1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Tàu ngầm Kilo-636MV và sức mạnh của Hải quân Việt Nam

Chủ đề trong 'Giáo dục quốc phòng' bởi Triumf, 17/03/2011.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. alsou

    alsou Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    13/07/2003
    Bài viết:
    2.780
    Đã được thích:
    786
    Vừa tối nay xem VTV 1 bảo dự trữ USD cao kỷ lục mà, hình như kỷ lục là 27 tỉ thì hiện giờ phải có >27 tỉ chứ nhẽ nào ko có tiền
  2. kien0989

    kien0989 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    04/02/2006
    Bài viết:
    4.157
    Đã được thích:
    1.672
    Tớ đang tò mò là bạn cũng đang chém gió như tớ, hay đang làm một điều kỳ cục gì như anh Hòa, hay chẳng làm gì cả kể cả lo cho cái lều của mình :-":-":-"

    Bạn khuyên học nó, vậy bản thân bạn đã học được gì từ Trung Quốc, và đem lại lợi ích gì cho bạn chưa???

    Bác Hòa dám làm thì quá tốt rồi, nhưng dám làm có nhiều cách lắm bạn ạ! Nhân cụ Giáp vừa mất, nhớ lời cụ dạy: "Chắc thắng mới đánh, không chắc chưa đánh". Bây giờ tài nguyên lẫn tài chính đang yếu, mà lại còn chưa hiểu phải làm được cái gì, thì tốt nhất là gom tiền mà mua cho lành, vẽ rắn thêm chân chỉ tổ tốn tiền tốn lực!

    Bạn nên theo lời bác Huy Phúc, hỏi Gúc xem "homemade submarine" cho bao nhiêu kết quả, để biết chuyện hobby của bác Hòa cũng giống như dân mô hình thôi, mà dân mô hình thì chưa bao giờ làm động lực hay khởi phát gì cho chuyện làm máy bay, tàu thủy cả!

    Cách hô hào của bạn có vẻ bạn cho rằng "đời đục, mình ta trong" phải không? Vậy post trên của bạn là để làm gì thế, không phải là đang "giáo huấn" những người đọc post à?
    ----------------------------- Tự động gộp bài viết ---------------------------
    Về nguyên tắc là vậy, nhưng chính phủ Mỹ đang nghỉ mát, với lại tiền ở trong kho chỉ là giấy thôi, chính phủ đang lo gom vàng quét bạc về quốc khố cơ!

    Cà phê, tiêu, điều, lúa, gạo, khoai, sắn, tôm, cá.... đứt sạch sẽ rồi, xem dân ta xoay kiểu gì đây! A Lú nếu đang ở quốc nội thì tìm đường chuồn đi, chứ còm lưng trả tiền cho PMU18 mua bia rửa **** với anh Thăng xây sân bay mệt lắm [r23)]
  3. huyphuc_ttvnol

    huyphuc_ttvnol Thành viên gắn bó với ttvnol.com Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    30/05/2012
    Bài viết:
    1.490
    Đã được thích:
    1.047
    Chúng ta đang ở trong mục tầu ngầm và chuyên đề về AIP.
    http://ttvnol.com/gdqp/p-25316460#post25316460
    http://ttvnol.com/gdqp/p-25328475#post25328475
    http://ttvnol.com/gdqp/p-25375994#post25375994
    http://ttvnol.com/gdqp/p-25383392#post25383392
    http://ttvnol.com/gdqp/p-25389620#post25389620
    http://ttvnol.com/gdqp/p-25400140#post25400140


    Điều hài hước là. AIP mà báo chí thường nói là lỹ thuật siêu đẳng tân kỳ, lại là ******. Thật ra, đám báo chí chó dại Tiếng Việt ngày nay xây dựng nên một mô hình thông tin quái thai chổng ngược những không phải vô tổ chức, mà các quân đoàn chó dại đó được thành lập, huấn luyện, hoạt động.... theo những mô hình và tổ chức chặt chẽ, đương nhiên là của thực dân các loại.

