1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Tàu ngầm Kilo-636MV và sức mạnh của Hải quân Việt Nam

Chủ đề trong 'Giáo dục quốc phòng' bởi Triumf, 17/03/2011.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. Durex

    Durex Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    21/06/2012
    Bài viết:
    60
    Đã được thích:
    0
    Lão độ rày rảnh rang hay hồi teen mà lại có nhã hững quay về ao nhà thế ... Cẩn thận trẻ trâu nó du xuống ao đấy nhá :-"

    Còn ba hồn bảy vía mấy Lão đại như Ducsniper, Antey2500, Spirou, Hecto ... là Vệ phủ lại tưng bừng như hơn chục năm về trước hểy [r24)]

    Nhớ bên Sử quán kỳ ấy có mấy tay ngang dọc, Bạch đạo có Ruavang, Chitto, Langkhachvn ... Hắc đạo có MDB, Youth ... Bá đạo có Noname ... cũng toàn là những kẻ kiệt hiệt cả

    Nhớ bao phen trúc chẻ tro bay, nick treo đầy nội .... Bi hùng lắm thay! Chứ Vệ phủ không đầy rẫy những kẻ la liếm, trưởng giả, khoe mẽ, khoe bơ sữa, cắt dán kiến thức như bây giờ!

    Cũng may là anh em Bạch đạo lớp sau nối lớp trước, vẫn giữ vững phần nào cốt cách của Vệ phủ! Tuy vận Box lúc thịnh lúc suy, nhưng hào kiệt năm nào cũng có [r2)]
  2. huyphuc_ttvnol

    huyphuc_ttvnol Thành viên gắn bó với ttvnol.com Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    30/05/2012
    Bài viết:
    1.490
    Đã được thích:
    1.047
    Không phải lúc nào tầu ngầm Liên Xô cũng vượt tầu ngầm Mỹ, chứ không phải là vượt quá xa như bây giờ. Thời điểm tầu ngầm Liên Xô tụt hậu quá nhiều là thời kỳ Khrushov. Trong thập niên 195x, Liên Xô đã vượt lên với lớp tầu ngầm tấn công 627 Kit (NATO November-class). Đây là lớp tầu đầu tiên của Liên Xô bỏ cái mũi tầu thủy truyền thống. Tuy nhiên sau đó Liên Xô tụt hậu, khi các tầu mang đạn đạn đạo và đạn có cánh chưa hề có tầu nào hoàn toàn bỏ mũi tầu thủy.

    Nhắc lại là, mũi tầu thủy giúp tầu ổn định trên mặt biển, các tầu WW có phần lớn thời gian đi trên mặt biển để nạp ắc quy và phải bắn trên mặt biển, đạn là ngư lôi không điều khiển. Trong lòng biển các vỏ tạo hình theo dáng tầu thủy gây ồn ào.

    Các 627 bắt đầu đóng và vận hành cuối 195x, tương đương bên Mỹ có lớp cũng tấn công là Skipjack-class bắt đầu ngận nhiệm vụ 1959, nối tiếp là USS Tullibee (SSN-597). USS Tullibee (SSN-597) là tầu duy nhất của lớp, sau nó là Permit-class bắt đầu vận hành năm 1961. Permit-class có chiếc đầu tiên là USS Thresher (SSN-593), chạy được 2 năm đắm năm 1963.

    Đến 671 Ёрш=I ô r s (bồ nông, NATO Victor), 1967 Liên Xô mới có lớp tầu tấn công mới.

    Các lớp tầu ngầm phát triển trong thời này chậm ra lớp mới và tệ hại. Hàng mang đạn có cánh có 651/659/675 nhai lại thiết kế 195x không thay đổi gì, vẫn dùng mũi tầu thủy, giao nhận nhiệm vụ cho đến cuối 196x. Vũ khí và khí tài của các tầu ngày cũng quá tệ. Lúc này, việc lạm dụng các thiết kế đã quá cổ nhưng đắp máy đẩy thế hệ mới khỏe hơn làm tiếng ồn của tầu ngầm tăng mạnh , trong khi các thiết bị âm thanh đang tăng cao chất lượng, làm sức chiến đấu của tầu ngầm giảm theo cấp số nhân.

    Trong hàng tầu mang đạn chiến lược, các tầu thậm chí là tiến bộ nhanh hơn trong hàng đạn có cánh, nhưng vẫn hết sức chậm. Mặc dù vậy, do tính chất làm việc độc lập, nên sự tệ hại của tầu chiến lược ít gây hậu quả hơn sự tệ hại của các tầu có nhiệm vụ đối kháng với hạm đội địch, là các tầu tấn công ngư lôi và tầu mang đạn có cánh. Lớp 667А-667АУ «Навага» Navaga (NATO Yankee), nhận nhiệm vụ 1967 vẫn hơi hướng còn cái mũi tầu thủy, đến các lớp 667 sau mới dần bỏ đi như 667B Murena (NATO Delta).

    Khrushov là thời kỳ điên rồ, ông ta phá họi cả ba mũi tiến quan trọng nhất trong khoa học Liên Xô, là di truyền học, điện tử và chế tạo máy. Về điện tử, Khrushov lừng lẫy với việc chê bán dẫn không chịu được phóng xạ, ông ta dừng phát triển bán dẫn, lúc này ngành bán dẫn đang thu lại những tiến bộ vượt bậc cho các ngành khác, và chuẩn bị bước vào thời kỳ máy tính điện tử số cuối 196x. Sự tiến bộ quá nhanh của ngành bãn dẫn thế giới đã đẩy tụt sornar Liên Xô.



    Trong thời gian này Mỹ chịu khó đầu tư ngâm kíu, cho ra liên tiếp các tầu ngầm mới, tạo thành cả một cuỗi các lớp tầu ngầm tấn công. Không như hôm nay.

    Hạng tầu tấn công ngư lôi Mỹ cho ra con Permit-class . Lớp tầu này còn được gọi là Thresher class, chiếc đầu tiên nhận nhiệm vụ là USS Thresher (SSN-593) năm 1961. Tầu này bị tai nạn 1963, nên lớp tầu còn được gọi theo tên chiếc thứ 2 là Permit. Sau đó là tai nạn USS Scorpion (SSN-589) 1968. Cả hai lớp tầu này đều vượt trội tầu Liên Xô lúc đó, và đi trước về bỏ múi tầu thủy, cũng như vượt trội về sornar. Nếu so lịch thời gian với Liên Xô thì chúng vượt quá xa.

    Tuy nhiên, cả hai tai nạn đó đều liên quan đến thiết kế tầu, nên từ đó nước Mỹ tụt vòi. Giới quân sự rửa tiền Mỹ cần êm thấm thực hiện cuộc sống hút máu ngân sách Mỹ, đã từ chối cho gới kho học phưu lưu với những phát triển mới, nên nước Mỹ tụt hậu nhanh chống trước Liên Xô. Năm 1968 Liên Xô cóa Anchar, sau đó là Lira 1972 và Plavnik 1981.

    USS Scorpion (SSN-589) 1968 liền trước khi đắm phát hiện seri những hỏng hóc liên quan đến mỏi vật liệu, nó lên ụ sửa và đắm trong lần đầu tiên nhận nhiệm vụ. USS Thresher (SSN-593) cũng đắm trong lần thử nghiệm sau sửa chữa, sau đó các tầu trong lớp không vận hành mức cao các giới hạn thiết kế.



    Cũng trong thời gian này, "mâu thuẫn" Xô-Mỹ hết sức gay gắt, giới chức Mỹ tăng cường tối đa đánh võ mồm để thực hiện cuộc chiến tranh lạnh rửa tiền. Đỉnh cao khoa học của chiến tranh lạnh là dòng A-12/F-12/SR-71/MD-12 thuê một công ty Thụy Sỹ gia công mà thực chất đó là công ty đường hầm Lien Xô bán dịch vụ gia công titan cho phương tây, tức Liên Xô gia công các máy bay đó ^!^.

