc biệt là các vương quốc Asturia và Marca Hispanica.


    Sự phân chia của người Goths: Tervingi và Vesi


    Sự phân chia của người Goths lần đầu tiên được xác nhận vào năm 291. Người Tervingi lần đầu tiên được biết đến vào khoảng thời gian đó, các bộ tộc như người Greuthung, Ostrogoth và Vesi được biết đến không sớm hơn năm 388. Người Tervingi lần đầu tiên được đề cập đến trong một lời khen ngợi của hoàng đế Maximian (285-305) trong năm 291 (có lẽ tại thành phố Trier ngày 20 tháng 292) và theo truyền thuyết thường được gán cho Claudius Mamertinus và nói rằng "người Tervingi, một bộ phận của người Goth" (Tervingi pars alia Gothorum) cùng với người Taifali đã tấn công người và người Gepidae. Thuật ngữ "Vandals" có thể là cách đọc sai của từ "Victohali", trong khoảng năm 360 nhà sử học Eutropius có ghi lại rằng vùng Dacia hiện nay (nunc) là nơi sinh sống của người Taifali, Victohali và Tervingi.


    Chiến tranh với Rome (376-382)

    Người Goth vẫn tiếp tục định cư ở Dacia cho đến năm 376 cho tới khi một trong những thủ lãnh của họ - Fritigern - kêu gọi hoàng đế La Mã Valens cho phép người dân của mình được định cư trên bờ phía nam của sông Danube. Ở đó họ hy vọng sẽ tìm thấy một nơi để lẩn tránh người Hung. Valens đã cho phép này vì ông thấy họ " là một nguồn tuyệt vời để cung cấp nhân lực cho đội quân của ông" Tuy nhiên, một nạn đói nổ ra và Rome không muốn cung cấp cho người Goth những thực phẩm mà họ đã hứa hẹn và cũng không muốn cấp đất cho họ; việc này làm nổ ra một cuộc nổi loạn kéo dài 6 năm, và dẫn đến sự cướp bóc và tàn phá khắp vùng Balkan cùng cái chết của một Hoàng đế La Mã và sự hủy diệt của toàn bộ quân đội La Mã.


    [​IMG]
    Trang bị của một chiến binh người Visigoth




    [​IMG]
    Cảnh một trận chiến giữa người Visigoth và người La Mã



    [​IMG][​IMG]
    Sơ đồ Trận Adrianople, trận đánh mà người Visigoth đã chiến thắng một cách triệt để trước người La Mã, cả hoàng đế La Mã với khoảng 30.000 nghìn quân đã tử trận


    Trận Adrianople trong 378 là thời điểm quyết định của cuộc chiến. Lực lượng La Mã đã bị tàn sát và Hoàng đế Valens bị giết trong cuộc giao tranh. Trận chiến Adrianople đã gây sốc cho thế giới La Mã và cuối cùng buộc những người La Mã phải xin đàm phán và cho người rợ định cư trong địa giới của đế chế, một diễn biến mà sau này dẫn đến hậu quả cuối cùng là sự sụp đổ của Rome.
    et


    Chi tiết hơn về trận
    Adrianople



    Địa điểm c
    ủa trận đánh: Phía bắc Thrace nay là thành phố Edirne thuộc Thổ Nhĩ Kỳ nhưng giáp với biên giới Hy Lạp và Bulgary

    Thời gian xảy ra trận đánh: Ngày 9 tháng 8 năm 378

    Lực lượng La Mã:
    khoảng 50.000 người dưới sự chỉ huy trực tiếp của Hoàng đế Valens
    Lực lượng Visioth:
    Khoảng 50 -> 60.000 người dưới sự chỉ huy của các thủ lĩnh Fritigern, Alatheus, Saphrax
    Kết quả: Người Visigoth toàn thắng, Hoàng Đế Valens và toàn bộ lực lượng bộ binh của La Mã tử vong, chỉ có lực lượng kỵ binh là rút chạy kịp thời để tránh khỏi bị tiêu diệt


    [​IMG]
    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Vào khoảng 14:30, quân đội La Mã dàn quân theo kiểu truyền thống ( ở cánh trung tâm là lực lượng bộ binh La Mã dàn đội hình ba tuyến, hai bên cánh là lực lượng kỵ binh – nhưng dồn về cánh trái, ở cánh phải lực lượng kỵ binh La Mã mỏng hơn chủ yếu là để bảo vệ sườn bên phải của bộ binh) để đối mặt với doanh trại của người Gothic lúc này được lập trên đỉnh một ngọn đồi. Người Goth, trừ lực lượng kỵ binh của họ, đã vào vị trí ở phía trước một vòng tròn lớn được lập nên bởi các toa xe của họ, phía trong vòng tròn đó là gia đình và tài sản của họ. Thủ lĩnh Fritigern tìm cách để trì hoãn trận chiến với người La Mã để có đủ thời gian tập hợp lực lượng kỵ binh Goth và đưa họ vào trận chiến. Các cánh đồng bị đốt cháy bởi người Goth có thể là để cầm chân người La Mã và làm họ bị khó chịu bởi khói, và các cuộc đàm phán được bắt đầu bằng một cuộc trao đổi các con tin. Cuộc đàm phán làm cho binh lính La Mã bực tức vì dường như là họ đang chiếm ưu thế, nhưng họ lại để khoảng thời gian quý báu tuột vào tay Fritigern.


