1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Chiến tranh thời Trung Cổ ở Châu Âu từ năm 500 -> 1500

Chủ đề trong 'Kỹ thuật quân sự nước ngoài' bởi hongsonvh, 19/10/2010.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Hẹ hẹ chào các bác! em đã có mặt

    Trận Crécy ( tiếp)

    [​IMG]
    Các thông tin về chiến dịch Crécy được lấy từ quấn " Crécy, chiến thắng của các cung thủ trường cung Anh"


    Kế hoạch xâm lược Pháp của người Anh


    [​IMG]
    Nước Pháp trước khi có cuộc xâm lược của vua Anh-Edward III năm 1346

    Sáu thế kỷ rưỡi sau khi sảy ra các sự kiện, người ta vẫn không thể biết được ý định ban đầu của Edward III, mặc dù có vẻ như một chiến lược lớn theo đó nhiều đội quân hội tụ về Paris từ Normandy, Flanders, Anh và Gascony là điều cực kỳ khó, Dường như Edward hy vọng sẽ chinh phục các vùng ven biển phía Bắc, sau đó thêm chúng vào Anh, nơi các đồng minh của ông đã làm rất tốt. Nếu vậy, kế hoạch đã được chứng minh là không thể và chiến dịch của Edward đã ít nhiều trở nên một chevauchee (trận càn quét) hoặc đột kích lớn. Mặt khác tất cả các chiến dịch của người Anh trong năm 1344-1359, trong đó có cả trận Crécy chỉ đơn giản là có thể gây những bất ổn về mặt chính trị để làm trầm trọng thêm những yếu điểm của Philip VI. Do đó mục đích về quân sự của Edward có thể là sẽ tăng cường, củng cố yêu cầu của ông ta về vương miện của nước Pháp

    Người ta cho rằng sau khi hạm đội của Edward khởi hành quay trở về nhà thì nó đã được chất đầy chiến lợi phẩm sau sự sụp đổ của thành phố Caen, ông ta đã không còn sự lựa chọn nào khác ngoài việc hành quân bộ đối để đến địa điểm có đồ cung cấp mà ông ta hy vọng sẽ gặp chúng tại La Crotoy tại Ponthieu. Dường như là Edward III không muốn đánh một trận lớn với Philip cho đến khi ông liên kết với những đồng minh người Fleming, do đó, việc phải rút lui sẽ là những tin tức khó chịu nhất. Tuy nhiên một khi không thể tránh khỏi một trận chiến, thì kế hoạch của Edward III là rõ ràng ông rằng muốn đánh nhau với các kỵ binh Pháp hơn là bộ binh của họ. Do đó, ông ta đã tìm cách kích động để đối phương tung ra các đợt tấn công bằng kỵ binh ngược từ dưới thấp lên trên cao vào những đội hình bộ binh phòng ngự được chuẩn bị tốt. Một khi cuộc tấn công của người Genova bị đánh bại thì tất nhiên là chính xác những gì Edward III mong muốn đã xảy ra.

    Kế hoạch phòng thủ của người Pháp


    Philip VI đã hầu như không có sự lựa chọn nào khác ngoài việc phải áp dụng một chiến lược phòng thủ, trong đó lực lượng địa phương phải cố gắng bảo vệ những thị trấn trên đường tiến quân của người Anh và quấy nhiễu những kẻ xâm lược, trong khi đó thì nhà vua nhanh tróng tập hợp một đội quân để đối mặt với họ một cách công khai. Nếu tình hình trở nên không thể đối với người Anh trong việc quản trị các vùng lãnh thổ mà họ đã chinh phục, thì sau đó một khoảng thời gian người Pháp có thể sẽ tại chiếm lại chúng. Trong thực tế đây là những gì đã xảy ra ở Normandy. Chỉ có ở Calais thì quân xâm lược mới xác định chiếm giữ những gì mà họ mới chiếm được. Sau khi quân đội của Edward III vượt qua sông Seine, Philip VI có thể đã hy vọng rằng bằng cách truy kích người Anh một cách khốc liệt, ông có thể khuyến khích họ rời khỏi Pháp mà không cần phải có một trận chiến lớn. Hy vọng này đã bị tan vỡ khi ông nhìn thấy quân Anh đã ở vào một vị trí được chuẩn bị tốt ở Crécy

    Khi một trận chiến lớn trở thành là điều không thể tránh khỏi, kinh nghiệm trước đây của Philip có thể đã quay trở lại đánh lừa ông ta. Tại Cassel trong năm 1328 một cuộc tấn công kỵ binh Pháp hoàn hảo vào cánh của người Flemish đã mang lại co ông một chiến thắng nhanh chóng, những thành công khác của vua Philip tại Buironfosses năm 1339 và Bouvines năm 1340 là những trận “ bất chiến tự nhiên thành”, tại đó việc (Philip VI) cố tình lảng tránh một trận chiến quyết định đã hai lần đánh bại những chiến dịch trước đó của Edward III. Nhưng chiến thuật này đòi hỏi phải có một vị trí chính trị mạnh mẽ. Sự tàn phá được gây ra bởi người Anh kể từ khi họ đổ bộ xuống Normandy, chưa kể đến những lời chế nhạo của những người mô tả chiến thuật của ông là "hành vi của một con cáo chứ không phải là của một con sư tử", vua Philip đã phải chịu áp lực cho một hành động dứt khoát.

    Cuộc xâm lược

    Một lực lượng rất lớn q
    uân Anh được tập hợp ở Portsmouth vào tháng 5 và tháng 6 năm 1346, mặc dù không lớn như Edward III đã hy vọng. Việc tuyển binh cũng chậm hơn so với dự định. Tuy nhiên, Vua Edward III cũng phải chấp nhận nguy cơ phơi bày đất nước của mình ra cho những cuộc tấn của người Scotland ( hiện đang là Đồng minh của Pháp ) bằng việc tuyển quân ở khắp mọi nơi ngoại trừ những quận xa nhất ở phía bắc. Dường như ít nhất một nửa quân đội là những tay cung thủ, ngoài ra họ còn bao gồm thợ mỏ, thợ rèn, kỹ thuật viên cầu phà, thợ mộc, người dựng lều trại, bác sĩ giải phẫu, sỹ quan, binh lính và kị sỹ.

    K
    ết quả là quân Anh có một lực lượng từ khoảng 10,00 và 15.000 nghìn người và cần có ít nhất là 750 chiếc tầu để vận chuyển. Sự tập trung của đội tàu này đã bị trì hoãn bởi các cơn bão và điều kiện thời tiết tương tự. Những chiếc tàu lớn nhất là những chiếc Cog 200 tấn, nhưng vì thiếu những chiếc tàu phù hợp có nghĩa là những chiếc tầu 10 tấn cũng đã được trưng dụng, chúng có thể bao gồm cả những con tàu chạy ven biển và chúng đã đưa một số lượng rất lớn thực phẩm đến điểm tập trung quân. Bản thân Edward III đã đến Porchester Castle vào ngày 1 tháng Sáu để giám sát các hoạt động. Trong lúc này chính phủ Anh đã sử dụng nhiều hình thức tuyên truyền tận dụng tình cảm chống Pháp. Sau đó quân đội đã được trả trước thêm một khoản lương từ một đến hai tuần và các cảng London, Dover, Winchelsea và Sandwich được khóa chặt để ngăn chặn tin tức về hạm đội Anh đang chuẩn bị xâm lược lược Pháp có thể bị dò gỉ. Không có chiếc tàu được phép ra khơi cho đến sau một tuần sau khi hạm đội Anh đã khởi hành, ngoại lệ duy nhất là những con tầu mà Sir Hugh Hastings và những người của ông đã dùng để đến Flanders

    Mọi người hoàn toàn không được biết rằng vào
    lúc nào thì Edward III cho thay đổi kế hoạch cuối cùng của ông, nhưng có thể đã có một cuộc họp bí mật vào khoảng ngày 20 tháng Sáu. Trước đây người ta đã giả định rằng hạm đội sẽ giong buồm đến Gascony và các con tàu được chuẩn bị cho một cuộc hành trình kéo dài hai tuần. Nhưng sau đó Edward III hoặc là đã thay đổi kế hoạch của mình hoặc lúc này mới nói với các chỉ huy của ông về kế hoạch thật của mình, đó là tiếp đất ở bán đảo Cotentin thuộc xứ Normandy.

    Một
    cuộc xâm lược khác được tung ra từ xứ Flanders, được hỗ trợ bởi Sir Hugh Hasting, một hiệp sĩ đến từ Norfork với một lực lượng nhỏ được chở trên 18 chiếc sà lan, bao gồm 250 cung thủ và một số kị sỹ. Ngày 24 tháng Sáu, những người đứng đầu các thành phố Ghent, Bruges và Ypres đã chấp nhận nằm dưới sự chỉ huy của người Anh và vào ngày 16 tháng 7 Hasting đã đến được Ghent, nơi mà các lực lượng Flemish đang tập hợp dưới sự chỉ huy trên danh nghĩa của Bá tước Henry xứ Flanders. Trong khi đó những thủ lĩnh của các thành bang láng giềng như Brabant và Hainault lại đồng ý hỗ trợ có Philip VI của nước Pháp, tạo thế cân bằng với liên minh của Edward.

    Người Pháp biết rằng cuộc xâm lược từ nước Anh đã sắp xảy ra, nhưng họ đã bị cản trở bởi không biết điểm đến của các hạm đội Anh. Việc chuẩn bị các công trình phòng thủ đã được tiến hành từ ngày 18 tháng Ba, ở tại Brittany hoặc Gascony như là các mục tiêu dự kiến (những nơi mà người Pháp dự kiến người Anh sẽ đổ bộ xuống). Charles của Blois cho tuyển dụng một số lượng lớn binh lính ở Brittany và tuyển cả binh lính người nước ngoài, trong khi đó vào tháng Năm, Philip VI gửi lực lượng tăng viện được rút ra từ các đội quân của Công tước Normandy ở xứ Gascony.


    Việc đ
    iều động này làm cho chỉ còn một vài đơn vị đồn trú rải rác và một số lính bắn nỏ người Genova ở Normandy và Picardy, nơi tình trạng khẩn cấp đã được công bố với những cố gắng thô sơ để khóa những bến cảng chỉ bằng những cây cọc gỗ nhọn. Rõ ràng là vua Philip hy vọng sẽ đánh chặn được người Anh ngay trên biển và một cuộc tổng kiểm kê các tầu vận tải có sẵn đã được thực hiện. Ít nhất là người Pháp có 78 chiếc tàu lớn đã được trưng thu và đang trang bị tăng cường những chiếc tháp bằng gỗ ở Hạ Normandy và một số lượng tầu còn lớn hơn nữa ở vùng Thượng Normandy và Picardy. Các sĩ quan và lính bắn nỏ Genova được cử lên trên các con tàu này để phục vụ như là một lực lượng phụ trợ cho một lực lượng đáng kể các tầu chiến kiểu Galley của người Genova. Thật không may là đội tàu galley của người Genova đã bị trì hoãn trong quá trình di chuyển và chỉ đến Pháp vào tháng Tám. Lực lượng tiên phong của họ đã rời Nice dưới sự chỉ huy của Carlo Grimaldi vào ngày 06 tháng 5, nhưng họ đã không thể vượt qua Vịnh Biscay sớm hơn. Sau đó họ đã bị phân tán bởi một cơn bão ở biển Đại Tây Dương và phải hạ buồm tránh bão tại cửa sông Tagus ở Bồ Đào Nha-nơi mà họ phải ở lại đó cho đến đầu tháng Bảy.

    Quay trở lại Pháp, Chales của Blois đã phát động một cuộc tấn công lớn tại xứ Brittany nhưng ông này đã bị một thất bại nặng nề ở Saint-Pol de Leon vào ngày 09 tháng 6. Ở xứ Gascony Công tước xứ Normandy đã không thể có bất cứ tiến bộ nào trong cuộc bao vây của ông vào cứ điểm Aiguillon của người Anh. Một cuộc tấn công trực tiếp đã thất bại, lực lượng bao vây bị thiếu lương thực và những toán quân đi kiếm lương thảo của họ đã bị liên tục quấy nhiễu bởi những lực lượng có cảm tình với người Anh. Sau đó, vào cuối tháng Sáu Philip VI mới nhận ra rằng mối đe dọa chính là ở phía bắc và điều đến đó vị Nguyên soái của nước Pháp cùng với một phần của đội quân của Công tước xứ Normandy. Ông này được giao nhiệm vụ kiểm soát thành phố Harfleur trên cửa sông Seine và vị Bá tước của xứ Flanders cũng đã được gửi đến tham gia phòng thủ với ông. Các vị Thống chế Pháp khác có lẽ cũng đã được triệu hồi từ phía nam, những biện pháp phòng thủ, cảnh báo cũng được tăng cường dọc theo bờ biển Chanel và lệnh triệu tập đã được gửi đi để tuyển dụng gấp một đội quân ở miền Bắc nước Pháp. Người Scotland đã không phá vỡ thỏa thuận ngừng bắn của họ với người Anh, nhưng họ sẽ đột kích dọc theo biên giới phía Bắc của Anh một khi Edward phá vỡ thỏa thuận ngừng bắn của ông với nước Pháp. Bức thư cấp bách của Philip gửi đến vua David của Scotland vào tháng Sáu có viết rõ ràng rằng: "Tôi cầu xin ngài, tôi khẩn nài ngài với tất cả những gì mà tôi có thể, vì quan hệ họ hàng và tình bạn giữa chúng ta. Xin ngài hãy làm cho tôi những gì mà tôi sẽ sẵn sàng làm cho ngài trong cuộc khủng hoảng như vậy và xin ngài hãy làm điều đó một cách nhanh chóng và triệt để như là với sự giúp đỡ của Chúa mà ngài có thể. " ( Thực tế thì vua David của Scotland đã sẵn sàng ra tay đột kích vào miền Bắc nước Anh để chia lửa cho người Pháp, nhưng rất đáng buồn là ông ta cũng đã bại trận và bị cầm tù ở Anh, hoàn cảnh của ông này cũng tệ chẳng kém Philip VI sau trận Crecy)


    Edward III lên tàu vào ngày 28 tháng Sáu và sau nhiều ngày bị trái gió, ông đã cho giong buồm đến Yarmouth từ Isle of Wight, nơi ông đợi phần còn lại của hạm đội. sau đó gió không thuận lợi đã buộc toàn bộ hạm đội lớn của Anh quay trở lại Portsmouth và Forrland. Vào ngày 03 tháng 7 Edward III lại lần nữa ra lệnh khởi hành đến Yarmounth, theo sau tầu của ông là phần còn lại của hạm đội cho đến khi các con tàu thả neo ở xa tận Needles, một lần nữa gió lại đổi hướng làm cho chiếc neo chở nên không an toàn, buộc họ phải quay trở lại bến cảng Portsmouth trong một khoảng thời gian chín hoặc mười ngày. Cuối cùng, vào ngày 11 tháng 7 hạm đội lại ra khơi với gió và thủy triều hoàn hảo và tập hợp tại ngoài khơi St Helens. Tại đó Edward III đã đưa các bức thư mệnh lệnh có gắn niêm phong cho các thuyền trưởng của ông ta trước khi gần 1,000 con tàu các loại khởi hành đi Normandy. Họ đã đến đích vào trước bình minh ngày 12 và cho neo các con tàu ở ngoài một bãi biển rộng ở Saint-Marco bên ngoài Saint-Vaast-la-Hogue. Hạm đội của người Genova được gửi đến chặn họ vẫn còn ở đâu đó ở phía nam của La Rochelle, và chỉ có một số các tàu Pháp neo tại các bến cảng khác nhau đang chờ họ. Mười bốn chiếc đang đóng ở Satn-Vaast và tám chiếc tầu vũ trang nặng nhất đã bị đốt cháy bởi quân xâm lược. Các cọc gỗ dùng để chặn các bến cảng không gây ra những vấn đề nghiêm trọng cho quâm xâm lược Anh và các thị trấn bị bỏ rơi đã bị chiếm đóng.


    L
    ực lượng chính của quân Pháp lúc này chủ yếu là đang đóng ở phía bắc của sông Seine, chỉ để lại Thống chế Robert Bertrand làm chỉ huy trưởng vùng biên giới biển với rất ít quân tuy nhiên. Tuy nhiên ông đã lên kế hoạch để sử dụng các lực lượng dân binh ở Saint-Vaast vào ngày mà người Anh đến. Vì vậy Bertrand đã tập hợp khoảng 300 người dân địa phương vốn được đào tạo rất nghèo nàn và tiến hành một cuộc phản công nhanh không thành công vào buổi sáng ngày hôm đó. Tuy nhiên sau đó người Anh đã đổ bộ được vài ngàn người lên trên bờ, do đó Bertrand phải rút lui về phía nam với các thuộc hạ của mình, đồng thời ông cố gắng tập hợp thêm lực lượng ở những địa phương mà ông đã rút quân qua.

    Khoảng giữa trưa thì vua Edward đã đổ bộ lên bờ và theo Froissart, ông đã bị vấp ngã trong bước đầu tiên của mình lên bãi biển. Một số người coi hành động này như là một điềm xấu, nhưng Edward III được cho là đã trả lời "Tại sao lại vậy? Ta nhìn nhận cú ngã như là điều rất thuận lợi cho ta, đó là tín hiệu cho thấy vùng đất này muốn có ta. " Sau đó nhà vua phong tước hiệp sĩ cho một số quý tộc trẻ tuổi để đánh dấu lần phục vụ quân sự đầu tiên của họ, trong những quý tộc trẻ tuổi này có cả Edward Hoàng tử xứ Wales-con trai ông ta. Tiếp sau đó những người thuộc Hoàng tộc leo lên một ngọn đồi để khảo sát khu vực này. Godfrey de Harcourt và Bá tước của Warwick được chỉ định làm hai Thống chế của quân Anh, Bá tước Arundel được phong làm Nguyên soái, Bá tước Huntingdon nhận được lệnh bảo vệ đội tàu chiến với 100 kị sỹ và 400 cung thủ.


    [​IMG]
    Cảnh vua Edward phong tước Hiệp sỹ cho hoàng tử xứ Wales

    Từ ngày 13-17 tháng 7 quân Anh vẫn tiếp tục đổ bộ người và đồ cung cấp và lên bờ trong khi vẫn tiếp tục đột kích ra các vùng xung quanh. Vào ngày 14 thành phố Barfleur đã bị tấn công từ cả trên đất liền và từ biển. Thành phố đã đầu hàng và một số công dân hàng đầu của nó đã bị bắt giữ để đòi tiền chuộc trong khi các thị trấn đã bị cướp phá và đốt cháy, cũng như chín chiếc tàu chiến tại bến cảng. Chiến lợi phẩm bao gồm vàng, bạc và đồ trang sức và theo Froissart, “Có rất nhiều của cải mà ngay cả những người đi theo phục vụ cho quân đội đã cảm thấy áo lông thú cũng không còn có giá trị” sau đó quân cướp phá đã cho đốt cháy Nhà thờ Abbey of Notre Dame du Voeu tại Cherbourg, mặc dù họ đã không thể chiếm được tòa lâu đài của thành phố. Trong thực tế khoảng diện tích 35 km xung quanh địa điểm đổ bộ đã bị tàn phá, cư dân của nó bị buộc phải bỏ chạy vào rừng hoặc đi bộ về phía nam và trở thành người tị nạn.