    Năm 1962 thế giới đứng trên bờ vực Khùng hoảng Cuba.

    Nhưng ít người biết đến một cuộc khủng hoảng tương tự năm 1972, được gọi là khủng hoảng ngầm. Mỹ đánh phá Việt Nam, bắn cháy một tầu hàng của Liên Xô trong cảng Việt Nam. Đối lại, Liên Xô cấp tốc điều một lượng lớn tầu ngầm tấn công đến Biển Nam Trung Hoa (Biển Đông). Quân Mỹ cũng điều cấp tốc một chuỗi các tầu sân bay và tầu ngầm. May mắn là chuộc chiến này kết thúc chóng vánh, Nixon bay đến Maxcơva đàm phán. Các sĩ quan tầu ngầm Xô-Mỹ đều đã viết hồi ký về chuyện này và các bác quân sử đã dịch so sánh
    http://www.vnmilitaryhistory.net/index.php/topic,19157.210.html


    Tuy nhiên, các bác quân sử và người Mỹ đều có đồng quan điểm, rằng các tầu ngầm Liên Xô đã bị Mỹ nắm chuôi !!! Điều này được các loại chó lợn nhân giống khắp trên các 4r cũng như các blog. Cũng những nhữngvấn đề khác về tầu ngầm sau này, mà đỉnh cao là ông Hòa được các bác quân sử dạyu rằng tầu ngầm dễ đóng, nên đã đóng tầu ngầm Trường Sa.


    Thật sự là, nếu quan sát căn cứ quân sự ở Vladivostok , thì nó quay ra một biển kín là biển Nhật Bản, chỉ có các eo biển rất hẹp thông ra ngoài, và các eo này được rải cáp dò tầu ngầm cũng như thường xuyên có tầu Mỹ-Nhật-Hàn tuần tiễu. Như chung ta đã biết, Liên Xô tuy có rất nhiều loại tầu ngầm nhưng số lượng tầu không nhiều, nên lấy số lượng đi theo dõi tầu Liên Xô thì không quá khó.

    Tất nhiên là không ai điên rồ đến mức đặt căn cứ tầu ngầm chiến lược ở Vladivostok . Thay vào đó, Vladivostok là nhà máy đóng tầu lớn đã đóng khá nhiều tầu ngầm lớn của Liên Xô và Nga.

    Chúng ta hầu hết đã biết, căn cứ chính của hạm đội Thái Bình Dương, đặc biệt tốt với tầu ngầm và các tầu khác, là căn cứ trên bán đảo Kamchatka, căn cứ Petropavlovsk-Kamchatsky. Phía đông của vịnh biển Petropavlovsk-Kamchatsky là thành phố dân sự, phía bắc là căn cứ không quân lớn với hệ thống hầm chứa máy bay tiêm kích lớn bậc nhất Nga ngày nay, bán đảo giữa vịnh phía bờ Tây là khu hầm ngầm kiên cố , sở chỉ huy hạm đội Thái Bình Dương, neo đâoj cạnh khu hầm đó là soái hạm của hạm đội, cxonf vịnh biển con phía Tây-Nam vịnh mẹ là căn cứ tầu ngầm. Từ đây, cửa vịnh lớn thông ra vùng nước sâu đại dương, các tầu nổi Liên Xô và Nga tuần tiễu dưới sự hỗ trợ của không quân mạnh, át vía tầu ngầm nước khác định bắt mối theo dõi.

    Thêm nữa, trong chiến dịch ngầm đến Việt Nam năm 1972, hồi ký các thủy thủy Liên Xô đều chỉ công bố chuyến đi của lớp tầu mang đạn có cánh 675. Lớp tầu này lạc hậu nhất Liên Xô lúc đó, lạm dụng mũi tầu thủy đã quá lạc hậu. Thêm nữa, đây lại là lớp tầu mang đạn có cánh, bản thân chúng đã không tinh vi như tầu tấn công ngư lôi do cấu tạo đạn có cánh lúc đó bóp méo cấu tạo tầu, và các đạn này của Liên Xô lúc đó cũng đã quá lạc hậu. Những tầu loại đó gào rống đi trong vùng biển Nam Trung Hoa hẹp và dầy đặc tầu nổi máy bay Mỹ là điều ngạc nhiên.




    Vậy thì các tầu ngầm lạc hậu từ Vladivostok về Việt Nam làm gì trong những ngày tháng nóng bỏng 1972 ?. À, việc đầu tiên để câu tầu ngầm Mỹ. Câu tầu ngầm Mỹ để làm gì ? việc đầu tiên là như 1979 với Trung Quốc. Đó là thông điệp: nếu anh đổ quân lên Bắc Việt thì bước qua xác tôi.

    Việc thứ hai được mô tả trong lịch sử máy bay Liên Xô. Trước trận đánh đầu tiên của MiG-17, gần tầu sân bay Mỹ nổi lên một tầu ngầm Liên Xô, nó lượn lờ rồi biến mất. Thực chất, trong suốt 8 năm chiến tranh và trước sau đó, các tầu ngầm và vệ tinh Liên Xô theo dõi chặt chẽ các căn cứ và tầu sân bay Mỹ. Nếu không thì quân ta báo động "máy bay địch cách Hà Nội xxx km".... bằng ****** của đảng ta và của bác đoàng. Bên cạnh các tầu ngầm còn có lực lượng đông đảo các tầu trinh sát mang cờ quân sự, và các tầu mang cờ tầu cá-tầu hàng.

    Lúc đó , Mỹ tập trung 6 tầu sân bay , trong đó ở tiền tiêu có 3-4 tầu. Liên Xô phải điều thêm tầu ngầm để theo dõi báo động sớm các tầu này. Thực chất, một phần các tầu ngầm Liên Xô đã được lệnh nghi binh, bộ lộ cho Mỹ trông thấy. Thậm chí lo Mỹ mất dấu vết các tầu này trong quá trình theo dõi từ Vladimirvostok, Liên Xô đã lệnh cho 2 tầu nổi lên phát tín hiệu ở Philippines, trong vùng dầy đặc tầu và máy bay Mỹ.

    "cuộc chiến tranh ngầm" suốt 196x diễn ra trong thế yếu của các tầu ngầm Liên Xô. Chỉ một số rất ít trong số đó được thử nghiệm những thiết bị mới, nhưng khung tầu và máy móc thì tất cả đều ồn ào. Tuy vậy, các nhà quân sự Nga đã khéo léo lèo lái được cuộc chiến tranh này.

    Trong các biện pháp mà người Mỹ rất ngạc nhiên, có biện pháp "Ivan điên". Các tầu ngầm Liên Xô thường xuyên lạng lách đổi hướng, góc nhỏ thì thường xuyên, góc lớn 90 độ diễn ra thậm chí là 1 lần / ngày. Đây là biện pháo có 2 chức năng. Một là nó né tránh vùng mù sornar sau tầu, cái này chúng ta sẽ nói sau. Hai là nó tạo độ lệch cường độ hạ âm để phát hiện hướng hạ âm, điều này cho phép các sornar lạc hậu và tầu ồn ào sử dụng được hạ âm trước thời đại, phát hiện các tầu Mỹ. Điều này cũng giống như người ta lắc đầu định hướng âm thanh vậy. Cái này chính là sensor tiếng vọng mà cái tầu ngầm cổ cày vai bừa Anh Quốc ngày nay mới mang, làm kéo dài vỏ tạo hình, tầu bầu ra và gồ ghề.




