1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Tàu ngầm Kilo-636MV và sức mạnh của Hải quân Việt Nam

Chủ đề trong 'Giáo dục quốc phòng' bởi Triumf, 17/03/2011.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. huyphuc_ttvnol

    huyphuc_ttvnol Thành viên gắn bó với ttvnol.com Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    30/05/2012
    Bài viết:
    1.490
    Đã được thích:
    1.047

    Bạn nhầm rồi, hồi đó mình đã nói về tỷ giá vàng. Các post trong thread cách xa nhau nên có thể bạn ko theo dõi được.

    Còn những chuyện như mua tầu ngầm đầu tiên nên rất tốn kém cho huấn luyện, tầu ngầm thế hệ mới hơn, có đạn Kalibr, .... Mình cũng đã nói. Mình có nói rõ là Trung Quốc đã có tầu ngầm từ lâu rồi nên họ bớt đi rất nhiều tiền huấn luyện.

    Ngoài ra, sau này Trung Quốc mới mua thêm đạn Kalibr, không mua cùng lô tầu ngầm. Điều này thì post hồi trước của mình chỉ nói là ko mua Kalibr.


    ==============












    ==========



    Tầu ngầm của chó và tầu ngầm của lợn.

    Chúng ta đã chứng kiến cái đất nước Tây Bán Nhà. Về văn hóa thì bò điên trâu rồ. Về quân sự một lòng theo Mỹ. Về kinh tế thuộc về Tây Âu khủng hoảng triền miên do thối quỹ công. Về tầu ngầm sủa vung quanh năm về AIP, chào bán cho các chó lợn toàn cầu tầu nầm AIP.... nhưng thiết kế một cái tầu ngầm siêu hiện đại đến mức không thể nổi lên được.
    =)):))>:)[r37)]
    http://vietnamnet.vn/vn/quoc-te/122377/tro-treu-tau-ngam-chi-chim--khong-the-noi.html


    Người ta nghĩ gì khi một cái tầu ngầm đỉnh cao khoa học, mà khi đóng xong rồi thì mới phát hiện ra nó không thể nổi. "Các kỹ sư Tây Ban Nha đã chi ra khoảng 680 triệu USD để thiết kế nên một chiếc tàu ngầm lớp S-80 thế hệ mới, và gọi đó là một 'cách tân công nghệ' lớn. Nhưng vấn đề duy nhất của chiếc tàu ngầm này là, một khi nó chìm xuống nước, nó sẽ không thể nổi lên được nữa."

    Chỉ với điều đó cũng đủ thấy hàng giả trong ngành vũ khí nó như thế nào, và tại sao người ta lại cần nhiều chó dại sủa quên mình về tầu ngầm và AIP đến thế.
    =))=))=))


    S-80 của Tây Bán Nhà là loại tầu ngầm hiện nay đang được thiết kế như trên, choáng nước nổi / lặn 2,200 2,426. Vũ khí rất mạnh so với cỡ đó là 6 ống lôi 533mm. Tầu có 3 máy nổ 3 x 1,200 kW ; 1 motor 3.500 kW, 1 AIP 300 kW. Tốc độ tối đa khi lặn 19 knot.

    S-80 sử dụng AIP Pháp. Pháp có “Module d'energie sous marine” MESMA. MESMA là hệ thống nồi hơi tuốc bin hơi nước đốt bằng cồn methanol hoặc ethanol, oxy lỏng nén. Lớp Scorpene trang bị hệ thống này rất đơn giản, người ta kéo dài thân tầu ra nhét vào một cái khoang 305 tấn. =)). Thật ra, Scorpene đã có nhiều phương án sử dụng AIP, kể cả Stirling Thụy Điển như Nhật Bản mua, pin fuel cell của Siemens như Nga và các khách hàng của Nga. Nhưng quân Pháp đã quyết định dùng oxy nén.

    Scorpene là loại tầu ngầm có 6 ống lôi 533, tốc độ cao nhất khi chìm là 20 knot, sâu 300. Choáng nước loại CM-2000 ắc quy 1.565 , loại chạy AIP AM-2000 là 1.870. Tầu mình đã nhắc đến rồi, nó tròn đều nhưng hầu như không có sàn boong, sóng cao mét rưỡi phải dùng cần cẩu để cẩu thương bệnh binh ra.



    Cả hai lớp tầu AIP trên đều có phương án sử dụng các loại AIP khác nhau, nhưng họ đã chọn như vậy. Dưới đây chúng ta xem kỹ loại của thụy điển. Thật ra công ty bán AIP Thụy ĐIển dưới đây cũng có cổ phần do Đức nắm, nên cả hai loại lởm và xịn này đều do người Đức làm. Nga Đức thì dùng hàng xịn chạy ắc quy, còn Nhật Pháp và các nước khác mua máy nhiệt đểu.

    Lúc mình tìm đoạn văn nào đó nói về cái vụ S-80 lừng lẫy trên thì mình gặp cái tầu ngầm của chó lợn này. Không hiểu các bác quân sử đã kịp gieo giống mọc ra các con chó cùng điên cực dại.

    Cận cảnh siêu tàu ngầm "Sói biển” của hải quân Mỹ. Dân Việt
    23/05/2013 06:40 Mỹ phát triển “Sói biển” cho hải quân . Dân Việt
    Vtc chó dại
    Các tàu ngầm Lớp Sói Biển của hải quân Mỹ ra đời là kết quả của cuộc chạy đua vũ trang với Liên Xô trong Chiến tranh lạnh, với những ưu thế được giới chuyên gia quân sự đánh giá vượt trội các tàu ngầm tấn công của hải quân Liên Xô.
    http://anh135689999.violet.vn/entry/show/entry_id/9316095
    "Mỹ phát triển “Sói biển” cho hải quân
    "Sói biển" của hải quân Mỹ là tàu ngầm tấn công hội tụ những cải tiến và công nghệ được cho là hiện đại nhất, có khả năng tác chiến linh hoạt và uy lực cao của trang bị, vũ khí, hơn hẳn tàu ngầm hạt nhân Lớp Los Angeles.
    Trong chương trình trang bị quân sự thế kỷ 21, hải quân Mỹ đang phát triển tàu ngầm hạt nhân tấn công Lớp Sói biển (SSN Seawolf Class) nhằm thay thế các tàu ngầm hạt nhân tấn công Lớp Los Angeles.
    "


    Đấy là vtc chó dại mở đầu chiến dịch nhạp khẩu cám chỉ dành cho loại lợn ngu nhất quả đất và loài chó điên dại nhất vũ trụ.

    Đó là chó dại nói đến loại tầu ngầm không thành công của Mỹ. Seawolf Class ban đầu định đuổi theo các tầu ngầm Liên Xô-Nga, lặn sâu 600 và đi nhanh 35. (Như chúng ta biết, đây là các tầu gầm Nga đã khiêm tốn lại sau khi Mỹ quá đụt, bỏ các tham số lặn sâu 1000 đi nhanh 44,7). Nhưng lớp tầu này thay cho đóng 29 chiếc, chỉ đóng có 3 chiếc là USS Seawolf (SSN-21) USS Connecticut (SSN-22) USS Jimmy Carter (SSN-23) . Cả ba chiếc này đều vẫn là các tham số tầu ngầm Mỹ lặn sâu 240 đi nhanh 25. Vì phải mang theo những thất bại, Mỹ đã nhanh chóng thay thế lớp tầu này bằng Virginia Class, cũng vẫn những tham số thiết kế đó nhưng hợp hơn, không dành chố cho những lò và chân vịt không bao giờ Mỹ có.

    Một cái phế phẩm như thế, mà đài truyền hình lớn nhất nước do đảng cộng sản việt nam và nhà nước cọng hòa xã hội chủ nghĩa việt nam.... sủa như trên. Thì thừ hỏi trong xã hội này chó dại đông đảo đến như thế nào.

    Mình nhắc lại là. Đến nay Mỹ vẫn dùng các tầu ngầm chở đạn chiến lược hiện đại nhất là các Ohio class của 197x. Tầy ngầm tấn công hạt nhân của Mỹ đi chậm và nông hơn tầu ngầm chở đạn chiến lược Nga, con hàng chạy nhanh và sâu hơn con săn. Và Mỹ không có tầu ngầm điện, nên Đài Loan không có tầu ngầm.

    Vậy nên, khi nhắc đến tầu ngầm, thì đảng và nhà nước ta cùng những vtc, giáo dục việt nam.... hô hào đàn đàn lũ lũ các chó dại.





    Bộ pin có đều khiển

    Bây giờ chúng ta nói đến chuyện nước chảy chỗ trũng. Nước chảy chỗ trũng hoặc các thành ngữ tương ứng ở nhiều thứ tiếng được dùng trong vật lý để mô tả một số trường hợp, nư ví dụ này.

    Chúng ta có một dãy điện trở mắc song song với nhau. Khi có một điện trở nào đó nóng lên, thì điện trở của nó giảm đi, cường độ dòng điện qua nó tăng lên. Nếu như hiệu ứng đó đủ, thì cường độ dòng điện qua đó làm đện trở càng nóng lên-càng giảm điện trở, và càng tăng cường độ.

    Với một dãy pin mắc song song cũng như vậy. Các pin bao giờ cũng có suất điện động bằng nhau. Pin nào nóng lên thì điện trở trong của nó bé, nó lại càng nóng lên.

    Trong hai trường hợp trên thì điện trở và pin sẽ hỏng. Một điện trở thuần túy ít hỏng, nhưng các bóng bán dẫn thì đó là một thảm họa. Người ta chỉ lắp các switch bán dẫn song song trong trường hợp chúng đóng ngắt liên tục giảm nhược điểm của hiệu ứng nước chảy chỗ trũng.


    Chính vì thế, việc dùng ắc quy trước đây có nhiều hạn chế. Tuy nhiên, ngày nay thì các bộ ắc quy tầu ngầm và các thiết bị khác rất khác trước 1991. Cũng vì thế mà sự gián đoạn của Nga 199x dẫn đến những tụt hậu rất khác biệt về nguồn tầu ngầm., Và vì thế Nga đã quyết định mua các modul pin này của Siemens. Điều này cũng giông như xe tăng Nga mua các phun dầu điện tử cũng của Siemens, trong vấn đề máy đẩy xe tăng thì Nga mất 10 năm không bằng Liên Xô cũ, cho đến nay vẫn còn ít các xe tăng Nga lắp động cơ bằng Liên Xô cũ, mà Nga lại phải cải tiến nhấc cao thân sau xe lên để lắp vừa động cơ Nga vừa yếu vừa cồng kềnh..