    Lúc này q
    uân Anh được chia thành ba đạo binh. Một đạo đi dọc theo bờ biển, một đạo dưới sự chỉ huy của Edward III ở hướng trung tâm, trong khi đó đạo binh thứ ba theo một con đường tiếp tục tiến vào nội địa. Giờ đây Bá tước của Northampton dường như đã được phong làm Nguyên soái và Edward III đã ra lệnh rằng không nên tàn sát và phá hủy các tài sản của dân chúng nữa, mặc dù dường như mệnh lệnh này không có ảnh hưởng vào hành vi của binh sĩ của ông. Hầu hết các con tầu của hạm đội Anh đã được gửi về quê nhà, nhưng một đội tầu lớn gồm khoảng 200 chiếc vẫn đi dọc theo bờ biển, và phá hủy hoặc bắt giữ bất cứ những con tàu của người Pháp nào mà họ tìm thấy và việc triệt phá đã tạo ra một vành đai rộng 8 km để làm suy yếu căn cứ của lực lượng hải quân Pháp.

    Chevauchée ( cướp phá ) hay chinh phục?



    [​IMG]
    Bản đồ diễn biến cuộc xâm lược của người Anh năm 1346 - phần 1


    [​IMG]
    Bản đồ diễn biến cuộc xâm lược của người Anh năm 1346 - phần 2

    Vào ngày 18 tháng bảy việc bốc dỡ từ các con tàu đã hoàn tất, những con ngựa đã được nghỉ ngơi, các đồ vật tư đã được sắp xếp một cách có tổ chức và bánh mì đã được nướng cho một vài ngày sắp tới, mặc dù người Anh vẫn phải đi kiếm thức ăn cho ngựa trên một địa bàn rộng lớn. Godfrey Harcourt, người mà gia đình của ông có nhiều bất động sản ở cuối phía nam của bán đảo Cotentin, đã nhanh chóng chứng tỏ giá trị của mình như là một trong những chỉ huy trinh sát hàng đầu của quân Anh. Với một lực lượng xung kích gồm 500 kị sỹ và 1,000 cung thủ, ông đã hành quân tiến về phía trước khoảng 30 km và ở bên phải của đạo binh của nhà vua. Đạo quân tiến theo đường ven biển đã thực sự được chỉ huy bởi các Bá tước của Northampton và Warwick. Đạo quân tiến theo đường nội địa hoạt động như đội hậu quân dưới sự chỉ huy của Thomas Hatfield-Giám mục Durham.

    C
    uối cùng thì người Anh cũng rời Saint-Vaast vào ngày 18 tháng Bảy, họ hành quân dọc theo đường hẹp để đến Valognes, nơi Edward III đã ngủ qua đêm trong một căn nhà thuộc sở hữu của Công tước xứ Normandy. Ngày hôm sau quân Anh lại đốt cháy Montebourg trước khi trú đêm tiếp theo ở điểm phân chia giữa Saint-Côme-du-Mont và Coigny, tại đây vua Edward biết được rằng cây cầu bắc qua Douve đã bị phá hỏng. Vì chỉ còn có một con đường hẹp được đắp cao khác-nhưng không thể dùng nó để vượt qua các đầm lầy xung quanh, các nhóm thợ mộc đã phải sửa chữa cây cầu này xuốt đêm. Carentan –một thị trấn lớn gần đó có dự trữ rất nhiều vật tư, nhưng rất nhiều trong số đó đã bị phá hủy khi quân Anh đốt nơi này. Chống cự là rất tối thiểu, rõ ràng bởi vì đơn vị đồn trú là người của Godfrey de Harcourt. Và có lẽ một số quân tiếp viện đã được để lại để kiểm soát thị trấn này trong khi người Anh tiếp tục di chuyển và mang theo những công dân hàng đầu của vùng này với họ để đòi tiền chuộc.

    Giống như nhiều nơi khác ở bán đảo Cotentin, thị trấn Carentan đã sớm bị quân Pháp tái chiếm, đội quân đồn trú phản bội của nó đã được gửi đến Paris và bị hành hình. Ngoài ra, tất cả những gì mà Thống chế Robert Bertrand có thể làm là quấy rối đà tiến quân của các kị sỹ Anh trong khi sự kháng cự có hiệu quả lại được chuẩn bị tại Caen, nơi mà vị Nguyên soái của nước Pháp-Công tước Raoul II d'Eu, đã cho chuyển quân đội có sẵn của mình bằng tàu đến từ Harfleur. Không đủ binh lính để đồn trú ở tất cả những lâu đài trong con đường tiến quân của người Anh và chỉ một số ít trong số nhưng tòa lâu đài được bảo vệ khi Robert Bertrand liên tục phải rút lui.


    Tuy nhiên người Anh đã bị kìm chân bởi những đầm lầy rộng lớn giữa Saint-Côme và Carentan, giữa Saint-Lo và Bayeux, nơi có một số con đường đắp cao đã được người Anh xây dựng lại. Bertrand đã có ý định bảo vệ Saint-Lo, nhưng cuối cùng ông nhận ra nó là không thể bởi một lần nữa người Anh đã lại xây dựng được một cây cầu vượt qua sông Vire, nên ông đành phải từ bỏ thị trấn cho số phận của nó. Đạo quân của Edward III lúc này đã phải chờ gần ba ngày ở bên ngoài Saint-Lo trước khi đạo quân ở ven biển có thể tiến lên đến chỗ của ông ta. Sau đó các cánh quân Anh tập hợp lại và chất các chiến lợi phẩm của họ vào các toa xe trước khi di chuyển về phía trước. Thời gian này các bá tước của Warwick và Suffolk-Lord Thomas Holland và Reginald Cobham và đạo quân của họ tiến về phía bên trái, đốt cháy và phá hủy tất cả những thứ lọt vào tầm ngắm của họ, trong khi ở bên cánh phải lực lượng của Godfrey de Harcourt cũng làm như vậy. Có tin đồn rằng quân Pháp đã tập trung rất đông xung quanh tu viện dòng Xitô ở Torigny, điều này đã làm cho lực lượng chính của người Anh phải thay đổi hướng về phía Cormolain; toán quân xung kích cũng tiến về Torigny và sau đó bắt kịp đạo quân chính. Trong hai ngày sau Edward di chuyển rất thận trọng, với hậu đội chỉ hơi vượt quá điểm bắt đầu của lực lượng xung kích vào buổi sáng ngày hôm trước (tiến quân theo kiểu quấn chiếu?). Khi lực lượng đi đầu của đại quân của Anh nằm trong tầm nhìn của thành phố Caen vào tối ngày 24, trong khi đó đội tàu 200 chiếc vẫn đi theo quân đội dọc theo bờ biển, họ căng buồm đi ngược lên sông Orne và đến Caen vào cùng một thời điểm. Vào thời gian này đoàn tàu đã được chất quá đầy những đồ cướp bóc đến nỗi họ không thể chở thêm tất cả các chiến lợi phẩm quân đội đã giành được.


    Thành phố
    Caen nằm ở giữa một đồng bằng mở mà không có sự phòng vệ của điều kiện tự nhiên. Thành phố được phân chia giữa phố cổ và phố mới bởi dòng sông Odon. Những công sự đổ nát của nó được xây dựng từ thế kỷ thứ 11 bao gồm một phần là bức tường bằng gỗ và một phần là một bức tường đá với đầm lầy ở một bên. Thành lũy duy nhất đáng kể là một tòa lâu đài ở rìa phía bắc của thị trấn. Bên ngoài thành phố các tòa lâu đài Abbaye aux Dames và Hommes Abbaye aux có những bức tường phòng thủ, nhưng không có đủ binh lính để đồn trú ở đó. Lực lượng phòng thủ Caen lúc này được chỉ huy bởi Raul d'Eu, người cũng có một đơn vị nhỏ lính bắn nỏ người Genova, khoảng 800 hiệp sĩ Norman và những kị sỹ cùng với dân binh của thành phố, tổng cộng khoảng 4,000 người. Nhiều nỗ lực đã được thực hiện để tăng cường cho những bức tường phòng thủ cũ bằng các chiến hào và hàng rào những cọc nhọn, trong khi khoảng 30 chiếc tàu nhỏ điều khiển bởi lính bắn nỏ đã được thả neo trong dòng Odon ở giữa thị trấn cũ và thị trấn mới.

    Edward III có nhiều binh lính, nhưng ông này lại thiếu những thiết bị bao vây hạng nặng và quân phòng thủ người Pháp từ chối hạ vũ khí, thậm chí họ còn ném phái viên của Edward III-tu sĩ Geoffrey của Maldon vào tù. Rạng sáng ngày 26 tháng 7 đội quân của Hoàng tử xứ Wales đốt chỗ họ trú qua đêm tại Cheux và tiến lên xung quanh Caen để tiến vào Dames Abbaye aux. Vua Edward thành lập sở chỉ huy ở vùng ngoại ô phía Tây trong khi hậu đội Anh dựng lều trại của họ ở xa hơn nữa. Khi nhìn thấy kích thước của quân Anh, các chỉ huy Pháp quyết định từ bỏ khu phố cổ và tập trung quân đội của họ trong thị trấn mới, nơi mà mặc dù nằm trên đảo Saint-Jean, nhưng lúc này đã bị tách biệt khỏi tòa lâu đài vốn được chỉ huy bởi vị Giám mục của Bayeux. Tương tự thì những người dân của Caen cũng tập trung ở thị trấn mới. Thật không may những chiếc tháp của đồn lũy Pont Saint-Pierre lúc đó lại ở phía bên trái của con sông này, do đó, một rào chắn được làm vội vã đã được thêm vào ở phía bắc. Tệ hơn nữa mức nước của dòng sông Odon đã xuống rất thấp trong mùa hè rất khô một cách đáng chú ý năm đó.


    Vào đ
    ầu buổi sáng, khu phố cổ rõ ràng đã bị chiếm mà không có kháng cự và các đội quân thuộc quyền chỉ huy của các Bá tước Wawick, Northampton và Talbot tấn công Pont Saint-Pierre nhưng không thu được thành công. Do đó một nhóm bộ binh người Anh và xứ Wales được gửi đến cách Odon khoảng 200 mét, hoặc bằng một cây cầu tại Boucherie hoặc qua một thành lũy không có người bảo vệ. Nhưng họ vẫn phải vượt qua đội tàu của quân Pháp đóng ở giữa sông, hai chiếc tầu bị đốt cháy và phần còn lại rút lui khi người Anh tiến vào khu phố mới. Lực lượng phòng thủ Pont Saint-Pierre lúc này đã bị bao vây. Một số chiến binh người Pháp bao gồm Robert Bertrand đã chiến đấu phá vây để đến được toà lâu đài, những người khác bao gồm Count d'Eu đã phải chạy trốn đến các tòa nhà cao tầng cho đến khi họ có thể đầu hàng, nhưng rất nhiều người đã bị giết ngay tại chỗ. Những tù nhân có giá trị cao đã được đưa trở lại nước Anh cùng với Bá tước Huntingdon-ông này đang bị ốm. Nhiều vụ thảm sát, khủ.ng bố và cướp bóc sau đó: trên 2.500 cư dân của Caen đã bị thiệt mạng, 500 người trong số họ đã được chôn trong một ngôi mộ tập thể tại nhà thờ Saint-Jean.

    S
    au đó người Anh nghỉ ngơi trong khoảng năm ngày và họ đốt phá các vùng nông thôn xung quanh một cách có hệ thống. Ngày 29 tháng 7 vua Edward cũng đã gửi một bức thư tới Quốc-Hội Anh, yêu cầu họ tuyển gấp thêm các kị sỹ và khoảng 1,200 cung thủ từ các khu vực chưa vét sạch đàn ông, cùng với số lượng lớn tiền, đạn dược và 100 tàu mang lực lượng tăng viện tới nước Pháp. Lực lượng tiếp viện đã đổ bộ xuống tại Le Crotoy ở phía bắc của Somme trong vùng lãnh thổ của Ponthieu nơi mà người Anh đã hoàn toàn chinh phục.

    Phản ứng của người
    Pháp

    Có vẻ như Philip VI của Pháp đã có thông tin về cuộc xâm lược vào ngày 16 tháng Bảy và ông đã dành hai tuần tiếp theo để tổ chức một cuộc triệu tập quân đội tại Paris và Amiens. Ngày 22 hoặc 23 Philip đã đến nhà thờ lớn Saint Denis để nhận lá cờ thánh Oriflame thiêng liêng vốn chỉ được sử dụng trong công cuộc phòng thủ nước Pháp.

    Vào ngày 25 ông tiến xuống vùng thung lũng sông Seine trong khi quân Pháp được tập hợp từ mọi hướng. Ông cũng lại tiếp tục gửi một lá thư tới vua David của Scotland, người đã tiến hành các cuộc đột kích vào Cumberland vào cuối tháng Bảy. Tuy nhiên, người Scotland lại không sẵn sàng để tiến hành một cuộc xâm lược toàn diện và họ lại ký một thỏa thuận ngưng bắn hai tháng với các lãnh chúa ở miền bắc nước Anh. Philip VI vội vã về Rouen, mối quan tâm chính của ông là làm sao để ngăn chặn không cho Edward chiếm lấy thành phố này và chặn không cho quân Anh vượt qua sông Seine. Các đội tàu galley của người Genova cũng đã đến vào đầu tháng Tám và vì đã quá muộn để ngăn chặn cuộc xâm lược này từ trên biển nên thủy thủ đoàn của nó gia nhập vào đội quân của Philip như lực lượng bộ binh. Trong khi đó vào ngày 31 Bá tước Enisieux và Philip vượt qua sông Seine và bắt đầu di chuyển một cách thận trọng về phía kẻ thù. Ngày 2 tháng Tám Giáo hoàng đã gửi hai đoàn thương lượng hòa bình và những đoàn thương thuyết này được cho là đã đến được doanh trại của người Pháp.

    Vào lúc này Philip VI đã được cảnh báo về một cuộc xâm lược sắp xảy ra của người Flemish và khi đó chỉ còn có một vài đơn vị đồn trú thưa thớt của Pháp ở gần biên giới phía Bắc, hầu hết dân binh và những đơn vị khác được tập hợp tại Amiens đã được lệnh quay trở lại bảo vệ chiến tuyến ở sông Somme. Chỉ huy trên danh nghĩa của người Flemish là Bá tước Henry của Flanders, mặc dù Sir Hugh Hasting mới là chỉ huy thật sự. Ngày thứ 2 họ rời Ypres và hành quân qua Baileut để tới gần sông Lys. Ở đây có những cuộc đụng độ nhỏ ở Estaires. Merville và Saint-Venant trước khi Hugh Hasting dẫn đầu đạo quân Flemish dùng mưu mẹo đánh lừa quân Pháp để tấn công tạt sườn họ. Cuộc hành binh của họ là rất chậm chạp nhưng sau ngày 14 tháng tám họ đã đến được Bethune nơi mà họ tiến hành một cuộc bao vây.

    Ngày nay người ta không biết được rằng Edward III và lực lượng Flemish thông tin liên lạc với nhau bằng cách nào, nhưng chắc chắn là họ phải có sự truyền thông với nhau. Còn đối với Philip, ông quyết định triển khai phòng thủ ở sông Seine hơn là phải chịu nguy cơ đặt bản thân nằm ở giữa các con sông và lĩnh mối đe dọa mới từ người Flemish. Quân đội của ông quay trở về Rouen và tất cả các cây cầu nối chúng với Paris đều đã bị phá hỏng hoặc bảo vệ bằng lực lượng mạnh. Các thị trấn ở phía nam của con sông được uỷ quyền phóng thích các tù nhân của họ nếu họ cần nhiều lực lượng dân binh ( từ những người bị giam trong tù ) được tập hợp tại Amien và lực lượng này lại được lệnh gia nhập với đạo quân của Philip.

    Khi người Anh tiến về phía bờ phía nam của sông Seine, đã gần như có hoảng loạn ở Paris và John của Luxembourg được gửi tới để giữ các kị sỹ trong sự kiểm soát trong khi các lực lượng dân binh ở Paris chuẩn bị để phòng thủ thành phố. Rõ ràng là Edward III đã rất sáng tạo: quân đội của Philip VI vẫn còn rất nhỏ, rất nhiều binh sỹ người Genoses đã bị phân tán trong đơn vị đồn trú và Philip mắc phải một nguy cơ dàn trải rộng lực lượng quá mỏng của ông dọc theo bờ sông Seine. Trong trường hợp này Philip quyết định lập sở chỉ huy của mình tại Saint-Denis, trong khi phần lớn quân đội của ông ta lại đóng trại tại Saint-Clound ở gần đó. Xa hơn về phía Nam Công tước trẻ tuổi của xứ Normandy vẫn còn ngoan cố bao vây chiếm lấy tòa lâu đài Aiguillon. Ít nhất cho đến khi vua Philip gửi mệnh lệnh trực tiếp ra lệnh cho ông này hành quân xuống phía Bắc: trong ngày 20 Tháng 8 cuối cùng thì vị công tước đã rời trại của mình và vượt qua Garone.

    Người Anh rút khỏi Caen vào ngày 31 tháng Bảy và để lại một lực lượng nhỏ để phong tỏa các tòa lâu đài. Tuy nhiên các đơn vị đồn trú của Pháp nhanh chóng chuyển sang phản công và giết chết hầu như tất cả số quân Anh được để lại ở Caen. Edward III đã hành quân qua Troarn, Argences và đến Lisieux vào ngày 1 tháng Tám. Ông bắt gặp phái đoàn thương thuyết hòa bình của hai vị Hồng y. Sau hai ngày đàm phán mà không được kết quả gì, không những vậy những binh sĩ cứng đầu người xứ Wales đã lấy trộm 20 con ngựa từ đoàn tùy tùng của các vị giáo chủ.