    Năm 1968 có hai tai nạn đáng ngờ. Ngày 8-3-1068 tầu Diesel mang đầu đạn chiến lược K-129 đắm, Liên Xô không tìm được vị trí đắm. Sau đó, năm 1974 Mỹ cố vớt tầu lên nhưng không thành công hoàn toàn. Sau này, khi mọi chuyện khui ra, Mỹ cũng không cung cấp các ảnh chup đáy biển cho Liên Xô. Cả hai chiếc K-129 và K-219 đắm đều có những bằng chứng rõ ràng về dính líu của Mỹ. Nhưng đó là sau này.

    Tuy nhiên, hơn hai tháng sau, cuối tháng 5 năm 1968 chiếc USS Scorpion (SSN-589) cũng đắm mất xác. Điều này làm dấy lên nghi ngờ rằng K-129 bị Mỹ bắn đắm lấy đầu đạn nghiên cứu, và USS Scorpion (SSN-589) bị trả đũa. Sau khi tìm được xác và nghiên cứu, USS Scorpion (SSN-589) bị bóp méo thảm hại đến mức vỏ tầu tụt vào theo chiều dọc, ép nổ lò hạt nhân làm gẫy đôi tầu. Người ta tìm thấy vụ nổ gây đắm như là trúng đạn, cũng như là phát nổ từ trong tầu.
    http://vk.com/video-13079539_163766861




    Vào năm 1967, thì bên Liên Xô đã có tầu tấn công 671 Ёрш=I ô r s (tên một loại cá, NATO Victor). Các tầu tấn công ngư lôi mới này ra đời trong thời kỳ Liên Xô liên tiếp có các Anchar, Lira, Plavnik. Chúng ta có lẽ rẽ qua các sensor của lớp Iors này chút.





    ===================











    =))=))=))=))=))=)):)):))>:):)" smilieid="27" class="inlineimg" border="0">:)" smilieid="27" class="inlineimg" border="0">>:):)" smilieid="27" class="inlineimg" border="0">:)" smilieid="27" class="inlineimg" border="0">[:D][:D]

    trong này có những con lợn, con nào cũng toàn danh ngôn chính họa đeo đầy mình. Thủ dâm ấy mà, nó là động tác trùm chăn tưởng tượng ra đủ các thứ hoàng tráng đẹp đẽ, hay tậu ***tpy đẹp đẽ hoành tráng về sung sướng.... Dân thủ dâm ko che kín chăn lọt một chút ánh sách sự thật vào là dị ứng giẫy đành đạch.

    Một trong những biểu hiện của lợn và chó là son phấn đầy mình, ăn nói như chính luận, bạn ạ. Vì vậy chính luận muốn khác lợn thì cứ thẳng tưng mà type thôi.



    ===========================





    =================

    =))=))=))=))=))

    Đo hướng là máy kinh vĩ = máy bàn đạc
    đo nghiêng (góc bằng) là máy thủy bình
    đo khoảng cách là đo xa lazer = "máy thước dây hiện đại hóa"

    cái máy toàn đạc là cộng các chức năng đó. =)). Còn việc tính suy ra khoảng cách mà không đo xa lazer bằng máy toàn đạc điện tử thì lại là chức năng máy tính của nó, dùng để xác định khoảng cách giữa các điểm không nhìn thấy. Máy toàn đạc đo xa lazer bằng gương phản xạ lại nguồn, tính theo vận tốc ánh sáng hoặc chính xác hơn thì dùng giao thoa.

    Đo hướng là kính ngắm thì mình đã nói rồi, sau này có ống kính để phóng to hiệu chỉnh.

    Còn chức năng máy tính của máy toàn đạc hiện dại thay thế cho trải giấy trên mặt bàn đạc tính tỷ lệ, nên máy toàn đạc mới là cái bàn đạc hiện đại hóa.

    ===============









    đúng rồi, nhưng với một bộ thước này thì người ta đo ngược lại
    [​IMG]


    Người ta sẽ chồng cái thước đo độ trên lên thước hoa tiêu, rồi đẩy cạnh song song của thước hoa tiêu, đo được hướng của hai đoạn thằng cách xa nhau. Ví dụ, điều này dùng để đo góc của hướng tầu đi so với hướng các cột mốc như đèn biển và phao, hay ngược lại.

    Trong tiếng Nga, "Линейка параллельная" là thước song song, còn "Линейка штурманская" là thước hoa tiêu, đồng nghĩa.
    =================



    ================


    cái này đúng rồi. Nhưng chuyển động biến thành nhiệt là thông qua âm thanh. Sau khi âm thanh lan rộng thì toàn bộ năng lượng sẽ biến thành nhiệt. Các sóng hạ âm truyền đi xa, các sóng dải nghe thấy đi vài km, còn các siêu cao tần thì biến thành nhiệt ở ngay vỏ tầu.

    Tỷ lệ năng lượng sóng cao tần truyền đi thấp không nhiều.

    Tuy nhiên, các âm thanh tần số thấp cũng không phải chỉ lan xa và phản xạ ôm sát mặt biển, mà các hiện tượng vật lý trong lòng biển có những hố bẫy rất thú vị, giam được năng lượng đó. Mình sẽ nói trong các sensor của 671. Bây giờ ngủ đã.

    USS Thresher (SSN-593) đắm năm 1963 bởi một cơ chế vật lý hay được nói bởi các thành ngữ khác nhau trong các ngôn ngữ khác nhau, gần với "nước chảy chỗ trũng". Ví dụ 2 đèn bán dẫn đặt song song, thì nêu như một bên vì lý do nào dó nó hơi nóng lên như có nắng chẳng hạn, thì điện trở giảm, dòng cao, lại làm nó nóng lên, và lặp lại chu trình , nó nổ tung.

    Trong tầu ngầm. Chúng ta đã biết tầu ngầm có hệ thống điều khiển cân bằng hình chữ I hoặc hình chữ X. Tối thiểu là hệ thống chữ I, gồm hai khoang nước dằn hai đầu. Tầu không được quá dài, vì khi quá dài thì giống như cân bằng ngang cái đũa treo khá khó. Nhưng tầu lại không thể quá ngắn đến mức hình cầu như Mir, vì tầu chiến cần giảm âm.

    Hai khoang nước dằn hai đầu đó điều khiển thủ công rất khó, nên trong ww2 thì các u-boot chưa thể làm quá dài thuôn và bỏ vỏ tạo hình kiểu tầu nổi. Khi chìm, ban đầu chưa thể xác định được trọng tâm của tầu, thì để an toàn phải có vận tốc nhất định để có lực lái các cánh lái thủy-khí động, nhờ đó cân bằng tầu. Sau đó sau một hồi dồn lên dồn xuống, lái tầu đã có thể cân nhắc được trọng tâm và tầu đứng yên không quá nghiêng dọc trong lòng biển.

    Các tầu ngầm mạnh mẽ ngày nay đều có các đường ống lái hướng dòng phụt bằng bơm để điều chỉnh thế cân bằng của tầu khi tầu đứng yên, các luồng này yếu, nhưng đủ để phục cho các khoang nước dằn, mình đã ví dụ như Anchar. Các tầu thủy nổi ngày nay cũng có cánh quạt lái hướng trước để giảm tiền thuê tầu kéo vào càng.

    Chúng ta đã biết, các khoang nước dằn phải thông áp, nó nằm ngoài vỏ chịu áp, trong vỏ tạo hình. Vỏ chịu áp và vỏ tạo hình có khoảng cách lớn ở đầu và đuôi, nhờ vậy vỏ tạo hình được thon mà vỏ chịu áp được cầu, đều có lợi. Ở hai khoảng đó người ta đặt các khoang nước dằn chủ yếu.