    [​IMG]
    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Một bộ phận quân đội của người La Mã bắt đầu cuộc chiến mà chưa có lệnh để làm như vậy vì tin rằng họ sẽ có một chiến thắng dễ dàng và có lẽ họ quá mong muốn để trả thù người Goth sau hai năm họ (người Goth) tàn phá khắp vùng Balkan. Các toán cung thủ mang lá chắn dưới sự chỉ huy của vua Bacurius người Iberia triển khai tấn công nhưng họ thiếu sự hỗ trợ nên dễ dàng bị đẩy lùi. Sau đó cánh trái của người La Mã đến được đội hình toa xe hình vòng tròn nhưng đã quá muộn.


    [​IMG]
    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Vào giây phút quyết định của trận đánh kỵ binh người Goth được tập hợp bởi những người đưa tin từ đội hình toa xe khổng lồ, đã đến để hỗ trợ kịp thời cho bộ binh. Kỵ binh người Goth bao vây quân đội La Mã - những người đang ở trong một tình trạng lộn xộn sau sự thất bại của cuộc tấn công đầu tiên. Người La Mã rút về ngọn đồi căn cứ của họ, nơi họ đã không thể cơ động được vì bị cản trở bởi áo giáp nặng và lá chắn dài của họ. Tình trạng thương vong, kiệt sức và áp lực tâm lý đã dẫn đến một sự hỗn loạn trong quân đội La Mã. Lực lượng kỵ binh người Goth tiếp tục tấn công vào họ và cuộc thảm sát vẫn tiếp tục cho đến khi đêm xuống. Trong sự hỗn loạn, Hoàng Đế La Mã đã bị bỏ rơi bởi chính các binh lính cận vệ của mình. Một số ít cố gắng để cứu ông nhưng đa số các kỵ binh đã bỏ chạy. Số phận cuối cùng Valens " là không ai biết, có lẽ ông đã chết trên một cánh đồng vô danh, mặc dù một tài liệu nói rằng ông đã bị mắc kẹt trong một ngôi nhà ở ngôi làng đang bị đốt cháy gần đó".


    Triều đại của Alaric I


    Hoàng đế mới của Rome - Theodosius I – ký kết một hiệp định hòa bình với người Goth và các điều khoản cơ bản của hiệp định hòa bình được duy trì liên tục cho đến khi Theodosius chết năm 395. Trong năm đó, vua nổi tiếng nhất người Visigoth - Alaric I - lên ngôi, trong khi Theodosius được kế vị bởi những người con trai bất tài của mình: Arcadius ở phía đông và Honorius ở phía tây.


    [​IMG]
    Bản đồ lãnh địa của người Visigoth có màu vàng


    Trong 15 năm tới, một nền hòa bình không hề dễ dàng bị phá vỡ bởi các cuộc xung đột thường xuyên giữa Alaric và những viên tướng đầy quyền lực, những người chỉ huy quân đội La Mã ở phía tây và phía đông – những người nắm giữ quyền lực thực sự của đế quốc. Cuối cùng, sau khi vị tướng Stilicho ở phía Tây bị hành quyết bởi Honorius năm 408 và các chiến đoàn La Mã đã tàn sát gia đình của 30.000 binh lính người rợ phục vụ trong quân đội La Mã, Alaric đã tuyên chiến. Sau hai lần đánh bại người La Mã ở miền Bắc Italy và một cuộc bao vây thành phố Rome đã kết thúc bằng một thỏa thuận tiền chuộc, Alaric đã bị lừa bởi một phe phái khác của La Mã. Ông quyết tâm chiếm thành phố bằng cách công phá cánh cổng của nó. Cuối cùng ngày 24 tháng 8 năm 410 quân đội của Alaric vào được thành Rome qua cánh cổng Salarian để cướp bóc của cải của nó. Vào thời điểm này Roma không còn là thủ đô chính thức của Đế quốc Tây La Mã ( đã được chuyển đến Ravenna vì lý do chiến lược) nhưng sự sụp đổ của nó vẫn làmg rung chuyển nền móng của đế quốc.


    Vương quốc Visigoth



    [​IMG]
    Vương quốc Visigoth lúc mở rộng nhất bao gồm bán đảo Iberia. vùng Aquitaine và Narbon ( Septimania)


    Vương quốc Visigothic là một quyền lực thật sự ở Tây Âu từ thế kỷ thứ 5 đến 7, vương quốc này được lập ra ở xứ Gaul khi người La Mã mất quyền kiểm soát vào đế chế của họ. Để đối phó với các cuộc xâm lược của người Vandal, Alan và Suevi vào Roman Hispania trong năm 409, Honorius - Hoàng đế La Mã ở phương Tây đã tranh thủ sự trợ giúp của người Visigoth để giành lại quyền kiểm soát vùng lãnh thổ này. Năm 418, Honorius thưởng cho người Visigoth quyền federates (Đồng minh) bằng cách cho họ định cư ở đất Gallia Aquitania. Việc định cư đã hình thành lên cốt lõi của vương quốc Visigothic tương lai mà cuối cùng nó sẽ mở rộng trên toàn Pyrenees và bán đảo Iberia.

    Vị vua vĩ đại thứ hai của người Visigoth – Euric, đã thống nhất các phe phái khác nhau đang xung đột của người Visigoth vào năm 475 buộc chính quyền La Mã phải phong cho họ sự độc lập hoàn toàn. Vào lúc ông chết vương quốc của người Visigoth là quốc gia kế thừa Đế quốc Tây La Mã mạnh nhất.