    Được biết rằng Philip đang chuẩn bị cho một cuộc tấn công, người Anh lúc này tiến lên một cách thận trọng hơn. Họ có thể đã dừng lại để tổ chức một hội đồng quân vào hôm thứ 6 và hội đồng này quyết định thay đổi hướng tiến về phía Rouen vào ngày hôm sau và đến được con sông Seine ở điểm thuộc Elbeuf. Có thể Edward đã hy vọng chiếm lấy Rouen vào lúc nó không được bảo vệ, nhưng một trinh sát dưới sự chỉ huy của Godfrey de Harcourt đã phát hiện ra rằng quân Pháp đã ở trong thành phố và các cầu qua sông Seine đã bị phá hủy. Đây là một bước thụt lùi và lúc này Edward đã phải quyết định chấp nhận một cuộc đua tới Paris hoặc cố gắng vượt qua con sông để liên kết với đồng minh Flemish của ông ở Picardy. Cây cầu tại Pont de l'sArche đã cho thấy rằng nó được bảo vệ quá mạnh mẽ và Philip VI luôn bám sát người Anh từ bờ phía Bắc. Tuy nhiên, quân xâm lược đã tàn phá một dải đất có diện tích rộng hơn 30 km về phía nam của sông Seine. Họ đốt phá Louviers và Gaillon và đã không thành công khi tấn công một tòa lâu đài nơi mà cả Sir Richard Talbot và Sir Thomas Honland đều bị thương. Trong ngày mùng 9 người Anh cũng không thể chiếm được Vernon. Ngày hôm sau một toán quân đột kích vượt qua sông Seine và đã chiếm La Roche-Guyon bằng một cuộc tấn công, nhưng địa điểm này không phải là nơi thích hợp cho toàn bộ quân đội vượt qua sông.

    Tại Freneuse các vị hồng y trở lại với đề nghị cuối cùng của Philip VI về các điều khoản của hòa bình, bao gồm cả một liên minh hôn nhân giữa hoàng tộc nhà Valois và Plantagenet, nhưng Edward đã không quan tâm tới vấn đề này. Chỉ còn lại rất ít điểm có thể vượt sông để đến đến được Paris và người Anh đã thử tất cả. Một số điểm ở trên phía thượng nguồn gần Meulan, quân Pháp đã cười nhạo, chế giễu sự thất vọng của người Anh khi họ phải tụt quần và chổng mông lên ( backside ) để qua sông. Philip VI phải chống lại sự cám dỗ để qua sông vì sợ rằng người Anh sẽ đột ngột tấn công vào Paris và vào ngày 13, ông đã quay trở lại thủ đô của mình. Ở đây (Paris) người dân đã có thể nhìn thấy khói bay lên chỉ một vài km về phía tây và phía tây nam, nơi những toán cướp phá người Anh đang hoành hành. Thậm chí Edward còn đưa ra một lời thách thức cho một cuộc chiến ở phía nam của Paris và vào ngày 15 Philip VI dẫn quân của mình về phía nam của thành phố, quân Pháp đã bài binh bố trận một cách sẵn sàng.

    Tất nhiên thách thức của Edwrd là một thủ đoạn chiến thuật. Cách duy nhất để hội binh với đồng minh người Flemish của ông là xây dựng lại một trong những cầu qua sông Seine và Poissy đã được lựa chọn. Thị trấn bị tàn phá và cư dân của nó, bao gồm cả chị gái của vua Philip, đã bỏ trốn sang Paris. Lúc này các kỹ sư người Anh bắt đầu bắt tay vào làm việc và buổi chiều ngày 15 một chiếc cầu đơn về cơ bản đã được hoàn thành. Philip VI nhận được tin này và ngay lập tức cho chuyển một đơn vị trên đường hành quân từ Amiens tới để phá việc xây cầu, nhưng khi họ đến được Poissy thì quân Anh đã qua sông đủ đông để đẩy lùi họ. Nhưng không những Edward III cũng không cho toàn quân của mình vượt qua sông Seine ngay lập tức mà đợi để xem quân của mình đốt phá tới tận các cửa ô của thành phố Paris, mà cả Philip VI cũng không vội vã để hành động ngay lập tức mà đơn giản chỉ ngồi xem người Anh sẽ rẽ vào lối nào.
  2. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Cuộc chạy đua tới Somme

    [​IMG]
    Bản đồ mô tả cuộc chạy đua của quân Anh và quân Pháp tới Somme

    Ngày 16 Tháng 8 quân cướp phá người Anh đột kích vào hướng Chartres để tạo ấn tượng rằng Edward đang hướng về phía nam, nhưng thay vì vậy Edward cho vượt sông và chốt ở phía bắc. Ngay sau khi tin tức này được xác nhận, Philip đã cho phá hủy cây cầu ở Saint-Cloud để phòng ngừa và đồng thời ông dẫn quân của mình về phía bắc. Có thể là ông đã gửi bộ binh của mình tiến trước khi chính bản thân mình cùng xuất phát với các kỵ binh vào ngày 18 và trong ngày đầu tiên Philip đã vượt qua một khoảng cách ấn tượng dài đến 55 Km


    Trong cuộc đua tới Somme này người Anh đã bắt đầu trước nhưng người Pháp đã giành chiến thắng. Quân đội của Philip VI được tăng cường thêm những đội quân sung sức bao gồm cả những người của Jaime I-vua của Majoca. Mỗi ngày người Anh trung bình tiến nhanh gấp ba lần so với lúc ở Normandy. Trước khi tới Beauvais đội tiên phong của người Anh dưới sự chỉ huy của Godfrey de Harcourt đã đánh tan lực lượng dân binh của Amiens đang trên đường tới Paris. Hoàng tử xứ Wales tại thời điểm đó muốn tấn công vào chính Beauvais, nhưng Edward đã nói với ông này rằng hãy tiếp tục tiến quân. Tại phía Bắc của Beauvais người dân ở Poix-có lẽ là những dân binh địa phương-đã tấn công vào những toán quân Anh lạc ngũ và quân của Edward đã phải tiêu tốn mất một khoảng thời gian để quay trở lại và đốt cháy thị trấn của họ để trả đũa.


    [​IMG]
    Cảnh một khúc của sông Somme ngày nay

    Chẳng bao lâu người Anh đã phải từ bỏ một số toa xe hành lý của họ để đổi lấy tốc độ, nhưng vùng nông thôn ở phía nước lại trống rỗng và không có thực phẩm dự trữ, bắt buộc người Anh phải tung ra các toán lục lọi tìm kiếm và điều này làm chậm lại tốc độ hành quân của Edward. Lúc này người Pháp đã vượt qua người Anh, các toán quân đầu tiên của họ đã đến được Somme vào ngày 20 tháng Tám. Lực lượng bộ binh đến sau và giờ đây người dân xứ Picardy đã cảm thấy yên tâm và họ bắt đầu tấn công vào các nhóm quân xâm lược cô lập. Trong ngày 20 Edward đến được Camps-en-Amienois, khoảng 25 km về phía nam của Somme. Tuy nhiên hậu đội của quân Anh đã bị trì hoãn vì bị tấn công ở Poix và kết quả là nhà vua đã phải chờ để họ bắt kịp. Trong ngày 22 Edward phải cho các binh sĩ của ông lúc này đã quá mệt mỏi và đói dừng lại nghỉ ở Airaines-thị trấn nhỏ có phòng thủ, sau khi đội quân đồn trú của nó đã triệt thoái về Pont-Remy. Đêm đó thành phần chính của quân Pháp cũng đã đến Amiens. Lúc này Philip VI đã có ưu thế về mặt quân số và ông đã ra lệnh phá hủy hoặc đồn trú trong tất cả các cây cầu ở Somme nếu chúng có các công sự kiên cố.


    Edward III có rất ít lựa chọn. Ngày 22 ông ta đã gửi các tóan quân đi để trinh sát các cầu ở Somme, trong khi một lực lượng lớn đã tiến đến Acheux để thiết lập một căn cứ tiền duyên. Các toán trinh sát – đột kích lớn hơn dưới sự chỉ huy của Godrey de Harcourt, đã cố gắng chiếm lấy cây cầu ở Pont Remy nhưng đã bị đây lui trở lại, Bá tước Warwick cũng cho biết rằng các cây cầu ở Long, Longpre và Picquigny được phòng thủ quá mạnh mẽ. Người Anh dường như bị mắc kẹt, nhưng Edward đã vào lãnh thổ nhà; Ponthieu đã từng là quận hạt của ông cho đến khi nó bị tịch thu bởi Philip VI tại thời điểm bắt đầu của cuộc chiến và một số trong các chỉ huy của ông biết về khu vực. Có thể Edward đã hệ thống phòng thủ của Abbeville từ Caubert Hill, trong khi các Bá tước Warwick và de Harcourt tấn công vào thị trấn. Dường như họ đã bị đẩy lui và chắc chắn là người Anh đã rời khỏi Airaines một cách vội vàng vào sáng ngày 23, người Pháp đầu tiên xuất hiện sau khoảng hai giờ sau khi người Anh cuối cùng rời đến Acheux. Tại Oisemont các hiệp sĩ và dân binh tại địa phương đã tiến hành một cuộc tấn công nhưng họ đã bị đánh tan bởi các cung thủ trường cung người Anh.


    Edward đã có sự lựa chọn: chiến đấu tại nơi ông muốn hoặc rút lui tới Saint-Valery và lên tàu về nhà, hoặc vượt qua sông Somme ở lối qua khe cạn Blanchetaque. Cái tên này có liên quan đến một vỉa núi đá vôi lộ thiên và vỉa đá này đã làm cho lòng sông chảy một cách khá phẳng lặng và có thể nó đã được biết đến bởi các chỉ huy người Anh kể từ khi nơi này trở thành một điểm chính thức để vượt sông Somme. Rất nhiều câu chuyện khác nhau nói rằng người Anh có thông tin về địa điểm này bằng cách mua lại từ một tên vô lại người Pháp bị bắt tại Oisemont, hoặc từ một Hộ sỹ (Hiệp sỹ tập sự ) trong đội tùy tùng của một hiệp sĩ người Flemish phục vụ cho Edward và từ một người Anh vốn đã sống ở gần Oisemont nhiều năm… Vì vậy có lẽ chúng là sự giải thích cho việc Edward III chọn pháo đài này để chuyển đến đó một đội quân lớn với đoàn xe tải nặng và quan trọng hơn là về thủy triều ở địa phương.


    [​IMG]
    Đây có thể là điểm vượt sông Somme của quân Anh

    Blanchetaque chắc chắn không phải là một nơi lý tưởng cho một đội quân lớn để vượt qua một con sông lớn. Tuy nhiên, trước khi bình minh ngày 24 tháng tám người Anh đã đến gần rìa phía nam của Saigneville và họ đợi thủy triều xuống thấp. Khoảng tám giờ sáng các kị sỹ có thể đi qua, theo sau là bộ binh và các toa xe. Thực tế là họ đã làm như vậy trong vòng một giờ, sự kiện này cho thấy họ đã vượt qua theo một hàng dọc tương đối rộng với một đội hậu cần đáng kể.


    Người Pháp cũng khởi hành vào lúc bình minh, Philip VI gửi Godemar du Fay đi để canh chừng bờ phía Bắc với 500 kị sỹ và 3,000 binh sĩ bộ binh. Ông này đến vào lúc các binh sĩ Anh dẫn đầu đã vượt sông. Lính bắn nỏ người Genoses của Godemar du Fay đã gây ra một số thiệt hại cho người Anh và các kị sỹ của ông đã lao xuống con sông này để để tấn công vào đội quân tiên phong của đối phương dưới sự chỉ huy của Hugh Despenser, Reginald Cobham và Bá tước của Northampton. Nhưng người Pháp có quá ít quân nên đã bị đánh bại, một số đã bị truy kích đến tận phía đông Abbeville, những người khác có lẽ đã chạy đến phía tây, đến tận vùng đất cao giữa Port-le-Grand và Noyelles. Vào thời điểm hậu đội Anh vượt sông thì cuộc chiến đã qua. Trên bờ phía nam đội tiên phong của Pháp dưới sự chỉ huy của John Luxembourg đã bắt giữ một vài toa xe của người Anh, nhưng lúc này nước thủy triều đã tăng nhanh, quân đội của Edward III đã tiến được về phía bắc của sông Somme và Philip đã đến được phía nam.



    [​IMG]
    Cảnh quân Pháp cố gắng ngăn chặn quân Anh vượt sông Somme nhưng đã thất bại

    [​IMG]
    Cảnh quân Pháp cố gắng ngăn chặn quân Anh vượt sông Somme nhưng đã thất bại

    Hiện vẫn còn nhiều tranh cãi về con đường Edward III đã đi từ Blanchetaque để đến Crécy. Trong giữa thế kỷ 14 ở phía bắc bờ biển của Somme là đầm lầy và Le Croytoy-một bến cảng nhỏ không thoát nước, bến cảng này sẽ là một hòn đảo khi thủy triều lên. Tương tự Maye và Authie-các cửa sông của Somme không bị thoát nước, đầm lầy của nó ăn sâu vào phía nội địa, do đó đây không phải là một con đường ven biển thực tiễn. Rừng của Crécy che phủ phần lớn khu vực giữa Somme và Authie và được chia cắt bởi sông tiểu Maye, trong khi đó xa hơn về phía nam rừng Cantatre vào ngày nay chỉ còn là một phần cô lập tách biệt. Phần còn lại của Ponthieu bao gồm những khu đất canh tác nông nghiệp được chấm phá bởi các làng mạc và cối xay gió.


    [​IMG]

    Bản đồ con đường hành quân của quân Anh từ Somme tới Crécy

    Edward III cũng còn phải xem xét các hoạt động của đồng minh người Flemish của ông. Ngày 16 Tháng 8 quân phòng thủ của Pháp ở Bethune được chỉ huy bởi Godfrey D'Annequin đ đánh bại một cuộc tấn công mà chính trong trận này Henry Flanders đã bị thương. Trong ngày 22 d'Anneqin biết được rằng một lực lượng nhỏ hơn của người Flemish ở quanh quẩn đâu đó gần Lillers cũng đã bị thiệt hại nặng, nên ông đã liều tung ra một đợt tấn công và đã rất thành công. Các quân lính người Flemish bắt đầu quay ra cãi lẫn nhau và vào ngày 24 họ từ bỏ cuộc bao vây và rút lui về Merville.

    Cùng ngày lực lượng quân Anh dưới sự chỉ huy của Sir Hugh Despenser đã chiếm Noyeller, Le Crotoy và Rue nhưng không thấy có dấu hiệu nào về việc một hạm đội Anh vốn chuyên chở các vật tư chiến tranh cần thiết sẽ xuất hiện. Philip đã không cố gắng để tấn công khi họ vượt qua sông Somme tại Blanchetaque nhưng quân Anh cũng đã quá mệt mỏi từ đầu đến chân. Trong ngày 25 Edward biết được rằng đồng minh của ông đã rút lui và Philip trở lại Abbeville để quyết định bước đi tiếp theo của ông này. Có lẽ vào thời điểm này thì Edward III đã quyết định rằng kể đó quân đội của ông không còn có thể vượt trội so với người Pháp, và họ cần phải có một chỗ đứng chân ở gần đó-đó chính là Crécy. Vì vậy Warwick. Cobham, Suffolk và Godfrey de Harcourt đã được cử lên phía trước trong khi lực lượng chính của Anh di chuyển chậm dọc theo con đường duy nhất xuyên qua khu rừng theo hướng những ngọn đồi nhìn ra Crécy để giữ chân người Pháp càng lâu càng tốt trong Abbville.


    Địa hình của chiến trường

    [​IMG]
    Thực địa
    thung lũng Vallee des Clercs nhìn từ chiếc cối xay gió nổi tiếng của Crécy

    Edward đã chọn một vị trí phía bắc của thung lũng nông gần sông Maye. Đó là rìa bên cạnh của một đồng bằng nhấp nhô, với làng Estrées ở phía đông và Wadicourt ở phía bắc-đông, các thôn làng này có thể được bao quanh bởi các vườn cây ăn trái. Khoảng sống núi thấp giữa Wadicourt và Crécy dài khoảng hơn hai cây số với một chiếc cối xay gió hướng ra chính Crécy. Đằng sau đó chính là Crécy-Grand Wood, nó sẽ che chở cho một phần hậu quân và sườn bên phải của quân Anh. Thung lũng Vallee des Clercs chỉ là một vị trí sâu hơn một chỗ trũng trong các vùng đất cao tại đó vốn chạy từ Wadicourt đến Maye. Nó dài khoảng hai km và tại điểm thấp nhất của nó cũng không thấp hơn 35 mét so với vùng cao nguyên xung quanh. Một số học giả Pháp cho rằng có ba tầng đất canh tác theo kiểu bậc thang cổ xưa hoặc thời trung cổ ở phía trước của cánh quân trung tâm của người Anh, mặc dù điều này không được đề cập trong các bản tài liệu gốc. Có một điểm u bò theo hướng phía dưới cái dốc, nhưng nó không gây trở ngại cho một cuộc tấn công của kỵ binh và thậm chí còn ít cản trở hơn nữa cho bộ binh. Nếu có một hàng rào tự nhiên như vậy thì nó có thể nằm ở phần đầu của sống núi.

    Vua Edward đã phác họa đội hình chiến đấu của mình với một tốc độ rất nhàn nhã trong buổi sáng ngày 26 tháng Tám. Người của ông đã được chia thành ba đạo quân trong khi họ hành quân. Đội tiên phong trên danh nghĩa thuộc quyền chỉ huy của vị hoàng tử trẻ xứ Wales, mặc dù ông có giám quân là Godfrey de Harcourt, đóng quân ở gần Crécy và theo dự kiến sẽ là nơi hứng những đợt tấn công ​​của quân Pháp, đạo quân Trung tâm hay là đạo quân nằm dưới sự chỉ huy của nhà vua hành quân vượt qua họ và đóng quân ở vị trí sống núi giữa Crécy và Wadicourt. Đạo hậu quân nằm dưới sự chỉ huy của các Bá tước Northampton và Arundel tiếp tục di chuyển xa hơn nữa và chiếm vị trí giữa đạo quân của nhà vua và Wadicourt. Khi nhìn thấy phía trước của làng Crécy quân Anh tiếp tục thành lập một đạo quân tiên phong, một đạo quân trung tâm và một đạo hậu quân, Nhưng tất cả các nhà bình luận đều cho rằng Edward đã biết rằng quân Pháp sẽ tấn công từ Vallee des Clercs. Ngựa (của các kị sỹ ) được buộc bên trong một pháo đài dã chiến được lập nên bởi các toa xe phía sau cánh phải và một loạt các hố bẫy được đào rải rác để phá vỡ các đợt tấn công của kỵ binh đối phương. Cánh quân bên phải thuộc quyền của Hoàng tử Đen xứ Wales có vẻ như đóng ở đoạn lưng chừng dốc.

