1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Tàu sân bay và cách chống tầu sân bay

Chủ đề trong 'Kỹ thuật quân sự nước ngoài' bởi mig1000, 11/02/2011.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. terminaterx300

    terminaterx300 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    28/04/2006
    Bài viết:
    2.245
    Đã được thích:
    1
    vì nó nổ trên boong tàu,còn thử nổ trên mặt đất coi thế lào [:P]

    p/s không biết cái boong mặt trên đó dày bao nhiu inch nhỉ :-"
  2. gabeo2010

    gabeo2010 Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    29/04/2009
    Bài viết:
    2.616
    Đã được thích:
    8
    cái lỗ đấy mà ngang mớn nước nhể. :-"

    Xe tăng dính tên lửa AT cũng chỉ khoan cái lỗ nhỏ xíu, đây đủ cả người chui vô cũng vẫn được.
  3. GT13E1

    GT13E1 Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    29/01/2011
    Bài viết:
    493
    Đã được thích:
    0
    John Mccain là 4C thứ dữ của Mỹ! Lão là con trai tư lệnh hạm đội TBD, Ông nội cũng là một đô đốc hải quân Mỹ. Tuy nhiên đến đời Cain III thì binh nghiệp không như mong đợi! Tốt nghiệp bét lớp, làm rớt đến 5 chiếc máy bay trong sự nghiệp ( kỷ lục không phi công nào làm được)
    Trong vụ Forrestal thì có rất nhiều nghi vấn về việc Cain 3 có phải nguyên nhân làm cháy tàu Forrestal không, nhưng kết quả điều tra thì chứng tỏ Cain 3 vô tội ( vừa hạ cánh xuống thì dính rocket). Cain là người duy nhất được di tản bằng trực thăng khỏi Forrestal mà không bị thương ( nghe đồn là sợ bị thủy thủ trên tàu trả thù cho 134 oan hồn chết vì CCCC :D). Trên tsb mới thì dớp vẫn không tha nên cùng năm đó Cain đc về hỏa lò ngồi 4 năm
    [​IMG]
    http://2.bp.blogspot.com/_CtkN9IU2IhU/THCFdC1H36I/AAAAAAAAAvg/SfDCWzw3jOM/s1600/100816151140_uss_john_mccain_466x350_nocre***.jpg
    Tàu Cain ông nội thăm việt nam
    [​IMG]
    Cain III thăm VN
    -----------------------------Tự động gộp Reply ---------------------------
    The supercarriers of the postwar era, starting with the Forrestal class — nearly 200 feet longer and 40 feet wider in the beam than their World War II counterparts — would eventually be forced to move the strength deck up to the flight deck level as a result of their great size; a shallow hull of those dimensions became too impractical to continue. The issue of protection had no influence on the change; the Forrestal class had an armoured flight deck of at least 1.5" thickness. Some of the follow on classes to the Forrestals also had armoured flight decks[37] although deck armour is of little to no use against modern anti-ship missiles, it may help limit the damage from flight deck explosions. The experience of World War Two caused the USN to change their design policy in favour of armoured flight decks: "The main armor carried on Enterprise is the heavy armored flight deck. This was to prove a significant factor in the catastrophic fire and explosions that occurred on Enterprise's flight deck in 1969. The US Navy learned its lesson the hard way during World War II when all its carriers had only armored hangar decks. All attack carriers built since the Midway class have had armored flight decks."
  4. alphandt

    alphandt Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    13/08/2008
    Bài viết:
    1.818
    Đã được thích:
    0
  5. battleship

    battleship Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/12/2010
    Bài viết:
    338
    Đã được thích:
    0
    trong lần mĩ đánh i rắc hay af cũng có 1 vụ
    quả to ma hốc được phóng lên rơi ngay xuống biển
    sát sườn TSB mĩ nhưng nó không nổ thì phải .
  6. hongsonvh

    hongsonvh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2006
    Bài viết:
    1.600
    Đã được thích:
    7
    Thảm hoạ cháy tầu Oriskany
    ( trích từ quấn không chiến trên bầu trời Bắc Việt - do bác Đoàn sưu tầm trên QSVN.net)

    .....
    Ngày 26 tháng 10 năm 1966, khi tiếng còi báo cháy vang lên. Cal Swanson còn đang ngủ say sưa hơn cả vào buổi sáng diễn ra vụ tấn công Cổ Chai 3 tháng trước. Chiếc Oriskany phải rời bến sớm để tới San Diego, chuyến chinh chiến của nó sắp kết thúc. Cổ Chai hiện ra trong đầu Swanson là vụ tấn công tồi tệ nhất mà ông từng tham gia vụ duy nhất trong đó một phi công của hạm đội phải thiệt mạng. Butch Verich đã bị bắn rơi hồi tháng 8 nhưng đã được tìm thấy bởi 1 máy bay lên thẳng mà không có rắc rối gì. Ít tuần sau, vào ngày 9 tháng 10, Trung tá Bellinger hạ được 1 chiếc Mig. Đó là một trận oanh tạc kinh điển. Belly đã chiến đấu rất hay. Mọi người đều cho rằng lẽ dĩ nhiên anh đáng được phấn khởi dù sau đó anh có hành vi không hay khi đi quanh boong tàu nốc hết cốc này sang cốc khác mà điều đó theo một số thuỷ thủ đoàn đã gây khó chịu cho cấp dưới của anh ta. Rượu bị cấm trên tàu Mỹ chỉ trừ những dịp đặc biệt như sau vụ giải cứu ra khỏi lãnh thổ của kẻ thù hay sau một chiến thắng quan trọng, khi đó cũng chỉ được uống một cốc rượu chiếu lệ. Rất nhiều đồ uống được đưa lên tàu nhưng được cất kín chứ chẳng ai lại phô ra như Bellinger. Đại tá Iarrobino đã bỏ qua hành vi sai trái đó của Belly và cho anh ta tới Sài Gòn để thuật lại thắng lợi của mình cho phóng viên mục tin vắn hằng ngày tờ Five O'clock follies và rồi mọi người cũng được đọc báo viết về Oriskany và phi đội 162 . Chí khí của phi đội vốn đã cao lại được đẩy lên cao hơn và ai cũng cảm thấy mình đóng vai trò quan trọng trong việc ngăn chặn miền Nam Việt Nam đến với Chủ nghĩa cộng sản.