    Chúng ta cói thể dễ dàng quan sát các pin máy xách tay có nhiều cell. Trước đâu, các ắc quy ô tô đơn giản gồm nhiều ngăn mắc nối tiếp nên cường độ của chúng bao giờ cũng bằng nhau, điều này né hiệu ứng nước chảy chỗ trũng, nhưng khi các ngăn không già đi bằng nhau, thì thằng khỏe cũng phải chạy cùng dòng với thằng ốm.

    Một bộ pin hiện đại đắt tiền là một bộ mà mỗi ngăn ắc quy có một mạch điện riêng, chức năng chính của nó là DC converter điều biến dòng xạc-xả của ngăn ắc quy đó, nhưng cho điện áp ra đồng đều trên toàn bộ. Trong cả đống pin con ( cell ) đó, máy tính sẽ định kỳ cho từ nhóm nghỉ để learing, tức là xả-súc để làm mới các điện cực và đo lại dung lượng ắc quy. Sau đó các DC converter của từng ngắn ắc quy sẽ theo lệnh máy tính cho ngăn đó xạc-phát theo năng lực còn lại.

    Một bộ nguồn như thế làm thay đổi lớn chức năng nguồn tầu ngầm, nó làm tăng tổng dung lược thực tế, càng già thì tỷ số tăng được càng cao, và dễ dàng theo dõi các hỏng hóc cũng như đo tổng dung lượng và dự trữ còn lại của toàn hệ thống, dù có đến hàng vạn ngăn. Các ngàn ắc quy chì truyền thống cũng trở nên bền hơn nhiều.

    Nhưng với các pin O2-H2 của Siemens thì hệ thống điều khiển tập trung này là điều đem lại những hiệu quả rất lớn, khi sử dụng chung nguồn khí là các chai khí nén, thay cho việc mỗi modul dùng một cặp chai riêng. Ngoài việc tăng dung lượng thực của cả hệ thống và quản lý sức khỏe từng ngăn, thì hệ thống điều khiển pin tập trung với các modul Siemens đem lại lợi ích đặc biệt về quản lý sự cố và an toàn.

    Như chúng ta đã nói chuyện. Vào cuối 198x thì thế gới có 3 hướng phát triển pin. Trong đó Liên Xô và Đức không tể chấp nhận phương án ion-lithi của Nhật Bản. Tuy nhiên, phương án của Liên Xô bị đình đốn sau 1991.







    ===============

    So sánh AIP hạt nhân và AIP hóa-nhiệt không hạt nhân.

    Chúng ta cùng so sánh. CÙng là AIP, với trọng tải khi chìm 3200 tấn, nồi 2300 tấn, Lira Class dài 81,4 mét rộng 10 mét, công suất chân vịt 40 ngàn mã lực tức 30 ngàn kw. Tầu chạy 41 knot sâu 450 mét.

    Hoành tráng nhất trong các AIP hóa-nhiệt là các tầu Soryu Nhật Bản và nhưng Scorpene Pháp-Ấn, S-80 Tây Bán Nhà bán cho một số nước.... CHúng có cái thì to hợn có cái thì bé hơn Lira 705 ví như Soryu nổi / chìm là 2900 / 4200.

    Công suất của các máy phát AIP này là 300 kw. Soryu Nhật Bản dùng 4 máy Thụy ĐIển 75 kw ta sắp nói, còn Tây Bán Nhà-Pháp dùng một nồi hơi-tuốc bin hơi nước 300kw. Bản chất các tầu AIP này vẫn là các tầu chạy ắc quy nhưng nó có thể xác pin trong lòng biển.

    Tốc độ tối đa của chúng trong lòng biển đều là 20 chúng ta biết rồi, nhưng đó là tốc độ chạy vài giờ là hết sạch sành sanh điện chỉ còn máy AIP nhiệt-hóa. Khi chỉ chạy mỗi AIP hóa-nhiệt, thì tốc độ của các con này là 5 hải lý / giờ, cũng bằng chế độ lẩn trốn bằng ắc quy của các tầu ngầm chiến lược Nga thời cổ. Thấp hơn nhiều chế độ chạy ắc quy của các Borey - Yansen = 15 - 20 knot.

    Hò hét mãi thì các AIP hóa-nhiệt chạy được vài chục ngày liên tục dưới biển với công suất rùa bò 300kw trên. Còn 705 Lira chúng ta đã biết, nó chạy liên tục 30 ngàn kw, gấp 100 lần con số trên, liên tục trong 8 năm. 8 năm đó là rất nhỏ so với tuổi thọ tối đa dự tính của nhiên liệu là 40 năm, vì lò neutron nhanh chậm hao nhiên liệu cháy được, có tỷ số tái sinh lõi cbr cao. Nhưng vì chưa từng thử nghiệm các nhiên liệu 40 năm nên Lỉa tháo 8 năm cho an toàn. Cần nhắc là các Lira khởi công 1968 và phục vụ trong 197x chứ không phải mới mẻ gì.

    Tất nhiên, không có ai di ham lên so sánh các AIP hóa nhiệt với hạt nhân cả. Nhưng chúng ta thấy tình hình chó dại như trên nên cần nhắc lại.



    Các tầu ngầm chạy AIP hóa học phi hạt nhân hiện nay trên thế giới có nhiều loại cụ thể, nhưng chỉ có hai loại nguồn năng lượng.

    Một, Đó là loại thật, chạy pin O2 H2 của Siemens bán cho Nga và Âu. Và hai loại giả dùng máy nhiệt của Nhật Bản dùng nhiên liệu hydrocarbon giầu hydro như metal, hay khí mỏ hóa lỏng giầu propan, là những chất đốt ít sinh CO2 và tỏa năng lượng cao, đốt bằng Peroxyt Hydro H2O2 (Hydrogen peroxide), thay cho đốt bằng không khí thông thường.

    Loại máy nhiệt là loại giả, vì đó đi ngược mục đích của Nga và Đức. Ngời ta đã phát biểu xuyên tạc xu thế Nga-Đức đang đi để bán hàng giả, loại rẻ tiền nhưng giá trên trời. Thực chất, Nga Đức dùng pin-ắc quy để chạy tầu cho êm chứ không phải hướng đến AIP máy nhiệt, bởi vì Liên Xô đã có thứ Lira 705 , với loại AIP phổ biến nhất trên thế giới là hạt nhân. Nhưng Liên Xô đã thay AIP đó bằng 877 Paltus và sau đó là 636 Varshavyanka, thay tầu 30 ngàn kw bằng tầu 4 ngàn kw, giảm đi 7,5 lần.

    Nhiều nước đã dùng AIP hóa học phi hạt nhân. Bản thân Đức cũng đã dùng cái này như các nước khác, và AIP hóa học phi hạt nhân bị tuyệt chủng sau khi có hạt nhân. Nhưng này nay các chó dại làm đồ giả đào mả trào lưu này lên lừa đảo. Bản thân các máy sử dụng H2O2 Đức cũng đã làm từ lâu, và viện trợ cho đồng minh Nhật trong WW2, nhưng Nhật Bản chỉ dám thử nghiệm. Tiến sỹ Hellmuth Walter Đức đề xuất các tầu ngầm chạy H2O2 từ 1933, đến 1940 ông đã có mấy thử nhỏ 200-300 tấn, sau đói là các Type VII hoàn chuyện lại dùng AIP H2O2 để thử nghệm và huấn luyện. Professor Hellmuth Walter đều xuất cả máy đốt trong và tuốc bin, sử dụng chất đốt đơn giản, Type VII nguyên bản sử dụng máy nổ diesel-turbo 210 ngựa, khi lặn motor điện 75 ngựa, tốc độ khi lặn chỉ bằng tốc độ chạy êm của các tầu ngầm hạt nhan Nga cổ 7knot. Nhưng khi sử dụng Walter gas turbine lên đến 12,9 ngàn, 2,5 ngàn, và 5 ngàn ngựa khi lặn, đẩy tầu đi với 29 knot như này nay, lặn được 800 km với tốc độ 15 knot. Tuy nhiên, các tầu của Walter vẫn chỉ dừng ở mức cao nhất là thử nghiệm vào cuối chiến tranh. Walter ngoài AIP đã dóng góp phần quan trọng cho tầu ngầm là cách điều khiển.

    Hồi WW2 Liên Xô cũng đã thử nghiệm tầu ngầm chạy máy đốt trong dùng dầu hỏa (dầu tây, kerosene) và H2O2. Liên Xô, Nga, Anh, Đức... ngày nay đều sử dụng và biến ảo đến mức xảo diệu các loại máy đẩy khác nhau chạy H2O2 trong ngư lôi cao tốc. Và các máy đẩy H2O2 của Nga dùng trong ngư lôi là các máy tuốc bin-phản lực-đốt trong, chứ không dùng đốt ngoài như tầu ngầm Nhật Bản.

    Bản thân nước Nhật Bản WW2 đã sử dụng các động cơ kiểu diesel trong tầu ngầm cảm tử kiểu 2, chạy bằng phản ứng giữa H2O2 và hydrazine hydrate H4N2. Cấu tạo này cũng không khác gì nhiều chạy dầu mỏ, nhưng nó an toàn khó tự cháy hơn.






    Nhật Bản là nước có truyền thống dùng hạm đội tầu ngầm lớn từ WW2.

    Học được Đức chuyển giao rất nhiều kỹ thuật đóng tầu ngầm. Bản thân nước Nhật Bản ngày nay cũng đóng một số lượng lớn tầu ngầm và có một vài điểm chói sáng so với các nước Tây khác. Tuy nhiên, Nhật Bản lại không đóng tầu ngầm hạt nhân.

    Lớp tầu ngầm mới của Nhật Bản là Soryu choáng nước khi lặn 4200 tấn, hiện đã có kế hoạch xuất sang Úc (lớp Collins). Điều đặc biệt là tầu này có tỷ số nước dằn lớn thậm chí còn hơn cả tầu ngầm hạt nhân Nga, nổi / chìm là 2900 / 4200. Tỷ số lớn này có ở hai lớp tầu ngầm cuối cùng là Oyashio (2750 / 4000) và Soryu nói trên. Điều này giúp các tầu được tròn đều vì tránh được sàn booong cao. Trong thế giới phương Tây, scorpene Pháp cũng tròn đều nhưng nó có sàn boong quá thấp (thiết kế ăn cắp, điều này gây khó khăn ngay cả việc cấp cứu thương bệnh binh, Mỹ thì đến tầu ngầm hạt nhân cũng thấp, xem cái đồ lởm của Pháp thấp thế nào thì trên bọn buôn cám wiki cũng có). Lớp tầu ngầm liền trước của Nhật Bản Harushio vẫn chưa có tỷ số lớn này, mà vẫn thuộc lại quá thấp so với 1/4 của 877 và 636, Harushio có nổi / chìm 2,450 / 2,750 , tỷ số nước dằn / chìm là 1/9. Hai lớp tầu cuối dự kiến có AIP nhiệt-hóa nên làm như vậy, nhưng chỉ đến Soryu thì AIP nhiệt-hóa mới đầy đủ.

