1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Huyền Thoại về Những Cuộc Chiến Bí Mật

Chủ đề trong 'Kỹ thuật quân sự nước ngoài' bởi terminatorx, 03/02/2011.

Trạng thái chủ đề:
Đã khóa
  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. start123456

    start123456 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    11/10/2005
    Bài viết:
    879
    Đã được thích:
    199
    Lại lươn rồi. Đang nói chuyện ở VN cơ mà. Đừng có lươn rồi lại sủa ong ỏng lên như thế chứ.
    Bọn ngẹo vàng này, chỉ có một thứ tài, đó là Bỉ Ổi, Lươn lẹo không ai bằng.
    Biết ai ra lệnh thảm sát không? Stalin của các bạn Gruzia của thế giới tự do đấy. LOL.
    Mà có biết tại sao lại là Ba Lan không? vì đó là cái dân tộc lươn lẹo, lừa thầy, phản bạn như mấy thằng ngẹo vàng ấy. Chúng nó thảm sát dân LX trong cuộc chiến tranh LX-Ba Lan như thế nào? ai đòi mạng cho họ đây?
  2. vietcong91

    vietcong91 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    23/01/2010
    Bài viết:
    1.159
    Đã được thích:
    0
    -----------------------------Tự động gộp Reply ---------------------------
    chó điên sủa bậy cũng phải có cái nguồn mà sủa nhé chó điên b-( cơ mà bọn cường hào địa chủ này giúp đời gì à hay là làm chó cho Pháp =((
  3. Khoam

    Khoam Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    14/02/2011
    Bài viết:
    1.572
    Đã được thích:
    841
    http://ttvnol.com/quansu/1168098/page-25#post18561670
  4. macay3

    macay3 LSVH - KTQSNN Moderator

    Tham gia ngày:
    26/10/2007
    Bài viết:
    2.959
    Đã được thích:
    1.590
    cho cái nguồn đàng hoàng xem. Hay là chế kiểu dvd sự thật hcm
  5. Khoam

    Khoam Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    14/02/2011
    Bài viết:
    1.572
    Đã được thích:
    841
    Dmitri Baltermants nào ở đây, "Chúng tôi muốn sống" thì có.
    Lấy từ http://picasaweb.google.com/vuhuy02 hả tẹc? cho thêm nè:
    Xin lưu ý, thực sự đã có sự lẫn lộn những hình trong phim ảnh tuyên truyền trong tập hình này.
    Trang hình về "Cải Cách Ruộng Đất", gồm nhiều hình ảnh giả tạo, lấy trong phim "Chúng Tôi Muốn Sống" của chính phủ miền Nam, tức không phải là cảnh thật. Bạn đọc có thể xem các hình ảnh này trong đoạn 6 của 11 đoạn phim "Chúng Tôi Muốn Sống" đăng trong Youtube trong đường dẫn http://www.youtube.com/watch?v=MRZy7RthT3s&feature=related. Phim "Chúng Tôi Muốn Sống" là phim tuyên truyền (tức hư cấu của đạo diễn, không phải phim thời sự hay tài liệu) của chính quyền miền Nam, do Giám Đốc Sản Xuất là Bùi Ngọc Giao thực hiện với Xảo Thuật của nghệ sĩ Totoy Torrente, và sự cộng tác của hệ thống quân đội Việt Nam Cộng Hòa. Phim được trình chiếu miễn phí ở miền Nam cho công chúng vào khoảng năm 1955 - 1956.
  6. vietcong91

    vietcong91 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    23/01/2010
    Bài viết:
    1.159
    Đã được thích:
    0
    thằng dog muuthan này ngu vl thằng tỡm bị khoá mỏ vài lần nên có kinh nghiệm, thằng này chưa bị rọ mõm nên còn sủa được bàn vấn đề vn ở đây là ko ăn rồi =))

    Thôi kệ dù gì cũng có thứ mà reply tăng bài vít lại được chửi nữa sướng vl =)) bọn dog thì nếu có nguồn thì toàn nguồn lởm, còn bt thì truyền mỏ chó cho nhau nghe =D>
  7. huyphuc1981_nb_aaah

    huyphuc1981_nb_aaah Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    21/12/2010
    Bài viết:
    214
    Đã được thích:
    53
    Lại chó điên sủa
    Các quan tài thảm sát huế đã được bõ chưng minh là chính những người dân bị bom đạn Mỹ và lính Mỹ ngu.y thảm sát, bạn nào nhớ ở đâu nhỉ
    Ảnh dưới minhhoả cảnh bom đạn mỹ nguỵ như thế đấy chó điên ạ

  8. BoyPio

    BoyPio Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    23/01/2011
    Bài viết:
    449
    Đã được thích:
    0
    có bằng 2 trái bom nguyên tử ko

    Theo một số nguồn ước tính, 70.000 người trên tổng số 240.000 dân cư Nagasaki chết ngay và 60.000 người khác bị thương. Bán kính vụ nổ là 1,6 km, những đám cháy trải dài từ phần bắc của thành phố cho đến 3,2 km cách vụ nổ về phía nam. Một số lượng không tính toán được những người sống sót từ vụ nổ ở Hiroshima sơ tán đến Nagasaki và lại bị đánh bom ở đâyBất đồng quanh hai vụ nổ nguyên tử

    [sửa] Ý kiến bất đồng

    Những ý kiến phản đối việc thả bom nguyên tử chủ yếu ở hai điểm:

    1. Việc thả bom gây thương vong số lượng lớn nhằm vào dân thường đương nhiên là hành vi trái với đạo đức.
    2. Việc thả bom đứng về mặt chiến thuật quân sự là không cần thiết và không thể biện minh.
    [sửa] Hành vi trái đạo đức cố hữu