    [​IMG]
    Cảnh người Anh xoay trần ra đào công sự bên cạnh chiếc cối xay gió nổi tiếng tại Crécy

    [​IMG]
    Cảnh người Anh xoay trần ra đào công sự bên cạnh chiếc cối xay gió nổi tiếng tại Crécy

    Vị trí chính xác của các cung thủ Anh là một vấn đề còn phải bàn cãi. Có thể họ đã được định vị ở mỗi bên của một đạo binh như các cánh và rất gần với những kị sỹ. Cũng có thể họ đã lùi trở lại khi người Pháp tấn công nhiệm vụ của họ không phải là tham gia chiến đấu tay đôi với đối phương. Như Viillan-nhà sử người Ý công bố thì họ đứng sau những kị sỹ. Sử gia Froissart lại sử dụng thuật ngữ herce hoặc "harrow" mà cho đến nay người ta vẫn còn chưa hiểu rõ, nhưng có vẻ như các sử gia đã không chú ý tới một sự tương tự giữa thuật ngữ “ herce “ của Froissart và đội hình được gọi là El Haz "the closely pack bundle" của Don Juan Manuel-nhà lý luận quân sự Tây Ban Nha trong thế kỷ 14. Tất nhiên có thể rất nhiều nguồn cung cấp thông tin của Froissart sẽ đến từ Hoàng tử Đen sau chiến dịch Tây Ban Nha của ông. Nhìn chung, có bằng chứng cho thấy rằng các cung thủ đã đứng thành các đơn vị tương đối gần nhau và có thể di chuyển xung quanh một cách có kiểm soát.

    Sau đó có những câu hỏi về các khẩu súng người Anh, rõ ràng là chúng ở bên cánh phải của người Anh. Chúng có thể là loại đã tạo ra những trận pháo kích nhỏ vốn được sử dụng trong một phần ở miền Nam Châu Âu để bảo vệ các công sự dã chiến. Đoàn xe hành lý của Edward III đã ở rất gần Crécy Grange và khu rừng, có thể chúng (các khẩu pháo) được bao quanh bởi các toa xe với một của mở đơn nhưng đủ gần để các cung thủ được cung cấp các bó mũi tên một cách nhanh chóng trong trận đánh.

    [​IMG]
    Cảnh các cung thủ Anh nghỉ nghơi trước khi vào trận chiến

    Vào ngày trận đánh Vua Edward đã dậy rất sớm và cùng với Hoàng tử xứ Wales tập hợp rất nhiều thông tin liên lạc, có thể quân Anh vẫn đã đóng ngay tại chỗ họ đã chiếm vị trí trước đó. Thức ăn được nấu trong đoàn hành lý, các chiến binh được phép rời khỏi vị trí của họ trong một vài thời gian để ăn và đi vệ sinh. Mỗi cung thủ đều ký hiệu vị trí của mình với cây cung của chính anh ta, mỗi kị sỹ đều cầm chiếc mũ sắt của mình trên tay. Mệnh lệnh cuối cùng của Edward khi người Pháp đã đến trong tầm nhìn là không bắt tù binh cũng như bất kỳ chiến binh nào cũng không được rời vị trí của mình để tìm kiếm chiến lợi phẩm.

    [​IMG]
    Toàn cảnh bố trí của quân Anh ( mầu đỏ) và quân Pháp (mầu xanh ) tại trận Crécy trước giờ nổ súng

    Cuộc hành quân của người Pháp tới Crécy không phải là một cuộc hành binh vô tổ chức như một số nhà sử học đã nói. Cũng không phải rằng kế hoạch của vua Philip VI là không đủ năng lực như một số người đã tin là như vậy. Tuy nhiên, ông không được toàn quyền điều khiển quân đội của mình như là Edward III. Quay trở lại Abbeville từ Blanchetaque vào ngày 24, Philip VI ở lại đó suốt ngày 25 có lẽ vì một số toán quân của mình vẫn còn trên đường tới gia nhập với ông ta. Jaime I-nhà vua lưu vong của Majorca đã đến nơi cũng như Charles con trai của John de Luxembourg, người được nhà vua phong làm vua của La Mã vào tháng Bảy năm 1346, cũng như anh rể của Edward III-Bá tước John de Hainault ( Em rể là vua Anh quốc, anh vợ là chư hầu của Pháp) và một số các vương công trẻ tuổi người Đức; vị Bá tước của Savoy và Louis-em trai của ông này đến ngày 25. Philip cũng đã biết rằng cuộc bao vây nhằm vào Bethune đã bị từ bỏ và người Anh không thể ngay lập tức hội binh với đồng minh người Flemish của họ.

    Quân Pháp hành quân như thế nào là một câu hỏi chưa có câu trả lời của trận Crécy, chắc chắn giờ đây lực lượng của Philip là quá lớn và được chia ra giữa Abbeville và Saint-Riquier. Ông biết rằng việc truy kích quân Anh phải được tiếp tục vào ngày hôm sau và quân đội của ông đã khởi hành vào lúc bình minh và bị buộc phải để lại các khẩu pháo của họ sau khi phải chuyển sang di chuyển với tốc độ cao. Khói đã bốc lên cao từ hướng Noyelles và đội quân tiên phong của Pháp đang dẫn đầu theo hướng đó, nhưng quân thám mã đã sớm có báo cáo rằng Anh đã không còn ở đó nữa. Tại thời điểm này quân Pháp đang căng ra dọc theo con đường từ Abbeville đến Noyelles, sau đó họ nhận được mệnh rẽ phải hướng tới Crécy và Hesdin. Đội quân tiên phong và có lẽ ngay cả Philip VI dường như đã đi được hơn nửa đường để đến Noyelles trước khi họ quay lại dọc theo con đường được gọi là "Valois Path" sau đó tiếp cận với các tuyến đường của người Anh và các tuyến này thường được gọi là "Le Che min de L'Armée". Lúc này lực lượng bộ binh của Vua Philip được lệnh tiến lên phía trước kỵ binh để đề phòng chống lại các cuộc phục kích có thể có khi hành quân qua giữa các khu rừng Crécy và Cantatre, có lẽ quá trình hành quân này đã làm cho lính bắn nỏ người Genova bị tách rời khỏi các tấm lá chắn pavise của họ vốn lúc này đang nằm trong đoàn xe hành lý. Xung quanh khoảng thời gian này, một toán thám mã cũng đã được gửi về phía trước dưới sự chỉ huy của Miles de Noyers-viên hiệp sỹ cầm gia huy của hoàng gia, để đi cùng với Jran de Beaumont và Henri le Moine của Basle.

    Phần lớn quân Pháp hành quân dọc theo con đường từ Abbeville và một số đã sử dụng những con đường khác nhau phía đông của rừng của Cantatre, trong khi những người khác thậm chí có thể đã đi trực tiếp từ Abbeville qua hướng Hesdin. Sự kiện này có thể đã gây ra trạng thái nhầm lẫn của quân Pháp khi họ đến được phía đông của Crécy. Lúc này các kị sỹ đã tạo nên một khối hỗn loạn ở phía sau lực lượng bộ binh người Genova vốn có kỷ luật hơn, các chỉ huy của họ vẫn cho rằng họ đang cố gắng để đuổi kịp người Anh vốn dường như đang rút lui về phía bắc. Bản thân con đường này thời trung cổ có thể là một con đường La Mã xuôi từ Cancy, Mancheville, Fontaine-Maye và Estrées-les-Crécy.


    Có thể là bộ phận đi đầu của quân Pháp đã đi qua Foitaine vào giữa buổi chiều, các toán trinh sát nói với Philip rằng kẻ thù của ông đã thiết lập một vị trí được phòng thủ mạnh mẽ ở bên trái của đội hình hành quân của ông, có lẽ trong tầm nhìn của các toán tiền quân của quân Pháp. Có vẻ như đã có một số trì hoãn trước khi Philip ra lệnh tạm dừng. Có lẽ ông đã lên kế hoạch để hạ trại tại Estrées. Lực lượng bộ binh người Genova dưới sự chỉ huy của Carlo Grimaldi và Odone Doria đã quá mệt mỏi sau một cuộc hành quân kéo dài. Đằng sau họ là số lượng lớn các kị sỹ lúc này tỏ ra khá vô tổ chức. Phần lớn lực lượng bộ binh và dân binh người Pháp cùng với hành lý vẫn tiếp tục kéo đến, trong khi hàng đoàn những người dân địa phương kéo đi đông đặc giữa Somme và Crécy với hy vọng người Pháp sẽ một đòn tấn công để tiêu diệt. Các đội bộ binh khác có lẽ chỉ mới đến được Abbeville.

    Trong khi các vị thống chế của ông hết phi ngựa lên rồi lại phi xuống để cố gắng ngăn chặn các kị sỹ lúc này đang xô đẩy nhau về phía trước trong sự háo hức trừng phạt kẻ thù vốn đã tàn phá tan tành quê hương của họ, Philipl VI tổ chức một hội đồng quân sự với các chỉ huy cao cấp của mình. Ông đã nhận được những lời khuyên trái ngược nhau, chỉ huy của toán quân lại thúc giục ông phải chờ đến ngày mai trước khi tấn công các vị trí được chuẩn bị tốt người Anh, một số lại cho rằng thay vào đó là nên tấn công vào lâu đài Labroye, nơi mà họ có thể tổ chức lại và khóa hướng hành quân về phía Bắc của người Anh, một số khác lại yêu cầu tiến hành một cuộc tấn công ngay lập tức trước khi đối phương kịp đối phó. Philip đã chọn giải pháp sau cùng, dường như ông nhận ra rằng gần như sẽ không thể giữ được sự nhiệt tình của quân đội của ông nếu từ bỏ khỏi chiến trường trong tầm nhìn của kẻ thù của họ.


    Khi Philip quyết định tấn công, những rối loạn có vẻ như trở nên càng tệ hơn khi đơn vị này cố gắng tranh giành vượt qua những con đường của đơn vị kia, người sau đẩy người đi đằng trước tiếp tục tiến lên. Nhà sử gia Froissart nói " sự rối loạn này hoàn toàn bị gây ra bởi niềm tự hào vì mỗi hiệp sỹ đều muốn qua mặt người hàng xóm của ông ta, mặc dù các Thống Chế đã ra sức làm việc để giữ đội ngũ" Rất ít các chỉ huy của họ có kinh nghiệm về một cuộc chiến tổng lực, nhưng những kị sỹ Pháp vẫn rất tự tin. Các hiệp sĩ Pháp có uy tín cao nhất trong những quốc gia Thiên Chúa giáo và trong quân Pháp có nhiều cựu binh lâu năm có thứ hạng cao đặc biệt là trong số những binh sỹ người Genova.


    Lực lượng quân Pháp có số lượng gần tương đương với quân Anh mà họ phải đối mặt ở sườn phía bên kia của thung lũng Vallee des Clercs, nhưng trong quân đội Pháp có thể những người đã thực sự vào trận chiến lại ít hơn. Chắc chắn là Philip đã biết về sức tàn phá của các cung thủ trường cung người Anh nhưng có lẽ ông này tin rằng lính bắn nỏ người Genova của ông có thể tạo ra một hỏa lực có thể đối trọng với sức mạnh và độ chính xác của các cung thủ Anh được bởi vì họ ( cung thủ Anh) hầu như không được mặc giáp. Dường như là Philip đã dự kiến rằng trận chiến sẽ diễn ra trong một thời gian ngắn ngủi nên bắt đầu muộn vào cuối buổi chiều một chút cũng không thành vấn đề.


    Sự bài binh bố trận của quân
    Pháp có lẽ là bí ẩn lớn nhất của trận Crécy với nhiều nguồn đã đề cập đến rằng họ được tổ chức từ 4 -> 9 đơn vị hoặc tuyến tấn công, Ngoài những bộ binh người Genova được tổ chức tốt, đội quân thực sự của Philip có thể bao gồm hai, ba hoặc bốn đoàn kỵ binh đơn lẻ vốn rất khó sử dụng (vì họ chưa từng tác chiến phối hợp), có lẽ cùng với bộ binh ở các cạnh sườn của họ hoặc vẫn còn tiếp tục kéo đến từ phía sau. Các kị sỹ dưới sự chỉ huy của Công tước Alençon và John de Luxembourg đã hình thành lên tuyến chiến đấu đầu tiên, có lẽ với đội của Alençon ở chếch về bên phải và đội của John de Luxembourg có sự hỗ trợ của các đội quân người Genova. Lực lượng riêng của Philip VI cộng với người của vua Majorca và các nhà quý tộc cấp cao khác bao gồm cả Charles con trai của John de Luxembourg có thể đã tạo nên lực lượng dự bị.
  3. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    TRẬN ĐÁNH


    [​IMG]
    Bản đồ mô tả quân Pháp ( mầu xanh) tấn công vào quân Anh ( mầu đỏ )

    Có lẽ đạo quân của Hoàng tử xứ Wales là ở gần với người Pháp nhất. Lúc này người Pháp đã không cho phất lá cờ Oriflamme thiêng liêng lên, điều này chỉ ra rằng không có một quân xâm lược nào có thể được bắt làm tù binh và khoảng 5 giờ chiều Philip VI đã ra lệnh cho bộ binh người Genova tiến lên mà không có những chiếc khiên pavises của họ, đây là điều trái với chiến thuật đối đầu trực tiếp bình thường của họ ở Italia. Mặc dù điều phổ biến là bộ binh thường hình thành tuyến đầu trong các cuộc chiến tranh Ý, người Genova thường được sử dụng để phục vụ trong những đội quân có cấu trúc rất cao, trong những đội quân này họ được hỗ trợ bởi những đội kị binh có độ chuyên nghiệp cao. Cho nên không lấy gì làm ngạc nhiên khi họ không quen tiến lên phía trước sau khi phải ở phần cuối của một cuộc hành quân kéo dài mà không có sự chuẩn bị thích hợp và cũng không có những tấm lá chắn pavise của họ hoặc có đủ dự trữ đạn dược và với ánh nắng mặt trời đang lặn chiếu vào mắt họ. Khiếu nại của các sĩ quan chỉ huy của họ đến Công tước Alençon đã bị bỏ qua, nhưng sau đó đã được lấy làm bằng chứng để chứng minh rằng người Genova đã phản bội lại nghĩa vụ. Tuy nhiên, họ vẫn lập đội hình dưới sự chỉ huy của Ottone Doria và dường như đạo quân của Hoàng tử xứ Wales là mục tiêu của họ. Người Genova có từ 2,000-6,000 người, ít hơn rất nhiều so với các các cung thủ trường cung Anh ở phía bên kia, có lẽ ngay chỉ so với người trong đội quân của Hoàng tử xứ Wales.

    Trong âm thanh của tiếng kèn trống, lính bắn nỏ Genova và các tay giáo di chuyển về phía trước trong ba giai đoạn, từng bước dừng được báo hiệu bằng các tiếng hét cho phép các binh sĩ bộ binh điều chỉnh các hàng quân của họ. Truyền thuyết thường cho rằng có những con quạ bay qua khu vực này lúc họ tiến lên ( điềm xấu ), nhưng quan trọng hơn là một cơn bão bất ngờ-cơn mưa đầu tiên trong vòng sáu tuần. Sự kiện này làm cho mặt đất trơn trượt và trong ngày hôm đó sau khi mưa kết thúc đáy của chiếc thung lũng Vallée des Clers đã trở thành một chiếc đầm lầy rộng đến 250 m2 từ ngã ba của nó với sông Maye. Mưa cũng làm ướt dây của các cây nỏ của người Genova và làm cho chúng bị mất đáng kể sức công phá. Jean de Venette nói rằng các cung thủ trường cung người Anh đã cất dây cung của họ và giữ chúng khô ráo trong những chiếc mũ sắt. Tuy nhiên, điều này chỉ đơn giản là không thể làm được với những cây nỏ và dây nỏ của người Genova càng chở nên kém co dãn khiến họ dễ dàng bị chiếm ưu thể bởi các cung thủ trường cung người Anh-đối thủ của họ. Nó cũng cho phép người Anh để tận dụng loại vũ khí duy nhất vốn chiếm ưu thế của họ trên thực tế; họ có thể bắn mũi tên với tốc độ cao và có khả năng dội những trận mưa tên theo kiểu giót dầu (hoặc bắn cầu vồng). Về tính chính xác, phạm vi và sức xuyên phá… cùng các lợi thế khác cần phải có lại nằm ở phía người Genova.

    Vai trò của bộ binh người Genova có thể là làm gián đoạn đội hình của kẻ thù bằng tên nỏ và rồi các kỵ binh hỗ trợ sẽ tận dụng lợi thế này để phá vỡ đội hình của đối phương. Trong thực tế, người Genova đã khai hỏa vào lần dừng lại thứ ba, khoảng 150 mét từ quân Anh. Họ đã bắn vào mục tiêu ở ngược lên trên ngọn đồi khi mặt trời xuống thấp và gần như chiếu trực tiếp vào mắt họ-đây là một bất lợi lớn cho những người đang cố nhằm trực tiếp mũi tên của mình vào đối phương. Khi bắt đầu bắn, người Genova đã trúng một cơn bão mũi tên từ cánh quân của Hoàng tử xứ Wales và những khẩu súng của người Anh cũng thêm vào tiếng ồn, sự khủ.ng bố tinh thần và thương vong. Froissart nói rằng các khẩu súng này mỗi khẩu đã bắn hai hoặc ba phát vào người Genova, các khẩu súng này sau một lần bắn thì rất khó để nạp đạn nhanh hơn so với bất kỳ loại vũ khí nguyên thủy nào. Villani đồng ý rằng tác động của các khẩu súng là đáng kể và giữ ý kiến rằng sau đó trận pháo kích vẫn tiếp tục dội xuống vào các đợt tấn công của kỵ binh Pháp trong trận chiến: "Các khẩu súng của người Anh dùng bi sắt đúc làm đạn ... chúng đã tạo ra những tiếng ồn như tiếng sấm và tạo ra nhiều thiệt hại cho người và ngựa ... người Genova đã liên tục bị bắn trúng bởi các cung thủ và pháo thủ ... (vào cuối trận) toàn bộ đồng bằng bị bao phủ bởi xác những người đàn ông bị bắn trúng bởi các mũi tên và đạn pháo. "

    Vì không có các tấm lá chắn pavise của họ, lại không đủ tầm bắn và bị đối thủ của họ chiếm ưu thế, người Genova dao động và sau đó chạy ngược trở lại. Người ta cho là họ đã bị tấn công bởi những kị sỹ Pháp-những người có nhiệm vụ giám sát họ và mặc dù điều này khó có thể xảy ra, dường như Bá tước Alençon đã kết luận rằng người Ý đã bị mua chuộc để phản bội lại vua Philip. Mặt khác, Jean de Venette cũng cho rằng một số kị sỹ đã tấn công vào bộ binh của họ, "mặc dù tất cả những người lính bắn nỏ Genova đã cầu xin với tiếng kêu lớn". Khả năng người Anh đã chuyển làn bắn sâu vào đội hình quân Pháp đã gây ra sự nhầm lẫn này và đây cũng là dịp để đặt câu hỏi kỵ binh đã ở đâu cùng với người Genova trong thời gian tiến quân ban đầu của họ.