    Thật ra, AIP là loại tầu ngầm phổ biến nhất thế giới hiện nay, lâu đời nhất thế giới trong quá khứ, chứ không phải là tân kỳ gì. Cái tầu ngầm có động cơ đầu tiên trên thế giới cũng là AIP. Ngày nay tuyệt đại đa số tổng giãn nước các tầu ngầm là AIP, chỉ nói tổng giãn nước vì có vô vàn những tầu ngầm chơi bời nhỏ 1-2-3 chỗ ngồi, thậm chí là 0,5 chỗ ngồi vì nó là cái xe máy chở người nhái. Ngày nay AIP là chủ lực chiếm đại đa số cả số lượng lẫn tổng giãn nước các tầu ngầm quân sự. Các tầu ngầm lớn nhất mạnh nhất thế giới đều là AIP. Các AIP phổ biến nhất là máy đẩy hạt nhân. Các AIP sử dụng các loại máy khác cũng có nhiều, phần lớn dựa trên hai chất oxy hóa chủ lực là H2O2 và O2. Các máy AIP có thể là động cơ nhiệt cả đốt trong, đốt ngoài, tuốc bin, pít tông. Cũng có AIP khác sử dụng cơ chế tiên tiến hơn là pin.

    Nào thì chúng ta điểm các loại AIP nhiệt nhưng không hạt nhân.

    Thật ra, AIP, sự đẩy độc lập với khí quyển, là một khái niệm chung chung. Một bộ máy AIP được hiểu là khai thác hết vật liệu phản ứng sinh năng lượng nó mang theo để đẩy tầu. Nhưng điều đó chỉ có tầu ngầm hạt nhân đạt được và đạt được quá mỹ mãn. Hạt nhân là loại AIP chủ yếu, mà hơn thế, là loại máy đẩy chủ yếu của tầu ngầm, từ khi có hạt nhân cho tầu ngầm nửa sau 195x. Còn các loại AIP điện-nhiệt bằng hóa học khác chỉ là mờ nhạt.





    Có thể coi là có 2 trào lưu AIP hóa học cho tầu ngầm, AIP hóa học trước hạt nhân và AIP hóa học sau hạt nhân.

    AIP hóa học trước hạt nhân. Lúc này, AIP hóa học là cách tốt nhất để đẩy tầu ngầm. Ban đầu, trước đầu thế kỷ 20, thì AIP hóa học được phát triển như là cách duy nhất để cho tầu ngầm chạy. Bởi vì lúc đó pin thì đắt mà ắc quy thì yếu. Phát triển hoàn hảo nhất các AIP hóa học trước WW1 là mẫu thử nghiệm tầu ngầm Nga dùng khí nén chạy động cơ đốt trong, chỉ lặn được vài km. Ngày nay các AIP hiện đại cũng dựa trên việc sử dụng các bình nén. Tuy nhiên, mẫu thử Nga nói trên nhanh chóng bị dẹp bỏ, vì trước nó và trong thời gian nó thử (trước 1913), thì các ắc quy phát triển nhanh chóng đạt mức đủ cho tầu ngầm chạy.

    Trong số các AIP này có một cái ****** rất điển hình, là chiếc Ictineo II của ông Narcís Monturiol i Estarriol, người Tây Ban Nha.
    http://www.travelinginspain.com/barcelona/ictineo.htm
    Ông ta đã đóng Ictineo I vì nghĩa vụ cao cả ủng hộ nội chiến Mỹ, sau đó quyên tiền đóng Ictineo II, kết quả quyên tiền cực kỳ mỹ miều, được số tiền tương đương 160 kg vàng. 160 kg vàng đó được đền đáp bằng một ****** rất độc đáo, hàng giả cổ vỏ gỗ. AIP của tàu đốt kẽm trong chất oxy hóa không cho ra khí thải như than mà chỉ cho tro rắn (mình cũng không hiểu nó đốt thế nào, hay là đốt trong chì thiếc nóng chảy). Hỗn hợp cháy gồm Zn- MnO2-KClO3. Nhiệt năng dùng để chạy máy hơi nước pít tông, oxy sinh ra phản ứng để các thủy thủ thở và thắp sáng.