    Bây giờ, giả sử như có một đầu tầu chìm xuống vì một lý do nào đó, như sóng đánh. Thì khoang nước dằn vốn phải thông áp, ở đầu chìm xuống áp suất cao lên, nước vào nhiều hơn, nó lại chìm hơn... Và chúng ta biết rằng, việc cân bằng tự nhiên cho tầu thực hiện bằng cách kéo trọng tâm xuống gần đáy tầu. Nhưng nếu phản ứng nước chảy chỗ trúng đủ mạnh, khí nén làm việc không đủ mạnh, thì tầu đắm.


    USS Thresher (SSN-593) bị đắm vì nước chảy chỗ trũng. Tầu ra khơi thử nghiệm sau khi sửa chữa, cùng với một tầu cứu hộ, nhưng tầu cứu hộ chỉ có thể thông báo tình hình về mà không cứu được ai. Khi tầu ngầm nổi lên , khoang nước dằn ở sau tầu bị tắc (về sau điều tra giải thích do đóng băng), đầu mũi nổi lên cao, các khoang khí nén không phản ứng kịp với hiệu ứng nước chảy chỗ trũng, đuôi tầu chìm nhanh đến mức hoàn toàn mất điều khiển cân bằng. Cũng vì đắm như thế nên USS Thresher (SSN-593) không mất xác như Scorpion.

    Có rất nhiều vấn đề với tầu ngầm, mà người ta sợ nhất là bơi từ sông ra biển, trong khoang nước dằn là nước ngọt, đóng băng trong nước mặn =)). Cũng may là chưa thằng nào ngu đến thế. USS Thresher (SSN-593) được cho là đóng băng do khí nén hóa lạnh khi giảm áp.... nói chung ko ai bị sao sau vụ này.



    Tuy nhiên, cái sensor của 671 thì nó dùng cái nước chảy chỗ trũng khác.
  3. xitien

    xitien Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    24/09/2010
    Bài viết:
    14
    Đã được thích:
    0
  4. kien0989

    kien0989 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    04/02/2006
    Bài viết:
    4.157
    Đã được thích:
    1.672
    Toàn đạc (total station) là một máy kinh vĩ điện tử gắn thêm bộ đo xa và máy tính. Tính tọa độ là nó chỉ không bắt người tính, mà người chỉ set điểm chuẩn (tọa độ của máy) và hướng Bắc chuẩn (hoặc tọa độ chuẩn của điểm khác và ngắm vào đó, máy tự tính hướng), sau đó nó mới có thể tính các tọa độ điểm gương khác.

    Gương phản xạ gắn trên mia (prism) thì ta có mia gương, cái gương này là luneburg, giúp bộ đo xa đo được chính xác và giá vẫn rẻ. Mia gương có hằng số gương (prism constant) là thứ mà không báo chính xác với máy thì nó đo sai toét, đấy là khoảng cách giữa tiêu điểm gương và đường trục chân mia.

    Với các trắc đạc viên kỳ cựu, sử dụng máy kinh vĩ cùng với 1 cái máy tính kỹ thuật luôn cho kết quả chuẩn tương đương với máy toàn đạc, chưa kể sai sót rất ít. Toàn đạc với các trắc đạc viên trung bình thì sai số thường khoảng 1cm với các phép đo dưới 50m, lý do có nhiều, cơ bản là vì chả biết gì về hình học cơ bản. Các trắc đạc viên xịn biết cách chỉnh máy, cách đo lặp, đo đảo vòng.... để khử sai số mà cái toàn đạc không tự làm được.

    Như thế nói 2 máy khác nhau là đúng và sai. Đúng là nó thực sự khác nhau về tính năng, hình thể. Sai là vì về bản chất ruột của nó chả khác gì nhau, nhưng thay vì người đọc và bấm máy tính, nó có sẵn CPu và chương trình để tính được luôn, nhưng cách đo sai thì kết quả vẫn sai như thường, vì CPU nó không biết nghĩ như người.

    Có trường hợp mình đã gặp là dùng máy toàn đạc Sokkia Set 5F hàng xịn đặt điểm xong rồi, nhờ cái máy tính tay mà một ông già khăng khăng bảo sai mất 3 phân, mấy chú đạc viên cãi bằng được "đồ toàn đạc chấm có bao giờ sai", sau dùng máy kinh vĩ cổ của Đức, sai số tới 5" (5 giây góc) giao hội lại, bên toàn đạc sai thật :D Lý do phát hiện sai là vì anh chàng trưởng nhóm tư vấn rất là xì tin, tin khoa học hiện đại đo xa hồng ngoại, CPU embed này nọ nên bảo cứ mốc toàn đạc mà làm, sau lại phải đục ra vì cái cấu kiện thép lắp mãi không chịu vào, cũng thiếu đúng 3 phân như thầy cầm cái Casio Fx 95 đã phán!
  5. huyphuc_ttvnol

    huyphuc_ttvnol Thành viên gắn bó với ttvnol.com Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    30/05/2012
    Bài viết:
    1.490
    Đã được thích:
    1.047


    Đúng rồi. Thằng kia được làm trường tư vấn nên sủa khỏe. Nó dùng máy tự động quen rồi nên quên mất các nguyên lý cơ bản, đặt máy ở thế đo phát triển sai mạnh.

    Trước đây, bàn đạc dùng để vẽ bản đồ trực tiếp, các điểm trên bản đồ được đo hướng, tính tỷ lệ, và đánh dấu trực tiếp lên tà giấy kẹp ở bàn đạc. Phương pháp này rất tường minh nên được chọn để làm giáp cụ trực quan dạy sinh viên ngày đầu vác mia, trên cái giáo trình video đó.

    Nhưng sau này khi bắt đầu có máy tính thì người ta không vẽ bản đồ trực tiếp. Người ta dùng máy kinh vĩ ghi chép lại các đo hướng của toàn lưới, rồi đo xa một cạnh trong lưới thật là chính xác, sau đó nhét tất cả vào máy tính. Máy tính sẽ xóc đi xóc lại các số liệu đó trong một vài ngày, gọi là bình sai, ra bản đồ. Sau khi đem ra bản đồ thì tháy các góc đo lưới lệch đi so với số liệu ban đầu.

    Để hiểu về phép bình sai có ví dụ đơn giản thế này. Có một đoạn thằng lý tường AC, giữa hai đầu A và C có một điểm B. Bây giờ thực hiện ba phép đo dài, là AC, AB và BC. Sau đó cộng AB và BC, thì không bao giờ thấy chúng bằng AC. Đó là sai số, tất nhiên rồi. Bài toán bình sai sẽ căn cứ vào đồ thị sai số của các phép đo để dàn các kết quả đo công bằng nhất.

    Bài toán bình sai toàn phần là phép nhân ma trận Galois. Nhưng cái Kiên nói lại khác. Người đo lão luyện sẽ không đặt máy theo một số thế phát triển sai. Ví dụ cần đo xa một cạnh không nhìn thẳng được qua phép đo tam giác, thì người đo xa giỏi sẽ không dùng góc nhọn của tam giác mà nhìn cạnh phải đo trên.


    Còn cái máy toàn đạc thì bên trong nó có máy tính, nó suy ra các điểm khác. Tuy nhiên, các đo thủ không biết cái bài toán suy diễn và bình sai bên trong nó chạy kiểu gì. Còn ở trên máy tính desktop , thì người ta dễ dàng chọn cả mớ, khi cần tính xa hai điểm ko nhìn thấy, thì người ta sẽ chọn-bỏ cả mớ các phép đo ko cần có thể làm loãng phép bình sai , chọn bằng mắt thường tường minh, và chọn cả mớ thuật giải bình sai.

    Còn ông đo thủ cổ truyền kia, thì ông ta sẽ ít phải dùng đến máy tính có con chuột bàn phím desktop, vì trong một địa hình nhỏ thì ông ta sẽ thông minh để chọn các điểm đo thuận lợi, sai số ít nhân lên nhất.