    Khi tiếng còi báo cháy vang lên, Đại tá JohnIarrobino đang ngồi trên bàn giấy trong ca bin nhưng ông vẫn có thể vui mừng trước chuyến đi của Oriskany trên Yankee Station. Tất cả mọi người trên chuyến bay đã thực thí nhiệm vụ rất xuất sắc. Chưa có chiếc không hạm nào làm nhiệm vụ trên biển mà dũng cảm và quyết tâm đến thế, chưa thủy thủ đoàn của con tàu nào lại phải làm việc trong một thời gian dài dưới điều kiện khó khăn và nguy hiểm như vậy. Vì khiêm tốn, Iarrobino đã không nói rằng sự thành công của Oriskany một phần là nhờ công điều khiển con tàu của ông nhưng trên thực tế, con tàu đã lập một kỷ lục về tiếp tế quân trang mà không ai ở Yankee Station có thể vươn tới: trung bình 1 giờ 435.5 tấn đạn dược đã được vận chuyển từ tàu chở vũ khí USS Mt Ratmai ở ngay giữa biển. Iarrobino rất hài lòng với phản ứng của thuỷ thủ đoàn khi ông nói rằng chiếc tàu sân bay Franklin D. Roosevelt sẽ thay thế Oriskany. Họ đã ném chiếc đinh vít đi để quay lại Nhật sửa chữa con tàu, đồng ý lại lâu hơn. Đã quá 2 tuần so với lịch trình mà Oriskany chưa cập bến nên việc ghé lại Hồng Công theo dự kiến bị loại bỏ khiến mọi người rất buồn nhưng rồi họ vẫn tiếp nhận điều đó hết sức bình thường. Chí khí của họ vẫn còn cao.

    Ngoài sự thiệt mạng của các phi công dưới lưới lửa Bắc Việt chỉ có 2 sự cố xảy ra trong suốt chuyến đi làm ông kém vui. Sự cố thứ nhất xảy ra vào ban đêm, dây dẫn bị đứt khi bình tiếp nhiên liệu được hạ xuống tàu. Một chiếc máy bay hạ cánh vướng đuôi vào một trong bốn dây cáp dăng trên sàn boong. Dây dẫn quấn vào đuôi máy bay, giật máy bay đi một đoạn rồi mới dừng. Khi tai nạn xảy ra, dây dẫn dứt, nó lướt nhanh trên boong như một lưỡi hái, xén đứt bất cứ thứ gì trong tầm hái của nó. Trong đêm đó, một binh nhì và một hạ sĩ quan đã phải chịu nạn. Một phi công thuộc hạm đội 162 vừa mới từ buồng lái bước xuống đột nhiên cảm thấy có cái gì đó ướt và nhớp nháp giáng mạnh vào ngực. Đó là cái chân của anh hạ sĩ quan nằm trên sàn máy bay đang cố đứng dậy nhưng không hiểu sao lại không được và không nhận ra rằng cả hai chân mình vừa bị cắt đứt. Còn anh binh nhì bị thương rất nặng.

    Đang cố tìm xem còn có người bị thương không thì đội cứu nạn vấp phải hai thuỷ thủ trẻ đang ngồi tại nơi an toàn ở mép sàn máy bay cười rúc rích, mắt họ sáng một cách kỳ lạ. Phải một thời gian sau, Iarrobino và hạm đội của ông mới tìm ra nguyên nhân sự cố đối với 2 thuỷ thủ và cũng là lần đầu phát hiện việc sử dụng ma tuý trên Oriskany. Iarrobino rất giận dữ và bất bình trước sự việc đó. Ông thường khoan dung với người vi phạm lần đầu nhưng lần này ông trút cơn giận lên họ và sau đó công bố để mọi người biết rằng không được đưa ma tuý lên tàu. Trong giới hải quân, các hạm trưởng của tàu Mỹ hay có những luận điệu giống nhau mà cuối cùng cũng chẳng có tác dụng gì.

    Sự cố thứ hai không vui vẻ gì xảy ra 2 tuần trước vào tối ngày 12 và 13 tháng 10 khi 1 nhóm quan chức cấp cao dẫn đầu là Bộ trưởng Quốc phòng Robert S.Mcnamara ghé thăm con tàu trên đường tới Đông Nam Á.

    Sau khi đưa họ đi một vòng quanh tàu, Iarrobino hộ tống các quan chức vào phòng ăn tập thể đã dọn sẵn một bữa tối đặc biệt kèm theo lễ mừng. Trung tá Bellinger sẽ được đề cử phù hiệu Bạc vì có công hạ chiếc Mig Bắc Việt 3 ngày trước và Mc Namara sẽ gắn huy chương cho anh.

