1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Chiến tranh thời Trung Cổ ở Châu Âu từ năm 500 -> 1500

Chủ đề trong 'Kỹ thuật quân sự nước ngoài' bởi hongsonvh, 19/10/2010.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Jean de Dunois

    John bastard của Orléans, Bá tước của Dunois, được sinh ra như là "John Levieux of Orleans" vào ngày 23 tháng 11 năm 1402, qua đời ngày 24 tháng 11 năm 1468 tại lâu đài Lay) là một trong những Đại úy của người Pháp trong Chiến tranh Trăm năm . Ông cũng là một đồng chí của Joan d’Arc.

    [​IMG]
    Chân dung công tước Dunois-Con hoang của xứ Orleans

    Ông là con trai ngoài giá thú của Louis-Công tước xứ Orleans (1372-1407) và Mariette d'Enghien, con gái của Jacques d'Enghien. Ông là em trai cùng cha khác mẹ của Charles của Orleans. Ông lớn lên trong gia đình hợp pháp của cha mình, đặc biệt là trong những năm đầu đời và được nuôi dậy bởi một trong các bà vợ của Valentina Visconti (1366-1408)-Nữ bá tước của Vertus. Phong cách sống này là rất phổ biến trong các gia đình quý tộc lớn hay thuộc dòng dõi hoàng gia.

    [​IMG]
    Jean Dunois trong một quấn phim lịch sử

    Ông thường được gọi là Bastard của Orleans-thằng con hoang của xứ Orleans ( thời gian này người ta không phân biệt nhiều lắm giữa con chính thức và con hoang ) và Dunois (viết tắt của Danh hiệu Bá tước của ông, từ khi ông nhận được nó).

    Từ năm 1422, Dunois chấp nhận nguyên nhân mà Charles VII bị tước đoạt mất vương quốc của mình sau Hiệp ước Troyes (1420) và chạy sang Bourges (vì thế có biệt danh "Vua của Bourges"). Ông sớm nổi bật bởi lòng can đảm của mình: ở tuổi 25 ông đã chiến đấu với 1600 người của mình, dưới chân bức tường của Montargis với 3000 quân Anh được chỉ huy bởi Lord Warwick, Lord Suffolk, và Sir John de la Pole.

    Ông là một người đồng chí của Joan d’Arc tại Chinon và tham gia với cô trong nhiều trận đánh. Cần lưu ý hoàn toàn là giai thoại, sự tương đồng của các biệt danh Maid of Orleans-của Joan d’Arc (do việc giải vây cho thành phố) và Bastard của Orleans (do uy tín của Dunois).

    Ông đã chia sẻ những giờ phút hiểm nguy và vinh quang cùng với Joan d’Arc ở dưới chân bức tường thành của Thành phố Orleans và có đóng góp to lớn vào chiến thắng Patay năm 1429. Ông lại làm cho mình nổi bật một lần nữa sau cái chết của Maid of Orleans, năm 1432 ông đã chiếm thành phố Chartres và Paris năm 1436 khi đang bị chiếm đóng bởi người Anh.

    Ông được tặng thưởng, danh hiệu Grand Chamberlain của Pháp với danh dự của một hoàng thân hợp pháp vào ngày 21 tháng 7 năm 1439. Sau đó ông gia nhập Hội đồng cố vấn của nhà vua, được hỗ trợ bởi Nữ hoàng Yolande hùng mạnh của xứ Aragon, mẹ vợ của nhà vua. Tuy nhiên, Dunois đã tỏ ra không hài lòng với việc có quá ít nỗ lực được thực hiện bởi Charles VII để tiến hành chuộc người anh trai cùng cha khác mẹ của mình-Charles của Orleans, một tù nhân đang nằm trong tay người Anh kể từ trận Azincourt ( khổ quá vì lý do nếu Charles VII là con hoang thì Charles của Orleans mới xứng đáng làm vua nên ông này phải rũ tù trong tay người Anh là hay nhất ). Bởi vì bức xúc này, ông đã tham gia một âm mưu chống lại Georges Trémoille và Charles VII trong năm 1440 và tham gia vào cuộc nổi dậy Praguerie của các lãnh chúa phong kiến và cuộc nổi dậy này
    ​​cũng có cả sự tham gia của nhà Dauphin (vua Louis XI tương lai). Sau đó ông được ân xá bởi chính nhà vua Pháp.

    Ông tham gia vào các cuộc bao vây các thành phố Harfleur và Dieppe Gallardon. Năm 1444, nhà vua bổ nhiệm ông trung tướng của mình, đây là một vị trí cao nhất mà ông nắm giữ, ông đã trục xuất người Anh ra khỏi xứ Normandy sau chiến thắng Formigny, năm 1450 năm ông chinh phục đã chinh phục được xứ Guyenne, lúc này cũng đang bị chiếm đóng bởi người Anh.