    Ý tưởng cho rằng Philip đã ra lệnh cho các kị sỹ của mình phi ngựa qua những người Genova đang bị thương là điều gần như không thể vì nó sẽ hủy hoại sự gắn kết của một đợt tấn công của kỵ binh. Nhiều khả năng Bá tước Alençon tiến lên khi nhìn thấy một cơ hội để tung ra một đòn tấn công vào người Anh, có lẽ bởi vì tin rằng họ (người Anh) sẽ chưa sẵn sau khi chỉ phải đối mặt với người Genova. Có điều rõ ràng rằng các kị sỹ đã không quan tâm để tránh né các bộ binh đang bị thương và gây ra thương vong hơn nữa khi họ phi ngựa ngang qua. Có hay không việc người Pháp phi ngựa dẵm vào người Genova đang bị thương thực sự là điều vẫn chưa được biết. Bản thân Cralo Grimaldi cũng đã bị thương nặng mặc dù người ta không rõ rằng ông bị trúng tên khi nào.


    [​IMG]
    Cảnh quân bắn nỏ người Genova đang tơi bời trước những trận mưa tên của các cung thủ trường cung Anh


    [​IMG]
    Cảnh quân bắn nỏ người Genova đang tơi bời trước những trận mưa tên của các cung thủ trường cung Anh


    Lúc này chỉ còn lại lực lượng kỵ binh của Philip VI đã sẵn sàng (ý là bộ binh người Genova đã hoàn toàn tan rã). tuy nhiên họ phải tấn công ngược lên trên cao và phi ngựa qua các khu vực lầy lội, qua các xác chết và người bị thương của bộ binh của họ để lại tấn công vào một kẻ thù vốn đã rất tự tin bởi chiến thắng trước đó và hầu họ ( quân Anh ) như được bảo vệ một cách không thể quan sát được bởi những chiếc hố bẫy ngựa để tiêu diệt những con ngựa của người Pháp. Không lấy gì làm ngạc nhiên khi đợt tấn công đầu tiên của Bá tước Alençon đã thất bại. Ông này dường như đã phi ngựa vượt qua các cung thủ Anh và nhằm vào chiếc cờ hiệu của Hoàng Tử xứ Wales-người vốn được bao quanh bởi những kị sỹ Anh đã xuống ngựa chiến đấu. Nhưng trước khi ông ( Bá tước Alençon ) đến được mục tiêu thì rất nhiều kỵ binh của ông đã bị trúng một hoặc nhiều cơn bão mũi tên. Nhiều con ngựa bị bắn trúng, trong khi những con ngựa khác bị lao vào những chiếc hố bẫy, các con vật này chết và bị thương nằm xếp hàng như những chú heo con nằm bú một con lợn nái. (NV lined up like piglets suckling a sow)


    [​IMG]
    Cảnh các kị binh Pháp bắt đầu tấn công


    [​IMG]
    Cảnh các kị binh Pháp đang cố lao qua các hàng rào cung thủ Anh


    [​IMG]
    Cảnh các kị binh Pháp đang cố lao qua các hàng rào cung thủ Anh

    Các mũi tên gây ra thiệt hại nhiều hơn đến những con ngựa hơn là những kị sỹ, nhưng nhiều người đã bị ngã ngựa khi cuộc tấn công thất bại. Đội hình đã bị phá vỡ, những con ngựa hoảng sợ và bỏ chạy, hoặc nằm xuống, từ chối di chuyển. Như Jean le Bel mô tả, "Những trận mưa tên của người Anh được dẫn bắn với một kỹ năng tuyệt vời vào đám lính kỵ binh làm cho những con ngựa của họ từ chối tiến lên phía trước dù chỉ một bước. Một số nhảy ngược trở lại cào cắn một cách điên loạn, một số con khác lại trở nên ghê gớm, một số lại chạy ngược trở lại phía sau ngược hướng với kẻ thù của họ, những con khác chỉ đơn giản là nằm thẳng cẳng ra mặt đất những kị sỹ của chúng thì chẳng biết có thể làm gì với chúng cả. "Những kị sỹ Anh lúc này lại nhảy lên ngựa và tấn công vào quân Pháp đang hỗn loạn. Một số nguồn tin cho rằng người Pháp đã đến được vị trí của người Anh và Bá tước Alençon đã chém đổ được lá cờ hiệu của Hoàng tử xứ Wales nhưng gần như chắc chắn đây là một huyền thoại anh hùng.

    Các kị sỹ của John de Luxembourg đã được gửi tiếp vào cuộc chiến, dường như họ đang di chuyển về phía trước khi chỉ huy của họ nhận ra rằng Alençon đang gặp rắc rối, Chắc chắn ông (John de Luxembourg ) đã nhận thức được tình hình và hỏi về nơi đóng quân của Charles-con trai ông cũng là vua của La Mã . Một số các cố vấn của John cảnh báo ông nên bỏ chạy, nhưng thay vào đó vị chiến binh già đã gần như mù lòa này đã ra lệnh cho các tùy tùng của ông buộc lại yên ngựa của họ trước khi chính ông dẫn họ xung phong lên tấn công vào Hoàng tử xứ Wales. Theo nhà sử gia Froissart, yêu cầu cuối cùng của ông là "Je vous requers Tres especiallement que vous me meniez si'avant que me puisse ferir un coup d’epee" ( Tôi yêu cầu các bạn đưa tôi tiến lên càng xa càng tốt trong lúc này để hy vọng rằng tôi có thể hua thanh kiếm lên một lần nữa)

    [​IMG]
    Cảnh các kị sỹ Pháp lao qua những cung thủ Anh để chiến đấu với những kị sỹ đã xuống ngựa để chiến đấu của họ

    [​IMG]
    Cảnh các kị sỹ Pháp lao qua những cung thủ Anh để chiến đấu với những kị sỹ đã xuống ngựa để chiến đấu của họ

    Bất kể sự thật là như thế nào thì lúc này các kị sỹ của John de Luxembourg đã triển khai tấn công và lao vào cuộc chiến với tiếng thét "Prague!" của họ (John de Luxembourg là vua của vùng Bohem), họ đã tấn công vào quân Anh với những thành công lớn hơn. Theo Frossart: "Một số lãnh chúa và hiệp sĩ và hộ sỹ ở toán quân người Pháp chiến đấu bên cạnh một số người Đức và người vùng Savoy, đã vượt qua các cung thủ của Hoàng tử xứ Wales và phi ngựa ngược lên trên để tấn công các kị sỹ của ông ta (Hoàng tử xứ Wales) bằng kiếm, chiến đấu tay đôi với sự dũng cảm tuyệt vời ... tất cả tinh hoa của tinh thần thượng võ Anh đều đã tập trung xung quanh để bảo vệ Hoàng tử xứ Wales " Trong trận cận chiến này John de Luxembourg và những tùy tùng của ông đều đã bị kéo xuống từ những con ngựa của họ và bị giết chết..

    Buổi sáng hôm đó vua Philip đã đưa cho John của Hainault (anh vợ của Edward III) một con ngựa đen, ông này đã đưa nó cho người mang cờ hiệu của mình-Sir John de Fusselles. Cưỡi trên con ngựa chiến tuyệt vời này Fusselles đã phi ngựa xuyên qua tuyến phòng tuyến của quân Anh và đến tận phía bên kia. Tuy nhiên, con vật này đã bị giật mình bởi một mũi tên và rơi vào hố bẫy và làm cho người cưỡi nó bị mắc kẹt, phải đến khi viên kiếm đồng của Fusselles chạy xung quanh vị trí người Anh và giải phóng chủ của cậu ta trước khi họ có thể quay trở lại bằng những cách khác nhau.

    [​IMG]
    Tranh vẽ cảnh John de Luxembourg đã đánh ngã và xuýt nữa bắt sống Edward-Hoàng tử xứ Wales


    [​IMG]
    Hoàng tử Đen được cứu thoát và rồi ông lại tiếp tục đứng dậy chiến đấu

    Trong đợt tấn công của John de Luxembourg, Hoàng tử Edward bị bắt tù binh trước khi ông được giải cứu bởi người mang cờ hiệu của mình-Sir Richard Fitz Simon. Ông này (Richard Fitz Simon ) được cho là đã phải bỏ lá cờ hiệu xuống để bảo vệ Hoàng tử của mình, nhưng điều này được coi là trái với nhiệm vụ của một hiệp sỹ mang cờ hiệu và đây có thể là một truyền thuyết để giải thích tại sao lá cờ hiệu bị hạ xuống trong một thời gian ngắn. Nguồn từ người Flesmish cho rằng Bá tước của Hainault giằng lá cờ từ tay của Fitz Simon cho đến khi ông này và Sir Thomas Daniel lại dựng nó lên một lần nữa. Trong khi đó, Bá tước của Northampton nhận được một tin nhắn từ Godfrey de Harcourt và gửi đơn vị của ông ở đó gần nhất-đơn vị được chỉ huy bởi Bá tước của Arundel, để trợ giúp cho vị Hoàng tử. Sir Thomas Norwich cũng viết thư đến nhà vua để xin tiếp viện có thể là, theo Froissart thì nhà vua Anh đã trả lời như sau " ngài Tomas, con trai của tôi đã chết hoặc gục ngã do bị thương chưa mà nó không thể tự giúp chính mình? Trong trường hợp này thì chưa, do đó câu trả lời nổi tiếng của Edward III là " Tôi ra lệnh rằng thằng bé phải được phép kiếm một chiếc đinh thúc ngựa ( ám chỉ danh hiệu Hiệp sỹ ) cho nó, đó là mong muốn của tôi nếu hôm nay là ngày của nó, vinh quang của ngày hôm nay thuộc về nó và những người tôi đã giao nó cho họ. " Nhiều khả năng Edward từ vị trí của mình trên sống núi đã nhìn thấy đợt phản công của Arundel và nhận ra rằng mối nguy hiểm đã qua.

    [​IMG]
    Cảnh các kị binh Pháp vẫn tiếp tục lao qua xác của đồng đội của mình để tấn công nhưng lần nào cũng thất bại

    Lúc này cả hai chỉ huy của kị binh Pháp là Alençon và Luxembourg đều đã chết, nhưng người Pháp vẫn tiếp tục tiến hành tới 13 đợt tấn công bằng kỵ binh nữa, mỗi đợt tấn công của họ lại để lại rất nhiều người đã chết và bị thương ở phía trước các vị trí của người Anh. Nhất là ở trước mặt đạo quân của Hoàng tử xứ Wales mặc dù đơn vị của Bá tước Northampton cũng bị tấn công. Ở cánh trung tâm dường như Edward III chỉ gửi quân tiếp viện khi cần thiết, lực lượng tiếp viện bao gồm vị Giám mục Durham và 20 hiệp sĩ để giúp con trai mình.

    [​IMG]
    Cảnh các kị sỹ Anh nhảy lên ngựa và phản công vào các kị sỹ Pháp lúc này đang rối bời

    Các cuộc tấn công của Pháp trở thành hoảng loạn và vỡ vụn, cho đến khi hoàng hôn xuống Edward III đã ra lệnh cho người Anh tiến lên. Những con ngựa đã được đưa ra và sau khi thành lập các đội hình controi, kị binh của người Anh bắt đầu tấn công. Hầu hết những gì còn lại của quân đội Pháp đã bỏ chạy mặc dù những tùy tùng riêng của Philip VI vẫn đứng vững với 50 -> 70 tay thương cùng với các đơn vị kỵ binh và các dân binh của vùng Orleans. Ngựa của Philip đã bị giết chết hai lần dưới chân ông và có thể ông đã bị trúng một mũi tên vào hàm và viên hiệp sỹ cầm cờ hiệu của ông đã bị giết chết, cả hai lá cờ hiệu của hoàng gia và Oriflamme đều bị bắt giữ. Cuộc chiến vẫn tiếp tục cho đến tối, bộ binh người Anh, xứ Walsh và Cornish tiến lên phía trước để giết những người bị thương và choáng váng đang nằm rải rác xung quanh Vallee des Clercs. Có những nỗ lực muộn mằn để bắt tù binh một số kẻ thù, Godfrey de Harcourt đã không thành công trong việc cố gắng để cứu mạng sống của John de Harcourt-anh trai của ông. ( ko biết ông sau chiến đấu cho phe nào)

    [​IMG]
    Bản đồ mô tả sự kiện quân Anh ( mầu đỏ ) nhảy lên ngựa và phản công đánh bại hoàn toàn quân Pháp ( mầu xanh)

    Cuối cùng, Bá tước Hainault sống sót sau cuộc tấn công của John de Luxembourg và có lẽ cùng với một số những người khác đã túm lấy Philip VI và kéo ông ta ra khỏi bãi chiến trường. Chỉ còn một số ít người theo họ trốn đến lâu đài Labroye, nơi mà nhà vua Pháp phải rất khó khăn thuyết phục được đơn vị đồn trú nhận ra mình. Ngày hôm sau Philip đã đến Doullens. Quay lại bãi chiến trường ở Crécy, vua Edward không cho quân của mình truy kích quân Pháp đang bỏ chạy, có thể ông này cho rằng các đội quân Pháp khác còn đang kéo đến. Theo tài liệu để lại thì Edward cho chiếc cối xay gió nổi tiếng để chiếu sáng bãi chiến trường trong những giờ đầu tiên của buổi đêm, ngày hôm sau nhiều toa xe của quân Pháp đã bị đốt cháy cùng với bất cứ những thứ gì mà người Anh không thể sử dụng được.

    Trong suốt đêm đó và sáng sớm đầy sương mù của ngày hôm sau các binh sỹ Pháp vốn bị tách ra khỏi các chỉ huy của họ, đã đi lang thang xung quanh la hét mật khẩu khi họ cố gắng để tìm bạn bè và người thân. Nhiều người bị tìm thấy bởi người Anh và tất cả đã bị giết vì người chiến thắng vẫn bắt tù binh. Một đội quân Pháp khoảng 2,000 người vốn không biết gì về kết quả của trận chiến và đã trú đêm trên đường đến từ Abbeville. Họ là lực lượng dân binh từ Roen và Beauvais, được hộ tống bởi Bá tước Louis của Blois và Công tước Raoul của Lorraine-anh rể của ông. Edward III đã tung Warwick, Suffolk và Northampton tấn công họ, Quân Anh đã đóng giả quân Pháp ra chào đón họ và sau đó triển khai tấn công ( các chỉ huy và quý tộc Anh vào thời điểm đó sính dùng tiếng Pháp ). Sau đó những người này nhận ra sai lầm của mình và bỏ chạy mặc dù khá nhiều trong số họ đã thiệt mạng trong đó có cả công tước Raoul của Lorraine.

    Các nhà tu sỹ của tu viện Crécy Grange chăm sóc cho những người Anh bị thương. Những người đã qua đời trong khi cứu chữa được họ chôn cất trong trong góc của một cánh đồng mấp mô và chỗ này không bao giờ cò được sử dụng để canh tác. Người Anh cũng muốn phát hiện về toàn bộ chiến thắng của họ và Edward III ra lệnh cho Reginald de Cobham để tập hợp những người có thể nhận biết qua huy hiệu trên áo choàng để xác định những người đã chết. Không có tài liệu nào về chi tiết này còn tồn tại, nhưng theo Jean le Bel thì người Pháp bị mất 9 Bá tước, 12,000 hiệp sĩ và 15,000-16,000 người khác. Đây là một con số bị cường điệu hóa và thậm chí Geoffrey le Baker ước tính tổng số là 4,000 quý tộc và hiệp sĩ bị giết trên cả hai phía, nhưng có lẽ vẫn là quá nhiều. Một con số được công bố có vẻ đúng sự thật hơn là khoảng 1,542 người ( chỉ riêng các quý tộc và hiệp sỹ ).

    Nhiều người có kinh nghiệm nhất trong đoàn quân của Philip VI đã tử trận ở Crécy, nhưng thay vì cố gắng để tập hợp những lực lượng còn lại, ông này lại rút lui về Amiens, nơi ông gặp Charles-vua của La Mã và lúc này đã trở thành vua của Bohemia, John của Hainault, Bá tước của Namur và Louis Bá tước mới của Flanders. người của họ đã bị phân tán nên các chỉ huy không còn cách nào ngoài việc lên đường trở về nhà.

    Tuy nhiên, trước khi làm như vậy Philip VI đã ra lệnh hành hình tất cả những "kẻ phản bội" người Genova. Nhiều người đã bị giết trước khi sự giận dữ của nhà vua nguội đi và cũng không đáng ngạc nhiên khi những người Genova sống sót cũng đã đi về nhà. Philip cưỡi ngựa một phần tách biệt đến Pont Saint-Maxence qua rừng Hallate khoảng 56 km về phía bắc Paris. Trong khi đó con trai của ông-Công tước John của Normandy cuối cùng cũng đến được Paris vào ngày 08 tháng 10, trước khi quay lại đón cha mình từ Pont Saint-Maxence.


    SAU TRẬN ĐÁNH

    Sau khi kết thúc trận Crécy người Anh di chuyển chậm rãi lên phía Bắc với tốc độ chỉ 16 km /ngày. Họ ở lại gần bờ biển với hy vọng nhận được nguồn cung cấp bằng đường biển, và lại một lần nữa phá hủy một khu vực rộng 30 km, công chiếm Etaples và tiến hành một cuộc tấn công bất thành công vào Montreuil-sur-Mer. Vào ngày 1 tháng 9 quân đội của Edward nghỉ ngơi tại Neufchatel và ngày hôm sau họ dừng lại ở Womille ở phía bắc Boulogne để xem xét tình hình. Quân Anh tại Caen đã bị tiêu diệt bởi quân Pháp đồn trú trong lâu đài và Edward nhận ra rằng ông không còn có thể giữ lại vùng Normandy được nữa. Đây là một nỗi thất vọng nặng nề cho những người quý tộc gốc Norman-những người là nòng cốt của quân đội Anh. Lúc này Edward quyết định triển khai bao vây Calais thay vì Boulogne bởi vì nó sẽ là một căn cứ tốt hơn cho các hoạt động trong tương lai và gần gũi hơn với các đồng minh người Flemish của ông.