    Ở đây có một vài điểm. Một là, lúc đó tầu vỏ sắt đã nhiều, việc đóng tàu ngầm vỏ gỗ lót đồng mỏng hàn thiếc chống thấm là rất nguy hiểm. Hai là, từ 185x thì động cơ điện một chiều đã rất khỏe đủ để kéo xe, lấy kãm đó làm pin đơn giản chạy tầu vừa an toàn vừa có hiệu suất gấp 10 lần và giá vận hành giảm đi gấp nhiều chục lần.

    Nhưng chiếc Ictineo II trình diễn lặn được rất sớm so với các loại tầu ngầm khác, 186x. Điều này minh chứng một vài điều. Một là, ông Narcís Monturiol i Estarriol và băng đảng là những kẻ hết sức dốt nát về khoa học. Hai là, lúc đó các nước khác chưa đóng tầu ngầm vì không ai chấp nhận giá dùng pin kẽm đẩy tầu ( rẻ gấp nhiều chục lần máy của Narcís Monturiol i Estarriol ).

    Còn tại sao các chính phủ không làm mà ông Narcís Monturiol i Estarriol lại làm. Thì đó, đó là một chiến dịch thủ dâm không khác gì các chó dại xóc lọ miết man vào Hoàng Sa và Trường Sa thân yêu của chúng ta. 160 kg vàng. Nghệ thuật thủ dâm bao giờ cũng là một siêu nghệ, cũng nghẹ nghệ thuật chăn chó dại.

    Truyền thống Tây Ban Nha là chiếc tầu ngầm siêu hiện đại S80, cũng AIP, dùng máy MESMA, đóng gần xong mới biết không nổi lên được, trị giá 1,5 tỷ USD toàn bộ chương trình, 400-600 triệu mỗi cái, và thời điểm phát hiện không nổi lên được là bây giờ, 2013.

    Cái truyền thống huy hoàng đó hoàn toàn môn đăng hộ đối với MESMA. Loại máy lợi dụng tiến bộ mới có là các bình trữ oxy lỏng của Nga, cho phép trữ O2 lỏng lâu mà rất ít tốn điện nuôi máy lạnh, trữ được nhiều O2. Nhưng chỉ có cái mượn Nga đó là tiến bộ kỹ thuật duy nhất được áp dụng. Còn lại, MESMA chạy tuốc bin hơi nước đốt ngoài cổ truyền. Nó không có ý định giải quyết các vấn đề đốt trực tiếp mà Đức và Nga đã thực hiện lâu đời, cho phép nâng cao hiệu suất và thu nhỏ máy, đó là các vấn đề chống quá nhiệt và tiêu thụ chất thải của phản ứng cháy. Để chống quá nhiệt, MESMA đơn giản là dùng cồn thay cho dầu hoặc khí hóa lỏng, có nhiệt năng thấp, làm phức tạp việc hậu cần. Để thải, MESMA chọn đốt ngoài, nhờ đó tách biệt áp suất lửa và chất tải nhiệt, dễ dàng đốt ở 60 atm thải trực tiếp ra ngoài ở độ sâu bé hơn 600 mét.

    Thậm chí, hơi nước là chất tải nhiệt-giãn nở sinh công thỏa mãn kỹ thuật lạc hậu của 197x và gắn kèm vào đó là nhiều nhược điểm. Máy đốt ngoài hiện đại cho thiết bị đắt giá hiện nay dùng heli hay argon, tối thiểu là CO2, nhưng MESMA không biết làm gì hơn ngoài hơi nước. Cái giá phải trả là : hậu cần phức tạp, quá nặng và cồng kềnh, quá đắt, hiệu suất quá thấp. MESMA tồi đến mức 200-300 kw / 300 tấn / 250 triệu $ , tương ứng với cái máy xe way 110 cc 6kw / 6 tấn / 6 triệu Mỹ = 120 tỷ đồng Việt Nam.