    Chương trình S130 Oyashio là lớp tầu khởi công 1994-2004, chiếc cuối cùng hạ thủy 2006 và nhận nhiệm vụ 2008. Có 10 chiếc tàu đánh số sản xuất 590-600. Soryu S131 khởi công từ 2005 và đến nay có năm chiếc nhận nhiệm vụ bắt đầu từ năm 2009. Soryu S131 mặc định chạy AIP và S130 Oyashio mó một số đã được hoán cải sang sử dụng AIP.

    Lớp Soryu S131 dùng 4 động cơ nhiệt đốt ngoài Kawasaki Kockums V4-275R công suất mối máy 75 kw, do công ty Kockums đặt dinh ở Thụy Điển nhưng cổ phần trong tay người Đức. Động cơ này dùng nguồn nhiệt đốt ngoài như hơi nước, nên có thể dùng các chất phản ứng như oxy nén-lỏng, H2O2.... và các chất đốt khác thông dụng. Các tầu ngầm Thụy Điển, Anh, Pháp.... đã dùng máy đẩy này đều dùng bình chứa oxy lỏng hình cầu. Các chất tải nhệt trong động cơ (đóng vai trò như hơi nước) là He và N2. Điều này làm cho tầu khá phức tạp về các loại khí. Có nhiều nước xem xét dùng H2O2.
    http://www.kockums.se/en/products-services/submarines/stirling-aip-system/

    [​IMG]


    Thụy Điển có lớp Gotland-class dùng hai máy loại này. Đây là các tầu ngầm nhận nhiệm vụ trong năm 1996, khởi công 1992, choáng nước nổi / chìm 1.494 / 1.599 , vận tốc tối đa khi chìm 20. Khi chỉ sử dụng 2 máy AIP tầu có vận tốc lặn 5 knot, xấp xỉ bằng tốc độ chạy ắc quy các tầu ngầm Nga cổ. Tầu có 6 ống lôi, khá mạnh với cỡ trọng tải này, nhưng chỉ 4 ống 533 còn 2 ống là 400.




    máy piston đốt ngoài.
    Như mình đã nói trên, Soryu S131 sử dụng máy piston đốt ngoài. Trên wiki dân tiếng Anh thường nhận đó là máy Stirling engines dĩ nhiên do ngài Stirling người anh phát minh (Mỹ phát minh ra toàn bộ khẩu AK cơ mà). Điều này cũng ông oát chế tạo ra máy hơi nước. Thật ra, ông Robert Stirling (25 October 1790 – 6 June 1878) không chế ra cái này mà nó được phát triển dần bởi nhiều ngời, khi cái ông Stirling còn bé thì loại máy này có nhiều ở các mỏ than. Sau này, năm 1816, Stirling vẽ ra sơ đồ một cặp piston như sau
    [​IMG]

    [​IMG]

    [​IMG]






    Chỉ cần nhìn qua chúng ta đã thấy Robert Stirling (25 October 1790 – 6 June 1878) không phải là tác giả của nguyên lý máy này, mà ông ta là một ngệ sỹ khoa học vẽ vời lại từ những thiết kế ngày đó. Bừng cớ là ông ta đã hiểu sai ề mục đích của máy này và vì thế cấu tạo các ứng dụng của nguyên lý này ngày nay khác.

    Loại máy đốt ngoài thông dụng nhất là các máy hơi nước. Đốt trong hay đốt ngoài là đốt trong xi-lanh hay ngoài xi-lanh. Những máy "Stirling" vã lại ban đầu cũng dùng hơi nước, có điều người ta chỉ dùng nó chạy rất chậm, không cần mạnh lắm, nên người ta lấy luôn một đầu xi lanh làm nồi hơi đỡ cồng kềnh. Đầu kia của xi lanh làm thùng ngưng. Công suất sinh hơi và ngưng kiểu này còi, nhưng đây là dùng cho các máy chạy chậm. Có thế thôi.

    Bản thân cái máy mà em bé đã dạy cho James Watt 19 January 1736 25 August 1819.... cũng là cái máy bơm sử dụng ngay xi-lanh làm bình ngưng, nước tràn vào xi lanh làm nguội hơi ngưng lại tạo áp thấp hút tiếp nước khác.

    Như vậy, Stirling engines thực chất là một cấu tạo xi-lanh pist-ton khá đặc biệt của động cơ nhiệt đốt ngoài, không đợc ứng dụng nhiều.

    Nhưng động cơ nhiệt đốt ngoài thì lại dùng khá nhiều. Chúng ta biết nguyên lý chung của các máy nhiệt là. Chất tải nhiệt (như nước ) ban đầu là nguội và áp thấp, nó được nén vào trong bình áp cao (nồi hơi ) bởi một máy bơm là máy bơm nguội, có thể là piston hay turbine. Sau đó chất tải nhiệt được nung nóng trong bình áp cao (nồi hơi), ở đây, chất tải nhiệt dù ban đầu có là dạng lỏng như máy hơi nước, thì cũng hóa khí, khí nóng lên nở ra. Sau đó khí nóng được dẫn đến phần sinh công như turbine hay cylinder / piston. Sau khi sinh công khí nóng đã nguội và giảm áp, được máy bơm nguội nén trở lại vào vùng áp cao. Để máy bơm nguội chạy hiệu quả người ta có thể cho chất dẫn nhiệt đi qua máy làm lạnh như bình ngưng của máy hơi nước.

    Chất tải nhiệt hơi nước là chất tải nhiệt đơn giản nhất. Ngoài nước, thì máy này dễ dàng dùng các chất khí có tỷ khối lớn tải nhiệt khỏe như Freon CFC, hay các hydro carbon kể cả là lỏng ở nhiệt độ áp suất thường.

    Chính điều này cái ông Stirling không hiểu, và vì thế dễ dàng nhìn thấy cái dân nói tiếng Anh xóc lọ quay tay đã 200 năm qua. Đứng trên quan điểm trên, thì hai piston nguội và nóng có tính chất kỹ thuật khác nhau, sẽ được làm rời nhau ra, như máy hơi nước truyền thống. Điều này sẽ làm cho việc chăm sóc các cơ cấu này được chuyên (như bôi trơn, làm mát, biên / tay quay hoặc là băn trượt, tuốc bị hay piston), nhờ thế, các cơ cấu chuyên có tuổi thọ cao, tốc độ vòng quay cao, máy nhỏ gọn. CVHuws không phải ***g hai piston vào một cylinder là có cái máy nhỏ gọn. Stirling engines thực chất là một cấu tạo xi-lanh pist-ton khá đặc biệt, thỏa trí tò mà và quyên để quay tay xóc lọ. Thế mà thôi.


    Người ta có thể dễ dàng thấy cấu tạo máy có piston chạy nguyên lý trên thế này. Người ta chia ra piston-cylinder nguội và nóng chuyên tách biệt rời, như máy hơi nước. Có thể mỗi bên nóng nguộ bố trí nhiều bộ I, V, X.... . Hoặc có thể như máy hơi nước chạy piston cũng hay dùng là bơm nguội là bơm tuốc bin ly tâm như bơm nước lên nóc nhà, nhưng được kéo bởi một bộ piston-cylinder siêu cổ.

    Máy đốt ngoài nó là máy hơi nước. Cái cần thay là cái bộ piston-cylinder hai đầu có bàn trượt và ngăn kéo siêu cổ lỗ, cái thời mà gia gia công cắt gọt đắt như vàng, thợ chế máy gia công thủ công piston-cylinder không lắp lẫn được vào nhau. Trong suốt một thời gian rất dài vì thói quen sử dụng của xã hội mà người ta đã không thay cấu tạo đó. Nếu thay, thì các cơ cấu mới nhẹ hơn, không bền bằng, cũng không cần lắm cho cái làm việc bên cạnh nồi hơi vốn rất to nặng.

    Tuy nhiên, với các vật liệu mới thì người ta thu bé nồi hơi đi rất nhiều và thay nước bằng các chất tải nhiệt khí nặng , có nhiệt độ sôi thấp, nhiệt bay hơi thấp.... Ví dụ khí dùng trong tỷ lạnh phơ rê ông Freon CFC. Càng có phân tử lượng khí tải nhiệt cao, thì hiệu suất sử dụng dung tích cilinder càng cao. Và đương nhiên càng có tốc độ quay cao thì mỗi lít cylinder càng có công suất cao. Để có tốc độ vòng quay cao như thế thì piston tầu hỏa được bỏ đi mà thay bằng các bộ piston máy nổ như I, V, X.... Cũng có séc-măng khí séc-măng dầu như thường.

    Những loại nồi hơi hay dùng là các loại lò ống lửa, trao đổi nhiệt gữa khí cháy và khí tải nhiệt. Người ta có thể làm máy đóng kính như block tủ lạnh, đốt giàn nóng nó lên và ngâm nước giàn lạnh, máy chạy sạch rất bền. Không ai cấm việc dùng bể chì-thiếc làm lò tao đổi nhiệt, trong chì-thiếc chảy lỏng truyền nhiệt là các đường ống dẫn khí tải nhiệt và khí cháy. Cũng như các giàn trao đổi nhiệt kiểu thường thấy bằng thép không gỉ khác.

    Chúng ta có thể hình dung một bộ máy có hai nhóm xi-lanh pít-tông và điều khiển bằng van xu-páp. Đường từ bơm nguội sang bơm nóng đi qua lò. Còn đường từ bơm nóng sang bơm nguội đi qua làm mát.
    ....


    Lớp Soryu S131 sử dụng 4 động cơ nhiệt đốt ngoài Kawasaki Kockums V4-275R, mỗi cái 75 kw, các motor điện cho công suất tổng 8000 kw khi lặn, cao gấp đôi 636 Varshavyanka. Cái tuyệt vời của nhiệt-hóa so với ắc quy là dự trữ năng lượng rất cao , đi 11300 km lặn không nổi ở vận tốc 6,5 knot. So với 636 Varshavyanka chỉ đi ược 650 km ở tốc độ 3 knot.