    Đại tá Iarrobino với bộ mặt cố nín cười đọc một bài diễn văn giới thiệu nhấn mạnh rằng trung tá Bellinger là một người khiêm tốn trên Oriskany. Lời bình phẩm làm thủy thủ đoàn cười rộ lên còn các vị quan chức trở nên bối rối. Sau đó Mc Namara có vài nhận xét chiếu lệ. Iarrobino cho rằng đó là vì Mc Namara mệt và họ không gặp may. Ngài bộ trưởng trông xanh xao nhợt nhạt sau chuyến đi dài. Câu hỏi đầu tiên Mc Namara đưa ra liên quan đến bình quân số vụ hàng ngày của phi công thuộc Oriskany trên miền Bắc Việt Nam.

    "Hai", larrobino trả lời. McNamara đã lỗ mãng hỏi tại sao đó không phải là 1,5 như chủ trương mà ông đã đề ra?

    "Bởi vì phi công của chúng tôi quá ít mà nhiệm vụ thì nhiều” Iarrobino đáp lại.

    Đúng ra Iarrobino có thể nói với Mc Namara rằng ông cũng phải gánh chịu việc mất đi nguồn nhân lực chủ chốt trong số binh nhì, đặc biệt là số lính thường nhỏ nhặt. Khi thời hạn nghĩa vụ trong hải quân kết thúc, thuỷ thủ được đưa xuống tàu, trừ trường hợp họ tiếp tục đăng ký nghĩa vụ và con số đó rất ít. Washington đang cố gắng thực hiện chiến tranh với cái giá rẻ mạt và thiếu đi sự nỗ lực của toàn quốc và điều đó được thể hiện rõ trong đội hình chiến đấu trên con tàu. Nhưng Iarrobino quyết định không đẩy vấn đề đó lên McNamara. Thay vào đó, khi ngồi cạnh ông ta trong bữa ăn, ông đã cố tỏ ra hài hước song không gây được sự chú ý của ngài Bộ trưởng. Trong lúc McNamara đọc diễn văn trước khi gắn sao cho Bellinger, Iarrobino lấy làm ngạc nhiên trước sự lúng túng của ông. Ông cầm chặt chiếc micro bằng những đốt ngón tay trắng bệch, rõ ràng đang rất bồn chồn. Có lẽ Bộ trưởng McNamara không ưa hải quân hay phi công hay không chiến mà cũng có thể là cả 3. Iarrobino không đoán biết được. Trầm trọng hơn nữa một trong những phi công của chiếc A-4, Frank Elkins đã bị bắn rơi khi nhóm quan chức lên tàu. Rút cục, đó chẳng phải là một đêm tốt lành.
    Nhưng chuyện đó đã hoàn toàn kết thúc. Vào lúc 7 giờ 21 ngày 26 tháng 10 năm 1966, khi tiếng còi báo cháy vang lên, thuyền trưởng John Iarrobino không những không phải lo lắng mà còn có thể vui là đằng khác. Vào ngày 9 tháng 10, ông đã tròn 46 tuổi và cũng là ngày Bellinger hạ chiếc MiG, tiền đồ của ông dường như đã được đảm bảo. Việc đề cử chọn đô đốc hải quân mới sẽ được quyết định trong vài tháng tới. Việc điều khiển một tàu sân bay trong chiến đấu là một cái vé đảm bảo để có được 2 sao.

    Đại tá Iarrobino nhấc ống nghe và nhận báo cáo từ đài chỉ huy về vụ cháy. Lúc đó, nhân viên trực ban chỉ đưa ra được một thông tin duy nhất là nó xảy ra ở một bãi đậu máy bay. Trung tâm phòng chống sự cố trên tàu có một cái bảng với nhiều bóng đèn nhỏ màu vàng kết nối với điểm kiểm soát cháy trên tàu. Khi đám cháy nổ ra, 1 bóng đèn nhất định trên bảng sẽ nháy sáng. Trung bình mỗi ngày Oriskany báo cháy từ 1 đến 15 lần. Thường thì đó là những vụ cháy nhỏ do chập điện và dễ dập tắt. Phản ứng chung đối với mỗi vụ báo cháy bất kể tính chất như thế nào đều như nhau. Thuỷ thủ trực ban tại trung tâm cầm ống nghe lên quay số 222 nói với đài chỉ huy, "tôi nhận được một vụ báo cháy” rồi cho biết địa điểm vụ cháy. Viên quản lý hạ neo tàu lúc đó mới đánh vào chiếc chuông báo cháy mạ crôm và giọng anh ta vang lên trong loa phóng thanh trên tàu:"Cháy, cháy, cháy. Đây không phải là một cuộc diễn tập cứu hoả. Không phải diễn tập".

    Iarrobino sẽ tìm ra vấn đề. Ông ta bỏ công việc trên bàn ra một bên và đi tới đài chỉ huy để quan sát rõ hơn toàn bộ con tàu. Khi ông đến nơi ông có thể thấy những cột khói xám xịt cuộn lên hướng về phía ông. Ông hiểu rằng đó không phải là một vụ cháy tầm thường.