    160 kg vàng nói trên và MESMA đã giải thích tại sao tập đoàn báo chí chó dại tiếng Việt nhảy sổ vào ông Hòa, trong khi trên thế giới này đầy rẫy người lớn trẻ con ông già bà trẻ đóng tầu ngầm home made. Đến mức bác Hòa phát chán tống cổ đám chó dại và đóng cửa chương trình. Tất nhiên, không riêng gì chó tiếng Việt, chó quốc tế còn hàng ngàn năm liếm láp ****** này, mà văn liếm văn láp thì chẳng cần đâu xa, cứ lên wiki có ngay.



    AIP hóa học trước hạt nhân thành công rực rỡ bởi các chương trình của Nga và Đức. Đó là chương trình thử nghiệm của Hellmuth Walter vên Đức WW2 và lớp tầu ngầm Liên Xô Projet 615.

    Hellmuth Walter rất thành công, tuy nhiên chính quyền Đức đã không nhìn sớm vấn đề này. Như mình đã nói, Hitler không đại diện cho nước Đức, mà đại diện cho đám bị đào thải của Đức. Cho đến năm 1942 Hellmuth Walter mới được thiết kế các tầu chiến đấu thật sự. Mặc dù cả nước Đức đã kiệt sức tập trung gấp rút với liền tù tỳ 3 lớp Type XVII / XVIII / XIX, với khá nhiều biến thể, nhưng chỉ có 3 tầu trong số đó ở trong trạng thái huấn luyện khi kết thúc, có 10 thân tầu chiến và 1 chiếc thử nghiệm V80. Tất cả các thân tầu đã nổi đều được các thủy thủ đoàn (các thân tầu đã biên chế) và các vệ sỹ (các thân tầu chưa biên chế), đánh dắm khi kết thúc.

    Máy của Hellmuth Walter sử dụng dầu thường và H2O2 đẩy tuốc bin bằng khí nồi hơi trực tiếp. Nồi hơi trực tiếp là trộn thêm hơi nước vào khí cháy để giảm nhiệt tránh hỏng máy, nó trung gian giữa đốt trong và đốt ngoài. Không làm được bằng Hellmuth Walter thì MESMA và Kockums thật là nhục nhã co mình trong trách nhiệm ******, cả MESMA và Kockums đều đốt ngoài. H2O2 nén được nước từ nồi hơi hâm nóng lên 450 độ C, tiếp xúc với chất xúc tác, phân hủy thành hỗn hợp nước và O2 dạng bọt trong đó nước ở trạng thái quá tới hạn. Bọt được đưa sang nồi hơi cháy ở 2000 độ C, sau khi trộn nước có hỗn hợp CO2 và hơi nước 500 độ C. Hơi 500 độ C qua tuốc bin có hiệu suất không cao , do áp suất nén quá lớn ở buồng phân hủy H2O2 làm giảm hiệu suất (nhắc lại là, để tăng hiệu suất máy hơi nước thì phải tăng nhiệt giảm áp, ngược với ****** James Watt sủa), hơi còn 240 độ C phải thải ra ngưng. Hơi qua tuốc bin được tách và làm mát bằng trao đổi nhiệt với nước biển còn 80 độ C, CO2 được nén vào bình nước lạnh để hòa tan vào nước, rồi thải ra ngoài áp cao, mất ít công bơm nén hơn là bơm trực tiếp khí CO2 ra ngoài.

    Dễ dàng tính ra trần hiệu suất của máy Hellmuth Walter = 260 độ K / 770 độ K = 33%. Con số này tuy không bằng diesel cỡ 40% nhưng cũng ngang ngửa các máy đốt trong chạy xăng. Hiệu quả này cao hơn nhiều các máy đốt ngoài dở người, đồng thời, lò nồi hơi trực tiếp khởi động nhanh không khác gì máy đốt trong. Tuy là ở giữa, nhưng có thể xếp Hellmuth Walter vào bên đốt trong (đốt trong mở rộng tính cả tuốc bin chứ không chỉ riêng pít tông, được hiểu là lấy trực tiếp khí cháy làm chất tải nhiệt-giản nở sinh công).