    Người Visigoth cũng trở thành một quyền lực thống trị Bán đảo Iberia, họ nhanh chóng nghiền người Alan và buộc người Vandal phải chạy tới Bắc Phi. Vào năm 500 Vương quốc Visigothic với thủ đô ở Toulouse đã kiểm soát vùng Aquitania cùng với Gallia Narbonensis và hầu hết vùng Hispania chỉ trừ vương quốc Suevic ở phía tây bắc và những vùng đất nhỏ được kiểm soát bởi người xứ Basque và Cantabrian. Tuy nhiên trong 507 người Frank dưới sự lãnh đạo của Clovis I đã đánh bại người Visigoth trong trận Vouillé và giành lấy quyền kiểm soát vùng Aquitaine. Vua Alaric II đã bị giết chết trong chiến trận này.


    Sau cái chết của Alaric, các quý tộc Visigothic tôn người con trai trẻ tuổi của vua Alaric II – Amalaric làm vua, đầu tiên là đóng ở Narbonne, đây là tiền đồn cuối cùng của người Goth ở xứ Gaul và sau đó vượt qua dãy núi Pyrenees và tiến vào Hispania. Thủ đô của người Visigoth đầu tiên được dời đến Barcelona, sau đó tiếp tục được rời sâu vào nội địa và phía nam tới thành phố Toledo. Từ 511-526 người Visigoth được cai trị bởi Theodoric Vĩ đại người Ostrogoths như là de jure ( nhiếp chính vương) cho nhà vua Amalaric trẻ tuổi.


    Năm 554, Granada và vùng cực nam Hispania Baetica lại rơi vào sự kiểm soát của Đế quốc Byzantine (Để hình thành lên tỉnh Spania) người Byzantine được mời tới để giúp giải quyết một cuộc tranh chấp trong nội bộ triều đình Visigot nhưng sau đó họ không muốn ra đi vì hoàng đế Justinian I hy vọng tạo nên một căn cứ cho một " cuộc tái chinh phục" xa hơn về phía tây.



    [​IMG]
    Vương quốc Visigoth sau khi bị người Frank đánh bại và mất vùng Aquitania nhưng họ lại chiếm được vương quốc Suvie và vùng Vasconia


    Vị vua Visigoth cuối cùng theo tôn giáo Kitô Arian - Liuvigild, đã chinh phục vương quốc Suevic vào năm 585 và hầu hết các vùng phía Bắc (Cantabria) vào năm 574 và chiếm lại được một phần của vùng miền Nam bị mất vào tay người Byzantine, đây là vùng đất mà vua Suintila hoàn toàn thu hồi được trong năm 624. Vương quốc Visigoth tồn tại cho đến ngày 19 tháng 7 năm 711 khi vua Roderic (Rodrigo) bị giết chết trong trận chiến Guadalete để chống lại một cuộc xâm lược từ phía nam của người Hồi giáo Umayyad. Sự kiện này đánh dấu sự bắt đầu quá trình chinh phục xứ Hispania của người Hồi giáo và sau đó phần lớn bán đảo này nằm dưới sự cai trị của người Hồi giáo vào năm 718.


    Một nhà quý tộc người Visigoth tên là Pelayo, được cho là người Ki tô giáo đầu tiên phát động phong trào Reconquista ở Iberia trong năm 718 khi ông đánh bại người Hồi giáo Umayyad trong trận chiến Covadonga và thành lập lên Vương quốc Asturias ở phần phía bắc của bán đảo. Những người Visigoth khác hoặc từ chối chấp nhận đức tin Hồi giáo hoặc không muốn sống dưới sự cai trị của họ đã bỏ chạy về phía bắc đến vương quốc của người Frank, và người Visigoth đã đóng vai trò chủ chốt trong đế chế của Charlemagne trong một vài thế hệ sau đó.

    Trong thời gian cai trị lâu dài của họ ở Tây Ban Nha, người Visigoth là những người duy nhất có công lập nên những thành phố hoàn toàn mới ở Tây Âu từ thế kỷ thứ 5 và 8. Đây là các thành phố Reccopolis, Victoriacum, Luceo và Olite. Ngoài ra còn thành phố thứ năm có thể được đặt tên theo tiếng Ả Rập - Baiyara (là thành phố Montoro ngày nay). Tất cả những thành phố được thành lập với mục đích quân sự và ba trong số này là trong những dịp mừng chiến thắng.
  10. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Người Ostrogoth

    Người Ostrogoth là một nhánh của người Goth ( nhánh kia là người Visigoth), Một trong những bộ lạc Đông Germanic có đóng một vai trò quan trọng trong các sự kiện chính trị trong những thập niên cuối cùng của Đế quốc La Mã. Người Ostrogoth thành lập lên Vương quốc Ytalia, Một vương quốc tương đối ngắn ngủi kế thừa Đế quốc La Mã phương Tây.

    Người Ostrogoth đạt đến đỉnh cao vào thời vị vua Theodoric Đại Đế - người đã được La Mã hóa, theo các ghi chép của Boethius và Cassiodorus thì ông cũng là người bảo trợ cuối cùng cho người Roman trong 25 năm đầu tiên của thế kỷ thứ 6. Tuy nhiên, vào giữa thế kỷ này vương quốc Ostrogothic đã bị chinh phục bị chinh phục bởi quân đội của Hoàng Đế Justinian trong Chiến tranh Gothic (535-554), một cuộc chiến tranh gây ra những hậu quả tàn phá nặng nề đất nước Italy.