    Cal Swanson đã học được cách ngủ trong tiếng ồn không ngớt của con tàu - tiếng nổ của máy phóng máy bay, tiếng quay của bánh lái, tiếng gào rít của không khí tiếng đánh chuông, tiếng thông báo trên loa – và chỉ dựa vào tiềm thức để nhận ra điều bất thường. Giọng nói của người quản lý hạ neo có gì đó kích động hơn bình thường làm Swanson choàng tỉnh. Swanson chắc rằng anh ta nghe rõ tiếng nói: "Đây là một buổi diễn tập" rồi lại "Đây không phải buổi diễn tập". Sự lẫn lộn thất thường đó báo hiệu có sự nguy hiểm thực sự. Anh ta vọt ra khỏi giường, kéo chiếc quần ka ki lên, xỏ chân không tất vào giày rồi ra khỏi phòng.

    Lối đi phía ngoài dày đặc khói. Mùi cay nồng tựa mùi diêm cháy nhưng nặng hơn hàng trăm lần, khó chịu đến ngạt thở. Chỉ cần hít một ít khói cũng khiến người ta phải thở dốc. Swanson bắt đầu leo thang rồi ngừng lại khi trông thấy một quả cầu lửa lăn qua đầu. Anh ta nhận ra đó là một vụ cháy ma giê, loại tồi tệ nhất và đoán có lẽ bởi pháo sáng gây ra.

    Swanson đã đoán đúng. Theo kế hoạch, việc hạ thủy con tàu phải được thực hiện vào đêm trước nhưng hoãn lại do điều kiện thời tiết. Thuỷ thủ đoàn đang chuẩn bị cho trận đánh đầu tiên vào buổi sáng hôm đó phải di chuyển pháo sáng ra khỏi máy bay và đưa trở lại kho chứa. Thế là tai nạn xảy ra: một quả pháo sáng bị rơi đã phát hỏa. Được đưa ra khỏi máy bay bằng dù, những quả pháo sáng dài 6 feet với đường kính 8 inch tạo ra ánh sáng sáng hơn ánh nến gấp 2 triệu lần, biến đêm thành ngày từ 2 – 3 phút.

    Không cần oxy, ma giê vẫn cháy được nên vấn đề ở đây là liệu nhân viên cứu hỏa có thể nhúng nước muối toàn bộ pháo sáng để làm dịu ma giê oxit xuống dưới điểm phát cháy được không. Trong lúc vòi phun nước đang được gỡ ra, một tiếng nổ đã phát ra ở chốt khóa pháo sáng, kích hỏa sang 800 quả pháo sáng trong kho, một quả cầu lửa không lồ lướt đi trên toàn bãi đậu máy bay khiến các nhân viên cứu hỏa phải nằm rạp xuống. Độ dày đặc của đám khói lớn nên nó bắt đầu qua vách ngăn không thấm nước của bãi đậu, lan tới kho nhiên liệu và khu vực cất giữ bom.

    Thuyền trưởng Iarrobino vẫn chưa biết diễn biến sự việc. Ông nghĩ một chiếc máy bay vừa phát cháy. Tuy vậy với đám khói đó ông biết rằng chiếc công tơ con tàu có vấn đề nghiêm trọng nên ông ra lệnh cho hoa tiêu đứng cạnh người lái tàu gọi đội trưởng hoa tiêu. Người hoa tiêu nhảy tới loa phóng thanh. Để gây chú ý, anh hét tóang lên “Đội trưởng! Đội trưởng! Hãy canh chừng bãi chiến trường của mình”. Những đám khói lớn dâng lên cuồn cuộn phía trên sàn tàu. Iarrobino đưa ra một loạt mệnh lệnh để quay tàu sang mạn bên phải nhằm mục đích nhờ sức gió xua tan khói. Sĩ quan thừa hành của tàu tới bãi đỗ máy bay để điện cho Iarrobino trình bày sự việc.

    Địa thế bên trong Oriskany cũng như bất kỳ chiếc tàu sân bay nào đều hết sức phức tạp, một mớ hỗn độn gồm buồng ở, hầm, thang, phòng chứa đồ, lối đi và các ngõ cụt. Kể cả lúc bình thường trên đó. Một số thuỷ thủ còn chẳng biết gì ngoài những lối đi đưa họ đến nơi làm việc ăn và nghỉ. Bây giờ khói ma giê đang được hút bằng hệ thống thông hơi của tàu làm mọi người mờ mắt, ngạt thở khi họ vấp ngã trong bóng tối liều mạng để tìm ra lối thoát.

    Cal Swanson rất tinh nhạy về phương hướng và thông thạo về ngõ ngách trên con tàu hơn cả. Nhưng mọi lối đi mà Swanson thử đều bị lửa bao vây. Một nhóm người lúc đó mà nhiều người trong số họ là các thủy thủ trẻ đã tụ lại phía sau anh. Anh là sĩ quan có cấp bậc cao nhất ở đó. Khói càng lúc càng dày. Anh sẽ phải làm gì đó trước khi tất cả họ phải bỏ mạng.

    Trong bóng tối lờ mờ, một sĩ quan cấp bậc trung tá mò mẫm về phía họ, máu tuôn ra từ vết thương trên đầu ông. Da ông cháy xém đen thui. Trông thấy nhóm người của Swanson, ông quay đầu chạy, vẻ đang hoảng hốt. Một thủy thủ nắm chặt tay để kìm ông lại. Bàn tay thuỷ thủ đó bị bong da. "Tôi sắp chết rồi" Trung tá nói. Swanson nhẹ nhàng đưa ông vào nhóm của mình.

    Một thuỷ thủ tiến về phía trước trong lối đi. Anh ta leo thang và mở nắp hầm dẫn tới sân đỗ máy bay. Một quả cầu lửa lướt qua đầu làm xém cổ anh ta. Anh ta quay lại và nói: "Thưa ngài, chỗ duy nhất chúng ta có thể đi bây giờ là đi xuống”.