    Nhắc lại từ trên kia. Máy Kockums V4-275R do công ty Kockums có trụ sở ở Thụy Điển, đóng tầu ngầm Thụy Điển, nhưng lại do các tâpfj đoàn Đức nắm cổ phần. Như vậy, cả hai loại máy đốt ngoài và pin đều do Đức bán =)). Nó trốn ra nước ngoài bán của lởm và đứng ở cửa hàng nhà bày đồ xịn. :)). Máy Kockums V4-275R là động cơ nhiệt dùng piston loại đốt ngoài. Nó đốt bằng nhiên liệu và khí oxy lỏng chứa trong bình hình cầu. Chất tải nhiệt của máy này là ni-tơ, nhưng nồi hơi của nó dùng heli trao đổi nhiệt giữa các ống dẫn lửa và ống dẫn chất tải nhiệt.

    Chúng ta đã tính sơ sơ về máy nhiệt sử dụng H2O2. Nó sinh ra nước và CO2, CO2 này dễ dàng nén đổ hòa tan vào nước biển. Có thể dùng các chất đốt bình thường như dầu cặn, dầu diesel, dầu tây (dầu hỏa) kerosene, xăng...hay các chất đốt nhiệt năng cao như nói trên... H2O2 ở dạng lỏng nhưng phản ứng hóa học rất mạnh và không có cách pha phách để nó ổn định như pha N2O4 thành acid đỏ như N2O4. Như N2O2 rất rẻ , hiện giá 1 usd / 1 kg dạng 100%. Người ta bán các dây chuyền tự động hoàn toàn chế tạo chất này 3000 tấn/ tháng, đủ cho cả hạm đội.


    Bình thường, nếu như mang một cân CH2, thì khi dùng AIP nhiệt hóa chạy H2O2, thì 14 cân CH2 phải mang thêm 102 cân H2O2, tổng là 116 cân, tỷ số 116/14 là nhỉnh hơn 8 lần. Giả sử muốn bằng 125 tấn dầu thì phải mang 1000 tấn. Điều này làm cho khả năng chuyên chở H2O2 không bằng với O2 lỏng trong các bình chứa hình cầu.

    =============














    Bây giờ chúng ta đã biết tình hình các AIP không hạt nhân. Kể thêm câu chuyện vui.

    Yêu cầu của Nga-Đức là chạy ắc quy, không chạy máy nhiệt trong lòng biển. Cả hai đã dùng và bán pin fuel cell của Siemens. Đó là các ắc quy chạy điện cực O2 và H2. Nhưng các ắc quy này vừa có tể xạc khi nổi bình thường, lại vừa bơm được bằng hậu cần như bơm dầu.

    Các nước khác lừa đảo quỹ công rằng, Nga-Đức chạy AIP = hệ thống đẩy độc lập không khí. Hệ thống này thì có cái gì đâu, họ tự trồng lấy. Đơn giản thôi là máy hơi nước chạy bằng oxy lỏng hoặc là thay hơi nước bằng khí ni-tơ hoặc khí heli.

    Nhắc lại rằng, Nga-Đức cần tránh động cơ nhiệt chạy trong lòng biển, nếu không thì Nga đã dùng hạt nhân cho rồi.

    Chúng ta nhớ lại việc xuất hiện thuốc súng hiện đại thay thế thuốc nổ đen cuối thế kỷ 19. Mọi sự cũng như vậy. Lúc này, các nhà khoa học Đông Âu đã biết tính toán và thấy rằng thuốc nổ đen cháy quá nhanh trong nòng pháo, nên nó tạo áp quá nhanh, nòng dầy nặng, mà áp lại nhanh giảm, không thể kéo dài nòng và nhồi nhiều thuốc. Vì vậy, các nhà khoa học Đông Âu đã đi 2 bước, một là thuốc súng cháy chậm, hai là thuốc súng điều khiển được tốc độ cháy cho từng loại nòng.

    Nga và Đức từ nửa sau 196x như các côi bờ biển model M1867 Nga đặt hàng tại Đức, họ sử dụng thuốc nổ nâu, hay thuốc nổ sô cô la. Thuốc nổ nâu là hỗn hợp bột nitro cenlluloz có màu trắng, và thuốc nổ đen truyền thống. Thuốc nổ đen có tốc độ bắt cháy nhanh, tạo nhiệt-áp cao và đều trong buồng đốt cuối nòng. Thuốc nổ trắng nitro cenlluloz cháy chậm, nhờ có nhiệt áp khởi động trên của thuốc nổ đen nên bắt cháy đều.

    Sau đó xuất hiện thuốc súng đường đạn Ballistite của nhà Nobel , đây là bước điều khiển được tốc độ cháy cho từng loại nòng. Ballistite ban đầu là nitrocellulose và nitroglycerine, trộn với 10 % khối lượng chất kết dính long não. Hỗn hợp trộn với dung môi a-xe-tôn rồi đùn cắt tạo viên , sấy hết dung môi. Chất long não tạo viên các chất cháy kia cứng, không vỡ khi bắn. Vì tốc độ cháy tỷ lệ thuận với diện tích mặt ngoài, nên người ta thay đổi hình dáng kích thước thuốc cho từng loại súng. Ví dụ súng ngắn viên nhỏ cháy nhanh, pháo viên to hình trụ rỗng cháy chậm.... Nga chính thức đưa thành tiêu chuẩn toàn quân đạn M1908 khi năm 1907 Phần Lan vận hành nhà máy sản xuất long não nhân tạo đầu tiên, không phải nhập từ miền nhiệt đới. Ballistite của nhà Nobel thường làm thành 2 loại viên nhanh chậm để dễ hiệu chỉnh, và trộn thêm với thuốc nổ đen các loại để thuốc nổ đen khởi động nó như thuốc nổ nâu.

    Như thế, khi bắn đạn súng ngắn thì thuốc cháy hết trước khi đầu đạn ra khỏi nòng. Nhưng khi lắp thuốc đó vào nòng pháo thì không nhồi được nhiều, mà phải dùng các viên trụ rỗng to hơn, tốc độ cháy chậm hơn, do đạn súng lớn tăng tốc chậm hơn nòng dài hơn.... Loại nòng nào cũng nhồi được nhiều, đầu đạn Đông ÂU trở nên rất mạnh. Nobel đặt các văn phòng đại diện ở các nước, ví như khẩu pháo mẫu ở Nga để thiết kế thuốc cho từng loại nòng-đạn pháo Nga.

    Đến đây thì Anh-Pháp nghị luận về thuốc dúng Đông Âu.

    Pháp thì bảo Đông Âu dùng nitrocellulose giảm khói =))=))=)) Đến nay cái tên smokeless powder= thuốc súng không khói, vẫn được dùng để chỉ nitrocellulose. :)):)):)) Pháp liền chế ra "Thuốc trắng", đặc biệt sạch sẽ khói chứ không chỉ giảm khói như Đông Âu. Paul Vieille đăng ký năm 1884 ở Pháp thuốc Poudre B đúng sạch khói smokeless gunpowder . Đến nay quân Pháp vẫn đấm ngực thùm thụp đó là thuốc súng không khói đầu tiên của thế giới. Poudre B b= thuốc trắng = poudre blanche để đối lập với thuốc nổ đen truyền thống . Poudre B là thuốc súng làm hoàn toàn bằng nitrocellulose, bông thuốc súng (y hệt bông vải chưa nitro hóa ) được hòa tan vào dung môi.
    68,2% bông thuốc súng sạch , 29,8% keo bông thuốc súng đã trộn với dung môi ether, 2% nến tráng gốc dầu mỏ. Chất nhão trên cán phẳng mỏng như giấy, sấy khô dung môi, cắt và cuộn thành các liều. Thuốc này trở thành thuốc súng tiêu chuẩn của súng Lebel.

    Bên Anh thì các sir rủa nhà Nobel độc quyền bán nitroglycerine cho Nga Ngố. Anh Quốc thiếu đek j thì đó. Người Anh chẳng cần phân tích nhiều để biết các thành phần của Ballistite của nhà Nobel, nhái theo và cải tiến hay bằng vạn bọn Nga0-Đức ngu xuẩn. Cor***e của Anh được sản xuất năm 1888 sau đó trở thành thuốc súng-pháo chủ yếu của Anh-Pháp-Mỹ. Cor***e cũng là nitroglycerine và guncotton hòa vào dung môi, nhưng có thêm 5% về khối lượng chất vadelin (mỡ trắng nhão gốc dầu mỏ để làm kem bôi nẻ có tên khác là petroleum jelly). Hốn hợp được dùn sợi, sấy khô dung môi. Hốn hợp này đùn sợ tuyệt vời vì vadelin rất trơn. Sau đó vadelin như thành phần chống ngấm nước chốn ẩm, nên thuốc rất ổn định bề lâu.


    Vấn đề là, vadelin là chất gây nhão nó biến Cor***e thành thuốc nổ dẻo mà công binh hay dùng. Thuốc nổ dẻo cháy nhanh, nên công bình dùng ngoài nòng súng, nó cháy hết mà chưa kịp bay đi. Thuốc nổ dẻo cháy nhanh như thế vì thực chất các chất gây nhão là chất lỏng, truyền phản ứng vào bên trong khối thuốc chứ không chỉ cháy trên bề mặt. Như thế không thể điều khiển được tốc độ cháy theo nòng dài-ngắn súng to-bé. Nòng súng nặng, nhồi được ít.

    Còn Poudre B cháy không ổn định vì ban đầu nó khởi động phản ứng chậm , mà liều kiểu này không có thuốc mồi. Dù lúc đó đã có nhiều thuốc cháy nhanh làm mồi mà vẫn không có khói, nhưng người pháp dek quan tâm.

    Hồi WW2 bắt đầu, trong trận đánh đầu tiên, soái hạm Pháp Ri-Sơ-Li-Ơ bay mất nòng ở Senegan =)).

    Sau WW2 NATO format tiêu chuẩn NATO 7,62x51, có phần đầu đạn và đường đạn ngoài của Mosin Nga, vỏ đạn Mauser Đức. Mỹ vẫn định cải tiến lùi Cor***e để nhồi. Bức mình Đức bảo thà tao Stalin còn hơn theo những thằng ngu hơn lợn như chúng mày, nên chuyện đó mới thôi. Năm 1967 AR-15 dùng thuốc của NATO 7,62x51 và được chấp nhận làm M16.

    Như chúng ta thấy, cor***e hoàn toàn không có tính chất của thuốc súng hiện đại. Nó không có khói, nó có tỷ số năng lượng / khối lượng cao. Nhưng vẫn đề là thuốc nổ đen thay C bằng đường ăn cũng không có khói. Và dù có thay thuốc đạn AK bằng thuốc nổ đen cổ truyền, nếu gữ năng lượng thuốc như nhau, thì viên đạn không nặng thêm đáng kể, vì thuốc súng chỉ chiếm phân nhỏ viên đạn, ở AK 7,62 mm là 1,6 gram / 16 gram.