    Sự chia rẽ của người Goth: Greuthungi và Ostrogothi


    Sự phân chia của người Goths lần đầu tiên được xác nhận vào năm 291. Người Tervingi lần đầu tiên được biết đến vào khoảng thời gian đó, các bộ tộc như người Greuthung, Ostrogoth và Vesi được biết đến không sớm hơn năm 388. Người Tervingi lần đầu tiên được đề cập đến trong một lời khen ngợi của hoàng đế Maximian (285-305) trong năm 291 (có lẽ tại thành phố Trier ngày 20 tháng 292) và theo truyền thuyết thường được gán cho Claudius Mamertinus và nói rằng "người Tervingi, một bộ phận của người Goth". Cái tên Ostrogoth lần đầu tiên được đề cập trong một tài liệu được viết trong tháng 9 năm 392 từ Milan. Claudian nói rằng họ cùng với người Gruthungi sinh sống ở Phrygia. Theo Wolfraọcm Herwig thì các nguồn tài liệu chính thức hoặc sử dụng các thuật ngữ Tervingi / Greuthungi hoặc Vesi / Ostrogothi mà không bao giờ lẫn các cặp tên này với nhau. Tất cả bốn cái tên này đều được sử dụng cùng nhau, nhưng các cặp đôi này luôn luôn được giữ nguyên, nhà sử học Jordanes cho rằng cái tên Tervingi cũng chính là Vesi hoặc Visigoth và còn Greuthungi chính là người Ostrogothi. Ông cũng xác định các vị vua Visigothic từ Alaric I đến Alaric II là những người thừa kế của vua Athanaric - vua của người Tervingi ở thế kỷ thứ tư và các vua người Ostrogoth từ Theodoric Vĩ Đại đến Theodahad là những người thừa kế của vua Ermanaric – vua của người Greuthungi.

    Cả hai học giả Wolfram Herwig và Thomas Burn đều kết luận rằng các thuật ngữ Tervingi và Greuthungi được sử dụng bởi bộ tộc để nói về bộ tộc kia. Do đó thuật ngữ này còn được sử dụng sau khi những người Goth phải di cư do cuộc xâm lược của người Hun. Để hỗ trợ cho khám phá này, Wolfram trích dẫn các ghi chép của Zosimus khi đề cập đến một nhóm "người Scythia" ở phía bắc của Danube - những người được gọi là rợ "Greuthungi" ở phía bắc Ister. Wolfram kết luận rằng những người này là người Tervingi đã ở lại sau cuộc chinh phục của người Hun. Ông cũng tin rằng các thuật ngữ "Vesi" và "Ostrogoth" đã được sử dụng bởi dân tộc Goth để tự mô tả mình một cách rộng rãi. Cũng hiểu theo cách này thì người Greuthung và Ostrogoth cũng có thể chỉ là một bộ tộc duy nhất.


    Các thuật ngữ Greuthungi và Tervingi ngày càng ít được sử dụng kể từ sau năm 400. Nhìn chung, các thuật ngữ của người Goth biến mất dần sau khi họ nhập vào Đế quốc La Mã. Tuy nhiên, thuật ngữ "Visigoth" là một phát minh của thế kỷ thứ 6. Cassiodorus - một người La Mã làm việc cho Theodoric Vĩ Đại, đã phát kiến ra thuật ngữ "Visigoth" để phù hợp với thuật ngữ "Ostrogoth" mà ông cho tương ứng là " Tây Goth " và " Đông Goth ". Việc phân chia Đông - Tây là một công cụ để đơn giản hóa và văn học hóa của các sử gia ở thế kỷ thứ 6, lúc mà hoàn cảnh chính trị thực tế có nhiều phức tạp. Hơn nữa, Cassiodorus sử dụng thuật ngữ "Goth" chỉ để tham khảo nói về người Ostrogoth mà ông đã phục vụ, và phân biệt "người Visigoth" chính là người Goth ở Gaul -Tây Ban Nha. Tuy nhiên các thuật ngữ này cũng được chấp nhận và sử dụng bởi bản thân người Visigoth khi họ trao đổi thong tin liên lạc với Đế quốc Byzantine và được sử dụng rộng rãi trong thế kỷ thứ bảy.


    Gốc gác tên gọi


    "Greuthungi" có nghĩa là "cư dân thảo nguyên" hoặc "người ở các bờ biển có thủy tinh". Các gốc greut- Có lẽ liên quan đến greot trong tiếng Anh cổ, có nghĩa là "phẳng". Điều này là bằng chứng hỗ trợ cho thấy mô tả địa lý thường được sử dụng để phân biệt những người sống ở phía bắc Biển Đen cả trước và sau khi người Goth định cư ở đó và do thiếu bằng chứng về thời gian sớm hơn của cặp tên Tervingi-Greuthungi vào cuối thế kỷ thứ ba.

    Tuy nhiên, cái tên "Greuthungi" đã có sẵn ở Hắc Hải, có thể có nguồn gốc Scandinavia như nhiều nhà nghiên cứu ngày nay cho là như vậy. Nó có thể có nghĩa là "người đá", (grjut huningi - một từ cổ Bắc Âu) để phân biệt với Ostrogoth từ Geat (Gọi tắt là người Goth ở Scandinavia) từ Gotaland (Gothland) ở miền Nam Thụy Điển. Nhà sử gia La Mã Jordanes đã đề cập đến một địa danh là Evagreotingi ( đảo Greuthung) ở Scandza, như một phần mô tả của ông về Gothiscandza. Cũng có một đề xuất là Greuthungi có thể liên quan đến địa danh nào đó ở Ba Lan nhưng đề xuất này nhận được rất ít sự ủng hộ.


    "Ostrogoth" có nghĩa là "người Goth ở vùng mặt trời mọc – hoặc người Goth vinh quang ". Điều này được giải thích là " … Goth" hoặc " người Goth ở phía đông".