    Một số cá nhân và tổ chức chỉ trích việc ném bom, nhiều người trong số họ cho rằng đó là tội ác chiến tranh hoặc tội ác chống lại loài người. Hai nhân vật tiêu biểu là Albert EinsteinLeó Szilárd, những người trước đó cùng ký tên vào bức thư gửi Tổng thống Roosevelt, cổ vũ công việc nghiên cứu, phát triển bom nguyên tử năm 1939. Szilárd, người đã tham gia tích cực trong Dự án Manhattan, lý luận:
    "Hãy để tôi đề cập chủ yếu về vấn đều đạo đức: Giả sử nước Đức phát triển thành công hai quả bom nguyên tử trước chúng ta. Và giả sử nước Đức thả hai qua bom đó, ví dụ, xuống Rochester và Buffalo (hai quận nhỏ ở tiểu bang New York, Hoa Kỳ), rồi sau đó họ bại trận. Liệu có ai băn khoăn không khi chúng ta cho đó là tội ác chiến tranh và sẽ kết tội người Đức về hành vi đó trước tòa án Nürnberg rồi treo cổ họ?" Một số nhà khoa học làm việc cho dự án bom nguyên tử đã chống lại việc sử dụng chúng. Bảy nhà khoa học, đứng đầu là Tiến sĩ James Franck, đệ trình một bản báo cáo lên Ủy ban Nội chính của tổng thống Truman tháng 5 năm 1945, rằng:
    "Nếu Hoa Kỳ là quốc gia đầu tiên sử dụng những vũ khí hủy diệt bừa bãi này, nó sẽ đánh mất sự ủng hộ của công chúng trên toàn thế giới, khích động chạy đua vũ trang và ngăn cản khả năng đạt được thỏa thuận quốc tế về kiểm soát loại vũ khí này trong tương lai." Ngày 8 tháng 8 năm 1945, tác giả người Pháp Albert Camus viết về thảm họa ở Hiroshima trên một ấn bản tiếng Pháp là Chiến trận (Combat):
    "Xã hội cơ khí đã đạt đến giai đoạn đỉnh cao của sự man rợ. Trong tương lai gần, chúng ta sẽ phải lựa chọn giữa tự sát tập thể và việc sử dụng sáng suốt những thành tựu khoa học [...] Điều này không chỉ đơn thuần là một lời cầu mong nữa; nó phải trở thành một mệnh lệnh chuyển đến các chính phủ từ quần chúng nhân dân, mệnh lệnh cho lựa chọn rõ ràng giữa lý trí và địa ngục." Năm 1946, trong một bản báo cáo của Tổ chức nhà thờ liên bang với tên Chiến tranh nguyên tử và niềm tin Thiên chúa có một đoạn như sau:
    "Là những người Thiên chúa Hoa Kỳ, chúng ta hối tiếc về sự lạm dụng thiếu trách nhiệm vũ khí nguyên tử. Chúng ta đều đồng cảm rằng, trên nguyên tắc, dù là sự nhìn nhận của bất kỳ người nào đối với chiến tranh, việc ném bom nguyên tử xuống Hiroshima và Nagasaki là không thể biện hộ được về mặt đạo đức." Năm 1963, hành vi ném bom nguyên tử là đối tượng xem xét của phán quyết tại Tòa án Hiến pháp trong vụ xử Ryuichi Shimoda et al. v. The State. Trong đúng ngày tròn 22 năm sự kiện tấn công Trân Châu Cảng, tòa án hạt Tokyo đã từ chối xét xử tính hợp pháp nói chung của việc sử dụng vũ khí hạt nhân, nhưng phán quyết rằng "vụ tấn công Hiroshima và Nagasaki đã gây ra những thiệt hại nặng nề và không phân biệt quân đội và dân thường, theo nghĩa đó chúng đã vi phạm những nguyên tắc cơ bản nhất khi tiến hành chiến tranh".
    Cũng theo một ý kiến của tòa, hành vi ném bom nguyên tử vào các thành phố được điều tiết bởi luật pháp quốc tế tại Công ước Hague về chiến tranh trên bộ năm 1907 và Dự thảo công ước Hague về chiến tranh đường không năm 1922-1923 và theo đó là không hợp pháp.
    Với việc sử dụng vũ khí hạt nhân đầu tiên, việc ném bom xuống hai thành phố Hiroshima và Nagasaki thể hiện sự vi phạm những cấm cản tối thiểu, Peter Kurznick, giám đốc viện Nghiên cứu hạt nhân tại Đại học Châu Mỹ tại Washington viết về Tổng thống Truman:
    "Ông ta biết rằng ông ta đã bắt đầu một quá trình hủy diệt sự sống. Đó không chỉ là tội ác chiến tranh; đó là tội ác chống lại loài người." Kurznick là một trong các nhà quan sát tin rằng động lực khiến Hoa Kỳ thực hiện việc ném bom là ý muốn thể hiện quyền năng của loại vũ khí mới trước Liên Xô. Nhà sử học Mark Selden của Đại học Cornell cho rằng "gây ấn tượng với người Nga còn quan trọng hơn là kết thúc chiến tranh với Nhật Bản".
    Takashi Hiraoka, thị trưởng thành phố Hiroshima, người ủng hộ giải trừ vũ khí hạt nhân, nói trong phiên thẩm vấn của Tòa án Công lý Quốc tế Hague:
    "Một điều rõ ràng là việc sử dụng vũ khí hạt nhân, thứ vũ khí giết người hàng loạt và mù quáng để lại hậu quả trên những người sống sốt hàng nhiều thập kỷ sau đó là sự xâm phạm pháp luật quốc tế." Iccho Ito, thị trưởng thành phố Nagasaki, tuyên bố trong cùng phiên tòa:
    "hậu duệ của những người sống sót sau vụ ném bom nguyên tử sẽ còn phải được theo dõi để nhận biết đầy đủ ảnh hưởng di truyền, điều đó có nghĩa là những thế hệ này sống với nỗi lo âu trong nhiều thập kỷ tới [...] với năng lượng khủng khiếp cùng khả năng tàn sát và hủy diệt của chúng, vũ khí hạt nhân không phân biệt binh lính với dân thường, không phân biệt công trình quân sự và dân sự [...] Việc sử dụng vũ khí hạt nhân [...] do đó là một sự xâm phạm hiển nhiên luật pháp quốc tế." John Bolton, cựu đại sứ Hoa Kỳ lại Liên hiệp quốc lấy Hiroshima và Nagasaki làm những ví dụ cho thấy vì sao Mỹ không nên tham gia Tòa án tội phạm quốc tế:
    "Ví dụ, việc xem xét công bằng hiệp ước Hiệp ước Roma về Tòa án tội phạm quốc tế, khiến một nhà quan sát khách quan không thể tự tin trả lời rằng liệu Hoa Kỳ đã phạm những tội ác chiến tranh chưa khi ném bom xuống Đức và Nhật Bản trong Thế chiến thứ hai. Thực vậy, nếu giải thích thẳng thắn lời lẽ của hiệp ước có thể chỉ ra rằng tòa án sẽ qui kết nước Mỹ đã phạm tội. Hơn nữa, những điều khoản ở đây dường như ám chỉ rằng Hoa Kỳ đã phạm vào tội ác chiến tranh khi thả bom nguyên tử xuống Hiroshima và Nagasaki. Điều này (tức ngôn từ của Hiệp ước) là không thể chấp nhận được và không thể để tồn tại." Tuy rằng hành vi ném bom nguyên tử chưa thể gọi là tội diệt chủng, một số người cho rằng định nghĩa diệt chủng quá chặt và nên coi hành vi ném bom đó là sự diệt chủng. Ví dụ, nhà sử học Bruce Cunnings của Đại học Chicago tuyên bố rằng có sự đồng thuận giữa các nhà sử học với quan điểm của Martin Sherwin: "ném bom Nagasaki, với cái nhìn bao dung nhất, là không cần thiết; với cái nhìn nghiêm khắc nhất, là hành vi diệt chủng."
    [sửa] Không cần thiết về mặt quân sự