    Vấn đề là cor***e cháy nhanh y như thuốc bột mịn, vì nó chỉ là chất bột mịn của các thành phần được trộn nhào với nhau bằng chất gây nhão. Vì thế nó không thể điều khiển tốc độ cháy theo từng loại nòng như thuốc viên càng viên to càng cháy chậm, không thể nhồi nhiều vào súng to, và nòng súng to rất dầy nặng....

    Anh-Pháp-Mỹ dùng "thuốc nổ đen cháy nhanh cổ truyền năng lượng cao và không khói" trong 60 năm trời. Nó cũng y như ngày nay, Nga-Đức chuyển sang chạy ắc quy, nhưng Tây và Nhật lòe ngân sách rằng chúng chạy AIP.







    Vậy thì cái pin nhiên liệu là cái gì thế.

    Cách hiểu đơn giản nhất, đó là các pin có điện cực bằng H2 và O2. Vì vậy, chúng có thể nạp bằng máy nổ như các các tầu ngầm chạy ắc quy thông thường, hoặc cách khác là dùng hậu cần bơm H2 và O2 xuống như là bơm dầu.

    Bạn lấy 2 cái ống nghiệm lộn ngược thành chuông. Một bên chuông có H2, một bên chuông có O2, và nối vùng nước trong chuông vào nhau bằng dây điện. Thế là có cái pin, đơn giản thôi mà. Loại pih này rất cổ có chỉ sau pin Volta một chút, Christian Friedrich Schönbein người Đức đăng báo 1838. Mình soi mái có cái hình trên wiki , bọn này chuyên ăn cắp tranh ảnh.
    [​IMG]


    Cơ chế thế này. H2 hòa tan vào nước , một phần nó biến thành H tự do, H tự do này trả 1 e- vào điện cực còn hạt nhân (hạt proton) thì tan vào nước sang bên điện cực kia kết hợp với O, còn e thì đu bằng đường dây dẫn bên trên cũng sang đó. Điện thế cuả một ngăn pin là 0,6-0, volt

    Tuy nhiên, hiệu quả của việc này rất khó.

    Ngày nay, cực âm của pin được phủ bằng các chất hấp thụ H mạnh như Fe, Ni, Ru , Pt. Khi báp vào các chất này H2 rẽ thành H+ rất nhiều.

    Giữa hai điện cực hiện nay là "Proton exchange membrane" PEM. Có nhiều loại PEM , làm bằng polymer cũng có, làm bằng các cấu tạo gia công bằng nano của các oxyd titan và zircon... Chúng lọc chỉ cho ion H+ đi qua.

    Nhờ đó, ion H+ được các xúc tác bề mặt kim loại chế ra rất nhiều, và bị đẩy qua mang lọc chỉ cho chúng đi qua, vì vậy các ion H+ đi sang gần cực dương, kết hợp với O, lấy thêm e thành H2O, nên quanh cực dướng thiếu E khỏe. Kêtys hợp của cả hai biện pháp này cho pin có mật độ dòng điện rất cao đến hơn 100 A / cm2 điện cực.

    Chúng ta cũng lấy cái wiki chuyên ăn cắp dùng chùa ảnh của nó. Cấu tạo hình học của pin là hai lớp điện cực mỏng bằng kim loại xốp, ví như các tấm Fe, Ni, Pt, Ru.... được hoạt hóa bề mặt và làm xốp. Ở giữa là lớp lọc proton PEM đã nói trên. Pin có thể có thêm các dung dịch acid phosphoric hay sunfuric để tăng khả năng hoạt hóa H2.
    [​IMG]



    Khác với các pin khác. Hệ Fuel Cell H2 O2 có phần phát điện va phần nạp điện rời nhau. Người ta dùng các điện cực được chế tạo công phu như trên để phát điện từ các khí H2 và O2. Khi hẹ thống được xạc bằng máy nổ lúc tầu nổi, thì các bình điện phân chuyên dùng sẽ chế ra H2 và O2 chứ không dùng phần phát để xạc. Còn các ắc quy ta quen dùng thì lấy ngay điện cực phát làm xạc.


    Vấn đề là, Sau hàng chục năm theo đuổi , người Đức đã thành công trong việc chế pin H2 O2 công suất lớn, giao cho Siemens kinh doanh món hàng hót này. Pin được làm bằng các kỹ thuật bí truyền và bán rất đắt, gồm các điện cực hoạt hóa và các tấm ngăn lọc làm bằng ký thuật nano.

    Và kết quả là, cả máy nhiệt Kockums. Kockums AB là mộtu nhà máy đóng tầu ở Malmo Thụy Điển, nhưng lại là thành phần của công ty đóng tầu Đức Howaldtswerke-Deutsche Werft. Như vậy, có 3 dòng AIP hóa-nhiệt hiện nay trên thế giới thì có.

    Fuel Cell, pin H2 O2. Do Đức bán.
    Máy nhiệt đốt ngoài piston Kockums. Do Đức bán.
    Nồi hơi nước đẩy tuốc bin hơi nước đốt bằng rượu và oxy “Module d'energie sous marine” MESMA. Pháp bán thay thế cho những phương án dùng Fuel Cell.

    Thành tích của các khách hàng MESMA là S-80 không nổi được. =))=))=))



    Nhược điểm của pin nhiên liệu Fuel Cell chạy H2 O2.

    Đó là nó rất dễ bị tổn thương khi H2 và O2 không thật là sạch. Trong khi cả Kockums và MESMA đều dùng chất đốt linh tinh được.

    Điều đó làm nhiều người do dự khi sử dụng pin Siemens. Phải mua của nó dây chuyển chế tạo H2 O2 sạch với giá không phải là nhỏ, và nguy cơ mất hàng thay thế khi có chiến sự.

    Nhưg điều đáng lo ngại cho sự cạnh tranh của pin Siemens khí H2 và O2 là, các pin fuel cell khác đang dần dần lẫn lướt. Ví dụ các pin fuel cell sử dụng các điện cực là rượu ethanol và chất oxy hóa là peroxid H2O2. Người ta cũng chế ra các màng lọc để phân tử rượu ngầm từ từ qua mang sang với H2O2 mà không có ngược lại, đảm bảo phản ứng diễn ra từ từ không bùng cháy. Cả hai chết này đều ở dạng lỏng trong nhiệt độ áp suất thường nên rất dễ mang đi.

    Sự cạnh tranh của nhưng máy dùng peroxid H2O2 giảm mạnh vì phải mang theo khối lượng quá lớn chất này.


    ----------------------




    Như vậy, chúng ta đã xem qua một lượt về AIP mà các chó dại sủa tung trời. Sủa đến độ như chó dại vtc sủa bên trên. Tất nhiên các chó dại như vtc phải sủa tung trời vì chủ chó chúa lợn Mỹ của các chó dại không có trình độ đóng tầu ngầm, tầu hạt nhân thì quá đụt còn tầu điện thì không có.

    Thứ nhất, Trong AIP thì lý tưởng nhất là hạt nhân. CÁC AIP hóa-nhiệt đã được phát triển đa dạng trước khi có hạt nhân và sau này gần như tuyệt chủng về hạt nhân. Có thể so sánh rất rõ ràng. Lira 705 chạy AIP hạt nhân có công suất chân vịt AIP 30 ngàn kw (không kể tuốc bị xạc điện), còn các S-80, Soryu, Scorpene.... chỉ có công suất 300 kw bằng có đúng 1 phần một trăm. Lira phi cái công suất đó ít nhất liên tục 8 năm, còn các AIP trên chỉ được vài chục ngày.

    So sánh hạt nhân với AIP hóa-nhiệt... thì có lẽ quá hài hước. Nhưng các chó dại đã cố tình lừa đảo là AIP và hạt nhân là khác nhau. Mình nhắc lại là, AIP phổ biến nhất trên tầu ngầm là hat nhân.

    Ngoài chạy khỏe chạy lâu, thì hạt nhân rất rẻ. Nhà máy điện hạt nhân đương nhiên cho ra điện rẻ hơn những điện sản xuất bằng diesel. Tất nhiên nồi hơi tầu ngầm có đơn già công suất lớn hơn nhà máy điện, nhưng không đến nỗi như đơn giá công suất của xe máy.

    Vì chạy khỏe chạy lâu, nên khi dùng AIP hạt nhân thì dễ dàng có chế độ chạy êm chỉ dùng ắc quy rất khỏe, nhanh, lâu, như là tầu chuyên dùng ắc quy không có hạt nhân trước đây. Khi đã lẩn xa thì tầu lại bật hạt nhân lên xạc pin trong lòng biển không cần nổi lên.



    Ví dụ Ấn Độ

    Ấn và một vài nước thân cận đã vội vàng mua một số lớp tầu chạy AIP hóa-nhiệt, như S-80 Tây Bán Nhà và Scorpene Pháp. Chúng ta biết, Ấn Độ trước đây dùng toàn bộ tầu bè vũ khí Tây, mới chuyển sang Nga.

    Khi bán Scorpene, Pháo đã bán sẵn các phương án khác nhau, trong đó phương án tuốc bin chạy hơi nước đốt bằng cồn-oxy.... là phương án của Pháp dùng để thay thế pin Siemens.

    Bây giờ, tuy rằng chưa có sự cố gì hoặc chưa có đánh đấm gì xảy ra với Scorpene. Nhưng rõ ràng là, ẤN Độ đã tự chế được tầu ngầm hạt nhân. Vậy thì, so sánh cái nhà trồng được giá mềm và cái hàng châu Âu nhập ngoại ra sao đây. Theo mô tả, INS Arihant do Ấn Độ đóng gần giống cấu hình động lực với INS Chakra, chiếc 971 Suka mà Ấn thuê của Nga.




    Ví dụ ông Hòa đóng AIP.

    Ohif ra cười cái loại tầu ngầm ông Hòa với cái vỏ dầy nặng đơn gơ thời Piotr Đại Đế. Tuy rằng ông ta chỉ dùng cái vỏ tầu ấy để nổm thì ta cũng có nhiều cái. để buôn

    Mình ví dụ. Giả sử ông hòa dùng AIP. Thế thì không khó để ông ấy tự trồng lấy một modul máy hơi nước nhỏ chạy piston, đốt bằng H2O2 bán đầy ngoài chợ.

    Có lẽ, trình độ ông Hòa quá nhỏ để làm vỏ phức hợp 2 lớp gồm các dầm gánh, và cái máy hơi nước đó.


    =============





    Tóm lại.