    Nhắc đến trắc đạc, mình lại nhớ đến một việc. Có 4 anh chuyên gia trẻ. Một anh nhăn nhó làm 3-4 ngày cái thuật giải hỏi một điểm có ở trong một đa giác hay không. Ba anh kia cười khẩy anh này dốt nát.

    Hôm đầu tiên các anh họp bàn, thì thật ra cả ba anh kia đều không đưa được ra giải thuật nào, chỉ có mỗi anh dốt nát ấy đưa ra giải thuật, mà ai cũng biết. Vẽ một nửa đường thẳng từ điểm đó đến vô tận và hỏi xem từng cạnh một của đa giác có cắt đường đó không, tổng số lần cắt là bao nhiêu, nếu lẻ thì ở trong mà chẵn thì ở ngoài.

    Đến hôm sau lại họp, anh dốt này này than thở vẫn đang dò bug vì function quá dài. Các anh kia cười khẩy lôi ra hàng mớ thuật giải, trong đó có những thuật giải siêu ngắn gọn chỉ có một dòng =)). Rồi sau thúc vào đít, chàng dốt này vẫn chưa dò được hết bug.




    Sau này, mình gặp một trường hợp nữa. Lúc này có máy tính rồi. Một bạn bảo là viết một function ngắn để tính phần tử ăng ten vệ tinh. Mình bảo dek cần, vì cái function đó dài lắm, và người ta làm cả site trực quan trên nét rồi. Lại một lần nữa mình nhìn thấy thuật giải ngắn một mẩu, một dòng. Đúng kiểu các cháu nhỏ của các trường giáo dục kiểu Mỹ thi nhau xem ai viết thuật giải ngắn hơn, các trường đó rất ham hố luyện các cháu làm chó, à, quên, rèn luyện tính tự tin, bằng cách cho các cháu tập làm bác học. Mình cũng dek cần kiểm tra xem, mình chỉ hỏi vài câu ngắn. "kết quả tính này ra góc hướng đo bằng la bàn" - "đúng" - "hướng bắc la bàn trùng với hướng bắc hệ tọa độ kinh vĩ" - "đúng"... Ờ, thằng bé giỏi, còn biết suy nghĩ chứ không phải ctrl-c-v không. Phì ra cười, vì thế mà mình thương hại giảng cho nó rằng, hướng bắc kinh ví và hướng bắc la bàn (bắc là hướng 0 độ) lệch nhau có nơi đến 6 độ, nằm ngoài khoảng chỉnh ăng ten 2 độ, không có cách gì tính ra độ lệch đó trừ lưu thành bảng, cứ mỗi điểm cách nhau độ 100 km thì cái bảng đó lưu cho riêng Việt Nam cũng không phải là một dòng.



    bất cứ việc gì cũng phải nhìn trước ngó sau như vậy. Cái này không phải là tính chất của một đo thủ già. Mà đó là phân biệt tính chất của đám chó sủa lấy được.

    Ở trên, để làm được bài toán đó rất khó. Mỗi cạnh của một đa giác có thể ứng xử với nửa đường thẳng tưởng tượng theo một số cách. Đó là cắt chéo, không quan hệ gì, và trùng đầu mút. Với việc trùng đầu mút tức nửa đường thẳng đi qua góc đầu hai cạnh, thì cái con số chẵn lẻ kia thêm một, chẵn biến thành lẻ mà lẻ biến thành chẵn.

    Chưa hết, để giải được thuật giải đúng, thì không dùng được số chấm phẩy động gần đúng, phải đưa ra số chấm phải tính 4 byte,4byte . Và cuối cùng là, chuyển từ số chấm phẩy động sang số đúng thì có trường hợp gần đúng, xuất hiện trường hợp nửa đường thẳng tiến đến khoảng gần đúng, phải luận để xác định điểm đó trong hoặc ngoài, hoặc vừa ở trong lại vừa ở ngoài....

    Đến đấy thì chắc các bạn đã hiểu cái function thể hiện cái thuật giải ấy nó to tướng thế nào, không thể là 1 dòng như các cháu bé hỏi Google.
  6. kien0989

    kien0989 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    04/02/2006
    Bài viết:
    4.157
    Đã được thích:
    1.672
    Thực ra trong máy toàn đạc nó không bình sai gì hết bác ạ, nó chỉ ghi dữ liệu đo thô thôi. Các máy hiện đại hơn thì nó cho phép người đo ghi lại số đo thô, hoặc giao cho nó chuyển luôn sang tọa độ để lưu cho đỡ tốn bộ nhớ. Bình sai là ở phần mềm xử lý (thường bán kèm máy) bác ạ.

    Nói về sự hiểu biết cơ bản hay không có thể nhìn ngay vào cách kiểm tra dụng cụ là biết. Các đo thủ bây giờ không bao giờ (ít ra là em chưa thấy) có công tác kiểm máy trước khi đo như ông cụ kia. Đệ ông ấy mà đặt máy cân máy xong, ông ấy làm 3 việc: 1 là kiểm lại số liệu tọa độ đã nhập cho điểm đặt máy và điểm chuẩn (đọc 2 lần, 1 lần đọc xuôi, 1 lần đọc ngược), 2 là ông ấy xoay máy ngắm mốc nào đó, rồi đảo vòng xoay ngược lại về đúng điểm đó, đọc số đo, 3 là ông ấy bắt mang tất cả các mia gương dùng cho lần đo đặt ở chân máy và kiểm tra hằng số gương. Khốn khổ cho chú bé lau tau nào lại đi mượn gương đội bạn về để đo cho nhanh :D

    Sau đó, ông ấy gọi chú Kiên đi uống rượu :D (mấy trò bấm nút chúng nó làm nhanh hơn mình, kệ nó làm đi mày =)) )

    Lần sai 3 phân kia đúng như bác đoán là điểm chuẩn GPS của dự án bị khuất, phải dẫn qua trạm tạm. Ông già không dùng trạm của bên tư vấn, mà dùng trạm của ông ấy tiện tay set đâu đó, chỉ hỏi giá trị đo của mấy chú kia rồi bấm chơi, phán bậy thôi, chứ không phải là công việc trong trách nhiệm của ông ấy! Vấn đề duy nhất hấp dẫn ông ấy ở cái cấu kiện đó là cái máy Set 5F kia (hồi đó đắt hơn con Camry mới nhập khẩu của sếp, hắn uống rượu xong hay ra đờ đẫn ngó máy và mơ)

    Quay lại vấn đề tàu ngầm, tỷ lệ nước dằn đối với Tây có thể không quan trọng vì tàu không lặn sâu. Tàu lặn càng sâu bắt buộc phải có tỷ lệ nước dằn càng lớn!
  7. huyphuc_ttvnol

    huyphuc_ttvnol Thành viên gắn bó với ttvnol.com Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    30/05/2012
    Bài viết:
    1.490
    Đã được thích:
    1.047
    đúng rồi. Tính nhanh ở hiện trường thì toàn đạc nó có tam giác gì đâu, nó không khác gì cái bàn đạc cổ dại nhưng có thêm những ống kính, lazer, cpu.... Các anh bấm nút quen rồi mà quên đi những cái động tác cơ sở như chân gương chân máy....


    =======


    Cái kính ngắm của xe tăng hay tầu ngầm hiện đại bây giờ cũng như cái máy toàn đạc. Mình nhắc lại một chút về các mốc phát triển ống kính.

    T-34 phải dừng lại cả để ngắm và để bắn.
    T-54 và T-62 có súng ổn định tầm nhưng không ổn hướng. Về kính ngắm, chúng hoàn thiện dần ngắm khi đang chạy. Điều này giúp được xe chạy thằng vào mục tiêu thì vẫn vừa đi vừa bắn.
    T-64 bắt đầu vừa đi vừa ngắm, cũng như vừa đi vừa bắn ổn cả tầm hướng.