    [​IMG]
    Bản đồ mô tả hướng hành quân của quân Anh đến Calais, đây là phần lãnh thổ duy nhất mà người Anh chiếm được của người Pháp trong năm 1346

    Ngày 03 tháng 9, Wisant-chiếc cảng cổ xưa đã bị phá hủy và vào ngày 4 đội quân tiên phong của quân Anh đã đến được đầm lầy bao quanh Calais. Ngày hôm đó hạm đội Anh cũng đã tấn công Boulogne nhưng đã bị đẩy lui. Sau đó họ đã liên hệ với Vua Edward, ông này lại viết một lá thư yêu cầu gửi người và vật tư cho cuộc bao vây sắp tới vào Calais. Một vài ngày sau đó, các đội tàu cung cấp vốn được chờ đợi trong nhiều ngày đã đến từ nước Anh dưới sự chỉ huy của Sir John Montgomery. Khoảng thời gian này cuối cùng Godfrey Harcout không còn hy vọng nhận được bất cứ thứ gì từ người Anh và bỏ đi đến Brabant.

    Quân đội Pháp thất bại trong chiến dịch Crécy đã là đề tài tranh luận nóng bỏng trên cả hai bờ của English Channel. Rõ ràng quân đội của vua Philip đã không dàn quân đúng cách trong trận chiến, cuộc tấn công của họ đã bắt đầu quá muộn trong ngày và nhiều cuộc tấn công bằng kỵ binh của họ có phối hợp rất kém. Tuy nhiên, sẽ là sai lầm khi đổ lỗi tất cả thất bại vào các kị sỹ Pháp hay vào lính bắn nỏ Genova. Các cuộc tấn công cũng không mất tổ chức hơn bình thường, trong khi những kị sỹ có khả năng quay lại, tập hợp để tái tạo lại những cuộc tấn công thì ta phải thấy họ có khả năng điều khiển ngựa, kỷ luật, dũng cảm và có kiểm soát một cách tuyệt vời

    Lý do cho sự thành công của người Anh được ưa chuộng nhất bởi các sử gia người Anh là sự vượt trội của các cây cung so với các cây nỏ. Carlo Grimandi tự thừa nhận rằng lính bắn nỏ Genova có phạm vi bắn quá ngắn so với các cung thủ trường cung Anh, trong khi Villani cho biết khi cung thủ Anh bắn được ba mũi tên thì lính bắn nỏ mới chỉ bắn được một. Các khả năng của các cung thủ trường cung chiếm ưu thế hoàn toàn so với lính bắn nỏ là hoàn toàn đúng, tuy nhiên có được kết quả đó cũng một phần do cơn mưa và cơn mưa này đã làm cho những phát bắn nỏ trở nên kém hiệu lực.

    Những cung thủ trường cung Anh có kỹ năng cao đã trở thành một cái gì đó tương tự như lực lượng tinh nhuệ vốn được tuyển dụng từ các gia đình quý tộc Anh, nhưng rõ ràng lại bị giới hạn cho sức mạnh quân sự mới của Anh quốc. Điều đáng chú ý là quân Anh vẫn chỉ chiến đấu tốt ở những trận đột kích và những trận đánh mở, nhưng họ không bao giờ có được hiệu quả tương tự trong chiến tranh bao vây. Tuy nhiên, tác động tâm lý của trận đánh là rất lớn với người Anh và sự tự tin của họ tăng vọt lên cao. Những binh lính trở về nhà đã lan truyền ý tưởng rằng rất dễ dàng trong việc chiếm đóng nước Pháp và mặc dù những người này thường phải bán chiến lợi phẩm của họ thấp hơn giá trị thực sự của nó, Thomas Walsingham đã viết rằng: "Những người phụ nữ đã được lợi gì, họ là người không được sở hữu bất cứ thứ gì từ các chiến lợi phẩm của Caen và Calais và những thành phố khác ở nước ngoài dưới dạng quần áo, lông thú, mền bông và đồ dùng. "

    Sự thay đổi thái độ này đã làm cho Edward III dễ dàng hơn nhiều trong việc tuyển quân ở trong nước và đã có trường hợp của thăng tiến từ cung thủ-thứ hạng khiêm tốn tới kị sỹ và đội trưởng của thập kỷ 1350. Chiến thắng của Edward III cũng được coi là bằng chứng của Thiên Chúa chấp thuận cho tuyên bố về sở hữu ngai vàng của tại Pháp, như John Erghome của Yorkshire đã viết: "Thiên Chúa đã ban cho người Anh sức mạnh của vũ khí trong cuộc chiến chống người Pháp vì lợi ích mà họ có trong vương quốc Pháp" Trong khi đó Philip VI chở thành cái bia cho những lời chế giễu cụ thể.

    Tại nước Pháp tác động của trận thất bại ở Crécy và sau đó là sự thất thủ của Calais là những vấn đề chính trị và quân sự, các kỵ sỹ đã học được bài học phải cảnh giác với các cung thủ trường cung Anh, không phải quá nhiều cho bản thân họ mà là cho những con ngựa dễ bị tổn thương của họ. Và các kị sỹ Pháp cũng bắt đầu xuống ngựa để chiến đấu mặc dù chiến thuật cơ bản của họ vẫn là tấn công. Chiến dịch của Edward III có thể chỉ giành chiến thắng trên một lãnh thổ nhỏ và chỉ giữ lại được Calais, nhưng hậu quả của nó là tạo ra thiệt hại rất lớn trên toàn miền Bắc nước Pháp và là một thảm họa chính trị cho Philip VI. Về tâm lý tác động là ngược lại so với những gì đã thấy ở Anh: Crécy là một cú sốc lớn cho giới quý tộc Pháp và danh tiếng của tầng lớp hiệp sĩ đã bị mai một. Quan điểm của Pháp về người Anh điển hình thường là không tốt: họ luôn cho rằng người Anh là những người bạo tàn, cặn bã đê tiện của nhân loại… và trong tương lai hai nước này còn thù địch với nhau hàng trăm năm nữa, có lẽ phải đến chiến tranh thế giới I thì họ mới chịu đứng cùng một chiến tuyến.

    Ở bên ngoài nước Pháp trận Crécy có tác động ít đến nghệ thuật quân sự của các quốc gia hơn là người ta dự đoán mặc dù các cung thủ và kị sỹ người Anh đã nhanh chóng được hoan nghênh như là những lính đánh thuê ở Italia. Carlo Grimandi một lần nữa lại chở thành Lãnh chúa của Monaco và là nhà thầu quân sự hàng đầu trong việc tuyển dụng lính đánh thuê người Genova, và rồi ông ta cũng phục hồi đầy đủ để tham gia những cuộc viễn chinh khác trước khi chết vào năm 1357. Ranieri-con trai ông cũng gần như chở thành vua của Menton, và vẫn là một người chư hầu trung thành của nước Pháp cũng như hầu hết các thành viên khác của gia đình Grimaldi. Hậu duệ của Carlo Grimaldi vẫn sở hữu Monaco cho đến ngày nay.
  4. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Trận Poitiers năm 1356



    [​IMG]
    Các thông tin của trận đánh này được lấy từ quấn " Poitiers 1356 the capture of a king"


    Những sự kiện lớn giữa Pháp và Anh trước khi xảy ra trận Poitiers



    [​IMG]
    Bản đồ tình hình nước Pháp sau trận Crécy tới năm 1355

    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Năm 1347 Vùng Bearn tự tuyên bố là một tiểu quốc độc lập bởi Bá tước Gaston Phoebus của Foix nhưng không được nhà vua Pháp chấp nhận. Bệnh dịch “ Black Death” loang tới Marseilles.

    Năm 1349 Vùng Dauphine được mua lại từ Đế chế La Mã Thánh thần, chiếm được vùng Montperllier từ tay của xứ Aragon
    Tháng 12 Bá tước Lancaster đột kích vào vùng Languedoc tới tận Toulouse sau đó lại phải tháo chạy.

    Năm 1349 -> 50 Người Pháp chiếm lại các vùng Prigny, Bouin, Beauvoir và Noirmoutier ở phía nam vùng Brittany từ tay người Anh và các đồng minh của họ.

    Năm 1351 -> 52 Người Anh thiết lập các đơn vị đồn trú ở tỉnh Quercy, mặc dù các thị trấn trung tâm vẫn nằm trong sự kiểm soát của người Pháp.

    Năm 1355 Tháng 10 -11 Cuộc Đại đột kích của Hoàng tử xứ Wales vào vùng Languedoc đã với tới Narbon.
    Tháng 11 Các đợt tấn công du kích được tiến hành bởi vua Edward III từ Calais đã tới Hesdin, nhưng nhà vua đã rút lui khi đối mặt với quân Pháp từ Amiens.
    Tháng 12 ( tới tận tháng 2 năm 1356) Nhiều thị trấn ở các tỉnh Perigord, Guyenne và Agenais bị chiếm bởi quân Anh.

    Năm 1356 Tháng 6 Đại diện của các thị dân vùng Languedoc tập hợp tại Beziers để bàn cách hợp tác phòng thủ.
    Ngày 19 tháng 6 Bá tước Stafford mang thêm quân tăng viện và chỉ thị của vua Edward III tới Hoàng tử Đen tại Bordeaux
    21 tháng 6 Phái đoàn hòa giải của Giáo hoàng rời Avignon và hướng đến triều đình Pháp.
    Tháng 6 ->7 Bá tước Lancaster tiến hành đột kích khắp vùng Normandy.
    Tháng 7 Southampton được tuyên bố là điểm lên tầu cho một cuộc viễn chinh tới nước Pháp. Vua John II của Pháp cử Bá tước Poitiers tới Bourges để tập hợp quân đội.
    Ngày 6 tháng 7 Hoàng từ xứ Wales tiến đến La Reole, đây là điểm tập hợp của quân đội người Gascon ( quân đội người Pháp thân Anh).
    Ngày 12 tháng 7 Vua John tiến hành bao vây Breteuil
    Đầu tháng 8 Hạm đội của người Aragon đã đến sông Seine, bá tước Poitiers thiết lập sở chỉ huy của ông ta ở Bourges
    Tháng 8 ( hoặc đầu tháng 9) Bá tước Lancaster tiến quân với mục đích hỗ trợ cho Hoàng tử xứ Wales
    Ngày 4 tháng 8 Quân đội của Hoàng tử Đen đến được Bergerac được chia ra thành nhiều toán quân nhỏ để phòng thủ xứ Gascony.
    Ngày 9 tháng 8 Hoàng tử Đen tiến tới Brantome
    Ngày 10 tháng 8 Hạm đội của xứ Aragon đã chặn đứng việc chuyển quân tiếp viện từ Southampton đến Pháp.
    Ngày 12 tháng 8 Hoàng tử xứ Wales tiến đến Rochechouart.
    Ngày 18 tháng 8 Bá tước Poitiers rút khỏi Bourges và thiết lập một sở chỉ huy mới ở Decise vào ngày 21 tháng 8, ông nhận được lệnh phải giữ được vùng Loire tới khi nhà vua và nhà Dauphin ( hoàng tộc của Pháp thời đó) tới và tăng viện cho ông.
    Ngày 20 tháng 8 Quân đồn trú người Navarres tại lâu đài Breteuil đã đầu hàng trước vua John.
    Ngày 22 tháng 8 Hoàng tử xứ Wales tiến đến vùng Argenton.
    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Ngày 7 tháng 9 Hoàng tử xứ Wales đến được Tours và thiết lập sở chỉ huy tại Montlouis, các cuộc tấn công của người Anh vào Tours đều thất bại.
    Ngày 8 tháng 8 Quân đội của nhà vua John đến được Meung-sur-Loire.
    Ngày 10 tháng 9 Vua John hội binh với Bá tước Poitiers, vượt sông Loire và hành quân đến Amboise.
    Ngày 11 tháng 9 Hoàng tử xứ Wales rút lui về phía nam, vượt qua sông Cher và Indre để đến Montbazon.
    Ngày 12 tháng 9 Phái đoàn hòa giải của Giáo Hoàng đến gặp Hoàng tử Đen, cũng khoảng ngày hôm đó Quân đội Pháp dưới sự chỉ huy của Charles Dauphin ( sau này là vua Charles V của Pháp) đã tới Tours, vua John hành quân từ Amboise về hướng Poitiers.
    Ngày 13 tháng 9 Hoàng tử Đen đến được thành phố La Hay thuộc vùng Creuse. Vua John đến được vùng Loches.
    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Ngày 14 tháng 9 Vua John đến La Haye. Hoàng tử Đen đến đến được Châtellerault và ở lại đó 3 ngày với hy vọng liên lạc được với Công tước Lancaster-người đã không thể vượt sông Loire.
    Ngày 15 tháng 9 Vua John đến được vùng Chauvigny
    Ngày 17 tháng 9 Hoàng tử Đen rời vùng Châtellerault, ông ta đến được vùng Chauvigny-Poitiers và thấy rằng quân Pháp đang tiến về Poitiers, đại úy de Buch tấn công vào hậu quân Pháp tại La Chaboterie, quân Anh rút lui và đóng trại trong rừng.
    Ngày 18 tháng 9 Người Anh phát hiện ra rằng quân Pháp hạ trại ở giữa Poitiers và Savigny-Levescault, Hoàng tử xứ Wales dàn quân đội của ông ta ở phía Bắc của Nouaillé.
    Ngày 19 tháng 9 Nổ ra trận Poitiers, Hoàng tử xứ Wales đánh bại và bắt tù binh vua John II.
    Ngày 21 tháng 10 Liên quân Anh-Gascon hành quân về phía nam từ Poitiers.
    Ngày 29 tháng 9 Charles Dauphine tiến vào Paris để thành lập một chính phủ Pháp mới.
    Cuối tháng 9 Công tước xứ Lancaster rút lui về Brittany.
    Ngày 3 tháng 10 Quân Anh và những người Breton ủng hộ họ đã bao vây không thành công Rennes.
    Tháng 10 năm 1356 tới tháng 1 năm 1358 Liên quân Anh-Navarrese chiếm được phần lớn những vùng lãnh thổ của Normandy.
    Tháng 12 Vùng Pont-Audemer bị tái chiếm bởi Charles Dauphine.
  5. xinloiemyeu

    xinloiemyeu Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    16/01/2011
    Bài viết:
    1.249
    Đã được thích:
    1
    hay lắm.viết tiếp đi bác sơn.
  6. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Trong phần lớn thời gian Trung cổ, chế độ xã hội của Pháp và Anh rất giống nhau, đặc biệt là trong các vùng trung tâm của phía Nam nước Anh và miền Bắc nước Pháp. Hơn nữa giai cấp thống trị của Anh vẫn nói tiếng Pháp và phần lớn có nguồn gốc Pháp. Ngược lại có sự khác biệt đáng chú ý trong văn hóa, ngôn ngữ và pháp luật từ miền nam nước Pháp vốn là di sản của nền văn hóa La Mã -Địa Trung Hải. Vì vậy, rất hài hước khi những tài sản đất đai lớn nhất trên đất Pháp lại thuộc về nước Anh và những đồng minh trung thành nhất của Pháp lại ở vùng Aquitaine (một vùng đất đã từng thuộc về nhà Plantagenet) ở phía tây nam Pháp, ở đó mặc dù không phải là vùng thuộc Địa Trung Hải, nhưng nó vẫn bảo quản nền văn minh Romano-Christian trong suốt thời gian đầu thời trung cổ.

    Trong những thập niên đầu của cuộc chiến tranh trăm năm giữa nước Pháp và nước Anh người ta đã thấy hai chiến thắng đáng chú ý của người Anh. Đầu tiên là chiến thắng trên biển, gần cảng Sluvs năm 1340. Chiến thắng thứ hai gây nhiều ngạc nhiên hơn đối với các quốc gia châu Âu khác-đó là việc vua Edward III đã đánh bại và ghiền nát quân đội của vua Philip VI tại trận Crécy trong năm 1346. Đột nhiên, một vương quốc đã được ghi nhận vì hòa bình và thịnh vượng hơn là sức mạnh quân sự thu được từ danh tiếng của một quân đội có hiệu quả chiến đấu cao và các cung thủ trường cung vốn ngày càng được tôn trọng.

    .
    Hai năm sau thất bại ở Crécy, nước Pháp lại phải chịu một thảm họa lớn hơn với sự xuất hiện của Black Death-đó là bệnh dịch hạch vốn đã nhanh chóng lan rộng trên hầu như tất cả các châu Âu, nhưng dường như mới nhập vào Pháp qua cảng Địa Trung Hải và bùng phát mạnh ở thành phố cảng Marseilles. Hàng triệu người chết trong nhiều đợt dịch bệnh và một số sử gia cho rằng có đến nửa dân số Pháp đã thiệt mạng vì bệnh dịch này.

    Không có gì đáng ngạc nhiên, Black Death đã làm cho cuộc chiến giữa Anh và Pháp phải tạm dừng. Thậm chí bệnh dịch hạch đã tác động đến sự sẵn có của những đàn ngựa bởi vì nó làm sụp đổ nền kinh tế dân cư ở vùng nông thôn, điều có nghĩa là không có đủ thức ăn để giữ cho những đàn ngựa còn sống. Đây là những yếu tố cực kỳ quan trọng, bởi vì vào giữa thế kỷ 14 Chiến tranh Trăm năm là một cuộc chiến tổng lực trên cả mặt trận quân sự lẫn kinh tế và nó đã mang lại sự căng thẳng nghiêm trọng về tài chính cho cả hai phía.


    Khi John II lên ngôi của Pháp năm 1350, ông thừa hưởng một vương quốc bị suy yếu do nạn đói, bệnh tật và hàng loạt các cuộc tấn công cướp phá trên diện rộng của người Anh. Vị vua trẻ tuổi đã cai trị vương quốc với sự hỗ trợ của một nhóm nhỏ các Đại qúy tộc cấp cao và các đại diện của các tầng lớp quý tộc thấp hơn. Họ đều đồng thuận rằng việc cần thiết trước mắt là phải có những thứ như những sắc thuế mới. Những lãnh chúa mạnh nhất thường hội họp với nhà vua của họ trong căn cứ quyền lực địa chính trị của riêng họ và không giống như Nghị viện Quý tộc Anh, Quốc-Hội Pháp vẫn chưa phát triển. Mặt khác vua John II đã có nhiều cố gắng để cải cách chính phủ, củng cố quyền lực của hoàng gia và tăng cường sức mạnh của quân đội Pháp để có thể trỗi dậy sau những thất bại bất chấp sự khinh miệt của người Anh. Để tiếp tục kiểm soát cái chính phủ vừa mới tái cơ cấu của mình, John II đã từ bỏ lối sống lưu động giống như của Philip VI-cha của ông và dành phần lớn thời gian của mình sống ở trong hoặc gần Paris. Ông cũng đã chọn ra ba Giáo sỹ cao cấp ( giáo sỹ là tầng lớp trí thức của châu Âu thời Trung cổ ) từ tầng lớp quý tộc để làm việc như những nhà lãnh đạo quân sự và giúp đỡ ông trong việc tiến hành cải cách tổ chức trong thời gian các hiệp định ngừng bắn với nước Anh được kéo dài. Tất nhiên là không phải tất cả các chính sách mới của vua John đều là đúng đắn chẳng hạn như vào năm 1352 ông đã gả con gái của mình cho vua Charles của Navarre – vốn được biết đến trong lịch sử như là Charles the Bad ( gã tồi tệ). Sự kiện này sẽ gây ra một loạt các vấn đề nghiêm trọng trong tương lai từ Charles của Navarre vì ông này cho rằng mình có quyền lên ngôi vua của nước Pháp.