    Loại tầu ngầm tấn công hạt nhân tốt nhất của Mỹ hiện nay là Virghinia có tốc độ cao nhất 25, công suất máy hơn 40 ngàn ngựa. Cũng công suất máy đó Lira cũng là tầu ngầm tấn công đi được 41. Điều đó tương ứng với việc khi Lira đi 25 như Virginia thì nó có công suất hò hét chỉ bằng 1/4 Virginia.

    Ohio đi được 20 với cái máy công suất hơn 40 ngàn ngựa. Tốc độ ấy 636 Varshvyanka đi bằng công suất .....6 ngàn ngựa.

    Tầu ngầm chiến lược Nga đi nhanh và lặn sâu hơn tầu tấn công Mỹ, còn hàng chạy khỏe hơn con thịt.

    Với các con số trên các chó dại sủa liên thiên địa tầu Mỹ êm. Êm với cái l bà tổ các chó dại các con số công suất trên.

    Vì tầu ngầm Mỹ quá đụt nên mới có cái chó dại đến độ liếm Seawolf Class là vượt tầu Liên Xô hay Nga, trong khi nó nhanh 25 sâu 240, còn Nga là 35 và 600, khi mà Nga đã bỏ các Anchar và Pavnik đi 44 sâu 1000.

    Nga-Đức bỏ hạt nhân sang chạy ắc quy cho êm, với mấu chốt là không dùng máy nhiệt. Thì Tây chó dai tuyên Nga Đức tiến lên dùng AIP, trong khi cái AIP phổ biến nhất là hạt nhân thì Nga đã bỏ trong nhiệm vụ đó.

    Ấn Độ tham lam vội vàng với AIP nhiệt hóa mua của Pháp, thì có công suất bằng một phần một trăm AIP mà chính nó tự trồng ra.

    vài con số bết nói
  2. huyphuc_ttvnol

    huyphuc_ttvnol Thành viên gắn bó với ttvnol.com Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    30/05/2012
    Bài viết:
    1.490
    Đã được thích:
    1.047
    Ngày xưa có con chó dại cái bị con lợn đực liệt não nó hấp diêm, nên đẻ ra cả cái nòi liệt não ngu hơn con lợn nhưng lại hóa rồ hơn con chó dại, ngày đêm thủ dâm với mấy cái ****** phắc não

    Lợn ơi, ai phắc vào não các lợn mà chỉ có một vài trang đã phải ngồi copy lại ảnh cho các lợn xem thế.

    Những cái này không là dầm gánh thì cái l bà tổ mày là cọn chó dại cái bị con lợn đực liệt não nó hấp diêm đẻ ra cả lò chúng mày.

    Cái loại đi học bên Mỹ thì được như mày là khá lắm rồi đấy ạ, còn biết thủ dâm.

    http://ttvnol.com/gdqp/1305344/page-185






    Thật đúng là con lợn sủa như chó dại. Cái thằng Mỹ lợn nhà mày làm tầu ngầm rúc vào l mợ nhà mày.



    Đây là 667 mã NATO Delta đang tháo dỡ
    [​IMG]



    Đây là khoang lò phản ứng của Lira 705
    [​IMG]



    đây là sơ đồ của vỏ tầu Lira
    [​IMG]



    Đây là hình bặn ăn thị chó post cách đây có vài trang
    [​IMG]
  3. tongcuc23

    tongcuc23 Thành viên tích cực Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    01/09/2013
    Bài viết:
    336
    Đã được thích:
    651
  4. SKVN

    SKVN Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    19/06/2012
    Bài viết:
    3.522
    Đã được thích:
    2.884
    [​IMG]

    http://www.mindef.gov.sg/imindef/pr...ases/nr/2013/sep/06sep13_nr.html#.UirBrm3CCUm
  5. huyphongvvs

    huyphongvvs Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    02/12/2011
    Bài viết:
    803
    Đã được thích:
    975
    Không có cái dầm gánh chạy quanh vỏ tàu ngầm tào lao ấy đâu:-w Mấy cái vòng quanh lớp vỏ áp lực hay vỏ bền (pressure hull = protchnui korpus) như ở hình dưới này được gọi là đai gia cường (ring stiffener = koltxo zhyoxtkoxti) trên lớp vỏ áp lực. Đám đai gia cường dạng chữ T đó chính là một phần của lớp vỏ áp lực dùng để giúp vỏ chống chọi với áp lực thuỷ tĩnh khi tàu đi xuống các lớp nước sâu. Cậu nào ở gần mấy cái nhà máy đóng chân đế, ống dẫn giàn khoan biển và là lính tàu ngầm chắc chẳng lạ gì cái đai kiểu này.

    Lớp vỏ bền khoang lò phản ứng của tàu ngầm nguyên tử đề án 971 LX
    [​IMG]

    Các mô đun lớp vỏ nhẹ của tàu ngầm đề án 636 trước khi hàn ốp vào lớp vỏ bền
    [​IMG]

    [​IMG]

    -----

    Anh Huyphong mới đi vắng mấy ngày mà cậu dưới này đã oẹ ra dễ đến 3 vạn 9 nghìn chữ tràng giang đại hải:-?? Vỏ nào chịu căng, vỏ nào chịu nén mà chịu lực như nhau luyên thuyên thế huyphuc?
  6. suhomang

    suhomang Thành viên gắn bó với ttvnol.com Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    07/05/2012
    Bài viết:
    15.659
    Đã được thích:
    1.839
    Các bác xem Ngày /Tháng/ Năm nhé , xem có gì đặc biệt không [​IMG]

    [​IMG]
  7. huyphuc_ttvnol

    huyphuc_ttvnol Thành viên gắn bó với ttvnol.com Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    30/05/2012
    Bài viết:
    1.490
    Đã được thích:
    1.047

    Trung Quốc mua làm 3 đợt. 2 con năm 1993, 2 con 1998, và mấy con 2005-2006....


    -------------------











    Động cơ siêu hiện đại = máy hơi nước.

    Nghe thì buồn cười. Nhưng sự thật là như thế. Trong ngành tầu ngầm, thì vì Mỹ không thể đóng nổi tầu ngầm hiện đại, Mỹ đụt so với Liên Xô từ 195x-196x, vậy nên các chó và lợn sủa kinh khủng nhất mỗi khi động chạm đến tầu ngầm. Nước Mỹ đánh đâu thua đấu nhưng xưng số một quân sự toàn cầu. Không riêng gì Mỹ, chó dại lợn thối nguồn gốc http://www.vnmilitaryhistory.net/ cũng đầy trong này như trên.



    Nước Mỹ không đóng nỏi cái tầu ngầm nào ra hồn, không có tầu ngầm bán cho Đài Loan... nhưng vtc, hãng tin lớn nhất mà đảng và nhà nước dùng thuế hút máu xã hội chế ra, có thể sủa như trên. Seawolf Class là lớp tầu ngầm thất bại , khởi công đóng từ 1989, thay cho 29 chiếc trong 20 năm người ta chỉ đóng có 3 chiếc USS Seawolf (SSN-21) USS Connecticut (SSN-22) USS Jimmy Carter (SSN-23) , và sau đó buộc phải thay thế bằng Virginir Class. Cả ba chiếc Seawolf Class đã đóng đều có các tham số quá đụt kiểu truyền thống tầu ngầm Mỹ lặn sâu 240 nhanh 25. Seawolf Class là tấn công hạt nhân chuyên đi săn tầu ngầm mang đầu đạn chiến lược, so với tầu ngầm tấn công hạt nhân Nga là nhanh 35 sâu 600, tầu mang đạn chiến lược Nga nhanh 25 sâu 480, tức là kẻ đi săn chạy chậm lội nông hơn tầu hàng là mồi của nó. Một lớp tầu ngầm thất bại như thế nhưng vtc và các chó các lợn có cả một núi cám rằng đó là lớp tầu ngầm siêu hạng vượt trội tầu ngầm Liên Xô đã nói trên.

    Và tất cả các chó các lợn đó, đều học đại học internet, nghiên cứu giáo trinh wiki
    http://en.wikipedia.org/wiki/Seawolf-class_submarine

    ===========



    Chó sủa lợn kêu lừa đảo toàn cầu . AIP hóa-nhiệt.

    Như đã nói trên, có một sự lừa đảo lớn trong ngành tầu ngầm mấy năm qua. Người ta lừa đảo nhồi sọ bằng các loại chó lợn như vtc nói trên

    Chó sủa lợn kêu như vtc kêu sủa rằng: Nga-Đức đang chuyển sang AIP. Sự thật chúng ta biết rồi , thật ra là Nga và Đức là những tiên phong mẫu mực về tầu ngầm, cả thế giới coi họ là diễn viên thời trang, nhưng mục tiêu của họ không phải là AIP. AIP = Air independent propulsion = máy đẩy không dùng không khí.

    Sự thật là: cả Nga và Đức chuyển sang dùng máy chạy pin-ắc quy, điều này cho phép bỏ máy nhiệt khi tầu ngầm công tác, làm tầu ngầm trở nên êm. Hệ thống pin điện sử dụng các điện cực O2-H2 Siemens bán mà Nga-Đức sủa dụng, có các điện cực có thể xạc được như ắc quy thường, nhưng cũng có thể bơm khí O2 và H2 bằng hậu cần như bơm xăng bơm dầu, cho phép tầu ngầm có dự trữ năng lượng đi ngầm lớn, tương đương vài chục đến cả trăm tấn dầu diesel, chạy được ngầm vài chục ngày không cần nổi lên.

    Sự thật là, Nga đã bỏ lớp tầu ngầm Lira-705 chuyển sang các tầu chạy pin-ắc quy. Các tầu Lira-705, Paltus 877, Varshavyanka 636, đều có cấu hình phần quân sự giống y như nhau, chúng mang 6 ống lôi trước, choáng nước nổi/chìm khoảng 2300/3000, đường kính phần thân trụ 10 mét. 705 dài hơn một chút 81 mét, còn các 877 72 mét 636 73 mét. Lira 705 là các tầu ngầm hạt nhân khởi công 1968, nhận nhiệm vụ từ 1971 đến 1981. Còn hai lớp tầu ngầm kia là các tầu chạy ắc quy.