    Những người lập luận rằng việc ném bom là không cần thiết về mặt quân sự giữ quan điểm rằng Nhật Bản lúc đó đã bị đánh bại và sẵn sàng đầu hàng.
    Một trong những nhân vật nổi tiếng nhất ở thời đó có quan điểm này là Đại tướng Dwight D. Eisenhower. Ông viết trong hồi ký The White House Years (Những năm ở Nhà trắng):
    "Năm 1945, Bộ trưởng Chiến tranh Stimpson, khi đó đến thăm tổng hành dinh của tôi ở Đức, thông báo cho tôi rằng chính phủ chúng ta đang chuẩn bị thả bom nguyên tử xuống Nhật. Tôi là một trong những người cảm thấy rằng có những lý do vững vàng để nghi vấn sự sáng suốt của hành động đó. Trong khi ông ta kể về những sự việc liên quan, tôi cảm thấy buồn chán và đã nói với ông ta về những sự hoài nghi của tôi, thứ nhất, tôi tin rằng Nhật Bản thực sự đã bị đánh bại và việc ném bom là không hoàn toàn cần thiết, và thứ hai, tôi cho rằng việc sử dụng vũ khí đó là không bắt buộc nhằm hạn chế thương vong cho lính Mỹ bởi đất nước chúng ta nên tránh một ý tưởng làm thế giới rung chuyển bằng cách sử dụng vũ khí đó." Các tướng lĩnh khác của quân đội Hoa Kỳ không đồng ý với sự cần thiết của việc ném bom gồm Đại tướng Douglas MacAthur (tướng lĩnh cao cấp nhất của Chiến trường Thái Bình Dương), Đô đốc Hạm đội William D. Leahy (quan chức cao cấp nhất của văn phòng điều hành của Tổng thống), Đại tướng Carl Spaatz (tư lệnh không quân chiến lược Hoa Kỳ ở Thái Bình Dương), Trung tướng Carter Clarke (sỹ quan tình báo quân sự), và một số người khác.
    "Nhật Bản trước đó đã đề nghị hòa bình. Từ quan điểm quân sự thuần túy, bom nguyên tử không có vai trò quyết định đánh bại nước Nhật" -- theo lời Đô đốc hạm đội Chester W. Nimitz, tư lệnh Hạm đội Thái Bình Dương."Việc sử dụng bom nguyên tử ở Hiroshima và Nagasaki không hỗ trợ về mặt vật chất cho cuộc chiến của chúng ta với nước Nhật. Người Nhật đã thực sự bại trận và sẵn sàng đầu hàng" -- ý kiến của Đô đốc Hạm đội William D. Leahy. Cuộc nghiên cứu về ném bom chiến lược Hoa Kỳ, đã phỏng vấn hàng trăm lãnh đạo dân sự và quân sự Nhật Bản sau khi nước Nhật đầu hàng, báo cáo:
    "Dựa trên cuộc điều tra chi tiết thực tế, và với lời khai của các quan chức Nhật bản liên quan, ý kiến tin chắc rằng nước Nhật sẽ đầu hàng trước ngày 31 tháng 12 và có khả năng trước ngày 1 tháng 11 năm 1945 mà không cần đến nổ bom nguyên tử, thậm chí là không cần Liên Xô tham chiến, và cũng không cần một cuộc đổ bộ nào." Nghiên cứu cũng cho rằng những đợt ném bom thông thường vẫn cần thiết để buộc Nhật Bản đầu hàng. [2]
    Nhiều người, trong đó có Đại tướng MacAthur đồng ý rằng Nhật Bản sẽ đầu hàng trước khi bị ném bom nguyên tử nếu Hoa Kỳ cho họ biết rằng Thiên hoàng Chiêu Hòa sẽ vẫn là người đứng đầu Nhật Bản trên danh nghĩa, điều kiện này sau đó vẫn được chấp nhận khi Nhật ký văn bản đầu hàng. Giới lãnh đạo Hoa Kỳ đã biết được mong muốn của Nhật Bản khi giải mã những bức điện tín của Nhật Bản, nhưng từ chối thể hiện rõ thiện chí chấp nhận điều kiện này. Trước khi bị ném bom, lập trường của giới lãnh đạo Nhật Bản đã có sự phân hóa. Một số nhà ngoại giao ủng hộ đầu hàng, trong khi các lãnh đạo quân sự cam kết chiến đấu cho một "trận chiến quyết định" trên đảo Kyushu, hi vọng có được điều kiện tốt hơn để đình chiến sau đó. Chính phủ Nhật Bản khi đó chưa quyết định điều kiện nào có thể nhượng bộ trừ yêu cầu giữ lại biểu tượng hoàng gia. Chỉ khi có sự can thiệp của Thiên hoàng, bất đồng mới chấm dứt. Sau đó, như đã nói ở trên, có một cuộc nổi loạn nhỏ của giới quân sự không chấp nhận đầu hàng.
    Sử gia Tsuyoshi Hasegawa có nghiên cứu đưa đến kết luận rằng những quả bom không phải phải là lý do chủ yếu của sự đầu hàng. Ông cho rằng, lý do chính là những chiến thắng nhanh chóng và to lớn của quân đội Liên Xô ở Mãn Châu.