    Lịch sử


    Theo nhiều nhà sử học đương đại như Michael Kulikowski, người Goth có một nền văn hóa duy nhất với thành phần dân tộc không đồng nhất. Một số nguồn tài liệu tại thế kỷ thứ 3 đề cập rằng dường như họ được chia thành ít nhất hai nhóm, Greuthungi ở phía đông và Tervingi ở phía tây.

    Hai bộ lạc chia sẻ về nhiều đặc điểm chung đặc biệt như việc công nhận một vị thần bảo trợ mà người La Mã đặt tên là Mars. Cuộc "chia tay" này hay dung từ thích hợp hơn là – cuộc tái định cư - các bộ lạc ở phía tây vào tỉnh Dacia của La Mã là kết quả tự nhiên của việc tăng dân số ở khu vực phía bắc của Biển Đen. Người Goth ở Dacia thành lập một vương quốc rộng lớn và hùng mạnh trong thế kỷ thứ 3 và thứ 4 ở giữa các con sông Danube và Dniepr ở những vùng mà bây giờ là Romania, Moldova và phía Tây Ukraine. Đây là một nhà nước đa bộ tộc được cai trị bởi một tầng lớp quý tộc người Goth nhưng nó cũng là nơi sinh sống của nhiều bộ lạc bao gồm cả người Sarmatia nói tiếng Iran, người Gepid nói tiếng Germanic, người Thracia nói tiếng Dacia, một thiểu số khác là các bộ lạc người Celtic và Thracia và có thể là cả những bộ lạc người Slav.


    Cuộc xâm lược của người Hung
    ( các trận đánh Orlean và Charlons sẽ được mô tả chi tiết trong phần người Hun)



    [​IMG]
    Tranh vẽ một kỵ binh người Ostrogoth, trong cuộc xâm lược của Attila vào Tây Âu người Ostrogoth đã chiến đấu sát cánh cùng người Hun


    [​IMG]
    Một kỵ binh và một lính giáo binh người Ostrogoth


    [​IMG]
    Tranh vẽ gia đình một chiến binh người Ostrogoth


    [​IMG]
    A: Kỵ binh tiêu chẩn của La Mã
    B: Bộ binh hạng nặng của La Mã
    C: Kỵ binh người Herul
    D: Giáp kỵ người Ostrogoth
    E: Kỵ binh nhẹ người Ostrogoth



    Sự nổi lên của người Hung vào khoảng năm 370 đã tràn ngập vương quốc của người Goth. Nhiều người Goth phải di cư vào lãnh thổ La Mã ở vùng Balkan, trong khi những người khác vẫn còn ở lại phía bắc sông Danube và tuân theo sự cai trị của người Hun. Họ đã trở thành một trong rất nhiều chư hầu của người Hun tham gia chiến đấu ở châu Âu như trong Trận Chalons trong năm 451. Một số cuộc nổi dậy chống lại người Hun bị đàn áp. Sự sụp đổ của thế lực của người Hun trong những năm 450 đã dẫn đến những biến động bạo lực hơn nữa trong các vùng đất ở phía bắc sông Danube làm cho hầu hết cư dân người Goth trong khu vực này phải di cư đến vùng Balkan. Nhóm này được gọi là người Ostrogoth.

    Tiếng Gothic vẫn được sử dụng một cách không thường xuyên ở Crimea vào cuối thế kỷ 16 - ngôn ngữ Gothic Crimea.


    Hậu Đế quốc của người Hunnic

    Lịch sử của người Ostrogoth bắt đầu với sự độc lập của họ từ phần còn lại của Đế quốc Hunnic sau cái chết của Attila the Hun trong năm 453. Liên minh với các chư hầu cũ và các đối thủ, người Gepid và Ostrogoth dưới sự chỉ huy của Theodemir đã đập tan sức mạnh của người Hunnic dưới sự thống lãnh của con trai của Attila trong Trận Nedao năm 454.

    Người Ostrogoth lúc này đã tạo dựng các mối quan hệ với đế quốc La Mã và được định cư trên vùng đất Pannonia. Trong phần lớn của nửa cuối thế kỷ thứ 5, người Ostrgoth định cư ở vùng đông nam châu Âu gần như cùng một vị trí mà người Visigoth đã định cư trong một thế kỷ trước. Và cũng tương tự như người Visigoth, họ cũng có các mối quan hệ hữu nghị rồi thù nghịch với quyền lực của Đế chế Đông La Mã, rồi cũng giống như những người Visigoth đã làm trước đó, họ di chuyển từ phía Đông sang phía Tây.


    Vương quốc của người Ostrogoth tại Ý




    [​IMG]
    Bản đồ vương quốc Ostrogoth tại Ý ở khoảng thế kỷ thứ 5 SCN




    [​IMG]
    Bản đồ vương quốc Ostrogoth và các nước lân bang vào năm 500 sau công nguyên



    Nhà cai trị vĩ đại nhất của tất cả những người Ostrogoth - Theodoric Vĩ Đại ( còn được gọi là "nhà lãnh đạo của nhân dân") của Vương quốc Ostrogoth được sinh ra ở Theodemir ở khoảng năm 454 ngay sau khi trận Nedao. Thời thơ ấu ông phải sống ở Constantinople như một con tin, tại đây ông đã được giáo dục cẩn thận. Phần đầu của cuộc đời ông nổi bật lên với các tranh chấp khác nhau, các âm mưu và các cuộc chiến tranh trong Đế chế Byzantine, trong đó ông và đối thủ của mình - Theodoric Strabo, một họ hàng xa của Theodoric Vĩ Đại và là con trai của Triarius. Vị Theodoric này cao tuổi hơn nhưng dường như chỉ là một thủ lĩnh chứ không phải là vua của một chi nhánh của người Ostrogoth đã định cư trong lãnh thổ của đế chế La Mã tại thời gian trước đó. Lúc thì Theodoric Vĩ Đại trở thành đồng minh, có lúc thì ông lại trở thành kẻ địch của Đế chế. Trong một số trường hợp ông mặc trang phục theo kiểu La Mã và nhận nhiều danh hiệu La Mã như patrician và consul, nhưng trong mọi trường hợp ông vẫn là vua của vương quôc Ostrogoth. Theodoric còn nổi tiếng với những thành công của ông trong việc ủng hộ Giáo hội Công giáo mà ông đạt được bằng những nhượng bộ trước Đức Giáo Hoàng trong năm 520. Trong suốt triều đại của ông,