    Sau cái chết của Charles VII, Dunois cảm thấy không hài lòng với người kế vị ngai vàng, ông đã đứng về phe Liên minh vì hạnh phúc chúng sinh trong 1465 ( đây là Liên minh của các chư hầu phong kiến chống lại nhà vua Louis XI mới lên ngôi ). Trong cuộc bao vây của Paris, ông đã được tưởng thưởng chiến công của mình bằng tòa lâu đài castle of Beauty ở thủ đô mà ông đã ép được nó phải đầu hàng. Nhưng tòa lâu đài này lại bị đe dọa chiếm mất bởi các thuộc hạ của Louis XI. Ông tham gia đàm phán hiệp ước Conflans và được khôi phục quyền lợi, ông cũng chủ trì Hội đồng cải cách vì lợi ích dân chúng ( đương nhiên là các lãnh chúa phong kiến mị dân nên đặt tên kêu như vậy thôi ), và tham gia Hội đồng Ba mươi sáu. Sau khi hòa giải với Louis XI, ông đã sử dụng Hội đồng này như là một công cụ trung thành với hoàng gia.

    Ông qua đời ngày 23 tháng 11 năm 1468 và được chôn cất tại nhà thờ Đức Bà Clery-Saint-André.
  2. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Gilles de Rais

    [​IMG]
    Ảnh Gilles de Rais, cựu Thống chế quân đội Pháp

    Gilles de Montmorency-Laval, Tử tước de Rais (1404-1440) là một hiệp sĩ người Breton, một chỉ huy trong quân đội Pháp và là một đồng chí của Joan d’Arc. Ông được biết đến như một kẻ chuyên giết trẻ em ( Yêu râu xanh ). Có rất nhiều tranh cãi về tội lỗi lịch sử này; Một số người cho tằng ông bị khép tội bởi lý do chính trị.

    Cuộc sống tuổi thơ


    [​IMG]
    Tranh bán thân Gilles de Rais, Joan d’Arc còn được minh oan, nhưng có vẻ như chẳng ai minh oan cho Gilles de Rais và người anh hùng của Pháp phải chết như một tên Yêu râu xanh

    Gilles de Rais đã được sinh ra vào cuối năm 1404 bởi Guy II de Montmorency-Laval và Marie de Craon trong tòa lâu đài của gia đình ở Machecoul, hoặc theo các nguồn khác là tại Champtocé-sur-Loire, 35 dặm ở phía đông của Nantes. Ông từng là một đứa trẻ thông minh, nói thông thạo tiếng Latinh, có chữ viết rất đẹp và được giáo dục cả về kỷ luật quân sự, đạo đức và trí tuệ. Sau cái chết của cha và mẹ của ông năm 1415, Gilles và em trai của mình René de La Suze được đặt dưới sự giám hộ của Jean de Craon, ông ngoại của họ. Jean de Craon là người đã cố gắng sắp xếp một cuộc hôn nhân cho cậu bé Gilles mười hai tuổi với Jeanne Paynel bốn tuổi-một cô bé có của thừa kế giàu nhất Normandy, và, khi kế hoạch thất bại, ông lại cố gắng không thành công để kết hợp cậu bé với Beatrice de Rohan, cháu gái của Công tước xứ Brittany. Tuy nhiên vào ngày 30 tháng 11 năm 1420, Craon đã làm tăng đáng kể tài sản cháu trai của mình bằng cách cho cậu bé kết hôn với Catherine de Thouars của Brittany, nữ thừa kế của La Vendée và Poitou. Người con của họ Marie được sinh ra trong năm 1429.

    [​IMG]

    Ảnh tàn tích tòa lâu đài của Gilles de Rais ở Tiffauges Vendée



    Sự nghiệp quân sự


    Trong những năm sau của chiến tranh Kế thừa Breton, Gilles mới mười sáu tuổi đã đứng ở phía phe của Công tước Brittany thuộc nhà Montfort để chống lại đối thủ được chỉ huy bởi Olivier de Blois, Bá tước của Penthièvre. phe Blois, người vẫn từ chối từ bỏ quyền lực của họ ở vùng Brittany, đã bắt công tước John V của Brittany làm tù nhân. Rais đã có thể giải cứu cho vị Công tước và được khen thưởng với khoản lãnh địa hào phóng và đã được quy đổi đổi thành quà tặng ở dạng tiền tệ.


    [​IMG]

    Gia huy của nhà Montmorency - Laval

    [​IMG]


    Gia huy của
    Gilles de Rais từ trước tháng 9 năm 1429


    [​IMG]



    Gia huy của Gilles de Rais từ sau tháng 9 năm 1429-nó được thêm vào chiếc viền hình bông hoa huệ-biểu tượng của nước Pháp.

    [​IMG]
    Gilles de Rais trong một lần xung phong vào vị trí của quân Anh

    Năm 1425, Rais được giới thiệu vào triều đình của Charles VII tại Saumur và học được cách cư xử lịch sự quý tộc từ nhà Dauphin. Trong các trận chiến tại Saint-Lô và Le Mans giữa các năm 1427 và 1429, Gilles đã cho thấy sự dũng cảm và tàn bạo của ông trong chiến đấu. Ở trận chiến Château của Lude, ông leo lên các bậc thang và tấn công hạ gục viên Đại úy người Anh. Ông lại một lần nữa lao vào tấn công các pháo đài của người Anh Rainefort (Rennefort) và lâu đài của Malice-sur-Sarthe, ở hạt Maine.