    Vào năm 1355 khoảng thời gian tồi tệ nhất của bệnh dịch hạch đã qua và vương quốc đang ở giai đoạn phục hồi. Tuy nhiên, quân đội dã chiến của Pháp trong những năm của thập kỷ 1350 nhỏ hơn một cách đáng kể hơn so với chính nó hồi ở Crécy. Theo các cải cách của vua John II, quân đội thu nhỏ lại hơn nhưng vẫn cần phải có hiệu quả hơn. Ví dụ, năm 1351 nhà vua ra lệnh rằng tất cả các tay nỏ đang phục vụ cho ông được cung cấp với một chiếc dây cu roa để tăng sức mạnh và kích thước vật lý của cây nỏ. Ở những nơi khác, hình thức phòng thủ truyền thống của các đô thị đã bị lãng quên trong những thập kỷ hòa bình trước khi nổ ra chiến tranh Trăm năm, đặc biệt là ở Poitou nơi mà quân Anh đã tiến hành các cuộc đột kích khốc liệt vào năm 1356 và lên đến đỉnh điểm là trận Poitiers. Bằng những nỗ lực đáng kể đã được thực hiện để phục hồi và cải thiện hệ thống
    guet, arrirere-guet ( tiếng Pháp nên chịu ) và hệ thống phòng thủ ở các thành phố và thị xã. Ví dụ như ở Chatellerault những guetteur hoặc `đài quan sát ' là những người được đề cử bởi hội đồng thành phố để canh chừng trên chiếc đồng hồ từ tháp chuông của nhà thờ thánh St. Jacques. Đáng buồn là những nỗ lực này tỏ ra quá chậm và không hiệu quả để có nhiều ảnh hưởng vào năm 1356. Tương tự, những cố gắng để tăng cường hệ thống công sự ở đô thị và các lâu đài có rất ít ảnh hưởng và nhiều sử gia đã đổ lỗi cho thất bại vào các cải cách của vua John và sự 'phản bội' của các tầng lớp quý tộc trong việc thực hiện nghĩa vụ quân sự vì họ đã tỏ ra ích kỷ, chỉ tìm cách bảo vệ quyền lợi cá nhân, bè phái và vô kỷ luật.

    Trong khi đó tại Anh có ít nỗ những lực cải cách hơn vì quân đội Anh đã chứng tỏ được tính hiệu quả của họ. Trong thực tế những thành công ban đầu của vua Edward đã được nhìn nhận như bằng chứng của sự hỗ trợ của Chúa cho sự nghiệp của ông. Sau khi trận chiến Crécy kết thúc, Joltn Erghome của Yorkshire đã viết: "Thiên Chúa đã ban cho người Anh sức mạnh của vũ khí trong cuộc chiến chống người Pháp vì lợi ích mà họ có trong vương quốc Pháp"... Tuy nhiên sau đó có một mối quan tâm lớn rằng người Pháp sẽ tìm cách lừa người Anh về những khoản chiến lợi phẩm của chiến thắng qua việc ký các hiệp ước hòa bình, các điều ước quốc tế và ngoại giao quanh co. Thậm chí người Anh ngày càng nghi ngờ rằng Giáo hoàng đã ủng hộ Pháp ( có vẻ như đây cũng là một nguyên nhân để người Anh tách riêng ra thành lập Giáo hội Anh giáo ). Cùng với những điều này là nỗi sợ bị người Pháp trả thù bởi vì từ trước đến lúc đó nước Pháp vẫn là một cường quốc lớn và lâu đời.


    Vào gần thời gian đó, quan điểm truyền thống của Anh về việc được hưởng lợi từ những chiến thắng ban đầu của họ đã bị thách thức, ít nhất là tại những khía cạnh mà chính phủ Anh đã quan tâm tới, kể cả việc chi phí của các cuộc chinh phạt ngày càng rất lớn. Tuy nhiên, chắc chắn là có một số cá nhân được hưởng lợi từ những chiến dịch thành công. Mặc dù quân đội thời trung cổ là rất nhỏ so với tiêu chuẩn hiện đại và dân số thời trung cổ cũng rất ít nên số đàn ông tham gia quân đội đôi khi tương đương với 10 -> 15 % số nhân lực sẵn có nếu nếu so sánh với thời hiện đại. Ngoài ra ý tưởng cho rằng khi quân đội Anh ra khỏi đất nước của họ thì họ được "người Pháp trả tiền " là một suy nghĩ sai lầm. Những cuộc chinh phạt Quân sự lớn cần đế một số tiền rất lớn cũng như lừa, ngựa, thức ăn gia súc và phương tiện vận chuyển. Cũng không phải những người đàn ông tham gia vào các chiến dịch này chỉ đơn thuần là những chiến sỹ-những kẻ vô tích sự trong thời bình. Ngược lại, trong họ bao gồm cả một số những người dân có tay nghề cao. Các Lãnh chúa quý tộc bị mất nhiều người thuê đất của họ và những người hầu cận một cách vĩnh viễn nếu họ bị tử trận. Nhưng cái giá phải trả cho bên thua thậm chí còn lớn hơn nhiều. Ngay cả khi có người còn sống sót, tiền chuộc để phóng thích những người bị giam cầm có thể sẽ phá hủy nhiều gia đình một cách vĩnh viễn.


    Một thắng lợi lớn cho người Anh trong giai đoạn đầu tiên của Cuộc chiến Trăm năm là việc chiếm đóng Calais trong năm 1347. Sự kiện này giúp cho sự thống trị của người Anh ở Straits Dover thêm vững vàng và để củng cố thắng lợi này chiếc cảng đã được gia tăng dân số bằng người định cư Anh. Các cuộc đột kích của Hải quân Pháp vào bờ biển Anh đã bị triệt phá và sẽ không thể phục hồi cho đến thập kỷ 1370, mặc dù vẫn còn một số cuộc tấn công lẻ tẻ. Một điểm quan trọng tương đương là sự an toàn của tuyến vận chuyển đường biến đến và đi từ nước Anh tới vùng Aquitaine. Tuyến đường biển này sẽ tồn tại một cách an toàn cho đến khi Hạm đội tàu galley của xứ Castilian vốn là đồng minh của người Pháp xuất hiện tại English Channel.


    Khi những hoạt động quân sự lớn lại được tiếp tục trong năm 1355, người Anh lại tiếp tục chiến lược trước đây của họ, đó là đột kích một cách sâu rộng vào các vùng Normandy, Brittany và các vùng đất tại tỉnh Aquitaine thuộc sự cai quản của người Pháp và gây ra những hậu quả khốc liệt cho họ. Trong khi vua Edward III của Anh cho triệu tập Nghị viện của ông ta thì vua John II cũng cho mời
    Etáts Generaux, hay là States General ( một hội đồng quý tộc nhưng chưa phát triển được thành Nghị viện ) vào cung điện của ông. Ngày mùng 1 tháng 9 năm 1355 vua Pháp yêu cầu ra lệnh tổng động viên và trong 10 tháng quân đội của ông đã đạt được một số chiến thắng nhỏ. Về phía người Anh, ba cuộc tấn chevauchée ( càn quét, cướp bóc ) quy mô lớn đã được tiến hành, nhưng chỉ có một cuộc có thể được coi là thành công. Cuộc chevauchée của Vua Edward III từ Calais là một thất bại, trong khi đó cuộc càn quét được chỉ huy bởi Công tước Lancaster tại Normandy cũng tương tự chỉ đạt được những kết quả ít ỏi vì các cuộc đàm phán với Charles Navarre đã bị phá vỡ.

    Ngược lại, cuộc hành binh của Hoàng tử xứ Wales từ Bordeaux trên bờ biển Đại Tây Dương của Pháp đến thành phố Narbonne ở đầu bờ Địa Trung Hải đã gây ra thiệt hại rất lớn. Hiệp ước Valonges ký vào ngày 10 tháng Chín năm 1355 đã hoà giải mâu thuẫn giữa vua John II Pháp và vua Charles của Navarre ( dù là chỉ tạm thời ). Sự kiện này được xem như là một mối đe dọa đến lợi ích của người Anh và vì vậy Edward III đã ra lệnh cho con trai ông-Hoàng tử Edward của xứ Wales – người sau này sớm được biết đến như là Hoàng tử đen - khởi động một cuộc chevauchee lớn qua các vùng đất của Jean d'Arrnagnac, một người ủng hộ chính của vua John II ở phía tây nam nước Pháp. Trước khi đoàn chinh phạt này xuất quân vua Anh đã cho triệu tập Nghị viện mà nội dung của cuộc họp theo Chandos Herald là: " Tất cả đã đồng ý để cử Hoàng tử xứ Wales tới xứ Gascony, bởi vì ông này rất nổi tiếng ở đó và tấn phong cho ông ta ngay lập tức để ông có thể lên đường với các chỉ huy là những quý tộc như Bá tước Warwick, Bá tước Salisbury, Bá tư
    ớc Suffolk / Ufford, Bá tước Oxford, Bá tước Stafford, Sir Bartholomew de Bulghersh, Sir John Montagu, Lord Despenccr, Lord Mohun, Reginald Cobham, cùng với Chandos và Audley là hai có người có danh tiếng lớn được bổ nhiệm làm cố vấn …" Sau đó hầu hết các quý tộc này đều nổi bật trong trận Poitiers.

    Vào cuối tháng 9 năm 1355, khoảng 1000 kị sỹ, 1.000 con ngựa, 300-400 bộ binh cung thủ và 170 tay giáo người xứ Wales đã khởi hành trước để đi Plymouth. Hòang tử cũng đã "giao kèo" với vua Edward để được cung cấp thêm 433 kị sỹ, 400 con ngựa thiết giáp và 300 bộ binh cung thủ, ông cũng cần ít nhất 833 con ngựa ngoài những con ngựa của các chỉ huy, của đoàn tùy tùng của họ và nhân viên hành chính cần thiết chứ không đề cập đến những toa xe và súc vật để chở hành lý. Một số kị sỹ được phép mua ngựa ở Gascony và những con ngựa để thay thế cho những con sẽ bị giết trong chiến đấu cũng được tìm ở đó, tất cả đều được định giá trị bởi vị Nguyên soái của Bordeaux. Những con ngựa được vận chuyển trực tiếp từ Plymouth đã chắc chắn được 'thẩm định' (giá trị) và đánh dấu bởi John Gevncourt và các trợ lý của ông, trong khi hai chiếc phà khác dùng để chở quân và Larnbkyn Sanddler cung cấp một số đồ trang bị cho chính ngựa của Hoàng tử xứ Wales.

    Vì các trang bị quân sự phù hợp rất hiếm có ở Aquitaine, mà phần nhiều chúng được gửi đến từ nước Anh. Theo quấn sổ 'Đăng ký' hoặc văn bản chính thức của Hoàng tử đen, Robert Pipot của Broukford đã được cử quay trở lại nước Anh: để mua cho ông ta (Hoàng tử xứ Wales ) một ngàn cây cung, hai ngàn sợi dây cung và bốn trăm bó tên, nhưng đã không thể mua được tên ở Anh vì nhà vua ( Edward III) đã cho tịch thu để sử dụng tất cả các mũi tên có thể được tìm thấy ở đó, lúc này Hoàng tử phải cử Robert đến từng phần của thành phố Chester để bắt giữ chính những Fletcher [ những thợ thủ công chế tạo tên] để tiếp tục sản xuất tên cho Hoàng tử cho đến khi nhu cầu của ông này về các mũi tên được thỏa mãn. Hoàng tử cũng cử người đến Lincoln để tìm mua cung tên và Cornwall để tìm ngựa cho các cung kị của ông.

    Khi Hoàng tử đen đến được Bordeaux trong năm 1355, một số lãnh chúa quan trọng ở địa phương đã đến gặp ông: Đó là hoàng thân d'Albret, Lord Montfferat, Mussidan, Roson, Curton và Amenien de Fossard và Đại Lãnh chúa của Pommiers và rất nhiều các hiệp sỹ quý tộc cùng với Lord Lesparre. Kết quả là khi quân đội của Hoàng tử khởi hành vào ngày 05 tháng 10 họ có sự tham gia của rất nhiều binh lính ở địa phương xứ Garcon, bao gồm cả viên đại úy de Buch. Cuộc chevauchée tiếp theo có thành tích rất đáng ghi nhận, họ ( liên quân Anh & Gascon ) hành quân trên 1.100 km (684 dặm) từ Bordeaux đến Narbonne và quay trở lại. Thậm chí Hoàng tử Edward còn định tấn công cả Toulouse nhưng việc này đã được chứng tỏ là quá khó khăn không có các dụng cụ bao vây thích hợp.

    Thay vào đó, Hoàng tử vội vã vượt qua các con sông Ariege và Garonne sau đó gây sức ép vào hướng đông-những khu vực trước đây chưa bị chạm tới, quân đột kích của ông đã gây ra những thiệt hại rất lớn cho vùng này. Ngay cả những vùng ngoại ô của Carcassonne đã bị đốt phá, mặc dù các thành lũy và tòa thành của nó là không thể công chếm. Những gì tương tự cũng đã xảy ra tại Narbonne nơi mà sự kháng cự của tòa thành đã thuyết phục Hoàng tử xứ Wales rằng đây là thời gian để rút lui. Quân đội của ông bắt đầu tiến hành rút lui một cách thành công bất chấp trời mưa to, con đường qua Noddy và con sông Garonne bị ngập lụt họ vượt qua chúng một cách an toàn.

    Hơn 500 khu dân cư, làng mạc và thị trấn được cho là đã bị đốt phá trong cuộc chevanchée của Hoàng tử đen trong năm 1355, và chiến dịch này đã trở thành một thảm họa cho vùng Languedoc ở miền nam nước Pháp ngay sau bệnh dịch Black Death. Hơn nữa quân đội Pháp đã bị suy yếu do có sự bất hòa giữa Bá tước Armagnac và vị Nguyên soái của vua. John II ở trong khu vực này, khiến cho họ không thể chống lại các cuộc hành quân chevanchée của Liên quân Anh-Gascon. Mặt khác quân đội của Hoàng tử đen bị mất quá nhiều ngựa: điều này được đổ lỗi khoảng cách hành quân quá xa. Trong thực tế tỷ lệ tiêu hao có lẽ bởi vì những con vật này đã không được nghỉ ngơi đầy đủ sau khi đến từ nước Anh và do đó chết vì bị lây sốt hoặc vì kiệt sức.

    Sau cuộc tấn Narbonne của mình, Hoàng tử đen đã trú đông tại Bordeaux và quân đội của ông được chia làm bốn phần đóng tại các thành lũy, hoặc các thị trấn có tăng cường phòng thủ như La Réole, Sainte-Foy, Saint-Emilion và xung quanh Libourne. Đại úy de Butch, Chandos và Audley trú qua một phần mùa đông ở trong doanh trại mở và một phần tiến hành giao tranh xa hơn với quân Pháp ở xung quanh thị trấn Agen, Cahors và Porte Sainte-Marie, thậm chí họ còn tấn công cả vào lâu đài Perigueux.

    Đáp lại thì quân đội Pháp đã tận dụng mùa đông năm 1355/56 một cách thành công và chiếm lại hơn 30 thị trấn và tòa lâu đài. Tuy nhiên, tin tức nhà vua Pháp đang huy động tiền để có một quân đội để đối phó với người Anh đã dẫn đến việc đồng tiền của Pháp bị mất giá một cách thảm hại. Sau đó còn tệ hơn nữa là việc John II lại cãi vã với vua Charles của Navarre và trong tháng 4 năm 1356 nhà vua đã tống ông này vào tù với tội phản quốc. Vì là vua của vùng Navarre-Charles là thành viên của Hội đồng quý tộc cao cấp của Pháp và có những vùng đất rộng lớn nằm trong lãnh thổ Pháp. Kết quả là Philip-em trai của Charles de Navarre đã thành lập một liên minh với vua Edward III của Anh. Sự kiện này đã mở ra những lợi thế về mặt chiến lược cho người Anh không chỉ ở phía tây nam nước Pháp mà còn ở cả miền Bắc nơi mà Philip đang nắm giữ những vùng đất đai lớn. Lúc này nhà vua Pháp không thể triển khai tấn công để phản ứng lại liên minh của Philip với kẻ thù, trong khi đó người Anh đã có một lý do để tấn công vì những tài sản của Philip de Navarre bị đe dọa.
  7. xinloiemyeu

    xinloiemyeu Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    16/01/2011
    Bài viết:
    1.249
    Đã được thích:
    1
    e là e kết nhất cái pic này của bác đấy.k spam,k pro nào lên chém gió.bài viết hay,có chất lượng.tiếp tục đi bác
  8. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    @ xinloiemyeu: Cám ơn bác đã quan tâm nha, em sẽ cố gắng để góp vui cùng các bác

    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Trong tháng 01 năm 1356 Hoàng tử đen đã tiến hành các cuộc tấn công để duy trì áp lực lên người Pháp ở Aquitaine. Bá tước của Warwick hoạt động trong vùng thung lũng Garomle, đi ngược dòng từ La Reole rồi chiếm Tortneins và Lairac. Các Bá tước Suffolk, Oxford và Salisbury đã dẫn đầu những cuộc đột kích đối vào Notre Dame de Rocamadour, trong khi Bartholomew de Burghersh tiến hành đột kích xa tới tận Cognac và Saintonge. Đại úy de Buch cũng hoạt động trong vùng này và lập các đơn vị đồn trú tại Rochefort, Tonnay và Taillebourg.

    Sau đó Chandos và Audley rời Libourne đến thung lũng Garonne tới tận Agen, vùng này vốn được bảo vệ bởi chính Jean d'Armagnac. Tuy nhiên, vị chỉ huy quân Pháp này chỉ ở lại bên trong thị trấn được bảo vệ trong khi quân Anh tiến hành tàn phá vùng xung quanh sau đó đột kích đến tận Cahors và Porte Sainte-Marie trước khi hướng về phía Bắc tới tận Périgod. Tại đây Bá tước của Perigord đã lo sợ về một cuộc tấn công của quân Anh và yêu cầu anh trai của mình-Đức Hồng Y Talleyrand nhờ Đức Giáo Hoàng thuyết phục người Anh rời khỏi thành phố của ông. Hoàng tử Đen đã được hứa hẹn là sẽ được trả rất nhiều tiền nhưng ông này đã bị từ chối và nói rằng việc của ông là để tiến hành trừng phạt những người đã 'nổi loạn' chống lại quyền lực của cha ông ta tại Aquitaine. Sau đó Perigueux đã bị bắt bởi Đại úy de Captal Buch và thiết lập một lực lượng đồn trú trước khi Đại úy lại đi đánh chiếm nhiều khu vực phía đông của Saintonge.