    Theodoric – một người theo đức tin Kitô tà thuyết - Arian, đã cho phép một sự "tự do tôn giáo" mà không một vị vua nào dám làm trước đó. Tuy nhiên ông vẫn cố gắng để làm hài lòng các Giáo hoàng và cố gắng giữ cho liên minh của ông với nhà thờ trở nên chặt trẽ. Ông đã nhìn thấy quyền lực của Đức Giáo Hoàng không chỉ ở trong nhà thờ mà còn vượt qua cả Rome.


    Theodoric tìm cách làm sống lại nền văn hóa và chính trị La Mã và điều này là có lợi cho người dân Ý. Đó là hai mục tiêu mà ông đề ra trong năm 488 khi nhận ủy thác từ Hoàng đế Byzantine - Zeno, để thu hồi Italy từ trong tay của Odoacer (vua Vandal). Vào năm 493 Theodoric chiếm Ravenna nơi mà ông lập nên thủ đô của mình. Cũng vào thời gian này Odoacer đã bị giết chết bởi quân đội của Theodoric. Quyền lực của người Ostrogoth được tạo lập một cách đầy đủ hơn ở Italy, Sicily, Dalmatia và các vùng đất phía bắc của Italy. Trong cuộc chiến này người Ostrogoth và người Visigoth lại bắt đầu một lần nữa để đoàn kết lại, có nguồn tin] rằng Theodoric đã nhận được sự giúp đỡ của người Visigoth. Hai chi nhánh của người Goth đã có nhiều thành công hơn nữa khi họ đoàn kết chặt chẽ với nhau, sau khi ông trở thành nhiếp chính của vương quốc Visigoth ở Toulouse, sức mạnh của Theodoric thực tế đã trải dài trên phần lớn xứ Gaul và trên gần như toàn bộ Bán đảo Iberia. Theodoric cũng đã cố gắng để tạo thành một liên minh với các vương quốc người Frank và Burgundy bằng một loạt các cuộc hôn nhân ngoại giao. Việc củng cố quyền lực này cuối cùng đã dẫn đến việc các hoàng đế Byzantine lo sợ rằng Theodoric sẽ trở nên quá mạnh và do đó Byzantine đã đẩy nhanh liên minh vua Frank - Clovis I và cuối cùng lien minh này đã lật đổ vương quốc Ostrogoth.


    Sau cái chết của Alaric II, con rể của Theodoric trong Trận Vouillé (trước người Frank). Nhà vua Ostrogoth trở thành người giám hộ cho cháu trai của ông - Amalaric, và ông đã thay mặt cháu mình quản lý tất cả vùng Iberia và một phần lãnh địa của mình ở xứ Gaul. Thành phố Toulouse bị mất vào tay người Frank nhưng người Goth giữ được thành phố Narbonne cùng với các vùng đất xung quanh và vùng Septimania, đó là phần lãnh thổ cuối cùng ở xứ Gaul mà người Goth vẫn nắm giữ được và họ vẫn giữ được nó trong nhiều thế kỷ nữa. Trong khi Theodoric còn sống thực tế thì vương quốc Visigothic đã được thống nhất vào lãnh địa của riêng ông. Ông dường như cũng đã tuyên bố một loạt các bảo hộ nói chung trong quyền lực của người Germanic và thực sự thì có thể là ông đã làm được điều này, ngoại trừ đối với vương quốc của người Frank.



    [​IMG]
    Bản đồ của vương quốc của người Goth thời trị vì của
    Theodoric Vĩ đại - màu da cam ( vì ông là nhiếp chính vương của người Visigoth nên hai vương quốc của người Goth gần như đã được sát nhập) phần màu tím là lãnh thổ của Đế quốc Byzantine


    [​IMG]
    Tranh vẽ Theodoric Vĩ đại - được vẽ vào thời phục hưng ( nên không đảm bảo độ chính xác)

    Lãnh địa của người Ostrogoth lúc này rất lớn và văn minh hơn rất nhiều so với vương quốc của người Ostrogoth thời Hermanaric và nó có những đặc điểm hoàn toàn khác nhau. Lãnh địa của Theodoric không phải là một tập hợp các bộ lạc của người dã man mà là một vương quốc văn minh. Ông vừa là vua của vương quốc của người Goth và vừa là người kế nhiệm của Hoàng đế La Mã phương Tây - mặc dù ông không có bất kỳ danh hiệu hoàng đế nào. Hai vương quốc có nhiều khác biệt trong cách cư xử, ngôn ngữ, tôn giáo, sống cạnh nhau trên vùng đất Italy đã từng được cai trị theo pháp luật riêng của từng nước bởi một nhà vua bởi hai tính cách riêng biệt của ông ta.