    [​IMG]
    Nhân vật Gilles de Rais trong phim Joan d’Arc

    Từ 1427-1435, Rais phục vụ như là một chỉ huy trong quân đội Hoàng gia, tự phân biệt mình bằng cách cho thấy sự dũng cảm liều lĩnh trên chiến trường trong thời gian cuộc Chiến Trăm năm được tiếp tục. Năm 1429,. Ông đã chiến đấu cùng với Joan d’Arc trong một số các chiến dịch chống lại người Anh và Burgundy-đồng minh của họ. Ông đã có mặt cùng với Joan khi cuộc bao vây thành phố Orléans kết thúc.


    Vào chủ nhật ngày 17 tháng 7 năm 1429, Gilles được chọn là một trong bốn lãnh chúa được trao vinh dự mang bình đựng dầu thánh từ Tu viện Saint-Remy đến Notre-Dame de Reims để làm lễ xoa dầu thánh tấn phong Charles VII làm vua của Pháp. Trong cùng ngày, ông đã chính thức được phong làm Thống chế của quân đội Pháp.


    Ông lại tiếp tục làm cho mình trở nên nổi bật trong năm 1430, khi quyết định tấn công Melun và một năm sau khi triệt phá cuộc bao vây của người Anh vào Lagny-sur-Marne. Năm 1436 ông cùng Thống chế Pierre de Rieux dẫn đầu quân tiên phong của Pháp dưới sự tiết chế của Nguyên soái Richemont. Đây là đội quân đi đến Sille-le-Guillaume ở Maine để giao chiến với quân Anh.
  3. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Etienne de Vignolles – Đại úy la Hire

    Etienne de Vignolles, còn được gọi là "The Hire" (Vignoles, 1390 - Montauban, ngày 11 Tháng Một năm 1443), là một chỉ huy người Pháp trong Chiến tranh Trăm năm.


    [​IMG]

    Chân dung của La Hire thường được mô tả như là một chiến binh xù xì và thô lỗ

    Ông có biệt danh của mình trên chiến trường bởi bản tính bạo lực và bản tính hay tức giận đã làm cho ông trở lên nổi tiếng (trong thực tế, ire trong tiếng Pháp vào thời điểm đó có nghĩa là sự tức giận).


    [​IMG]

    Gia huy của Đại úy La Hire, Charles đã tưởng thưởng cho La Hire vì chiến công của ông với danh hiệu Lord of Montmorillon


    [​IMG]
    Trong dân gian Pháp ông chính là biểu tượng của quân bài Jack heart

    [​IMG]
    La Hire và Xaintrailles được mô tả trong một cuốn sách ở thế kỷ 15

    La Hire tham gia chiến đấu lần đầu tiên ở Coucy để chống lại người Burgundy và quân Anh. Ba năm sau, ông quay trở lại chiến đấu, và giống như tất cả các binh sỹ khác của quân đội Pháp, chiến đấu để bảo vệ quê hương của họ trong trận Baugé. Kỹ năng của ông với thanh kiếm khiến ông trở nổi tiếng khắp nước Pháp và ông đã được chiêu mộ bởi Charles VII, người yêu cầu ông tham gia vào cuộc giải vây ở Orleans. Ông đã chấp nhận và vào năm 1429 để đến Orléans. Trận chiến đã cho thấy phía Pháp đã xuất hiện những anh hùng trong chiến đấu trong đó có Joan d’Arc và Jean de Poton Xaintrailles, đó là những người bạn rất gần gũi của Etienne. Trong cùng năm, ông là người có công lớn nhất trong những chiến thắng của người Pháp tại Patay Anh và Jargeau. Năm 1431, đến Rouen với một nỗ lực để cứu Joan d’Arc, nhưng nỗ lực đó đã thất bại thảm hại, vì bản thân ông rơi vào tay của người Anh. Ông đã cố gắng chốn tthoát để tiếp tục cuộc chiến và thu được nhiều thành công ở Dourdan tại Artois, trong Ile-de-France và cũng như trong Picardy. Anh trai của ông de-Amadoc Vignolles đã bị giết trong một con đường hầm ở Creil bởi John Talbot ( trong mùa xuân 1434). Ông đã giành được chiến thắng trong trận Gerbevoy (1435) Và kết quả là ông được phong làm Đại úy của vua Pháp ở vùng Normandy ( năm 1438). Ông đã giành được rất nhiều thắng lợi nhưng cũng bị thương nặng nhất trong trận chiến cuối cùng của mình, tuy nhiên ông vẫn qua khỏi và trở thành chỉ huy đội vệ sĩ riêng của vua Charles VII ở Montauban. Sau này ông bị ốm nặng và qua đời vì một một căn bệnh không rõ tên, có thể là hậu quả nghiêm trọng của một chấn thương trong chiến đấu. Ngôi mộ của ông là một ngôi mộ kiểu gisant ( Ngôi mộ có một bức tượng nằm ở mặt trước mô tả người đàn ông hay người phụ nữ được chôn cất ở đó) và nó đã bị phá hủy trong thời gian của cuộc Cách mạng Pháp.