    cái này là ở VN



    Lính đặc nhiệm Mỹ tra tấn tù nhân bằng cách gí dao vào bụng họ. (Dân trí) - Sau những công bố mới đây về tội ác của lính Mỹ tàn sát thường dân trong chiến tranh Việt Nam, tiếp tục khai thác hồ sơ mật của quân đội Mỹ, các phóng viên của Thời báo Los Angeles lại đưa ra ánh sáng nhiều hành động tra tấn dã man những người bị lính Mỹ bắt giữ trong quá trình hỏi cung.
    Những bằng chứng bị che giấu

    Đầu năm 1973, Chủ tịch Hội đồng tham mưu Liên quân Mỹ, tướng Creighton Abrams nhận được một báo cáo đặc biệt từ bộ phận điều tra về các tội ác của lính Mỹ trong chiến tranh Việt Nam. Báo cáo cho biết, một cuộc điều tra trong nội bộ lực lượng viễn chinh Mỹ đã tìm được nhiều bằng chứng xác thực khẳng định cáo buộc của một sỹ quan chỉ huy về những vụ tra tấn dã man do lực lượng của Lữ đoàn không vận 173 tiến hành đối với những người bị họ bắt giữ tại miền Nam Việt Nam.

    Quả là một sự khó xử đối với giới lãnh đạo quân đội Mỹ, bởi vì nếu xử lý những kẻ tội phạm, lực lượng viễn chinh Mỹ sẽ bị mất uy tín không chỉ đối với người Việt Nam mà còn làm dấy lên làn sóng phản đối chiến tranh trong nước, nhưng nếu làm ngơ, tình hình thậm chí còn có thể diễn biến theo chiều hướng tồi tệ hơn.

    Trong sự bối rối như vậy, các tướng lĩnh Mỹ đã bất ngờ tìm thấy tia hy vọng. Họ phát hiện ra trong hồ sơ dày 53 trang tài liệu tố cáo tội ác của lính Mỹ tại Việt Nam do trung tá về hưu Anthony B. Herbert công bố trước dư luận có nhiều điểm mập mờ, thiếu nhất quán. "Hồ sơ … chứa nhiều chi tiết quan trọng [mà chúng ta có thể] dựa vào đó để hạ thấp uy tín của con người này [Anthony B. Herbert]; nếu điều đó là cần thiết, tôi xin tình nguyện nhận nhiệm vụ đó", chỉ huy trưởng Cơ quan điều tra tội phạm của Lục quân Mỹ, đại tá Henry H. Tufts viết trong báo cáo gửi cấp trên.

    Mức độ tra tấn tù nhân vượt xa miêu tả của Herbert

    Tới nay, các hồ sơ mới được giải mật cho thấy trong khi Lục quân Mỹ đã tìm mọi biện pháp để bôi nhọ trung tá Herbert, người đứng ra tố cáo các tội ác của lính Mỹ tại Việt Nam, thì các nhà điều tra quân sự đã phát hiện ra rằng hành động tra tấn, ngược đãi của các đơn vị lính Mỹ đã quá phổ biến và có mức độ hơn cả những gì ông đã mô tả. Hầu hết các tội ác đó đều không được đưa ra công luận và trong số các thủ phạm gây ra chúng, chỉ có rất ít kẻ bị trừng phạt.

    Nhân viên dưới quyền đại tá Tuft đã tìm ra nhiều bằng chứng cho thấy những binh lính làm nhiệm vụ hỏi cung thường xuyên đánh đập, tra tấn tù binh bằng sốc điện và bơm nước vào cổ họng để mô phỏng cảm giác chết đuối giả trong khi lấy lời khai. Trong một số trường hợp, những người bị bắt đã bị chấn động mạnh về thần kinh, mất ý thức và sau đó chết trong phòng giam. Nhóm điều tra cũng xác định được 29 thành viên của Lữ đoàn 179 đã có các hành vi tra tấn tù nhân, trong đó 15 tên đã nhận tội, nhưng chỉ 3 tên bị xử lý bằng hình thức bồi thường tiền mặt hoặc giáng cấp. Không có đối tượng nào bị kết án tù.