    Cách điều hành của Theodoric được trích rút ra cho chúng ta thấy trong các giấy tờ bản thảo của vương quốc trong tên của ông và tên của người kế nhiệm ông, và bởi vị Bộ trưởng người La Mã của mình – Cassiodorus ( hồi đó ko biết người ta có gọi minister là BT ko nhỉ? ). Người Goths có vẻ như có mật độ dày đặc ở miền bắc Italy; ở miền Nam, họ hình thành ít các đơn vị đồn trú hơn. Theo lý luận của Theodoric, người Goth vũ trang để bảo vệ hòa bình cho Roman, nhà vua người Goth có chính phủ vất vả, trong khi các consul La Mã lại được hưởng vinh dự. Tất cả các hình thức quản lý của chính quyền La Mã vẫn được sử dụng và văn hóa La Mã có ảnh hưởng lớn đến bản thân người Goth. Sự cai trị của nhà vua trong các quốc gia khác nhau trên cùng một vùng đất đã trở thành chuyên chế; lối sống tư do, hoang dã của người Germanic cần thiết phải được xóa bỏ. Một hệ thống ( quản trị) cần thiết đã được Theodoric áp dụng vào các vương quốc trên đất Ý. Nó đã bị vỡ ra từng mảnh sau khi ông chết.


    Chiến tranh với Rome (535-554)


    Sau cái chết của Theodoric năm 526 người Ostrogoth và người Visigoth lại một lần nữa chia tay nhau. Các trường hợp mà họ hợp tác để làm việc cùng nhau sau thời gian này là lẻ tẻ và ngẫu nhiên. Amalaric kế thừa vương quốc Visigothic ở Iberia và Septimania. Vùng Provence được thêm vào lãnh địa của vua mới của người Ostrogoth - Athalaric, Cháu trai của Theodoric, con của - Amalasuntha con gái ông. Cả hai đều không thể giải quyết các tranh chấp giữa các tầng lớp người Goth. Theodahad - anh em họ của Amalasuntha và là cháu trai của Theodoric lên tiếm quyền và giết chết họ, tuy nhiên chiếm đoạt ngôi báu đã làm đổ máu. Ba vị vua cai trị hơn bước vào trong 5 năm tiếp theo.

    Điểm yếu của vương quốc Ostrogoth ở trong các tranh chấp của chính bản thân nó. Hoàng đế Byzantine Justinian I luôn luôn đấu tranh để khôi phục lại càng nhiều càng tốt lãnh thổ của Đế quốc La Mã phương Tây và chắc chắn ông không bỏ qua cơ hội này. Năm 535, ông cử tướng Belisarius tấn công người Ostrogoths. Belisarius nhanh chóng chiếm Sicily và sau đó vượt qua eo biển và tiến vào Italia và ông công chiếm Naples và Rome trong năm 536 và sau đó hành quân về phía bắc, chiếm lấy Mediolanum (Milan) Và thủ đô Ravenna của người Ostrogoth trong năm 540.


    Tại thời điểm này Justinian đưa ra cho người Goth một lời đề nghị hào phóng, rộng lượng trong quan điểm của Belisarius – họ được quyền duy trì một vương quốc độc lập ở Tây Bắc nước Ý và chỉ đơn thuần yêu cầu mà họ nộp một nửa số kho báu của họ cho đế quốc. Belisarius chuyển tải thông điệp này tới người Goth, mặc dù bản thân ông ta không ủng hộ nó. Người Goth mặt khác cảm thấy có một cái bẫy ở đâu đó, họ không tin tưởng Justinian, nhưng vì Belisarius đã tỏ ra lịch sự và giữ lời hứa của mình trong cuộc chinh phục của ông ta nên họ có chút ít tin tưởng ông ta và đồng ý nhận giải pháp chỉ khi Belisarius xác nhận nó. Việc này đã tạo nên một cái gì đó gần như là tình trạng bế tắc.


    Một phe phái của giới quý tộc người Gothic cho rằng vua của họ - Witiges, người vừa mới chết là một kẻ yếu đuối và họ sẽ cần một nhà vua mới. Eraric – thủ lãnh của nhóm quý tộc này đã tán thành và phần còn lại của vương quốc cũng đồng ý và do đó họ đề nghị Belisarius nhận lấy vương miện của họ. Belisarius là một người lính chứ không phải là một chính khách và ông vẫn trung thành với Justinian. Ông làm như thể chấp nhận điều kiện này và gửi người đến Ravenna để nhận vương miện và ngay lập tức bắt giữ các nhà thủ lãnh của người Goth và giành lại toàn bộ vương quốc của người Goth – chứ không phải là một giải pháp nửa vời – về cho Byzantine.


    Vào thời điểm này Justinian đang gặp rất nhiều điều khó chịu: người Ba Tư đang tấn công ở phía đô phụcng, và ông muốn một đất nước trung lập ổn định nằm ở giữa biên giới phía tây của mình với người Frank, những người không mấy thân thiện. Belisarius đã được gửi để đối mặt với người Ba Tư và do đó chỉ để lại John, một quan chức Byzantine để tạm thời cai trị Italy.



    [​IMG]
    Tranh vẽ Totila - vị vua kiêm chiến tướng của người Ostrogoth - ông ta có đôi mắt xanh, tóc vàng đúng theo chủng Germanic



    [​IMG]
    Tranh vẽ Totila - nhà vua kiêm chiến tướng của người Ostrogoth lúc gia nhập đạo Gia tô, ông được rửa tội bởi thánh Saint Benoit. Tranh vẽ thời phục hưng



    [​IMG]
    Tranh vẽ Totila - vị tướng tài của người Ostrogoth lúc chuẩn bị xuất quân, ông mang theo hy vọng phục hồi lại vương quốc của
    người Ostrogoth và khi ông chết trận thì mọi thứ đều tiêu tan.