    Jean Poton de Xaintrailles


    [​IMG]

    Tranh vẽ Poton Jean de Xaintrailles

    Poton Jean, Lord của Xaintrailles, một quý tộc của xứ Gascony, phụ trách đàn ngựa của vua, người quản lý Berry và cũng là ngươ
    ̀i được ủy nhiệm vùng Limousin, ông đã tham gia vào Chiến tranh Trăm năm và cụ thể là đã tham dự trận Verneuil (1424).

    [​IMG]
    Gia huy Poton Jean de Xaintrailles

    Ông đã được ghi nhận cho sự can đảm, sự táo bạo, lòng nhiệt thành của mình trong việc chống lại người Anh trong cuộc Chiến tranh Trăm năm. Bị bắt làm tù binh tại trận Cravant, ông đã được đổi lấy John Talbot của Anh.


    Hưởng ứng Joan d’Arc ngay từ khi cô mới xuất hiện, ông đã tham gia vào cuộc bao vây Orleans lần thứ hai, ông đã bị thương ở Patay và nỗ lực ép người Anh phải hủy bỏ cuộc bao vây Compiegne.


    [​IMG]
    Phim về Poton Jean de Xaintrailles

    Cùng với Étienne de Vignolles (thường được gọi là La Hire), ông đã giành được chiến thắng trong trận Gerberoy nơi ông bắt tù binh Bá tước Arundel. Ông hoạt động rất tích cực trong các cuộc tái chinh phục xứ Normandy và Guyenne.


    Như một phần thưởng cho tất cả sự phục vụ trung thành của ông, vua Charles VII bổ nhiệm ông Nguyên soái của Pháp trong năm 1454 và phong thưởng cho ông ngôi làng St Macarius làm lãnh địa phong kiến.



    Tham gia Ecorcheurs

    Sau lễ ký Hiệp ước hòa bình Arras, rất nhiều binh lính đánh thuê đã thành lập các băng đả.ng đôi khi đông đến hàng ngàn chiến binh và tổ chức cướp bóc dân lành: quân lột da. Poton Xaintrailles và người đồng chí của ông, Etienne de Vignolles cùng với các đại úy của Joan d’Arc đã công phá và cướp cướp bóc các vùng đất thuộc Hà Lan và Lorraine trong năm 1444.

    Vào ngày 26 tháng năm 1445 vua Charles phải công bố the Companies Ordinance đầu tiên cho quân đội để đảm bảo một cam kết lâu dài vĩnh viễn cho các cựu lính đánh thuê.

    Ông qua đời ở Trompette Chateau, Bordeaux ngày 07 tháng 10 năm 1461, mà không có con cái nối dõi. Theo văn bản di chúc của ông trong tiếng Gascon mà chúng tôi có trong tay. Ông để lại phần lớn các bất động sản của mình để làm công việc tôn giáo. Một số tài liệu của Nghị viện Pháp đã viết rằng: " Xaintrailles là một trong những đại úy dũng cảm của vương quốc Pháp và là người cùng với La Hire đẩy lui được quân Anh."
  4. hstung

    hstung Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    06/04/2004
    Bài viết:
    1.553
    Đã được thích:
    2.956
    Đã hết topic chưa bạn ơi?
  5. DKSH

    DKSH Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    19/03/2011
    Bài viết:
    896
    Đã được thích:
    39
    hết sao đc.top này hay mà.tiếp đi bác son :D
  6. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Sorry các bác, em vừa bận việc nhà vừa bận việc Cty nên có bị phân tán, không thể tập trung dich sách được nữa, nay cũng đỡ nên quay lại tiếp tục. Giai đoạn chiến tranh trăm năm đang đi vào kết thúc, Tây Âu đi vào ổn định với sự bá chủ của người Pháp, Đông Âu người Nga mạnh mẽ vươn lên, người Thổ bá chiếm Bankan, Thiết kỵ Ba lan đánh bại các hiệp sỹ Teuton tại trận Tannenberg năm 1410, với chiến thuật xe chiến người Hus ở Bohem liên tục đánh bại Đế chế La Mã thần thánh ( ĐQ Đức - Áo) và chiến tranh Hoa Hồng sẽ kết thúc thời kỳ trung cổ, vậy còn độ hơn 10 trang nữa các bác ạ
    -----------------------------Tự động gộp Reply ---------------------------


    -----


    Giới thiệu một số chỉ huy hàng đầu của người Anh trong chiến tranh trăm năm-giai đoạn cuộc chiến của nhà Valois



    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Henry VI - Vua nước Anh

    Henry VI (từ ngày 06 Tháng 12 1421 – đến ngày 21 Tháng 5 năm 1471) là vua của nước Anh từ năm 1422- đến1461 và một lần nữa từ năm 1470 đến 1471 và là người tranh chấp ngai vàng của nước Pháp từ năm 1422-1453. Cho đến năm 1437, triều đại của ông bị chi phối bởi nhiếp chính. Các tài liệu đương thời mô tả ông là yêu hòa bình và có đạo đức, không phù hợp với hoàn cảnh cuộc nội chiến đẫm máu còn được gọi là cuộc chiến Hoa hồng được bắt đầu trong thời trị vì của ông. Trong thời gian bị tâm thần ông đã được yêu cầu kết hô với Margaret-Nữ hoàng của Anjou, người nắm quyền kiểm soát vương quốc của ông và cũng góp phần vào sự sụp đổ của chính ông ta cũng như sự sụp đổ của Nhà Lancaster và sự gia tăng của Nhà York.