    Tài liệu về các hành động bôi nhọ người đứng ra tố cáo tội ác của lính Mỹ được xếp trong hồ sơ tuyệt mật của Lầu Năm Góc, dày hơn 9.000 trang, do một bộ phận chuyên trách điều tra về các tội ác chiến tranh của Lục quân thu thập từ đầu những năm 1970. Chúng cũng chứa đựng nhiều báo cáo chi tiết về 140 trường hợp tra tấn, ngược đãi tù nhân tại Việt Nam, trong đó 127 vụ liên quan đến Lữ đoàn không vận 173.

    Bộ phận chuyên trách này được thành lập sau khi nhà báo Mỹ Seymour Hersh vạch trần tội ác của lính Mỹ trong vụ thảm sát dân thường tại Mỹ Lai. Phóng sự điều tra của Seymour Hersh được coi như tiếng chuông cảnh tỉnh Nhà Trắng về những tiết lộ có thể làm cho họ "khó chịu" về sau.

    Nhưng trên thực tế, hồ sơ của cơ quan điều tra không thống kê được hết các vụ tra tấn của lính Mỹ trong chiến tranh Việt Nam, mà chỉ liên quan tới những trường hợp đã được báo cáo lên chỉ huy cấp cao hoặc thu hút được sự chú ý đặc biệt của văn phòng Bộ tham mưu Lục quân, hoặc do Tuft đưa về nhà riêng nghiên cứu. Tuy vậy cho tới nay đó cũng là những tư liệu lớn nhất về khía cạnh này của cuộc chiến được công bố.

    Thiếu tướng về hưu John H. Johns, một cựu chiến binh Việt Nam từng làm việc trong bộ phận điều tra, cho biết các hồ sơ này cung cấp nhiều bài học quan trọng trong việc xử lý các hành động ngược đãi tù nhân tại Iraq. "Nếu chúng ta chỉ coi đó là những hành động cá biệt, như chúng ta từng làm trong chiến tranh Việt Nam, như chúng ta đang làm với Abu Ghraib và các hành động tội ác khác, chúng ta sẽ không bao giờ giải quyết được tình hình", tướng John, năm nay đã 79 tuổi, phát biểu.

    Kẻ điều tra vụ thảm sát Mỹ Lai từng gây tội ác chiến tranh



    Anthony Herbert
    Người đứng ra tố cáo các tội ác của lính thuộc Lữ đoàn không vận 173, trung tá Anthony Herbert, là một trong những sỹ quan được tặng thưởng nhiều huân chương nhất của Mỹ trong chiến tranh Triều Tiên. Sau khi cuộc chiến này kết thúc, ông gia nhập lực lượng đặc nhiệm Mỹ và trở thành giáo viên huấn luyện. Đầu năm 1969, ông được giao chỉ huy một tiểu đoàn trong Lữ đoàn không vận số 173. Lữ đoàn này đóng căn cứ tại Bình Định. Trong vòng 2 tháng đầu tiên chỉ huy, tiểu đoàn của ông đã chạm trán với quân giải phóng nhiều hơn tất cả các đơn vị khác.


    Thế nhưng ngày 4/4/1969, Herbert đột nhiên bị cách chức với lý do không hoàn thành nhiệm vụ. Sau này ông báo cáo với các nhân viên của Cơ quan điều tra tội phạm rằng trước đó ông đã thông báo lên cấp trên về những tội ác mà mình từng chứng kiến.

    Theo lời khai của Herbert, tháng 2/1969, quân đội miền Nam đã xử tử nhiều người bị chúng bắt giữ trước sự thờ ơ của cố vấn Mỹ. Một trong những nạn nhân đó đã bị cắt cổ, trong khi con trai của chị vẫn bắm chặt lấy ống quần của mẹ. Các nhân viên điều tra sau này đã xác định được rằng trong vụ thảm sát đó có ít nhất 8 người bị giết hại.

    Mấy tháng sau, Herbert chứng kiến lính Mỹ và miền Nam tra tấn một thiếu nữ bằng sốc điện và một người đàn ông bằng cách bơm nước vào cổ họng. Herbert cũng kể lại ông từng có mặt khi các nhân viên hỏi cung đánh đập dã man hai phụ nữ Việt Nam bị chúng giam giữ trong các container bằng kim loại. Hầu hết các vụ việc trên đều đã được ông báo cáo lên đại tá Ross Franklin, Lữ đoàn phó. Khi được báo cáo về các hành động này, tướng William C. Westmoreland, chủ tịch Hội đồng tham mưu trưởng Liên quân Mỹ, đã ra lệnh cho Tuft thành lập gấp một lực lượng chuyên trách để điều tra, nhưng không dẫn đến kết quả nào hết. Không có ai bị đưa ra toà xét xử.
    (Dân trí) - Bất bình, tháng 3/1971, Herbert tố cáo Franklin và cấp trên của ông ta, thiếu tướng Barnes, thiếu trách nhiệm trong việc điều tra các tội ác chiến tranh. Sự kiện này đã gây kinh động giới lãnh đạo quân đội Mỹ, do Herbert có một quá khứ tương đối oanh liệt và Barnes là sỹ quan cao cấp. Hơn nữa, đại tá Franklin còn có chân trong uỷ ban đặc biệt điều tra vụ thảm sát Mỹ Lai.
    Người hùng của công luận

    Nhờ sự kiện này, Herbert tiếp tục thu hút sự chú ý của dư luận và trở thành một người nổi tiếng. Ông là khách mời chương trình truyền hình ăn khách "The Dick ****tt Show", trả lời phỏng vấn trên tạp chí Playboy và được tôn vinh trong số đặc biệt ngày chủ nhật của Thời báo New York với nhan đề: "Một sỹ quan nhiều công trạng đã bị cách chức như thế nào ?". Tuy nhiên, Barnes và Franklin không thừa nhận họ đã được Herbert báo cáo về các tội ác chiến tranh của thuộc cấp. Theo một phóng sự thực hiện vào thời gian đó, Barnes cho biết ông ta ra lệnh cách chức Herbert khỏi chức tiểu đoàn trưởng vì ông ta là một "thùng thuốc nổ" sẵn sàng bắn giết một cách tàn nhẫn.