    Cal cố suy nghĩ. Không thể tin nổi vào điều đang diễn ra, đột nhiên, đó là vấn đề sống còn chứ chẳng phải trò đùa. Anh nhận ra rằng đó là trạng thái của bộ não không muốn đối mặt với thực tế, nó luôn xuất hiện khi có hiểm hoạ, do đó anh buộc phải tập trung để có thể nhớ lại mọi điều về bộ phận này của con tàu.

    Đồ tiếp tế. Mấy hôm trước, Swanson trông thấy các thuỷ thủ chuyển đồ tiếp tế xuống một căn hầm gần đó. Anh biết con tàu có 1 số ống thông bí mật rộng 6 feet vuông dẫn thẳng xuống lỗ hổng của con tàu, từ bong số 2 đến boong số 7, một chức năng trong thiết kế của con tàu. Có một chiếc thang đặt dọc một bên ống thông và những bậc thang nhỏ nhô ra ở từng nấc, ở đó có những phòng chứa đồ dùng cất giữ đồ tiếp tế thông thường. Có phải các thuỷ thủ chuyển đồ tiếp tế xuống thông qua một ống thông? Swanson tiến lên và kiểm tra căn hầm. Cửa hầm mở ra. Đúng là nó dẫn tới ống thông.

    Anh đã quyết định. Nếu con tàu có nguy cơ bị chìm mà anh dẫn các thuỷ thủ vào ống thông, họ có thể bị chết đuối. Nhưng nếu họ không thoát ra khỏi đám khói thì đằng nào họ cũng chết. Swanson nhìn gương mặt 13 người đi theo anh. Sau đó anh ra lệnh trèo vào ống thông rồi bịt kín cửa hầm lại.
    -----------------------------Tự động gộp Reply ---------------------------

    Bãi đỗ máy bay ngùn ngụt lửa. Vòi phun nước treo phía trước con tàu đã cháy hết. Những cái vòi khác được đưa từ dưới đuôi tàu lên. Đám cháy lan sang 2 chiếc máy bay lên thẳng. Một chiếc ghế ngồi bật nhảy dù của phi công trong một phi cơ đã bị nấu chảy và bắn lên trời. Đạn dược không nhìn thấy được trong khói lửa dày đặc đã bắt đầu nổ khi người ta di chuyển bom ra khỏi chiếc A-4. Sự nguy hiểm lại nảy sinh từ chỗ quân nhu đặt ở mạn phải phía trước tàu. Nhân viên chữa cháy đưa 2 vòi phun nước từ trên sàn tàu bay xuống để tưới nước lên trên bom nhằm giữ cho chúng thoáng mát.

    Không cần nói thì ai cũng hiểu Oriskany đang đấu tranh giành sự sống. Các báo cáo bắt đầu tuôn lên đài chỉ huy. Nhân viên y tế có thâm niên của tàu đã chết, cả cha tuyên uý cũng vậy. Thương vong ngày càng nhiều. Các thủy thủ bị kẹt trong phòng nếu không được cứu sớm sẽ phải thiệt mạng. Thuyền trưởng Iarrobino đánh điện đài cho USS Constellation yêu cầu đưa tất cả các bác sĩ ở đó đến.

    Quan sát từ bệ kính tiềm vọng, thuyền trưởng Iarrobino thấy bom đang được ném sang phía bên kia. Ông nhìn như bị thôi miên. Nếu 1 quả bom nổ những quả còn lại sẽ bị kích nổ. Mọi việc sẽ chấm hết. Ông nhìn kỹ và nhận thấy 2 chàng thuỷ thủ nhỏ đang ráng sức nâng 1000 - có thể là 2000 pound bom- qua phía bên kìa. 2 con người?

    Khi vụ cháy nổ ra, Jim Nunn đang mặc trang phục. Anh khoác áo đồng phục và đi ủng rồi ra khỏi phòng. Nghe tiếng kêu cứu của 2 thuỷ thủ từ phòng ăn, anh hét lên để họ đi theo và đưa họ tới phòng của anh. Anh trao cho họ chiếc khăn ướt để lau mặt rồi dẫn họ tới chỗ an toàn. Anh nghe tiếng một thuỷ thủ bị kẹt tại bộ phận sâu nhất của con tàu, khoang bơm nước số 1 , nếu không có ai tới anh ta sẽ chết. Cùng với 2 người nữa tìm thấy mấy bình khí thợ lặn Nunn vượt qua ngăn tiếp nước để tới phần đáy tàu.

    Xuống ống thông, Cal Swanson cố gắng cầm máu cho cái đầu bị bỏng nặng của viên trung tá bằng cái khăn tay ướt anh vẫn dùng để thở. Ở từng nấc thang, 2 người thay phiên nhau để hít thở oxy. 2 thủy thủ tìm được một chiếc cờ lê nặng và đang vừa tìm đường xuống ống thông, vừa gõ xuống những cái khoá móc trên phòng chứa đồ mở các cánh cửa để khí thải thoát ra ngoài. Những người còn sống sót khác nhập vào nhóm của họ. Một người trong nhóm, cũng như người đi trước anh ta bị trượt thang, bị thương và mắc kẹt giữa cái thang với vách ngăn nước ở đáy ống thông. Viên sĩ quan bị bỏng rên rỉ: "Đừng nắm tay tôi nữa".