    Thời thơ ấu của Henry VI


    Henry là con duy nhất và là người thừa kế của vua Henry V của nước Anh ( người đã chiến thắng trong trận Azicourt trước quân Pháp ). Ông sinh ngày 6 tháng 12 năm 1421 tại Windsor và đã lên ngôi ở vua của nước Anh lúc mới chín tháng tuổi vào ngày 31 tháng 8 năm 1422 khi cha ông qua đời, do đó ông trở thành người thừa kế ngai vàng nước Anh trẻ tuổi nhất. Hai tháng sau, ngày 21 Tháng Mười năm 1422, ông trở thành vua của nước Pháp sau cái chết của Charles VI-ông ngoại của ông như theo điều khoản của Hiệp ước Troyes năm 1420. Catherine de Valois-mẹ của ông lúc đó mới 20 tuổi và là con gái của Charles VI, đã bị nghi kị một cách nghiêm trọng bởi các quý tộc Anh và điều này đã ngăn cản việc bà có một vai trò đầy đủ trong việc nuôi dạy con trai mình.


    Ngày 28 Tháng 9, 1423, các quý tộc đã thề trung thành với Henry VI. Họ triệu tập Nghị viện nhân danh nhà vua và thành lập một hội đồng nhiếp chính cho đến khi vua nên đến tuổi trưởng thành. Một trong những người anh em còn sống sót của Henry V- John, Công tước xứ Bedford, được bổ nhiệm làm quan nhiếp chính chuyên phụ trách cuộc chiến tranh đang diễn ra tại Pháp. Trong khi Bedford vắng mặt, chính phủ Anh được điều hành bởi Humphrey, Công tước xứ Gloucester-người anh em trai còn sống sót khác của Henry V, ông này được bổ nhiệm nhiệm vụ bảo vệ vương quốc và chế độ. Nhiệm vụ của ông bị hạn chế trong việc gìn giữ hòa bình và triệu tập Nghị viện. Henry Beaufort, Đức Giám mục của Winchester (sau 1426 nhậm chức Đức Hồng Y Giáo Chủ)-một người chú họ xa của Henry, có một vị trí quan trọng tại Hội đồng nhiếp chính. Sau khi Công tước Bedford qua đời vào năm 1435, Công tước xứ Gloucester tuyên bố mình là Nhiếp chính vương, nhưng đã vấp tranh cãi bởi các thành viên khác của Hội đồng nhiếp chính.


    Từ 1428, gia sư của Henry là Richard de Beauchamp, Bá tước của Warwick, người có cha là nhân vật chủ chốt trong cuộc đảo chính chống lại sự cai trị của vua Richard II ( con trai của Hoàng tử Đen ).


    Edmund và Jasper-những người anh em cùng cha khác mẹ của Henry VI, những người con trai trong cuộc tình của người mẹ góa chồng của ông với Owen Tudor, sau này được phong những lãnh địa công quốc. Edmund Tudor là cha của Henry Tudor-người sau đó lên ngôi vua như là Henry VII của Anh quốc ( trâu bò húc nhau ruồi muỗi được, nhà Lancaster và nhà York đều toi, nhà tudor hưởng phước ).


    P
    hản ứng trước buổi đăng quang của Charles VII Valois làm Vua của Pháp ở nhà thờ Reims vào ngày 17 tháng Bảy năm 1429, Henry đã ngay lập tức đăng quang lên ngôi vua Anh trước tuổi tại Westminster Abbey vào ngày 6 Tháng 11 năm 1429, sau đó lễ đăng quang của ông như là vua của Pháp được tiến hành tại Notre Dame de Paris vào ngày 16 Tháng 12 năm 1431, mặc dù phải đến một tháng trước ngày sinh nhật thứ mười sáu của ông tức là ngày 13 Tháng 11 năm 1437 thì ông mới có được một số quyền điều hành độc lập, trước khi cuối cùng nhận được đầy đủ các quyền hạn của hoàng gia khi ông đủ tuổi trưởng thành.

    Quản lý chính phủ và các chính sách tại nước Pháp

    Henry đến tuổi trưởng thành vào năm 1437, trong cũng năm đó mẹ ông đã qua đời và ông được giao quyền quản lý chính phủ. Henry- một con người nhút nhát và đạo đức, không thích sự lừa dối và bạo lực đã ngay lập tức cho phép triều đình của mình bị ảnh hưởng bởi một vài quý tộc mà ông yêu thích-những người có những quan điểm xung đột về vấn đề trong cuộc chiến tranh với nước Pháp.


    Sau cái chết của Henry V, Anh đã bị vuột mất đà thắng lợi trong Chiến tranh Trăm năm, trong khi bắt đầu với chiến thắng quân sự của Joan Arc, nhà Valois đã đạt được những chiến thắng trên lục địa Châu Âu. Vị vua trẻ-Henry VI ủng hộ một chính sách hòa bình ở Pháp và do đó ông ủng hộ phe chủ trương Hòa bình, đứng đầu là Đức Hồng Y Beaufort và William de la Pole-Bá tước xứ Suffolk và những người đồng chí với họ, trong khi Humphrey-Công tước xứ Gloucester và Richard-Công tước xứ York, những người ủng hộ việc tiếp tục cuộc chiến đã bị nhà vua ghẻ lạnh.