    Lục quân Mỹ bác bỏ các cáo buộc chống lại Barnes và Franklin, nhưng cũng đồng thời bác bỏ luôn những đánh giá tiêu cực về Herbert. Nhưng ông không dừng lại mà tiếp tục tố cáo giới chỉ huy cao cấp quân đội che giấu sự thật. Lục quân Mỹ phản ứng lại bằng cách công bố hồ sơ điều tra về 21 trường hợp bị Herbert tố cáo và tuyên bố không tìm thấy chứng cứ chứng tỏ cấp trên biết về các vụ thảm sát hoặc trả đũa lại Herbert. Tháng 2/1972, tạp chí riêng của Lục quân thêm một lần nữa bôi xấu Herbert bằng cách nói ông không xứng đáng với những phần thưởng đã giành được. Ông buộc phải về hưu do không chịu được sức ép đối với bản thân và gia đình.

    Những thủ đoạn hỏi cung dã man tại Phân đội 172 MI

    Không chỉ có Lữ đoàn không vận số 173, những hành động tra tấn, ngược đãi của lĩnh Mỹ trong chiến tranh Việt Nam còn phổ biến ở nhiều đơn vị khác.

    Một tâm điểm đã được các nhà điều tra Mỹ tập trung là phân đội tình báo quân sự 172, thường gọi là phân đội 172MI. Báo cáo về lạm dụng bạo lực ở đơn vị này đã được biết đến trước khi trung tá Hernert lên tiếng từ vài năm trước.

    Một trong những người đầu tiên nói lên sự thật là Peter N. Martinsen, chuyên gia thẩm vấn, từng có thời gian cộng tác cùng các thành viên của phân đội 172 MI. Ra làm chứng trước Toà án xét xử tội phạm chiến tranh, một diễn đàn không chính thức tại Stockholm vào năm 1967, Martinsen cho biết anh ta thừng chứng kiến nhiều hành động đánh đập, tra tấn tù nhân bằng sốc điện.

    Cùng thời gian này, Robert Stemme Jr phục vụ trong bộ phận phản gián của phân đội 172MI. Nhiệm vụ của anh ta là thu thập tin tức về đối phương từ các nguồn tin tại chỗ, như ấp trưởng, xã trưởng. Mặc dù không trực tiếp tham gia thẩm vấn, nhưng Robert Stemme nghe thấy và quan sát thấy hết những gì diễn ra, vì chúng chỉ cách căn lều của anh gần chục mét. "Tôi thườg xuyên nghe thấy tiếng người bị đánh bằng các vật cứng hoặc bị chĩa súng vào người. Dụng cụ gây sốc điện thường xuyên được sử dụng", Robert Stemme kể lại.

    Stemme trở về Mỹ vào tháng 6/1969 và rời quân ngũ năm 1970. Tháng 4 năm đó, anh mở một cuộc họp báo đặc biệt tại Câu lạc bộ báo chí Los Angeles, với sự có mặt của Martinsen và Frederick Brown, một cựu nhân viên thẩm vấn của phân đội 172 MI để công bố về các tội ác của lính Mỹ tại Việt Nam.

    Stemme đã cho các nhà điều tra của Lục quân Mỹ biết, thượng sỹ David Carmon là một trong những nhân viên thường xuyên tra tấn những người bị bắt bằng thủ đoạn bơm nước vào cổ họng. Phương pháp tra tấn này, thường gọi là "nút giẻ nước", tạo nên cảm giác chết đuối giả và đã bị luật pháp quốc tế cấm thực hiện. Gần đây, chính quyền Bush dưới sức ép của dư luận cũng đã phải công khai lên tiếng tố cáo phương pháp tra tấn này. Tháng 5/2006, Lầu Năm Góc đã thông báo cho Uỷ ban chống tra tấn của LHQ về việc điều lệnh tác chiến mới của quân đội Mỹ sẽ cấm hoàn toàn phương pháp bơm nước vào cổ họng trong thẩm vấn tù nhân. Cách đây không lâu, người phát ngôn Lục quân Mỹ cũng khẳng định họ chưa từng sử dụng phương pháp này trong các cuộc chiến tranh để thu thập tin tức tình báo.

    Lời tự thú của một tội phạm chiến tranh

    Khi các nhà điều tra thẩm vấn thượng sỹ David Carmon, y thú nhận đã nhiều lần sử dụng "nút giẻ nước" trong tra tấn tù nhân. "Tôi quật ngã tù nhân xuống, đặt một miếng giẻ lên mặt anh ta và bơm nước qua tấm giẻ đó vào trong miệng họ. Tù nhân, sau khi bị sốc vì ngạt nước, buộc phải thú nhận anh ta là *************", Carmon kể lại và được ghi trong tài liệu mới được giải mật.