    Đến T-90 cũng vẫn là ống kính vừa đi xóc vừa ngắm, nhưng là sử dụng camera. b


    Sự khác biệt của hai thế hệ ống kính trên T-54/55/62 và T-/64 là.
    T-54/55/62 sử dụng gương bù nghiêng đặt trên con lắc. Cái gương này giống như gương của máy thủy bình.
    T-64 cũng là gương nhưng điều khiển điện tử tham chiếu con quay hồi chuyển chung của xe.

    Đến T-90, thì cũng là tham chiếu con quay hồi chuyển. Nhưng không dùng gương, hình ảnh được chế biến bằng phần mềm, máy tính sẽ dịch-vặn hình ảnh trước khi hiện thị lên monitor, đảm bảo xạ thủ luôn có con số chính xác về các số đo hướng-nghiêng-tầm xa, và các số liệu đó ở dạng dữ liệu số tự động truyền đến các thiết bị khác trong xe , như súng.

    Việc sử dụng kiểu T-90 dễ gia công cơ khí hơn nhiều, con quay hồi chuyển hồi này dễ mua... làm rất nhiều hãng nhảy lên bán các hợp đồng tái chế xe cũ. Những kiểu đặc trưng giun sán giòi bọ chuyên chế ****** hàn xẻng do thái đang tấp nập xông đến đánh chiếm nước ta. Gương tề liếp là pháo hàn bắn sai 300 mét mục tiêu cố định đo thỏa thích thời bình cách 11 km. Còn Ấn Độ có quan tài bay MiG-21 khi mua đồ do thái.

    Cái cách dùng máy tính bóp màn hình camera thì ai cũng nghĩ đến, nhưng kết hợp nó với máy đo xa lazer và súng.... thì không phải hãng thiết kế nào cũng làm đúng các giá, mà đã sai phần cứng thì phần mềm có lên đến giời .


    Kính tiềm vọng ngày nay cuả tầu ngầm cũng như vậy. Nó là một ống kính toàn cảnh ứu tiên hướng ngắm, được nắn lại hình ảnh bằng máy tính tham chiếu con quay hồi chuyển. Ống kính toàn cảnh là ống kính ghép từ nhiều camera cho phép nhìn cùng lúc nửa bán cầu trên mặt biển. Khác với thiết giáp hạm, tầu ngầm không dùng kính đo xa quang học lớn, vì tháp pháo của tầu ngầm nhỏ. Ngày nay nhu cầu đo xa của tầu ngầm rất thấp, nếu có dùng thì dùng radar. Nhưng các khí tài khác yêu cầu sử dụng radar rất nhiều, đặc biệt là để chống lại máy bay sắn ngầm.

    Trong thực tế chiến dịch ngầm từ mùa hè 1972 đến đầu năm 1973 ở Biển Nam Trung Hoa (tên quốc tế của Biển Đông), đã cho thấy sự vô dụng của các máy bay chống ngầm P-3 Orion chứ không cần phải đến nay, và trò rửa tiền của máy bay đó.

    Thực tế lúc đó Liên Xô cấp tốc cử một đội lớn các tầu bắn đạn có cánh , loại tầu chuyên đánh tầu nổi, di chuyển về vùng chiến sự. Liên Xô chọn các tầu ngầm rất ồn ào, xuất phát từ Vladivostok là cảng nằm trong biển kín, khi tầu vừa thò ra là đã bị chộp. Và sự thật là cái càng này chuyên có nhiệm vụ đó-nhiệm vụ gào, trong khi căn cứ chính của hạm đội là Petropavlovsk-Kamchatsky. Mỹ có số lượng tầu ngầm đông hơn dễ dàng đi theo dõi từng tầu Liên Xô.

    Đây là chiến dịch có hai chức năng. Một là gào rống ồn ào như ở Địa Trung Hải hôm nay: chúng mày đánh bom thì được nhưng đổ quân lên Bắc Việt thì bước qua xác tao, cũng như năm 1979. Hai là, tăng cuồng các tầu ngầm hoạt động công khai theo dõi các tầu sân bay , cùng với các tầu ngụy trang thành tầu cá tầu hàng khác, để báo độ sớm cho Bắc Việt. Vì vậy các nhà quân sự Liên Xô thậm chí đã chui sâu vào gần căn cứ Mỹ nổi lên phát tín hiệu mạnh.

    Trên tầu ngầm 971 có 4 ăng ten phát hiện các máy bay săn ngầm Mỹ trước khi các máy bay này thấy nó. Đằng sau radar MRKP-58 Radian là 3 cái ăng ten vô hướng cho các chức năng khác nhau, đủ các bước sóng từ VHF đến băng X.

    Trong hầu hết các trường hợp , loại tầu ngầm ồn ào cổ lỗ 675 của Liên Xô đều phát hiện ra P-3 Orion trước. Điều đáng chú ý là, lúc này đi theo dõi chiếc tầu ngầm Liên Xô là tầu ngầm thế hệ tốt hơn của Mỹ (đáng khóc là cùng thời, đây là thời Krushov). Chiếc tầu ngầm Mỹ USS Guardfish SSN-612 thuộc lớp Permit-class (Thresher-class đã nói trên, nhưng chiếc đầu tiên USS Thresher SSN-593 đắm sau 2 năm phục vụ nên để cầu may chuyển tên lớp sang chiếc thứ 2, USS Permit SSN-594) . Cái tầu ngầm Liên Xô trong chuyện này vẫn dùng mũi tầu thủy. Chiếc Guardfish thoải mái đi theo dõi chiếc tầu ngầm Liên Xô, P-3 Orion từ Nhật-Đài-Philippines liên tục đến vùng chiếc Guardfish chỉ điểm.

    P-3 Orion bay rất thấp để dò từ trường, nhưng đều không thể phát hiện. Cần nhắc là cái tầu cổ lỗ mang mũi tầu thủy đó không dùng thép chống nhiễm từ. Con tầu trong hồi ký này, được xuất bản để soi với hồi ký cùng chuyến bên Mỹ, là K-184, nhận nhiệm vụ năm 1964. Nó thuộc lớp 675, lớp cuối cung của các tầu ngầm thế hệ đầu mà Liên Xô lạm dụng trong 196x thời Khrushov, đó là các lớp проект 651Э • проект 659 • проект 675.
    [​IMG]






    Radar top pair MRKP-58 Radian МРКП-58 Радиан trên 671
    МРКП-58 "Радиан":
    [​IMG]
    [​IMG]


    [​IMG]
  8. matkinhbu

    matkinhbu Thành viên gắn bó với ttvnol.com Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    31/07/2002
    Bài viết:
    1.602
    Đã được thích:
    716
    Tin P3C không phát hiện được tàu ngầm Nga sẽ gây hoang mang dư luận đó bác Phúc.

    Bác Phúc dự đoán luôn liệu P3C có phát hiện được tàu ngầm Tung Của tự đóng không. Chứ dân tình bắt đầu hoảng lên rồi kìa
  9. kuyomuko

    kuyomuko Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    21/04/2011
    Bài viết:
    19.957
    Đã được thích:
    29.038
    Nói chung, các đo thủ bi giờ nói bình sai là chuyện quá xa xỉ đối với họ. Phần mềm theo máy bình sai hoàn toàn tự động chứ không có thao tác bình sai trên ấy. Đo thủ chỉ bấm, ghi, đấu máy vào computer, chép file ra thì đã là file AutoCAD rồi. Toạ độ trên ấy là 3D lun. Phủ mặt lưới là ra bình đồ...không cần biết chi thêm vẫn làm được. Oái oăm là cái trục Z trong máy bao giờ chiều + cũng ngược với AutoCAD nên nhiều chú cứ lật úp bình đồ mà không hiểu tại sao[:D].