    Cuộc hôn nhân với Nữ Hoàng Margaret xứ Anjou

    Đức Hồng Y Beaufort và Bá tước Suffolk thuyết phục nhà vua Henry VI rằng cách tốt nhất để lập lại hòa bình với nước Pháp là thông qua một cuộc hôn nhân với Margaret Anjou, cháu gái của vua Charles VII và Nữ Hoàng Marie xứ Anjou. Henry đã đồng ý, đặc biệt là khi ông nghe nói về sắc đẹp tuyệt vời của Margaret và đã cử Suffolk đi thương lượng với Charles, ông này đã đồng ý với cuộc hôn nhân với điều kiện rằng ông sẽ không cho các của hồi môn theo phong tục và thay vào đó ông ta ( vua Pháp ) sẽ nhận được các vùng đất xứ Maine và Anjou từ tay người Anh. Những điều kiện này đã được nhất trí trong Hiệp ước thành Tours, nhưng việc nhượng lại Maine và Anjou đã được giữ bí mật với Nghị viện vì điều này sẽ làm người dân Anh trở nên cực kỳ giận dữ. Cuộc hôn nhân đã diễn ra vào ngày 23 tháng 4 năm 1445, một tháng sau ngày sinh nhật thứ mười lăm của Margaret.


    Henry đã bị dao động khi phải giao nộp các vùng Maine và Anjou cho Charles vì biết rằng hành động này là tương đương với một sự phản bội và sẽ bị phản đối kịch liệt bởi các Bá tước Gloucester và York. Tuy nhiên, Margaret đã được cho là quyết tâm làm cho ông tiến hành việc giao đất này. Khi hiệp ước được công bố vào năm 1446, sự tức giận của nhân dân đã tập trung vào Bá tước Suffolk, nhưng Henry và Margaret đã quyết tâm bảo vệ ông này.

    Thế lực của các Bá tước Suffolk và Somerset

    Năm 1447, nhà vua và hoàng hậu cho triệu tập Công tước xứ Gloucester trước Nghị viện về tội phản quốc. Động thái này được xúi giục bởi các kẻ thù của Công tước Gloucester - Bá tước Suffolk, Đức Hồng Y Beaufort lúc này đã già và cháu trai của ông ta-Edmund Beaufort, Bá tước Somerset. Công tước Gloucester đã bị tạm giam tại Bury St Edmunds nơi ông qua đời, có thể là do một cơn đau tim, mặc dù đương thời có tin đồn là ông đã bị đầu độc trước có thể được xét xử.


    Công tước xứ
    York-người thừa kế ngôi vị của Henry VI, đã bị loại khỏi triều đình và cử đi để quản lý Ireland, trong khi các đối thủ của ông ta- các Bá tước Suffolk và Somerset đã được thăng thưởng tước Công, một danh hiệu tại thời điểm đó vẫn thường chỉ được dành cho những người ruột thịt gần nhà vua nhất. Công tước Somerset vốn mới được tấn phong đã được cử sang Pháp để chỉ huy cuộc chiến ( giữa Anh và Pháp ).

    Trong các năm tiếp sau của triều đại của Henry, chế độ quân chủ đã trở thành ngày càng không được lòng dân, do những sự cố về mặt luật pháp, trật tự, tham nhũng, đã làm cho những khoản thu từ các lãnh địa của hoàng gia vào triều đình của nhà vua ngày càng giảm sút và đương nhiên Nhà nước đã gặp phải những khó khăn về mặt tài chính cộng với sự mất ổn định của các vùng lãnh thổ mà người Anh đang chiếm đóng tại Pháp. Năm 1447, giới quý tộc Anh đã dấy lên một chiến dịch chống lại Công tước Suffolk-người vốn bị căm ghét nhất trong đoàn tùy tùng của vua và được xem như là một kẻ phản bội của Vương quốc. Henry đã buộc phải điều ông này đi sống lưu vong, nhưng chiếc tàu của Suffolk đã bị chặn lại ở English Channel và cái xác bị băm vằm của ông này đã được tìm thấy trên bãi biển ở Dover.