    Vấn đề là. Hạt nhân là loại AIP thông dụng nhất của tầu ngầm. Nhắc lại rằng, AIP = Air independent propulsion = máy đẩy không dùng không khí. Các máy đẩy chạy năng lượng hạt nhân rất mạnh mẽ, rẻ, không dùng không khí. Các tầu ngầm hạt nhân sử dụng năng lượng điện để chế tạo oxy đảm bảo sự sống. Chúng mạnh mẽ mang được nhiều vũ khí, vỏ dầy lặn sâu, đi nhanh dưới ngầm liên tục được lâu. Các tầu như Lira đủ nhiên liệu chạy 40 năm, nhưng sau 8 năm người ta thay nhiên liệu vì chưa bao giờ thử nghiệm các nhiên liệu 40 năm cả. Các lớp tầu dân sự và tầu chiến khác có chu kỳ thay đỏ nhiên liệu từ 1-3-8-10 năm. Trong chu kỳ nhiên liệu chúng thoải mái hoạt động liên tục hết công suất, ví như Lira là 30 ngàn kw chân vịt.

    Tất nhiên không một AIP pin hay AIP hóa-nhiệt nào đủ sức đẩy tầu đến thế. Vậy nên rất hài hước nếu như nói Nga sẽ chuyển sang AIP hóa-nhiệt.


    So sánh AIP hóa nhiệt.

    Chúng ta có hai phép so sánh, so sánh AIP hóa-nhiệt với AIP hạt nhân và AIP hóa nhiệt với chính nó. Ở đây, chúng ta so sánh hai lớp tầu Soryu Nhật Bản và Lira 705. Cả hai đều là những tầu ngầm tấn công nhỏ đánh phục kích.

    Soryu S131 là loại tầu ngầm hiện đại nhất hiện nay của Nhật Bản. Tầu có choáng nước nổi / chìm lớn hơn Lira 2900 / 4200 . Vũ khí Soryu có 6 ống lôi nhưng có 30 đạn. Nó sử dụng 4 máy AIP hóa-nhiệt loại Kockums V4-275R Thụy Điển, là loại động cơ nhiệt piston đốt ngoài Stirling . Tổng công suất các motor đi ngầm của Soryu là 8000 kw. Tổng công suất 4 máy AIP là 300 kw.

    Lira 705 là loại tầu ngầm khởi công 1968, các tầu lần lượt bắt đầu nhận nhiệm vụ từ 1971 đến 1981. Tầu có choáng nước nổi / lặn 2300 / 3200. Vũ khí Lira có 6 ống lôi nhưng có 18 đạn. Lira có một lò hạt nhân. Công suất khi đi ngầm của Lira bao gồm công suất chân vịt 30 kw, và thêm 2 tuốc bin phụ áp thấp mỗi cái 1500 kw phát điện.


    Như vậy, nếu so công suất máy AIP, thì Soryu có công suất chỉ bằng đúng một phần một trăm Lira.
    Nếu so công suất chân vịt đi ngầm, thì Lira gấp 5 lần.

    Điều đáng nói là, nếu so máy AIP của Soryu với chính Soryu. Thì công suất phát của AIP 300 kw chỉ bằng một phần 27 công suất của mortor tiêu thụ. Tức là nếu như Soryu đi hết tốc độ dưới ngầm trong 1 giờ mà không nổi lên chạy máy phát, và hiệu suất ắc quy của nó là 100% (!!!), thì mỗi giờ chạy phải nghỉ 27 giờ để nạp.

    Chỉ bằng hai phép so sánh như thế, chúng ta đã thấy các AIP hóa nhiệt trên nó vô dụng thế nào. Sự thật là, các tầu AIP hóa-nhiệt vẫn có bản chất là các tầu chạy ắc quy, và mang thêm tính chất lừa đảo. Tính chất lừa đảo để lại hai hậu quả. Một là, tầu mang máy nhiệt chạy ồn. Hai là , các tầu ngầm chạy pin O2-H2 chỉ cần bơm một lúc là có thể ra khơi được-đúng nghĩa pin chạy nhanh. Còn các tầu như Soryu thì vẫn chủ yếu là nạp rất lâu, còn công suất của AIP thì nhỏ không đáng kể để nạp ắc quy cho tầu khi lặn.



    Những loại AIP hóa-nhiệt.

    Như đã nói trên. AIP hóa-nhiệt là loại AIP đầu tiên phát triển cho tầu ngầm. Trước đây nó được nghiên cứu cho nhiều tầu ngầm lớn. Nhưng sau này các AIP này không dùng cho tầu vì xuất hiện các AIP hạt nhân. AIP hóa nhiệt sau đó chỉ còn dùng nhiều cho các ngư lôi, một số tầu ngầm nghiên cứu. Các ngư lôi cao tốc chủ yếu sử dụng các khả năng hóa học của peroxit hydro H2O2, chạy các tuốc bin hoặc máy piston đốt trong.

    Có 3 loại AIP hóa-nhiệt hiện đang chào bán.

    Dễ hiểu nhất là loại máy đốt trong được gọi là diesel chu trình kín. Gọi như thế vì các chó dại thấy có kim phun dầu thì giống máy diesel =)). Đại khái người ta cải tiến đôi chút máy nổ thông thường để chạy oxy nguyên chất hoặc chất oxy hóa nào đó như peroxit hydro H2O2. Tuy nghe có vẻ đơn giản như thế nhưng loại này ít được các nhà thiết kế tầu ngầm chọn.

    Loại máy piston đốt ngoài Ví dụ như Kockums V4-275R của Thụy Điển đã được dùng trên tầu ngầm một số nước như Thụy Điển, Anh, Nhật Bản, .... loại máy này còn được gọi là Stirling engines, loại động cơ piston đốt ngoài đơn giản hóa cơ cấu. Máy piston đốt ngoài cũng như là máy piston chạy hơi nước, nhưng chỉ thay chất tải nhiệt hơi nước bằng chất khí khác, giúp khắc phục nhược điểm muôn thủa của máy hơi nước là quán tính nhiệt lớn, khởi động lâu.

    Kockums V4-275R có công suất 75 kw (100 ngựa) , sử dụng cylinder có 2 piston như bản vẽ Stirling engines nói trên. Máy sử dụng chất tải nhiệt là khí N2 nén. Tạo nhiệt bởi phản ứng cháy nhiên liệu và O2, O2 được chứa ở dạng lỏng trong các chai nén. Nồi hơi của máy nén He truyền nhiệt từ ống lửa sang ống nước (nước ở đây là N2).

    Loại AIP hóa-nhiệt thứ 3 hiện nay đang được chào bán là MESMA, được chọn lắp trên các tầu ngầm Pháp và Tây Ban Nha. Loại máy này có công suất 300 kw, là tuốc bin hơi nước. Nồi hơi của nó đốt cồn trong áp suất đốt 60 atm. Chất khí đã cháy rồi xả ra biển, CO2 sẽ tan vào nước biển. Oxy của các tầu Scorpene và S-80 đốt chất đốt bằng oxy chứa trong các chai ở dạng lỏng cũng như các tầu chạy Kockums V4-275R.


    Như vậy, cả 2 loại tầu được ứng dụng trên đều sử dụng O2 hóa lỏng đựng chai nén. Kỹ thuật này cũng như là pin Siemens. Điều này giảm đi rất nhiều khối lượng so với dùng peroxid hydro H2O2, giảm đi một nửa tổng khối lượng chất đốt-chất oxy hóa đã tính cả khối lượng các chai oxy.

    Cả hai loại máy trên đều dễ dàng chuyển sang sử dụng H2O2. H2O2 là chất oxy hóa rẻ tiền 1 $ / 1 kg bán khắp nơi.




    Động cơ siêu hiện đại = máy hơi nước. Của lởm trong hàng của lởm.


    Chúng ta vẫn đang tiếp tục các chủ đề AIP. Phải nói, AIP hóa-nhiệt là của lởm. Nhưng AIP hóa-nhiệt kiểu của Pháp là loại siêu lởm, của lởm của của lởm. Không cần nói nhiều, ở đâu có chúng thì tầu ngầm được mua bởi giun sán giòi bọ đục khoét chó lợn.

    Có lẽ đỉnh cao của mọi sự ngu xuẩn điên rồ, tham nhũng, giun sán giòi bọ đục khoét chó lợn.... là S-80, tầu ngầm Tây Bán Nhà khi đóng gần xong mới biết là không thể nổi được.

    Về AIP, S-80 sử dụng hệ thống “Module d'energie sous marine” MESMA. Ngoài Pháp và Tây Bán Nhà thì các hệ thống này được lắp trên tầu ngầm và bán cho một số nước, đáng kể có Ấn Độ, Malaysia, các nước Nam Mỹ.


    Như trên, chúng ta đã thấy máy Kockums V4-275R.

    Chúng ta đã phân tích những gì cần có của một tầu ngầm chạy pin O2-H2 Siemens. Nó cần có những bình chứa khí rất lớn, trong đó oxy lỏng chứa trong các bình đường kính lớn ở dạng lỏng. Đường kính lớn chuyển sang đến dạng cầu thì tiết diện vỏ ngoài giảm nhất, cách nhiệt nhất, tiện để đồ khí hóa lòng. Và tất nhiên nó cần cái mà Siemens đang bán độc quyền giá cao là cái bộ phận biến năng lượng của O2-H2 thành điện, cái pin.

    Pin O2-H2 của Siemens là hàng kỹ thuật cao. Nó hoạt động được mạnh nhờ lớp màng lọc làm bằng kỹ thuật nano, có các mạch dấn nhỏ chỉ cho ion H+ vốn nhỏ nhất trong các ion đi qua, cũng như H2 được hoạt hóa trên bề mặt các kim loại. Hiện nay có nhiều hãng phát triển nhưng không có hãng nào đảm bảo được đủ mật độ công suất cũng như độ tin cậy.

    Về chu trình năng lượng thì AIP hóa-nhiệt không khác gì chạy pin. CHúng đều bơm được các chất tạo năng lượng bằng hậu cần, đều biến đổi thành năng lượng điện.... Chỉ có khác duy nhất một điều, AIP hóa-nhiệt ồn ào vì có máy nổ máy hơi nước, và so với AIP hoạt nhân thì AIP hóa-nhiệt quá lởm.

    Như vậy, chỉ cần một phụ phẩm của pin siemens, là cái bình chứa O2 lỏng dế kiếm, người ta đã làm ra các máy hơi nước và gọi đó là kỹ thuật cao.
    =)):))[:D]


    Nhưng chũng ta cũng có thể so, cùng trong hàng lởm, thì “Module d'energie sous marine” MESMA nó lởm đến như thế nào. Tại sao mà “Module d'energie sous marine” MESMA được vinh dự chọn đẩy tầu ngầm S-80, loại tầu ngầm siêu hiện đại đóng gần xong mới biết là không nổi được.