    Thời gian qua đi, Swanson bắt đầu thấy nóng ruột vì linh tính rằng thiếu oxy để thở. Họ phải nhanh chóng ra khỏi ống thông. Đã hơn 9 giờ sáng, gần 2 tiếng kể từ khi vụ cháy bắt đầu. Nếu không kiểm soát được đám cháy, con tàu sẽ tới hồi tận số. Một thuỷ thủ đã leo đến nấc thang cuối cùng, mở cửa hầm và trèo ra. Ít phút sau anh ta quay lại dẫn theo 2 nhân viên cứu nạn. Họ nói điều tồi tệ nhất của vụ cháy đã qua rồi. Bây giờ là lúc đưa các thuỷ thủ ra khỏi ống thông.

    "Ông phải giúp chúng tôi" Swanson nói với viên trung tá bị bỏng.

    "Được rồi, Cal, tôi sẽ giúp các bạn". - Ông ta nói.

    Viên sĩ quan đặt được một chân lên thang rồi bất tỉnh. Swanson giữ chặt ông và với lòng kính trọng, anh nhìn vào lớp da cháy xém bị bong trên bàn tay ông. Cuối cùng họ cũng đưa được ông lên khỏi thang rồi thả ông xuống một chiếc cáng. Khi đã ở trên lối đi, họ gặp một khúc ngoặt mà phải mất mấy phút quý giá mới băng qua được. Sau đó Swanson quay lại ống thông bảo mọi người theo anh. Trong bóng tối đầy khói, anh vấp ngã nhưng vẫn dẫn mọi người tiến lên, cuối cùng anh nhìn thấy một vệt sáng lờ mờ phía trước rồi một lúc sau họ đến được chỗ an toàn có không khí khoáng đạt để thở.

    Đó là Swanson nghĩ vậy. Anh quay lại. Chẳng có ai theo anh cả. Họ đã lạc anh trong đám khói nên đã quay lại ống thông. Anh nhìn thấy hai người khiêng cáng và bắt đầu quay lại. Một thuỷ thủ đã bất tỉnh. Swanson có thể thấy rằng tất cả họ sắp gục ngã. Anh xếp họ thành một hàng người. Hai người khiêng cáng không thể vượt qua khúc ngoặt trên lối đi. Một viên đại uý phía sau Swanson đang lả đi. Swanson giữ lấy anh ta cùng lúc giúp hai người khiêng cáng. Họ đã vượt qua khúc ngoặt. Swanson đã lên tới sàn tàu lần thứ hai. Một lần nữa anh nhìn quanh chỉ để thấy rằng trừ viên đại uý mà anh đang dìu chẳng còn ai ở sau anh.

    Swanson quay lại lần thứ ba. Anh dẫn đoàn người đi và kéo họ về phía trước. Ở chỗ ngoặt trên lối đi, anh gặp những nhân viên cứu hộ đang ôm một xác chết.

    Anh thét lên: 'Tránh ra? Phải cứu những người còn bước đi được đây này”. Lần này mọi người mới đến được nơi an toàn. Lúc đó là 10 giờ sáng.

    Jim Nunn và hai người đồng hành đi hết con tàu nhằm cứu người thủy thủ trẻ ở trong khoang bơm nước. Nhiều buồng đã bị ngập do nước xối từ vòi phun của nhân viên cứu hoả. Nunn bật nắp hầm lên, hút khô nước rồi trèo xuống nấc thang tiếp theo. Phòng công sự tuy tối nhưng Nunn vẫn nhìn thấy được một dãy 28 người còn nguyên quần áo trong tư thế chuẩn bị làm việc đã chết ngay trên ghế ngồi. Anh ta ngờ rằng lửa đã hút hết oxy ra ngoài trước khi họ kịp hiểu chuyện gì đang xảy ra. Nunn cùng hai bạn thay phiên nhau dùng cáng khiêng họ ra. Họ cho rằng nước chảy xuống trên lối đi có thể nhấn chìm các thuỷ thủ. Nhưng chỉ 10 phút sau họ đã thấy anh chếnh choáng và buồn nôn. Họ phải để lại chiếc cáng cho nhân viên cứu hộ làm việc.

    Đám cháy được dập tắt sau 3 tiếng 7 phút. 43 phi công bị thiệt mạng. Số người bị thương còn nhiều hơn. Vị trung tá được Swanson cứu sau đó cũng chết, nâng tổng số người chết lên 44. Khi khói lửa đã tan đi, mọi người bắt đầu kể cho nhau nghe những câu chuyện anh hùng và việc thoát chết trong đường tơ kẽ tóc. Có câu chuyện về hai người bạn cùng phòng như sau: Một người ra khỏi phòng ngay khi nghe tiếng chuông báo cháy, người kia nói: "Chờ chút để tôi chải lại cái đầu đã”. Người nọ đã không làm như thế. Câu chuyện cũng giống thế với hai phi công khác, một người đã dừng lại để đi giày. Chuyện khiến mọi người gật gù là chuyện thoát chết khó tin của trung tá Bellinger nhờ một ô cửa sổ nhỏ bên mạn tàu với đường kính chỉ 18 inch mà người hoài nghi nhất cũng phải thừa nhận là toàn bộ không quá 20 inch. Bị kẹt trong đám cháy với lối thoát duy nhất là ô cửa sổ nhỏ, Bellinger đã cởi bỏ quần áo và vọt ra ngoài như một cái nút chai để đến nơi an toàn. Nhiều năm sau, đại tá Iarrobino còn phải thắc mắckhông hiểu bằng cách nào mà với bộ ngực to như cái thùng và tấm lưng rộng quá khổ, Bellinger lại có thể sống sót được. Đang cầm vòi phun nước ở trên sàn tàu, Dick Wyman thấy Belly ở trần đang đi loanh quanh sau khi thoát chết và tìm quần áo để mặc.