    À...có mấy cái máy của Olympus nó bắt kiểm tra đồng bộ gương lược thước tấc như 1 bước trước khi bắt đầu 1 project mới đấy. Nhà sản xuất nó đề phòng đo thủ dốt giải tích số...
  10. huyphuc_ttvnol

    huyphuc_ttvnol Thành viên gắn bó với ttvnol.com Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    30/05/2012
    Bài viết:
    1.490
    Đã được thích:
    1.047
    "Quay lại vấn đề tàu ngầm, tỷ lệ nước dằn đối với Tây có thể không quan trọng vì tàu không lặn sâu. Tàu lặn càng sâu bắt buộc phải có tỷ lệ nước dằn càng lớn! "

    Điều đó có ảnh hưởng đến tỷ lệ nước dằn. Nhưng nói chung nước dằn nhỏ thì rẻ đi nhiều, do nước dằn tốn thêm không gian khí nén đẩy nó ra, công suất máy nén khí.

    Có thể xem lớp Astute mới nhất của Anh. "sàn boong cao vì ít nước dằn" chỉ là một phần, một phần là "sàn bong cao nên cần ít nước dằn". Vì Astute sử dụng BGM-109 Tomahawk, phiên bản trên tầu ngầm quá dài, nên đẩy các giếng phóng cao lên. Điều này là vô lý về quân sự vì Astute là tầu ngầm tấn công, cần phải rất êm chứ không gồ ghề cổ trâu cổ bò như thế.

    Astute có cả hai thứ để ảnh hướng đến dáng tầu. Thêm cái mũi vỏ tạo hình quá dài đến hơn 2 lần chiều dài ống lôi. Trong khi các tầu ngầm khác giữ khoảng này ở mức dưới 1 hay 1 lần ống lôi, một phần ống lôi có thể ngập vào trong vỏ chịu áp lực khá dài, vì miệng sau ống lôi nằm trong đó để nạp đạn. Điều này kéo dài tầu ra và khoang sau không thể nào quá thon nữa.


    Tất cả những điều này có từ một nguyên lý thiết kế mà bản thân nó đã quái thai. Anh Quốc không muốn tự chủ đạn dược theo chiến lược từ WW2, nhưng thiết kế vũ khí của Mỹ quá ngu xuẩn không nhá nổi và đắt trên trời. Ngày nay, Mỹ hiện đại hóa các Ohio để bắn BGM-109 Tomahawk. Chúng ta biết rằng, vé tầu ngầm cực kỳ đắt, BGM-109 Tomahawk chỉ chuyên đi bắn nạt trẻ con vì có tốc độ quá thấp, như thế, để bắn BGM-109 Tomahawk thì chỉ cần cái tầu Vinashin là đủ.


    ========




    Vấn đề Kiên nói là đúng, mình đã ví dụ con USS Thresher SSN-593 đắm năm 1963 bởi "nước chảy chỗ trũng". Toàn cảnh vụ đắm được quan sát bởi một chiếc tầu cứu hộ đi bên cạnh, nhưng không cứu được ai.

    Khoang nước dằn sau kẹt, mũi nổi lên, áp suất nước đuôi tăng lên nén khí lại, làm đuôi tiếp tục chìm xuống nhanh hơn. Nếu như các khoang nước và máy đẩy diều khiển được mạnh mẽ thì không xảy ra tai nạn này.
    [​IMG]





    Trong lòng biển, tầu ít sử dụng đến khí nén , thay vào đó tầu hầu như chỉ bơm nước từ khoang này sang khoang kia là nhiều. Tuy nhiên cũng không hoàn toàn không dùng. Dự trữ khí nén trong chuyến lặn dài là không dễ.

    Trong khi đó, cũng không dễ thoát hiểm khi có sự cố như trên. Khi tầu mất cân bằng trước sau, rơi vào trạng thái "nước chảy chỗ trũng", thì cần huy động hết khả năng của tầu để thoát, trong đó khí nén cho khả năng cân bằng lại tầu nhanh nhất.

    Tuy nhiên, có nhiều lớp tầu không được phép đứng yên khi lặn, còn các lớp tầu khác đều có chế độ trồi lên rất nhanh bằng cac sluwcj thủy-khí động. Ví dụ như Plavnik và Anchar chúng ta đã nói đến có các ống lái hướng dòng phụt đẩy bằng cánh quạt bơm, giúp tầu cân bằng các hướng nhanh chóng.

    Đơn giản nhất, khi có sự cố, thì tầu dùng các cánh lái thủy-khí động ngoi lên bằng lực nâng của các cánh này và chân vịt. Động tác này phi cả tầu lên mặt nước, nước bắn tung tóe, hạ âm phát ra ầm ỹ như sấm truyền.


    Tầu càng lặn sâu, thì nguy cơ xảy ra các sự có trên càng cao, giải quyết nó càng cần bơm đi bơm lại nhiều nước, và càng sâu thì mỗi lít nước càng cần nhiều năng lượng nén khí. Khí nén và bơm nước chạy bằng tuốc bin phụ, thường là tận dụng áp thấp đã qua tuốc bin chính khi tầu chạy, hóa đổi sang đường riêng khí tầu dừng, tuốc bin phụ chỉ kéo máy phát, nạp ắc quy và chạy các máy khác như máy bơm, máy nén khí.... Việc tăng tỷ số các máy phụ làm tầu rất cồng kềnh.

    Vì vậy, bớt được nước dằn, độ sâu, thì bớt được rất nhiều không gian trong tầu để dùng các máy móc lởm vũ khí đểu.

    Thêm nữa, nước dằn chủ yếu đặt ở hai đầu tầu, thêm một khoang giữa dọc đáy tầu hoặc thêm hẳn một khoang đai quanh trọng tâm tầu. Nhưng khí nén chứa khá khó. Đặt chai khí ở gầm sàn boong thì dễ hơn nhiều là uốn các chai chống thấm khí luồn vào giữa hai lớp vỏ chịu lực. Tuy vậy, hầu hết các tầu ngầm dù lởm vẫn dùng cách nhét khí giữa hai lớp vỏ chịu lực. Để an toàn thì chúng nhét vào đó khí áp thấp, bù thêm các chai khí áp cao đặt dưới sàn boong. Vấn đề là càng nhét được khí nén vào vỏ tầu nhiều thì càng gọn thon, hay càng chứa được nhiều khí nén, càng đẩy được nhiều nước dằn.

    Mir thì có mỗi lớp vỏ chịu lực . =)) . Đuôi đằng sau Mir và hai bên sườn có thêm các bình khí nén hình cầu và các khoang nước dằn khác để cân bằng.

    Tầu ngầm chiến đấu thường thì không nổi lên bằng nước dằn, trừ trường hợp khẩn cấp. Sau khi lặn thì mất khá nhiều công bơm đi bơm về, tầu sẽ cân bằng với tỷ khối chung xấp xỉ nước biển. Hầu như tầu điều khiển độ sâu bằng các lực thủy động, kể cả các cánh lái bằng vận tốc và bằng bơm lái hướng phụt. Khi nổi lên thông thường thì tầu ngầm chiến đấu bao giờ cũng thò các ăng ten và kính lên trước, nhìn trước ngó sau, sau đó nó mới xả nước dằn ra bằng khí nén để trồi lên hẳn. Chính vì thế, các tầu thiếu bơm lái hướng dòng phụt sẽ phải di chuyển để nổi lên, di chuyển mới có lực lái các cánh lái thủy động. Điều này khác với Mir. Mir trồi lên như máy bay theo đường xoáy trôn ốc phi thẳng lên mặt biển.

    Chính vì thế, việc tăng dự trữ nước dằn, khí nén... khi thiết kế tầu dễ được bỏ qua.