    Năm 1449, Công tước Somerset nhận nhiệm vụ chỉ huy chiến dịch ở Pháp và ông này đã làm tái tạo tình trạng thù địch ở Normandy ( đương nhiên là giữa người Anh và người Pháp ), nhưng tới mùa thu ông này phải tháo lui đến Caen. Vào năm 1450, người Pháp đã chiếm lại toàn bộ tỉnh này (Normandy), vùng đất vốn được chiếm bởi những chiến thắng cực kỳ nhọc nhằn của Henry V. Những người lính được gọi tái ngũ đã không còn được thanh toán đúng hạn, thêm vào đó là tình trạng vô luật pháp ở các quận phía nam của nước Anh, Jack Cade đã cầm đầu một cuộc nổi loạn ở Kent 1450, tự xưng là "John Mortimer", quân nổi loạn rõ ràng là được sự ủng hộ của Công tước xứ York và đóng quân tại White Hart Inn ở Southwark. Henry VI phải đến London với một đội quân để đè bẹp cuộc nổi loạn, nhưng ông lại phát hiện ra rằng Cade đã bỏ chạy và ông này để lại hầu hết quân đội của mình phía sau trong khi bản thân đã dẫn đầu một lực lượng nhỏ để truy kích quân nổi dậy và gặp được họ ở Sevenoaks. Cuộc tháo chạy đã được chứng minh là một cuộc rút lui chiến thuật: Cade đã thành công trong một cuộc phục kích nhằm vào lực lượng của nhà vua trong trận chiến Solefields và quay trở lại để chiếm London. Cuối cùng, cuộc nổi loạn đã bị đàn áp và London đã được tái chiếm sau một vài ngày nằm trong tay quân phiến loạn, nhưng chủ yếu là bởi những nỗ lực của các cư dân của nó chứ không phải là của quân đội của nhà vua. Ở mức nào đó cuộc nổi dậy cho thấy rằng những cảm giác bất mãn trong dân chúng với Henry VI đang ngày càng lên cao.


    Năm 1451, Công quốc Guyenne-vốn nằm trong tay người Anh từ thời vua Henry II cũng đã bị thất thủ ( đương nhiên là vào tay người Pháp ). Trong tháng 10 năm 1452, người Anh lại tổ chức một cuộc hành binh tiến vào Guyenne và tái chiếm Bordeaux và đã thu được một số thắng lợi, nhưng vào năm 1453 Bordeaux đã lại một lần nữa thất thủ làm cho Calais chở thành lãnh thổ duy nhất còn lại của nước Anh trên lục địa Châu Âu.


    Henry VI bị điên và Công tước York can thiệp vào triều chính

    Vào năm 1452, Công tước xứ York đã được thuyết phục để trở về từ Ireland, ông này đã khẳng định vị trí xứng đáng của mình trước Nghị viện và đặt dấu chấm hết cho một chính phủ tồi tệ. Công tước xứ York là một người rất được lòng dân chúng và ông này đã sớm huy động được một đội quân ở Shrewsbury. Trong khi đó, triều thần của Henry cũng huy động được một đội đội quân có kích thước tương tự như của ông kia ( Công tước xứ York ) ở London. Một cuộc thương thuyết đã được tiến hành ở phía nam London, với việc Công tước York đưa ra một danh sách các khiếu nại và yêu cầu thanh lọc triều đình, bao gồm cả việc bắt giữ Edmund Beaufort, Công tước thứ 2 của Somerset. Ban đầu nhà vua đã đồng ý, nhưng Margaret đã can thiệp để ngăn chặn việc bắt giữ Beaufort. Năm 1453, ảnh hưởng của ông này đã được khôi phục và York đã lại một lần nữa bị cô lập. Phe triều đình cũng đã được tăng cường bằng cách thông báo rằng Hoàng hậu đang mang thai.

    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Tuy nhiên, khi nghe thấy sự thất thủ lần cuối cùng của Bordeaux trong tháng 8 năm 1453, Henry đã rơi vào tình trạng suy nhược thần kinh và trở nên hoàn toàn vô thức với tất cả mọi thứ đang diễn ra xung quanh mình. Sự kiện này đã kéo dài trong hơn một năm và thậm chí Henry đã thất bại trong việc cho ra đời đứa con trai và là người thừa kế riêng của mình-vị hoàng từ vốn được đặt tên thánh là Edward. Có thể Henry VI đã thừa hưởng bệnh điên từ Charles VI của Pháp- ông ngoại của ông ta và phải sống liên tục trong sự điên rồ trong hơn ba mươi năm cuối của cuộc đời mình.

    Trong khi đó Công tước xứ York đã có được một đồng minh rất quan trọng, đó là Richard Neville-Bá tước của Warwick, một trong những Đại quý tộc có ảnh hưởng nhất và có thể còn giàu có hơn cả chính bản thân York. York được bầu làm Hộ quốc công nhiếp chính của Vương quốc Anh trong năm 1454. Hoàng hậu
    Margaret đã bị loại trừ hoàn toàn khỏi triều đình và Edmund Beaufort đã bị giam giữ trong Tháp London, trong khi nhiều người ủng hộ phe York cho lan truyền tin đồn rằng người con của vua thực chất chính là con của Beaufort. Ngoài ra, trong những tháng mà York làm nhiếp chính ông đã giải quyết được vấn đề bội chi của chính phủ.
    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;}
    Thời kỳ Chiến tranh Hoa Hồng ( sẽ được dịch chi tiết ở phần sau)