    Danh sách những vị trí bị người Anh chiếm đóng trong thời gian này là rất dài đến tháng 5 năm 1356 có tới hơn 30 thị trấn và lâu đài đã bị người Anh chiếm, đây là những vùng vốn thuộc về một phần của 'đế chế' Angevin tại vùng Aquitaine, đã được "phục hồi" dưới sự cai trị của Vương quyền Anh. Và một điều quan trọng đáng kể là Hoàng tử Edward đã giành lại lòng trung thành của rất
    nhiều lãnh chúa người Gaston. Các lãnh chúa này đã cung cấp người cho cuộc Chevauchée mà cuối cùng đã dẫn đến trận Poitiers. Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Điều quan trọng hơn là có nhiều lãnh chúa ở vùng biên giới phía tây bắc của vùng người Anh cai trị ngả về phía họ. Tại đây những người như Durfort, Caumont, Galard và D'Albret được xem như là những người gió chiều nào che chiều đó về chính trị, điều này cho thấy thái độ và sự đồng cảm của tầng lớp quý tộc người Garcon ở địa phương. Tuy nhiên người Pháp vẫn còn nắm giữ một số đơn vị đồn trú ở phía tây của sông Garonne, ở sâu bên trong vùng lãnh thổ này- vùng vốn bị thống trị bởi hoặc người Anh hoặc lực lượng ủng hộ người Anh.

    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Những đội quân tiếp viện khác được yêu cầu gửi tới từ nước Anh vào đầu năm 1356, điều này được thể hiện ở trong một bức thư của Hoàng gia ( Anh ) còn sót lại, bức thư đã chỉ thị cho Trung úy của Tòa án Tư pháp và Viên thị thần của quận Chester “... đến nổi mà nhà vua đã ra lệnh gửi cấp tốc ba trăm cung thủ cho Hoàng tử xứ Wales tại Gascony từ đại đội của Sir Richard de Stafford và khoảng hai trăm trong số họ đến từ quận Chester và một trăm người còn lại đến từ những nơi khác theo yêu cầu, đây là hai trăm cung kị tốt nhất mà họ tuyển chọn được…”. Mười ngày sau đó một mệnh lệnh khác yêu cầu 300 cung thủ tăng cường nữa được thêm vào con số này. Những tuyển dụng khác cho cuộc viễn chinh của Hoàng tử đen trong năm 1356 đã thu hút người từ Westmoreland, Yorkshire và thậm chí cả từ nước Đức.

    Vào đầu mùa xuân 1356 có lệnh trưng thu những con ngựa mới cho đội quân của Hoàng tử xứ Wales. Súc vật thồ hoặc ngựa kéo xe được đặt mua và Cornwall-người nhận trách nhiệm thu mua của Hoàng tử đã đặt mua 30 con vật có khả năng mang hành lý cao nhất sẵn có cũng như cung cấp 30 người giữ ngựa. Tương tự các Bá tước của Warwick, Suffolk, Salisbury, Oxford và Stafford có những con ngựa khỏe mạnh được gửi từ nước Anh trong hai chiếc tàu vận tải vốn được để dành để chở súc vật và thực phẩm của họ. Trong khi đó súc vật, thực phẩm cũng đang được trưng thu cho chiến dịch của Công tước Lancaster tại Normandy, do đó rõ ràng ngựa và các sản phẩm từ nông nghiệp của nước Anh đang được kéo tới giới hạn. ( Sau này ngựa và lương thực của luôn được nhập khẩu từ các nước thuộc địa của họ)
    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;}
  9. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    CHỈ HUY CỦA CÁC BÊN ĐỐI ĐỊCH

    Chỉ huy của người Anh


    Edward-Hoàng tử đen là chỉ huy chung của các cuộc tấn công lớn hoặc chevauchée vốn lên đến đỉnh điểm là trận Poitiers. Ông vốn được sinh ra tại Woodstock vào ngày 13 tháng 6 năm 1330, ông là con trai cả của vua Edward III của nước Anh và Philippa của Hainault, ông được chỉ định làm Hoàng tử xứ Wales vào ngày 12 tháng năm 1343 và qua đời ở Westminster vào ngày 8 tháng 7 năm 1376, một năm trước khi người cha của ông qua đời. Là người thừa kế ngai và.ng Anh quốc, ông đã phải gánh vác những nhiệm vụ lớn lao từ khi còn nhỏ, ông trở thành Bá tước của Chester từ lúc 3 tuổi, Công tước của Cornwall vào lúc 6 tuổi. Năm 1338 Hoàng tử trở thành biểu tượng của "Người giám hộ của chế độ " trong suốt cuộc xâm lược đầu tiên của Vua Edward III vào nước Pháp. Ông bắt đầu tham gia vào cuộc Chiến tranh Trăm năm từ năm 1345 và chỉ một năm sau đó Hoàng tử Edward đã giành cho chính bản thân ông chiếc “ Đinh thúc ngựa “ trong trận chiến Crécy nơi ông chỉ huy đội quân tiên phong của người Anh. Có thể ông có được biệt hiệu Hoàng tử Đen là do sự tàn nhẫn của chính ông trong chiến dịch Narbonne năm 1355. Tuy nhiên Hoàng tử đen thực sự có được danh tiếng về mặt quân sự một cách thần túy sau chiến thắng của ông tại trận Poitiers, trong khi cá nhân của ông cũng được hưởng lợi trước những cư xử nghĩa hiệp của ông với vua Pháp vốn bị bắt làm tù binh. Mặc dù được người đương thời ca ngợi như là một "hiệp sĩ hoàn hảo", danh tiếng về sự mã thượng của Hoàng tử đến từ lại đến từ các giải đấu hơn là từ chiến tranh. Rõ ràng là ông thiếu kỹ năng để trở thành người cai trị ở Aquitaine và không bao giờ nhận được sự ủng hộ chính thức của giới quý tộc xứ Gascon. Năm 1370 Hoàng tử Đen bị ốm nặng và phải tiến hành chiến dịch cuối cùng của ông trong khi được mang trên một chiếc cáng. Việc ông đối xử một cách dã man cư dân của thành phố Limoges trong thời gian chinh phục của cuộc viễn chinh này đã làm cho danh tiếng của ông bị suy giảm mạnh. Tuy nhiên danh tiếng của Hoàng tử Đen đã được sùng bái như những Anh Hùng một cách phổ biến trong các tầng lớp hiệp sĩ Anh và Pháp trong thế kỷ 15.

    Các quý tộc cao cấp chỉ huy các đơn vị khác nhau của quân đội của Hoàng tử Đen trong các chiến dịch của năm 1356. Một trong số đó là Thomas Beauchamp-Bá tước của Warwick-ông được sinh ra trong khoảng năm 1 313 hoặc 1314. Các kinh nghiệm quân sự đầu tiên mà ông có được là trong các cuộc chiến tranh với người Scotland ở thập kỷ cuối những năm 1330. Được bổ nhiệm làm Thống chế của Anh quốc vào năm 1344-> 1346, ông đã chiến đấu ở Crécy và tham gia cuộc bao vây Calais. Năm 1352 Bá tước Warwick đã trở thành đô đốc của một Hạm đội tại phía tây nam nước Anh, ông đã được phong làm nguyên soái trong đạo quân của Hoàng tử đen trong năm 1355 -> 56 và đã chiến đấu tại Poitiers, nơi ông bắt tù binh Giám mục của Sens. Thomas Beauchamp chết vì bệnh dịch hạch tại Calais trong năm 1369.

    William Montague-Bá tước Salisbury, sinh năm 1328 ở trong một gia đình đại quý tộc vốn ủng hộ vua Edward III một cách mạnh mẽ. Bản thân William được tấn phong hiệp sỹ cùng với Hoàng tử Edward vào lúc bắt đầu của chiến dịch Crécy. Tuy nhiên, mối quan hệ của vị Bá tước trẻ với Hoàng tử Đen thường rất căng thẳng, đặc biệt là tới số phận của vùng Denbighshire mà cả hai cùng cực kỳ quan tâm. Được chỉ định làm Nguyên soái của quân đội của nhà vua Edward III tại Pháp, ông gia nhập đội quân của Hoàng tử đen tại Aquitaine và đóng một vai trò chỉ huy hàng đầu tại trận chiến Poitiers. Năm 1360 Bá tước Salisbury đã tham gia thương lượng Hiệp ước Bretigny. Trong cuộc nổi dậy của Nông dân ở Anh quốc, ông là cố vấn của Richard II-vị vua trẻ tuổi con trai của Hoàng tử Đen. Người ta cho là vị Bá tước này đã vô tình giết chết người con trai của chính mình trong một cuộc tỉ thí. Trong năm 1397 được phong làm Thống đốc Calais nhưng ông đã chết trong cùng năm đó.

    Robert Ufford-Bá tước Suffolk, một trong những chỉ huy giàu kinh nghiệm nhất trong quân đội Anh tại chiến dịch Poitiers. Được sinh ra trong năm 1298, ông kế thừa đất đai của mình mình bởi anh trai của ông chết trẻ. Làm Đô đốc của hạm đội Anh trong năm 1337, ông bị bỏ tù ba năm sau đó ( có thể là do bị bắt làm tù binh ). Sau khi trả được khoản tiền chuộc của mình và được phóng thích, Robert Ufford tham gia chiến đấu tại cuộc bao vây Calais và trận chiến hải quân ngoài khơi Winchealse. Robert Ufford có sự hợp tác chặt chẽ với Hoàng tử Edward kể từ năm 1337 và đi kèm với Hoàng tử đến vùng Aquitaine. Suffolk thường được giao những nhiệm vụ ngoại giao tế nhị bởi vua Edward III và Hoàng tử đen. Ông qua đời năm trong năm 1369.

    John de Vere-bá tước Oxford, người tham gia một cách tích cực trong việc điều hành chính phủ Anh trước và sau khi trở về từ Conrpostella trong năm 1332. Người ta cho rằng ông đã tham gia các chiến ở Scotland và phục vụ tại Pháp trong những năm đầu của Chiến tranh trăm năm, ông đã chiến đấu tại Crécy cùng với Hoàng tử Đen trong năm 1355 và đã trở thành cố vấn cao cấp của
    Hoàng tử Đen tại trận Poitiers. Bá tước Oxford chết trong cuộc bao vây Reims vào năm 1360.

    [FONT=&quot]Jean de Grailly III-Đại úy de Buch, vị chỉ huy người Gascon đáng lưu ý nhất trong chiến dịch Poitiers. Gia đình của ông nắm giữ những vùng đất vùng tròng nho làm rượu vang rộng mênh mông ở Médoc. Ông là con trai của Jean de Grailly bố ( hai bố con trùng tên) và Blanche le Foix và là người anh em họ của Bá tước Gaston Phoebus Foix. Ông thừa hưởng danh hiệu đại úy vào năm 1313 và do đó được hưởng nhiều ưu đãi trong Nghị viện của Bordeaux. Ông trở thành trung úy của Hoàng tử Đen trong vùng Aquitaine và tự làm cho bản thân mình nổi bật tại trận Poitiers, ông được tặng thưởng với một tòa lâu đài ở vùng Cognac như kết quả của sự xuất sắc của ông tại trận Poitiers. Sau khi phục vụ tại Phổ như là một Thập tự quân, Jean de Grailly vẫn là một người ủng hộ trung thành của vua Charles của Navarre và đã tham gia vào đàm phán hiệp ước Britigny. Sau lần bị bắt tù binh thứ hai bởi quân đội Pháp, vua Charles V đã từ chối phóng thích viên Đại úy này trừ khi ông ta chịu thề không bao giờ được cầm vũ khí và chống lại nước Pháp một lần nữa. Jean de Grailly từ chối và đã chết ở trong tù trong năm 1377.
    [/FONT]
  10. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Các chỉ huy của phía Pháp

    Vua John II-"The Good". Trước khi trở thành vua John II đã kết hôn với Bonne của Bohemia, đây là con gái của vua Bohemia mù-người đã bị giết chết tại trận Crecy. Tuy nhiên bà này chết vì dịch hạch vào năm 1349, cùng năm đó mẹ của John đã chết. Năm sau John đã đính hôn với Blanche d'Evreux-con gái của vua Navarre, nhưng sau đó chính vua Philip-cha của John lại kết hôn với chính cô gái này. Cuối cùng thì trong năm 1350 Hoàng tử John đã kết hôn với Blanche của Boulogne và vài tháng sau đó ông đã trở thành vua Pháp. John II sớm có được danh tiếng vì gần như liên tục tổ chức các lễ hội và ông đã được danh tiếng này thay vì tạo ra bất kỳ lợi ích cụ thể nào cho triều đình mà ông làm vua, vì vậy mà ông đã kiếm được biệt hiệu vua John " the Good ". Một số nhà sử học vẫn coi John II như là một người xa rời thực tế và chỉ thấy thời kỳ cai trị của ông như là một thảm họa cho nước Pháp. Tuy nhiên, có bằng chứng cho thấy rằng vua John II không phải là kẻ nhỏ mọn ngốc nghếch như định kiến ​​phổ biến, mà dường như ông là người thường bảo trợ cấp và học bổng cho nghệ thuật, đồng thời cũng ra sức tái tổ chức, hoàn thiện lại bộ máy chính phủ Pháp và tăng cường sức mạnh của quân đội Hoàng gia. Cha ông của đã bị đánh bại bởi người Anh ở Crécy, điều này làm cho ông có một quan điểm đánh giá thấp về trình độ quân sự của tầng lớp quý tộc Pháp và kết quả của điều này là Vua John II đã cố gắng để không dựa quá nhiều vào giới quý tộc cao cấp.

    The Dauphin hay còn là Thái tử Charles-con trai cả của vua John II (vua Charles V “ The Wise” trong tương lai ) có danh tiếng cao hơn nhiều ( so với vua cha ). Ông kết hôn với Jeanne de Bourbon-người em họ của ông trong năm 1350 nhưng vẫn duy trì một tình nhân tên là Biette Cassinel và được cho là ông có đeo huy hiệu của nàng trên áo giáp của ông. Năm 1355 Charles đã được phong làm Công tước của xứ Normandy, đây là cách ông đã được mô tả bởi hầu hết các sử gia trong trận Poitiers. Sau khi sống sót thoát khỏi trận chiến, the Dauphin đã đến được Paris nơi mà cuối cùng ông đã chứng minh được mình là một trong những nhà cai trị thành công nhất của nước Pháp trong thế kỷ 14. Trước khi trở thành một vị vua trong năm 1364, danh hiệu chính thức của Thái tử Charles là Trung tướng của Pháp quốc và là nhiếp chính trong khi của cha ông bị bỏ tù. Ông cai trị nước Pháp cho đến năm 1380, vào lúc này người Anh đã gần như bị đuổi hoàn toàn khỏi nước Pháp.


    Công tước Philip d'Orleans được sinh vào năm 1336, ông là con trai thứ năm của vua Philip VI của Pháp. Sau một thời gian ngắn tham gia vào trận chiến Poitiers, ông là một trong những con tin cao quý được gửi sang Anh để đảm bảo rằng các điều khoản của Hiệp ước Bretigny phải được thực hiện. Năm 1365 vua Edward III đã phóng thích Duc d'Orleans, vì người ta cho là do ông đã trở thành bạn thân của Thomas-con trai út của Edward. Ông qua đời mà không có người thừa kế.


    Arnoul d'Audrehem-ngày sinh vào khoảng năm 1305 và các chiến dịch đầu tiên mà ông tham gia để chống lại người Anh là ở Scotland trong năm 1335. Năm 1342 Audrehem được bổ nhiệm làm Đại úy của Brittany và bị bắt tù binh tại Calais trong năm 1347. Sau khi được phóng thích, ông đã được phong làm một trong những Trung úy của nhà vua vào năm 1351 và hàm Thống chế trong năm 1353. Ông vẫn là một trong những Nguyên soái trong quân đội Pháp khi bị bắt làm tù binh trong trận Poitiers. Sau đó ông phục vụ như là một sứ giả của vua John II vốn bị giam trong tù và được cử đi để huy động tiền chuộc cho nhà vua. Mặc dù Audrehem tiếp tục đóng một vai trò quan trọng về mặt ngoại giao, ông vẫn tiếp tục tham gia chiến đấu với người Anh tại Najera và lại một lần nữa bị bắt tù binh. Sự kiện này dẫn đến một “ Phiên tòa của tinh thần mã thượng “ bởi vì ông này vẫn chưa trả hết tiền chuộc mình sau khi bị bắt tại Poitiers. Vua Charles V đã tuyển dụng Arnoul d'Audrehem như là viên quan giữ các Cổng thành của Paris cho đến khi ông này qua đời vào năm 1370 hoặc 1371.


    John de Clermont là con trai của Lãnh chúa của Thorigny. Ông đã phục vụ trong các chiến dịch ở Flanders và Hainault năm 1340 và một lần nữa ở Avignon và Languedoc. Ông đã được thưởng tước hiệu Lãnh chúa của Boomont và Chantilly. Clermont được bổ nhiệm làm Thống chế của Pháp vào năm 1352. Ông đã bị giết chết tại trận Poitiers.


    Gautier IV de Brienne vốn có một sự nghiệp thành công và thất bại rất bất thường, ông kế thừa danh hiệu Công tước xứ Athens tuy lớn nhưng vô nghĩa và sống như một người tị nạn tại triều đình Angevin của xứ Napoli từ rất sớm. Ông đã kết hôn với một cô cháu gái của Vua Robert của Napoli và đã tham gia vào các chiến dịch không thành công để thu hồi lại Athen-tài sản của ông. Mặc dù đã tham gia vào những chiến dịch đầu tiên của Chiến tranh Trăm năm, Gautier de Brienne đã được phong làm người cai trị hữu danh vô thực ở Florence và Pisa năm 1341. Chẳng bao lâu sau đó ông đã bị buộc phải ra đi và quay trở về Pháp. Sau những cố gắng không thành công để giành lại vị thế của mình tại Ý, ông đã quay trở về Pháp vào năm 1355 và đã được phong làm Nguyên soái của vua John II, đây là chức vụ mà ông đang giữ khi bị giết chết tại trận Poitiers.[FONT=&quot]
    [/FONT]

Chia sẻ trang này