    [​IMG]
    Totila tái chiếm Rome năm 548


    [​IMG]
    Cảnh một trận chiến của người Ostrogoth


    Sau đó trong năm 545 Belisarius trở lại Ý và ông tìm thấy tình hình đã thay đổi rất nhiều. Eraric đã bị giết và phe quý tộc người Goth pro-La Mã đã bị lật đổ. Trong năm 541 người Ostrogot bầu lên một vị thủ lãnh mới đó là Totila; Nhà lãnh đạo dân tộc kiêm chỉ huy chiến trường xuất sắc người Goth nầy đã chiếm lại tất cả các vùng phía bắc Ý và thậm chí còn đuổi quân đội của Đế chế Byzantine ra khỏi thành Rome. Belisarius tổ chức một trận tấn công, dụ Totila ra xa khỏi Rome rồi chiếm lại thành phố, nhưng sau đó lại để mất nó một lần nữa vì Justinian vừa ghen tức lại vừa sợ hãi trước tài năng của Belisarius, đã bỏ đói mà không tiếp viện cho ông này. Belisarius đã buộc phải quay về thế phòng thủ và trong năm 548, Justinian đã bãi miễn chức vụ của ông rồi cử viên tướng – quan hoạn Narses, người mà ông ta tin cậy hơn, lên làm chỉ huy.


    Totila đã thất bại và bị giết trong trận Taginae vào tháng 7 năm 552 và các tướng lĩnh của ông như Teia, Aligern, Scipuar và Gibal đều thiệt mạng hoặc phải đầu hàng trong Trận Lactarius Mons vào tháng 10 năm 552 hoặc 553 ( thực chất thì Totila đã bị đánh bại và không gượng nổi từ trận Hải chiến
    Sena Gallica năm 551, trận chiến này đã được giới thiệu trong toppic Lịch sử hải chiến Thế giới mời các bác đón xem link: http://ttvnol.com/quansu/1196668/page-5 ). Widin thủ lĩnh cuối cùng của người Goth đã nổi dậy trong những cuối 550 với sự giúp đỡ tối thiểu về quân sự của người Frank. Cuộc nổi dậy của ông đã kết thúc trong thất bại, Widin đã bị bắt và đưa đến Constantinople để chịu hành hình trong năm 561 hoặc năm 562.



    [​IMG]
    Tranh vẽ Totila dẫn đầu quân đội người Ostrogoth xung phong lần cuối cùng trong
    trận Taginae



    [​IMG]
    Sơ đồ trận
    Taginae, về cơ bản trận đánh này khá giống trận Azincourt giữa Anh và Pháp ở thế kỷ 14, quân Ostrogoth ( khoảng 15 -> 18.000 người ) có kỵ binh mạnh và họ bố trí thành hai dòng, một dòng kỵ binh và một dòng bộ binh. Người Byzantine (khoảng 20 -> 25.000 người ) bố trí bộ binh ở trung quân và hai bên cánh là kỵ binh và cung thủ đứng dày đặc, khi người Goth tấn công -> cung thủ Byzantine bắn tan nát đợt tấn công của kỵ binh Goth rôi tiến hành phản công. Kết quả của trận đánh là Totila cùng 6.000 binh sỹ người Goth tử trận ngay tại chỗ, những người Goth còn lại tập trung dưới của Teia nhưng rồi họ lại thua tiếp trận nữa - trận [FONT=&quot]Lactarius Mons và sau trận này thì chủ lực của người Goth đã tan rã[/FONT] Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} .


    [​IMG]
    Cảnh trận [FONT=&quot]Lactarius Mons[/FONT], sau trận này vẫn còn vài cuộc nổi dậy lẻ tẻ nhưng đến đây có thể nói quyền lực của người Goth ở Ý đã biến mất

    Với thất bại cuối cùng này những người Ostrogoth còn lại quay trở lại phía bắc và tái định cư ở miền Nam Austria. Cái tên Ostrogoth đã hoàn toàn biến mất ... Quốc gia này đã thực sự tan biến sau cái chết của Theodoric. "quyền lãnh đạo vùng Tây Âu do đó được được mặc định để trao cho người Frank. Do đó sự thất bại của người Ostrogoth và sự thành công của người Frank là rất quan trọng cho sự phát triển của châu Âu thời kỳ đầu trung cổ" còn những điều quan trọng mà Theodoric đã làm được là " ông ta tìm cách để phục hồi sức mạnh của chính quyền và văn hóa La Mã ". Cơ hội để hình thành một quốc gia tại Ý chính là sự hợp nhất của các thành phần La Mã và German, chẳng hạn như những quốc gia đã xuất hiện ở xứ Gaul, Iberia và một phần của Italy dưới sự cai trị của người Lombard cuối cùng đã bị tiêu diệt (vì không tích hợp được yếu tố La Mã, đặc biệt là đạo Kitô chính thống). Kết quả là những người Goth đã giữ những vị trí khác nhau trong trí nhớ của người Iberia và từ đó họ cũng nằm trong trí nhớ của người Ý: Ở nước Ý người Goth được coi là kẻ xâm lược và cai trị tạm thời, trong khi ở Iberia người Goth cung cấp một yếu tố quan trọng trong tạo ra các quốc gia hiện đại, Yếu tố đó đã không bị lãng quên và cũng không thể xem thường. Một phần của khu vực phía Bắc bán đảo Iberia - vùng đất Asturias đã không bị xâm lược, vẫn giữ được những nét của người Goth cũng như các vùng của người Goth ở xứ Gaul.

Chia sẻ trang này