    Scorpene là loại tầu ngầm nhỏ, choáng nước 1500 tấn, đường kính có 6,2 mét. Yêu cầu thiết kế dung dị đến mức sàn boong cao hơn mực nước chưa đầy một mét, sóng to mét rưỡi phải cẩu thương bệnh binh bằng cần cẩu. Tầu của Pháp này có choáng nước khô khiêm tốn 1500 tấn. Nó đã chọn nhiều loại AIP, trong đó có cả của Siemens và Kockums. Như cuối cùng người Pháp đã quyết định chọn MESMA.

    Scorpene chọn MESMA bằng cách cũng rất dung dị. Người ta làm thêm môt khúc giữa chuyên MESMA và nối hai khúc đầu cuối vào. =))

    Quá thông minh đơn giản.

    Khúc MESMA nặng 300 tấn công suất 300 kw. Nếu so với cái máy đẩy xe máy Honda Way 110 cc 6 kw thì để cho tương đương máy Honda Way sẽ nặng 6 tấn. Tương đương máy con Kia Morning 80 ngựa = 60 kw sẽ có cân nặng 60 tấn. Xem ra, khoang máy của Lira 705 30 ngàn kw (khuyến mãi không tính các tuốc bin phát điện), sẽ có khối lượng 30 ngàn tấn, trong khi cả cái tầu Lira có 3,2 ngàn tấn.


    Chúng ta có thể so sánh kích cỡ của máy 75 kw . Nếu như so tương đương MESMA thì cái này phải nặng 75 tấn. Như đã nói, loại Kockums V4-275R do một hãng của Thụy Điển chế tạo ban đầu cho các tầu ngầm nghiên cứu và lớp tầu ngầm chiến đấu lớp Gotland-class.
    Nhắc lại chữ Got ở đây chính là cái "rợ gốt" được dùng nhiều trong vắn hóa La Mã bao gồm cả Pháp, người Tây vừa khinh ngưới Gốt, vừa xóc lọ thủ dâm với kiến trúc gốt, âm nhạc gốt, khoa học gốt.... và tầu ngầm Gô-Tích. =))[:D]:))
    [​IMG]


    Còn đây là cái khúc MESMA nặng 300 tấn, 300 kw.
    [​IMG]





    Như trên ta đã nói, Kockums V4-275R là loại động cơ Stirling engines. Nó là loại động cơ đốt ngoài có cấu tạo đốt luôn đầu xi lanh + làm mát đuôi xi lanh = cho gọn. Ta có thể lộn ngược cái đầu đỏ lên thành luôn con Kockums V4-275R.
    [​IMG]


    Đây là bản vẽ của Stirling đã nói trên nhưng được vẽ lại cho rõ. Môej thời gian người ta dùng hơi nước để tải nhiệt, hơi sẽ ngưng ở xi lanh dưới và bay hơi khi gặp xi lanh trên. Stirling chỉ là người vẽ lại các động cơ máy bơm rất phổ biến ngày đó.
    [​IMG]




    Động cơ đốt ngoài cũng như động cơ hơi nước, chỉ có điều thay chất tải nhiệt mà không dùng nước nữa, khắc phục cái chuối nhất của nôi hơi hơi nước là quán tính nhiệt quá lớn, khởi động lâu hàng giờ. Kockums V4-275R sử dụng chất tải nhiệt trong cylinder là khí N2, nối hơi lèn đầy khí dẫn nhiệt He. Sơ đồ sử dụng khí của nó đã post trên
    http://www.kockums.se/en/products-se...ng-aip-system/
    [​IMG]



    Kockums V4-275R lộn ngược cái hình cylinder đang chạy trên, đầu đỏ nóng ở trên cho rúc vào bên trong nồi hơi.
    [​IMG]

    một mẫu khác. Người ta đặt rời nồi hơi và dẫn khí nóng He sang cylinder. Đây chĩnh là kiểu bố trí dùng cho Kockums V4-275R.
    [​IMG]



    Các nhà kỹ thuật khôn khéo không cho piston tiếp xúc với cylinder ở phần nóng, nên máy bền, toàn bộ thành piston và séc-măng đều ở phần lạnh
    [​IMG]


    [​IMG]









    Có thể phân tích những nhược điểm của máy hơi nước cổ truyền như MESMA
    Trên kia mình đã nói về những hình ảnh của Kockums , loại động cơ đốt ngoài đơn giản nhất có 1 cylinder và 2 piston, một đầu cylinder là nóng và đầu kia là lạnh. Còn máy hơi nước thì chẳng cần vẽ hình nữa. Trừ đám chó dại sinh viên của Mỹ, thì học hết lớp 12 ở Việt Nam ai ai cũng có những hình ảnh về máy hơi nước.

    Mình nhắc lại chu trình chung của máy đốt ngoài.

    Máy đốt ngoài, bao gồm các máy hơi nước và cả Kockums , gồm hai nhóm piston hoặc turbine, một nhóm nóng sinh công và một nhóm nguội hao công để bơm. Đương nhiên nhóm nóng sẽ biến nhiệt năng thành cơ năng và kéo bơm nguội. Máy đốt ngoài sử dụng chất tải nhiệt dạng khí, như hơi nước và khí N2 của Kockums . Chu trình toàn bộ như sau. Bơm nguội nén khí tải nhiệt nguội từ vùng áp suất thấp sang vùng áp suất cao. Đầu vùng áp suất cao ở cửa bơm nguội chất tải nhiệt vẫn nguội sau đó đi qua lò được đun nóng lên, lò ở máy hơi nước là nồi hơi, còn nồi hơi của Kockums là các ống lửa chạy trong bình khí He nén, He truyền nhiệt rất mạnh. Khí tải nhiệt nóng và áp cao đẩy turbine hay piston chạy, sau đó khí tải nhiệt chuyển sang vùng áp thấp. Ở vùng áp thấp khí tải nhiệt có thể được làm nguội như giàn ngưng của máy hơi nước , hoặc không.

    Tuy cùng là máy đốt ngoài, nhưng so với Kockums thì máy hơi nước khác một vài điểm.

    Thứ nhất là, nước tồn tại ở dạng lỏng trong vùng nhiệt độ thấp, phải mất đi năng lượng để nước bay hơi, và sau đó năng lượng đó hao đi ở giàn ngưng. Không như khí tải nhiệt N2 của Kockums hầu như chỉ trao đổi năng lượng với các piston.

    Điều đó có lợi cho những ngày thế kỷ 18-19. Đó là, nồi hơi không bao giờ lo quá nhiệt vì được ngâm nước. Người ta cũng không cần làm quá kín khít các piston vì hơi rất nhiều xì chút vô tư.... Ở vùng nguội áp thấp, nước lỏng mật độ cao được chứa rất dễ dàng không như những bình khí nén, và cũng dễ dàng bơm nước đó lên vùng áp cao....


    Nhưng nhược điểm của hơi nước thì ai cũng biết, đó là quán tính nhiệt của nó quá lớn, mất cả mấy chục cân than - dầu và hàng tiếng đồng hồ để "đề" anh máy hơi nước. Chính vì thế người ta mới chế ra động cơ đốt ngoài chuyên dụng.

    Một nhược điểm nữa là cái nồi hơi máy hơi nước nó quá nặng.....



    Điều kết luận là: máy siêu hiện đại là máy hơi nước. Máy hơi nước nghĩa đen. Như trên chúng ta đã thấy . Professor Hellmuth Walter từ 194x khi làm AIP đã tránh né hoàn toàn máy hơi nước. Các ngư lôi Nga-Đức ngày nay dùng Peroxit Hydro cũng không dùng máy hơi nước....

    Cái gì đây ? 200 năm nhái hàng Đông Âu. Tất cả đều nhái, từ cái dinh ốc cũng không biết tác dụng để làm gì.... Đấy là Anh-Pháp-Mỹ. Chỉ cần thay đổi nguyên lý kỹ thuật là các anh lại phải đợi nhái. Đấy mới chỉ so Kockums và MESMA.

    Phá ra cười loại tầu ngầm đóng gần xong mới biết là không nổi được. Xem ra các nước thối nát vũ khí còn nhiều, có cả Ấn Độ cũng dùng MESMA.

    Nói chung là ông Hòa ạ, cũng không khó để cải tiến một chút cái máy nổ làm quả AIP, chạy H2O2 đi cho dễ kiếm. Có lẽ cái tầu ông Hòa chỉ cần con máy độ 10 kw như máy xe máy là chạy thừa cái 6,5 knot của Soryu. Làm một bộ chế kép tương cả xăng và H2O2 vào đốt, nhở.


    -----------
    ===========================





    ============================



    [​IMG]





    [​IMG]



    Không nói chuyện với mấy con chó dại bên quân sử. Cái dầm I hay T không để gánh thì để đè vào l mợ chúng mày đẻ ra cả cái nòi lợn nhà chúng mày à. Cái tầu ngầm của loại chó dại quân sử nào chở được bằng tầu hỏa thế.

    Chúng mày , mấy con chó dại bên quân sử ạ, thích sủa thì về cái ổ của chúng mày mà thủ dâm với nhau, nhét dịch thù dâm vào mõm nhau, tự sướng với nhau. Ra ngoài xã hội thì cũng có người ưa thủ dâm nhưng ít, cho nên chúng mày nên có một chút lịch sự tối thiểu.

    Về bảo bố mẹ chúng mày rằng, trước khi đi học, thì năm lên 4 hãy học cái lịch sự tối thểu đó, nếu không lớn lên chỉ ăn được cám chó dại và chỉ thủ dâm được với nhau bên http://www.vnmilitaryhistory.net/


    mà sao anh đoàng nổ to nhở, từ cái hồi tầu ngầm phản xạ sóng âm thanh xuống đáy bùn để truyền đi xa, mà các tác gia tầu ngầm của đoàng nổ http://www.vnmilitaryhistory.net/ bây giờ chó dại hết sạch thế này. Bên http://www.vnmilitaryhistory.net/ bây giờ thành trại nhân giống chó dại à.
  8. FromtheStars

    FromtheStars Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    08/06/2007
    Bài viết:
    3.034
    Đã được thích:
    195
    Cái vỏ tròn thì gọi mấy cái dầm ấy là 'đai' cũng có vẻ hợp lý. Tuy nhiên tiết diện tính toán của đai có thể xem là một tiết diện chữ H (i hoa) vì có kể sự làm việc của bản vỏ đồng thời với dầm. Hiện nay có nhiều phần mềm tính kết cấu 3D nhưng có thể tham khảo cách tính tay cổ điển.
  9. babyphu

    babyphu Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/03/2008
    Bài viết:
    522
    Đã được thích:
    55
    How to build a Nuclear Submarine
  10. suhomang

    suhomang Thành viên gắn bó với ttvnol.com Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    07/05/2012
    Bài viết:
    15.659
    Đã được thích:
    1.839

Chia sẻ trang này