    Y cũng cho biết trong cuộc hỏi cung cuối năm 1968, một tù nhân đã bị chết vì phương pháp này. Tài liệu lưu trữ của phân đội 172 MI cho biết anh ta bị đấm đá, bất tỉnh và co giật. Một bác sỹ đã được đưa tới khám nghiệm và sau này xác định nạn nhân có tên là Nguyen Cong (Nguyễn Công ?). Theo lời kể của Carmon, mỗi lần như vậy nạn nhân thường bị bơm khoảng 5 galông (gần 20 lít) nước vào miệng. Nhưng trong báo cáo điều tra của bộ phận chuyên trách lên Hội đồng Tham mưu liên quân năm 1973, đại tá Tuft lại không công nhận nguyên nhân gây nên cái chết của Nguyen Cong là do tra tấn.

    Theo kể lại của thượng sỹ Carmon, tình trạng tra tấn tù nhân tại Việt Nam rất phổ biến và được cấp trên khuyến khích. "Tra tấn không bao giờ bị trừng phạt và cũng không giới hạn ở mức độ nào", Carmon trao đổi với phóng viên quan thư điện tử. Trong một bức thư khác, anh ta mô tả về kỹ thuật gây sốc điện: "Tôi thấy có một vài điện cực gắn chặt vào chân của một chiếc ghế xếp bằng kim loại. Phương pháp này thường được sử dụng đối với những người ở nông thôn hoặc miền núi, không quen với điện. Những kẻ tra tấn nói với nạn nhân rằng điện sẽ làm cho họ bị vô sinh hoặc gần như vậy. Khi quay điện, sẽ có một dòng điện nhỏ phát ra và làm gây nạn nhân cảm giác buồn buồn, cho tới khi họ buộc phải khai".

    Carmon nói thêm: "Tôi chẳng việc gì phải xấu hổ về những việc đã làm. Nếu đặt vào tình huống như ở Việt Nam một lần nữa, tôi cũng sẽ làm như vậy".

    Lời bao biện của những kẻ gây tội ác

    Các nhà điều tra tiếp xúc với 31 thành viên của phân đội 172 MI trước khi trình báo cáo lên Hội đồng tham mưu Liên quân về những tội ác ciến tranh diễn ra từ tháng 3/1968 đến tháng 10/1969. Báo cáo cho thấy có nhiều bằng chứng dẫn tới buộc tội hình sự 22 nhân viên thẩm vấn, trong đó có nhiều người vẫn đang tại ngũ. Báo cáo cũng cho thấy chỉ huy của phân đội, đại uý Norman L. Bowers thường xuyên có mặt khi diễn ra các vụ tra tấn. Nhưng cũng như các lần trước, không có đối tượng nào, kể cả Bowers, bị trừng phạt.

    Cho tới nay, đại uý Bowers vẫn phủ nhận về việc đã chứng kiến những hành động tội ác của đơn vị ông ta. "Cũng có thể nó đã xảy ra nhưng tôi không thể nói về điều này được. Ngược đãi tù nhân là một vấn đề nghiêm trọng và không có chuyện có ai đó đã để tôi chứng kiến", ông ta trả lời phỏng vấn Thời báo Los Angeles qua thư điện tử.

    J. Ross Franklin, một trong hai cấp trên mà Herbert đã tố cáo che giấu tội ác chiến tranh, là Lữ đoàn phó Lư đoàn không vận 173 trong thời gian từ tháng 12/1968 tới tháng 6/1969. Trong một lần phỏng vấn gần đây, Franklin cho biết ông ta không biết các nhà điều tra đã phát hiện ra điều gì và không ai thông báo về tình trạng ngược đãi tù nhân cho ông ta. "Tôi thậm chí còn không biết việc tra tấn tù nhân bằng nút giẻ nước là như thế nào", Franklin nói. "Những người thẩm vấn thường xuyên chịu sức ép và khuyến khích phải lấy được tin tức, trong đó có những kẻ có ác tâm. Tôi không thể đánh cược rằng có điều gì đó không xảy ra đối với Lữ đoàn 173. Nếu các nhà điều tra quân đội phát hiện được điều gì, tôi cho rằng cũng có thể nó đã xảy ra", Franklin nói thêm.




    9.000 trang tư liệu - tập hợp đầy đủ nhất từ trước tới nay về các tội ác chiến tranh của quân đội Mỹ tại miền Nam Việt Nam - vừa được giải mật. Một số tờ báo lớn của Mỹ đã tiếp cận được với hồ sơ này và từ hôm qua bắt đầu công bố những chi tiết đầu tiên.
    Buổi sáng ngày 8/2/1968, tại một khu vực thuộc duyên hải miền Trung Việt Nam, Jamie Henry, một lính cứu thương 20 tuổi đã chứng kiến một vụ thảm sát dã man thường dân Việt Nam. Chỉ với một mệnh lệnh "Giết hết những gì di chuyển", 19 thường dân - trong đó đa số là phụ nữ và trẻ em - đã bị bắn hạ không thương tiếc.

    Trở lại California, Henry đã đưa ra thông tin về vụ thảm sát và sau đó tổ chức một cuộc họp báo về vụ việc này. Tuy nhiên, Henry và những cựu binh đứng ra tố cáo tội ác chiến tranh này đã bị coi là những kẻ phản bội và bịa đặt. Thậm chí không có ai tìm hiểu thực hư về vụ thảm sát.

    Giờ đây, sau gần 40 năm, các hồ sơ giải mật của quân đội Mỹ đã cho thấy những gì Henry nói đều là sự thật và vụ việc không chỉ dừng ở đó. Đây là một phần của một tài liệu mật, đã được Bộ Quốc phòng Mỹ tập hợp từ đầu những năm 70 thế kỷ trước, trong đó có những bằng chứng đã được xác nhận cho thấy những hành động tàn bạo của binh sĩ Mỹ tại Việt Nam là nghiêm trọng và xảy ra trên diện rộng hơn là những gì người ta biết đến trước đó.