    USS Thresher SSN-593 bị làm sao thì chỉ là kết quả điều tra. Thật khó có thể tin tầu bị tai nạn như vậy. Rất có thể các nguyên nhân khác đã làm tầu hỏng. Đây là chuyến ra biển thử nghiệm sau sửa chữa. Mũi tầu bị thủng lỗ lớn được cho là bị bóp sau khi chìm. Cả hai tầu Thresher và Scorpion đều gặp các sự cố mỏi kết cấu.

    Thresher được cho là kết hợp cả hai sự cố. Ban đầu , tầu vỡ kết cấu, ngập nước, lò dừng, mất lực đẩy. Nhưng sau đó khi nổi lên khẩn cấp thì đóng băng nói trên. Khi từ buồng khí nén ra, thì hơi nước ẩm trong khí nén đóng băng , điều này dẫn đến những khó khăn không nhỏ khi tăng áp suất dự trữ khí nén.

    Tóm lại là về sau Mỹ không dám lặn sâu đi nhanh nữa.


    ===========




    ===========


    À, Mỹ nó đốt carbon gấp 15 lần Việt nam, nhưng Việt nam mua cối xay gió của Mỹ về bù lỗ để giảm thải carbon. Cối gió đó đắt gấp đôi cối Tầu Khựa làm thô lắp đồ châu Âu.

    Vậy thì Việt nam mua P-3 Orion về xóc lọ là chuyện thường.=)).


    Tầu ngầm trung quốc có nhiều loại, và nói chung toàn bộ các cấu tạo P-3 chỉ là ******.



    Như đã nói trên, chiếc K-184 tuy là mới đóng (lúc đó đi lính được 8 năm), nhưng cấu tạo cực kỳ cổ, ồn, vẫn dùng mũi tầu thủy. Tuy nhiene nó phát hiện ra P-3 trước vì nó mang các máy dò, các máy này nhỏ, nên thời Krushov có thể dễ lắp trên các cấu tạo tầu cổ. Tất cả các lần phát hiện được máy bay chống ngầm đều dùng radar. Nhưng hầu hết là phát hiện từ rất xa bằng ăng ten thụ động.

    Đề dò từ trường như các chó dại hay sủa, thì P-3 phải bay rất thấp cách mặt biển 100 mét và chỉ dò được tầu ở tầm kính tiềm vọng đến 30 mét, nên cái này là ****** hoàn toàn. Như thế, với cái ô vương mỗi chiều 10 km là 100 km2, thì cái máy bay ấy phải bay đi bay lại 1000 km để dò ra tầu ngầm đang nổi lập lờ, nếu dùng máy dò từ trường. Còn nếu đó là hình 30-30km là 1000 km2, thì cái máy đó cần bay một vạn km.

    Còn ở xa các máy bay chống ngầm mỹ sử dụng radar. Nhưng khốn khổ là cái ****** u-boot đức thò ống thở lên bị dò ra. Thì đúng là thò ống thở lên radar soi ra, nhưng đó là cái ống thở bé tí trên mặt nước biển phản xạ sóng radar. Vậy nên cái K-184 mới phát hiện ra radar máy bay Mỹ trước. Nhắc lại là, trong trường hợp này các máy bay Mỹ được USS Guardfish SSN-612 chỉ điểm. USS Guardfish SSN-612 vươt xa vời về mặt âm thanh so với K-184 dùng mũi tầu thủy.

    Rõ ràng là, các máy bay này chỉ trông chờ vào radar ,và các máy dò radio thụu động (radar thụ động). Nếu nói về radar chủ động, thì rõ ràng là tín hiệu ăng ten máy bay chiếu đến các đầu dò thụ động cạnh kính tiềm vọng rất mạnh so với phản xạ đến ăng ten máy bay, hàng triệu lần, nên dù có lạc hậu không nhiều lắm thì chũng cũng dò ra máy bay trước.

    radar thụ động để phát hiện các phiên liên lạc của tầu ngầm. =)) Điều này xưa nay vẫn thế nên không có gì đáng ngạc nhiên cả. Những cái này trước đây dùng vệ tinh thì tốt hơn. Tầu ngầm nước nào cũng bị thế cả. Tuy nhiên, ngày nay khác xa thời USS Guardfish SSN-612 đi theo K-184 năm 1972. Ngày nay các ăng ten vệ tinh Ku bé tí tẹo tầu ngầm nào cũng có, chĩa lên Vinasat là xong. Liên Xô và Nga hiện nay vẫn dùng cacxs vệ tinh địa tĩnh ăng ten mảng pha như Kupon, phục vụ cả dân sự lẫn quân sự. Các ăng ten này cho phép vệ tinh nhỏ, rẻ, phục vụ sóng Ku trên toàn vùng nhìn thấy (gần nửa địa cầu), đến phiên liên lạc ở đâu thì chĩa vào đó. Tầu Khựa nó có lạc hậu chút thì nó dùng băng C chẳng có sao.


    P-3 và P-8 là ****** chuyên nghiệp. Bản thân chúng là các máy bay chở hàng rẻ tiền, thậm chí P-3 lòa thiết kế sai bán ế trong nghề chở hàng. Cái sà lan chở hàng đõ cực kỳ thuận tiện trờ thành sân chơi đoàn kết tất cả các băng đảng đối địch nhau trong chính trị Mỹ, cái tầu chở hàng rẻ tiền chất lên đủ các thues. Tất cả các thứ đó là phần mềm, vô thưởng vô phạt, giá không cao, nhưng tỷ lệ rửa tiền là trên trời. Có thế thôi. Ấn Độ mua cho mấy thứ đó để đổi lấy nụ cười của Mỹ khi Ấn đập chết ăn thị giới quân sự Pakistan. Có gì hay đâu, P-8 dùng để tiêu diệt đồng minh Mỹ, đã bảo vệ Mỹ được tí nào đâu.

    Trung Quốc cũng như các nước dùng tầu ngầm lâu năm khác, đều như cái K-184 trên. Một mặt, họ liên tục phát triển tầu ngầm êm. Một mặt khác, họ luôn đi dò địch. Trung Quốc cũng như các nước khác đều cử những chiếc như K-184 đi vào đất địch gào rống to dần, những chiếc khác thì đứng im trong lòng biển nghe ngóng ở nhiều vị trí, để xác định khả năng ngay thấy tiếng gào của từng loại vũ khí địch. Thế thì còn gì thích hợp hơn những tàu ngầm diesel cổ lỗ. Vậy nên Tầu KHựa thường xuyên cung cấp cho các ****** cả mớ chiến công.

    Tầu ngầm tự chế Trung Quốc đã nhiều lần đi theo dõi Mỹ-Nhật tập trận, rồi bất ngờ nổi lên làm cả thế giới ngỡ ngàng, dăm ba cái ****** làm gì được nó.






    Toàn bộ các huyền thoại trên đều xuất phát từ huyền thoại tầu ngầm u-boot Đức bị radar phát hiện. Huyền thoại này nằm trong huyền thoại tầu ngầm Đức bị diệt sạch bách trong chiến tranh....=))=))=))=)) Vì thế mới có P-3 P-8.

    Đây là Deadlight, chiến dịch Anh Quốc vội vã đớp lấy đớp để các tầu ngầm Đức sau chiến tranh, vừa đớp vừa thủ dâm các chó dại cho ra P-3 P-8. Sau chiến tranh Đông Minh lấy của Đức hơn 150 tầu. Đấy là phim U-boot nói rằng tầu Đức bị thịt sạch bách. Thật ra phim u-boot xuyên tạc nhố nhăng hồi ký của một thanh tra hải quân Đức sau một chuyến đi với tầu ngầm. Ông ta kể lại các cảm giác kinh hoàng lúc đó , các tâm lý thủy thủ trên tầu.... để nói về những khủng khiếp mà các thủy thủ tầu ngầm đã trải qua đổi lấy các chiến công cho nước Đức.

    [​IMG]

Chia sẻ trang này