    Bạn cùng phòng với Dick Wyman - Lloyd - bác sĩ phẫu thuật của phi đội và thiếu uý Boggs, sĩ quan tình báo của phi đội không được may mắn như vậy. Cả hai đã chết trong đám cháy. Wyman trào lên tình thương đối với bạn của mình. Người bác sĩ đến nói với anh rằng cuộc đời anh ta là một cuộc đấu tranh dai dẳng để qua được trường trung học và trường y rồi làm bác sĩ thực tập trên tàu. Đồng lương ít ỏi anh ta kiếm được sau đó lại ra đi khi anh ta tham gia hải quân thực hiện nghĩa vụ quân sự với tư cách là một bác sĩ phẫu thuật trên chuyến bay. Wyman biết bác sĩ có quan hệ với vợ một phi công đánh bom. Người phi công đó phải làm nhiệmvụ ở một tàu sân bay khác ở một vùng khác tại Yankee Station. Anh ta không nghĩ mình được quyền đánh giá bác sĩ. Đôi khi anh ta quẳng phòng lại cho đôi tình nhân khi Oriskany về đến cảng.

    Oriskany vẫn có thể hoạt động trở lại khu vực đỗ máy bay và doanh trại các sĩ quan ở phía trước là những nơi hứng chịu hầu như mọi thiệt hại. Các mạch điện đã bị ngắt, một chiếc thang máy bị hư hỏng; các máy phóng máy bay bị cong oằn đi. Cần sửa sang lại toàn bộ trước khi đưa mọi vật trở lại hoạt động. Bị bao trùm trong không khí ảm đạm con tàu thất thểu tới vịnh Subic. Tại đây thủy thủ đoàn đứng tập trung mặc niệm khi các nạn nhân của vụ cháy được chuyển vào các cỗ quan tài phủ cờ lên máy bay trở về Mỹ.

    Người ta đồn rằng lúc tai hoạ xảy đến, hai thuỷ thủ chuyển pháo sáng xuống đã ngớ ngẩn tung hứng chúng như trái bóng. Iarrobino cho rằng đó là câu chuyện được thêu dệt. Sau một cuộc điều tra nhanh chóng, ông được biết hai thuỷ thủ trẻ đã lăn pháo sáng vào cửa kho và xếp chúng lại như đống gỗ. Có lẽ bọn họ đã ném pháo sáng cho nhau, tung chúng đi một đoạn như tung gỗ, củi nên tai hoạ mới xảy ra. Nhưng có giả thiết cho rằng pháo sáng hoàn toàn an toàn, đạn dược có thể được vận chuyển hơi ẩu một tí, vì vậy ông thấy khó xử khi biết nhân viên pháp lý bên hải quân đưa tới để điều tra sẽ đóng vai trò một công tố viên cố buộc thuỷ thủ đoàn phải thú nhận về sự sao nhãng đáng khiển trách để vụ cháy xảy ra của họ.

    Nhân viên pháp lý đó là một đại uý trẻ vừa thấp vừa béo lên Oriskany ở Philipines cùng với vị đô đốc phụ trách chính cuộc điều tra. Viên sĩ quan đó không phải một nhà hàng hải, một người hay chải chuốt chính điều đó làm thuỷ thủ đoàn không mảy may quý mến anh ta, lại thêm thái độ ra vẻ ta đây khiến họ càng xa lánh anh ta khi được phân phòng, anh ta không nhận mà còn đòi phòng khác rộng hơn mặc dù con tàu vốn đã đông đúc chật chội trước khi cháy bấy giờ lại càng ít chỗ hơn nhiều vì nơi ở của các sĩ quan ở mặt trước đã bị cháy rụi. Các thuỷ thủ than phiền với Iarrobino rằng viên sĩ quan đó đang cố buộc họ nói điều mà anh ta muốn nghe. Iarrobino trình bày lại với ngài đô đốc, một người đàn ông lịch thiệp và được ông ta nhiệt tình thông cảm bảo rằng ông cũng không đồng ý với chiến thuật đó của viên đại uý. Nhưng rồi chẳng có gì thay đổi việc điều tra vẫn tiếp diễn trong quá trình đưa con tàu trở về San Diego.

    Mặc dù vậy, Đại tá Iarrobino không lo lắng. Có lẽ viên sĩ quan trẻ đang cố tạo tên tuổi cho mình song anh ta chẳng nghĩ ra được điều gì nên Iarrobino cũng chẳng cần trả lời chính xác. Nếu anh ta muốn buộc tội, cần phải có người phân phát quân nhu giám sát việc di chuyển pháo sáng nhưng lại chẳng có ai như vậy. Việc giám sát đó lại càng tồi tệ hơn vì trên tàu thiếu nguồn nhân lực. Vấn đề đó đang gia tăng ở mỗi đơn vị lực lượng vũ trang. Nguồn nhân lực chính của con tàu phải giám sát việc phóng chiếc phi cơ chiến đấu sẽ cất cánh lúc 7 giờ 30 sáng hôm đó.