    Hồ sơ cung cấp chi tiết về 320 vụ việc đã được cơ quan điều tra của quân đội Mỹ xác minh và có những bằng chứng cụ thể. Tuy vậy, hồ sơ này không nhắc tới tội ác ghê rợn nhất được biết đến dưới cái tên "vụ thảm sát Mỹ Lai" - trong đó các binh lính Mỹ đã *********** phụ nữ và bắn chết 503 thường dân, trong đó đa số là phụ nữ, trẻ em và người già của làng Sơn Mỹ, huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi.


    Các vụ việc được chứng minh trong hồ sơ có thể kể đến: 7 vụ thảm sát từ 1967 đến 1971, trong đó có ít nhất 137 dân thường bị giết; 78 vụ tấn công khác nhau vào những người không tham chiến, trong đó ít nhất 57 người bị giết, 56 người bị thương và 15 vụ cưỡng hiếp; 141 vụ tra tấn những người tình nghi hoặc tù binh chiến tranh.
    Mặc dù không phải là một sự giải thích đầy đủ nhất về những tội ác chiến tranh của Mỹ tại Việt Nam nhưng tài liệu được giải mật lần này là một tập hợp đồ sộ nhất được công bố từ trước tới nay với khoảng 9.000 trang, trong đó bao gồm cả những tài liệu điều tra, xác nhận của các nhân chứng và báo cáo cho chỉ huy quân sự ở cấp cao nhất. Theo tài liệu này, các vụ tấn công nhằm vào thường dân Việt Nam đã được lặp lại nhiều lần. Hàng trăm lính Mỹ, trong các cuộc trả lời phỏng vấn của các điều tra viên và những lá thư gửi cấp trên, đã miêu tả về một bộ phận binh lính và chỉ huy hung bạo, tàn ác, những kẻ sẵn sàng giết người, cưỡng hiếp và tra tấn. Việc ngược đãi không giới hạn trong một vài đơn vị tồi tệ nào mà chúng được phát hiện thấy ở tất cả các sư đoàn lính Mỹ hoạt động tại Việt Nam.


    Các nhà điều tra đã xác định được bằng chứng chống lại 203 lính Mỹ bị cáo buộc giết hại dân thường Việt Nam hoặc tù binh. 57 người trong số họ đã bị đưa ra tòa án quân sự và 22 người đã bị kết án. 14 người đã nhận án từ 6 tháng đến 20 năm nhưng hầu hết đều được giảm án đáng kể trong phiên phúc thẩm. Nhiều vụ việc khác đã bị đóng lại vô thời hạn.

    Ngoài 320 vụ việc được xác minh, hồ sơ còn có những tài liệu có liên quan đến hơn 500 hành động tàn ác mà các điều tra viên chưa thể chứng minh hoặc không được quan tâm đến.



    Tờ Los Angeles Times vừa đăng bài viết tố cáo các chỉ huy quân đội Mỹ đã che giấu tội ác của cấp dưới trong chiến tranh ở Việt Nam và phần lớn các quân nhân phạm tội đã không bị trừng phạt, hoặc chỉ bị phạt rất nhẹ, trong khi người tố cáo lại bị ngược đãi.​
    Dựa trên các tài liệu của quân đội Mỹ, do một lực lượng đặc nhiệm của quân đội chịu trách nhiệm điều tra tội ác chiến tranh thu thập và giải mật, bài báo cho biết trong báo cáo gửi Bộ Tổng tham mưu quân đội, Trung tá Mỹ Anthony Herbert đã tố cáo các binh sỹ Lữ đoàn không vận 173 tra tấn những người bị bắt giữ ở miền nam Việt Nam. Tuy nhiên, giới chỉ huy quân sự khi đó đã bác bỏ tố cáo này và ra sức làm mất uy tín của Herbert.​
    Các nhà điều tra thuộc lực lượng đặc nhiệm trên đã phát hiện hàng loạt những vụ bạo hành của quân sỹ Mỹ, với mức độ dã man còn vượt xa cả nội dung tố cáo của Trung tá Herbert. ​
    Các nhà điều tra đã xác định được danh tính của 29 binh sỹ thuộc lữ đoàn 173 bị tình nghi tham gia các cuộc tra tấn, trong số này có 15 người nhận tội, song chỉ có 3 người bị phạt nhưng rất nhẹ. Trong các tài liệu này còn có báo cáo chi tiết về 142 vụ bắt giữ và ngược đãi tù nhân, trong đó có 127 trường hợp liên quan đến lữ đoàn 173. ​
    Tuy nhiên, cả báo cáo của Herbert cũng như báo cáo của lực lượng đặc nhiệm, được giao nhiệm vụ điều tra về lời tố cáo của ông, đã rơi vào im lặng và được lưu trong hồ sơ mật cho đến khi nó được đưa ra ánh sáng. ​
    .

    [​IMG]

    Lính đặc nhiệm Mỹ tra tấn tù nhân bằng cách gí dao vào bụng họ.
    [​IMG]

    Một cảnh lính nguỵ tra tấn tù nhân.
    [​IMG]
    Binh sĩ Mỹ giết chồng của người phụ nữ ở Bình Định này đã bị kết tội thảm sát, nhưng không phải chịu ngày tù nào.
    Ảnh: Los Angeles Times.
  9. vietcong91

    vietcong91 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    23/01/2010
    Bài viết:
    1.159
    Đã được thích:
    0
    ^thôi cả nhà ạ tụi nó TROLL ấy mà, mình khỏi giải thích cứ chửi cho sướng [:D]
  10. huyphuc1981_nb_aaah

    huyphuc1981_nb_aaah Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    21/12/2010
    Bài viết:
    214
    Đã được thích:
    53
Trạng thái chủ đề:
Đã khóa

Chia sẻ trang này