    Sau một loạt các trận chiến khốc liệt giữa hai nhà Lancaster và York, Henry đã bị lật đổ và bị cầm tù vào ngày 04 tháng ba 1461 bởi người anh em họ của mình, Edward York, người đã trở thành vua của nước Anh với tên hiệu Edward IV. Vào thời điểm này Henry thường xuyên trở nên điên rồ và dường như ông đã cười và ca hát trong khi trận St Albans lần thứ hai nổ ra để giải cứu cho chính ông. Nhưng Edward vẫn có thể chiếm ngôi vua nước Anh, mặc dù ông này không thể bắt tù binh Henry VI và bà hoàng hậu của ông ta, những người này đã chạy trốn đến Scotland. Trong thời gian đầu tiên của triều đại Edward IV, phe Lancaster vẫn tiếp tục kháng cự chủ yếu là dưới sự lãnh đạo của Hoàng Hậu Margaret và những quý tộc vẫn trung thành với bà ở các quận phía Bắc của nước Anh và xứ Wales. Henry VI-người đã được che chở một cách an toàn bởi các đồng minh của nhà Lancaster ở Scotland, Northumberland và Yorkshire, nhưng cuối cùng ông vẫn bị bắt bởi vua Edward trong năm 1465 và sau đó bị giam giữ tại ngục Tháp London.
    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;}

    Quay trở lại ngai vàng


    Hoàng hậu Margaret, đang sống lưu vong ở Scotland và sau đó là ở Pháp, quyết tâm giành lại ngai vàng thay mặt chồng và con trai của bà. Cô độc một mình, bà không thể làm gì nhiều. Tuy nhiên, cuối cùng Edward IV đã mất đi hai trong số những người ủng hộ chính của ông: đó là Richard Neville-Bá tước Warwick và em trai của ông (Edward IV )-George, Công tước xứ Clarence. Theo sự xúi giục của vua Louis XI của nước Pháp, họ đã thành lập một liên minh bí mật với Margaret. Sau khi cho con gái của mình kết hôn với Edward xứ Westminster-con trai Henry và Margaret, Bá tước Warwick quay trở lại Anh và đánh bại phe York trong một trận chiến và phục hồi ngôi vị của Henry VI trong ngày 30 tháng 10 năm 1470 (Richard Neville có biệt danh là Gã buôn vua vì ông ta chán dựng vua nhà York lại dựng vua nhà Lancaster). Tuy nhiên, vào thời gian này thực chất Bá tước Warwick và Công tước Clarence thực sự là những nhà cai trị nước Anh nhân danh Henry VI.


    Thời gian Henry trở lại ngai vàng kéo dài không đến sáu tháng. Warwick đã sớm làm cho mình lâm vào cảnh khó khăn khi tuyên chiến với xứ Burgundy ( một phần của nước Pháp nhưng vào thời gian này về mặt quân sự xứ này còn áp đảo cả chính quốc của nó ), bởi vì người đứng đầu xứ này đã cho Edward IV những hỗ trợ cần thiết để giành lại ngai vàng của ông ta bằng vũ lực. Ông ta ( Edward IV ) đã giành một chiến thắng quyết định ở trận Tewkesbury ngày 04 tháng 5 năm 1471, Edward của Westminster với danh hiệu Hoàng tử xứ Wales-con trai của Henry VI đã bị giết chết sau trận đánh này.



    Ngồi tù và qua đời


    Henry đã bị giam giữ trong ngục Tháp London, nơi ông qua trong đêm ngày 21/22 tháng 5 năm 1471. Khả năng là đối thủ của Henry đã cố giữ cho ông ta còn sống đến thời điểm này và ra tay hạ sát Edward-người con trai của Henry, người vốn là một thủ lãnh ghê gớm hơn rất nhiều của phe Lancasters. Theo quấn sách sử Historie of the Arrivall of Edward IV, một biên niên sử chính thức thiên về Edward VI, thì Henry qua đời vì u sầu khi nghe tin tức về trận Tewkesbury và cái chết của con trai của ông. Tuy nhiên, sau đó có nhiều nghi ngờ rằng Edward VI-người tái đăng quang vào buổi sáng sau cái chết của Henry VI, trong thực tế đã ra lệnh giết chết ông ta.


    Ban đầu vua Henry VI được chôn cất tại Abbey Chertsey, sau đó trong năm 1485 xác của ông được chuyển đến nhà nguyện St George-Lâu đài Windsor.
  7. OngHoangBay

    OngHoangBay Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    11/05/2010
    Bài viết:
    75
    Đã được thích:
    0
    Bác em mất tích làm em cứ tưởng bác em đi nước ngoài rồi!

    Gướm, dạo này tàu khựa tăng cường bắt cóc nhân tài lắm cơ bác ạ!
  8. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7

    hẹ hẹ tầu khựa nó chỉ máu bắt cóc chị em thôi bác ợ, anh em thì nó cũng đang dư
    -----------------------------Tự động gộp Reply ---------------------------

    hẹ hẹ tầu khựa nó chỉ máu bắt cóc chị em thôi bác ợ, anh em thì nó cũng đang dư
  9. ktn_208

    ktn_208 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    14
    Đã được thích:
    1
    HiHi! Mong mãi mới thấy bác Sơn quay lại! Thanks!i
  10. danngoc

    danngoc Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    24/08/2004
    Bài viết:
    3.760
    Đã được thích:
    1.330
    Hehe. vừa xem phim Henri de Navarre 2010, lại nhớ topic của bác

    P/S: sách thì phải viết là cuốn chứ không phải quấn nhá. Đừng sai chính tả, sai chính tả là đặc quyền của các bạn ở bên kia.

Chia sẻ trang này