    Ngoài ra còn có vấn đề: những quả pháo sáng có được cất nơi phù hợp không. Nhà kho đó phải là nơi chống lụt, không giống với kho đạn dược người ta có thể để nước chảy vào nhanh chóng nhằm không cho lửa bùng phát. Nhưng để hòan thành nhiệm vụ, Oriskany phải mang nhiều quân nhu đến nỗi các phi công đúng là phải đi trên bom để đến máy bay còn việc không quy định nghiêm ngặt đối với kho cất pháo sáng đã được sự cho phép của Buships thuộc sở chỉ huy Hải quân Mỹ ở Washington.

    Mặc dù có dấu hiệu báo trước việc sắp xảy ra, thuyền trưởng Iarrobino vẫn ngạc nhiên trước kết quả điều tra do viên sĩ quan pháp lý viết và ông đô đốc ký. Về cơ bản, hai thuỷ thủ vận chuyển pháo sáng bị buộc tội theo điểm (buộc tội) 44 tội giết người, các sĩ quan ở bãi đỗ máy bay và kho vũ khí sẽ bị đưa ra xét xử ở toà án quân sự, Iarrobino và sĩ quan điều hành của ông sẽ nhận được thư khiển trách. Điều làm Iarrobino ngạc nhiên là tất cả họ bị buộc tội về vụ cháy do pháo sáng trong khi chẳng có cuộc điều tra nào về pháo sáng.

    Một hội đồng hải quân ở San Diego đã viết lại biên bản điều tra với những lời buộc tội đanh chắc hơn. Iarrobino được yêu cầu phải đưa ra phản ứng trước khi có sự sắp đặt cuối cùng. Một hạm trưởng phải hoàn toàn chịu trách nhiệm trước bất cứ việc gì xảy ra với con tàu của mình, đó là truyền thống ngành Hải quân và Iarrobino cho rằng ông bị buộc tội do điều tra một phía bị đưa ra làm người giơ đầu chịu báng bởi một sỹ quan pháp lý còn trẻ không hiểu biết gì về chiến tranh và yêu cầu của nó. Ông quyết không để yên vụ này. Xét cho cùng, Iarrobino quen biết nhiều người trong hải quân, các sĩ quan cao cấp và họ cũng biết ông – John Iarrobino - với sự nghiệp không chê vào đâu được và sự cống hiến tận tuỵ của ông là điều miễn bàn.
  7. mig1000

    mig1000 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    20/06/2008
    Bài viết:
    1.770
    Đã được thích:
    2.587
    PHẦN CHIẾN ĐẤU:))




    Sau phần sơ lược về tàu sân bay chúng ta vào phần chiến đấu của topic. Tuy nhiên, các mem hoàn toàn có thể giới thiệu thêm về tàu sân bay nhằm mục đích :
    • Bổ khuyết cho phần giới thiệu sơ lược về tầu sân bay.
    • Làm rõ các tính năng, vũ khí của tầu sân bay và nhóm tàu sân bay tham gia cuộc chiến giả định.
    Trước đây mình đã mở một topic về cuộc chiến có liên quan đến tầu sân bay giữa TQ và Mèo bị mõ xóa vì lý do nhậy cảm, cho nên mình đề nghị trong phần này chúng ta chỉ nêu tên viết tắt cho đỡ phần nhậy cảm. Mặt khác, việc đặt ra các tình huống giả định cũng giúp cho các mem bỏ thời gian tìm hiểu, đào sâu hiểu biết, học hỏi thêm về kiến thức quốc phòng, “biết đâu” cũng có thể là một phương án tham khảo để chúng ta yên tâm hơn về tình hình bảo vệ biển trời tổ quốc của VN.

    Phần chiến đấu dự kiến sẽ đưa ra các tình huống “giả định” :


    Cuộc chiến giữa một quốc gia có tiềm lực về tàu sân bay “giống” TQ và một quốc gia ĐV có tiềm lực hải quân, không quân, lực lượng bảo vệ bờ biển không mạnh. Cuộc chiến này liên quan đến bảo vệ biển đảo và có tính đến điều kiện thuận lợi về địa lý, không có sự liên kết đồng minh tham chiến (Giống cuộc chiến Falkland hay còn gọi trận chiến Malvinas).<FONT class=imageattach size=2 onload=[/IMG]
    7. Các mem đặt thêm các kịch bản.



    Chú ý : Các bên có thể sử dụng tất cả các loại vũ khí thông thường, không dùng vũ khí hóa học, Nuke. Trong đụng độ về hai nhóm tàu sân bay thì sẽ có giới hạn về số tàu ngầm, tàu phòng không, tàu tên lửa, vũ khí mang theo, máy bay, sự trợ giúp của vệ tinh,…của mỗi bên tùy kịch bản.



    Múa võ chứ đừng chửi nhau nhé!=))
    [r2)]
  8. hongvebobinh

    hongvebobinh Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    25/04/2009
    Bài viết:
    693
    Đã được thích:
    1.443
    Hình này lâu rồi nhưng bốt vào đây cho thêm xôm tụ.

    Tàu container hoán cải thành tàu sân bay trong cuộc chiến Malvinas.

    [​IMG]
    [:P]
  9. hongvebobinh

    hongvebobinh Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    25/04/2009
    Bài viết:
    693
    Đã được thích:
    1.443
    Nếu cái lỗ ấy mà ngang mớn nước thì sẽ làm nghiêng tàu, mấy anh máy bay trên boong chắc cũng có một cơ số lăn xuống biển.:))

    [r2)]
  10. swanman

    swanman Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    28/08/2009
    Bài viết:
    261
    Đã được thích:
    0
    Nghe đồn tàu này bị đánh chìm do Liên Xô chỉ điểm.

Chia sẻ trang này