    Hellmuth Walter đã giải quyết hoàn chỉnh hai khâu khó nhất của AIP hóa học máy nhiệt. Một là, chống quá nhiệt hỏng máy, đây là vấn đề đau đầu khi đốt nhiên liệu trong chất oxy hóa ở môi trường kín, Hellmuth Walter sử dụng nồi hơi trực tiếp như trên. Hai là, thải sản phẩm cháy ra ngoài, Hellmuth Walter dùng 2 lần nén, một lần nén nhẹ để trộn CO2 vào nước biển cách ly trong tầu, sau đó nước biển hòa đậm CO2 được bơm ra ngoài bằng bơm áp cao tốn ít năng lượng hơn là bơm trực tiếp CO2 ra ngoài. Hệ thống của Hellmuth Walter đơn giản hơn nhiều các MESMA và Kockums ngày nay. Nếu như có các bình chứa O2 lỏng như ngày nay thì hệ thống này ăn đứt các ****** nói trên.

    Do sự chậm trễ của chính quyền Hitler, nên chỉ có 3-4 tầu đã ở giai đoạn huấn luyện thủy thủ đoàn vào thời điểm kết thúc chiến tranh, có 10 chiếc đã nổi được, thêm một chiếc thử nghiệm, các tầu đều được thủy thủ đoàn và bảo vệ đánh đắm. Một vài chiếc được trục lên đem về Anh. Chưa chiếc nào tham chiến. Tuy nhiên, các tầu này được đầu tư phát triển rất nhanh với 3 lớp tầu hàng tiên tiến nhất của Đức lúc đó, Type XVII / XVIII / XIX.

    Ở đây mình mở ngoặc một điều. Một số báo chí chó dại tuyên tuốc bin Hellmuth Walter không bền. Các con lợn thích sủa thì được kết quả đó. Bình thường, các tầu biển đều có máy rất bền so với các máy khác, vì chúng hành trình lâu dài và rất nguy hiểm nếu hỏng máy giữa biển. Nhưng đó là máy chính. Các tầu chiến chó thêm máy tăng tốc, tổng số giờ hoạt động cho đến hết thọ của chúng thấp, nhưng chúng chỉ hoạt động trong các tình huống chiến đấu mạnh. Các động cơ đó thiết kế có tốc độ vòng quay cao, nhanh hao mòn, có tổng thọ tính theo giờ thấp, nhưng vẫn là bền vì chúng ít khi chạy. Cấu hình này chung cho nhiều loại tầu chiến lớn bé chứ không phải chỉ tầu ngầm Hellmuth Walter. Thực chất là, máy Hellmuth Walter không có lý do gì để không bền, vì nó là máy tuốc bin hơi nước, loại máy bền nhất trong các loại động cơ. Nhiệt độ hơi của máy hơi cao so với thường, nhưng đây là máy quân sự nên được đầu tư các cánh tuốc bin giá cao.




    Bên Liên Xô, Nga Hoàng đã phát triển AIP, sau đó, trong 193x cũng có nhà khoa học đề nghị. Nhưng các tầu AIP Liên Xô chỉ được hạ thủy sau khi đã khắc phục hòm hòm hậu quả chiến tranh, 195x. Lúc này các AIP hạt nhân đã chớm ra đời và các AIP hóa học có tuổi phục vụ chỉ cao nhất chưa được 20 năm. Tất cả chúng về hưu trong 197x. Chính thức mà nói, thế giới này có mỗi Liên Xô đưa vào phục vụ các tầu AIP hóa học trước 199x.

    Đó là các Project 615, có hơn 30 chiếc. Thật ra, chương trình 617 chạy H2O2 tiến hành trước, nhưng sự xuất hiện của kỹ thuật titan làm bình O2 lỏng mở đường cho 615 được ứng dụng, 617 bỏ và chỉ có một chiếc S-99. 615 bắt đầu phục vụ trước các tầu ngầm hạt nhân đầu tiên, giá thành chung rẻ và tốc độ trang bị cao. Các tầu bắt đầu nhận nhiệm vụ 1955-1957.

    3 chiếc cháy, đều liên quan đến lỗi từ hệ thống AIP, trong đó có 1 chiếc chìm. Lớp tầu 615 là lớp tầu ngầm chiến đấu nhỏ, choáng nước chìm 504 tấn. Máy AIP của tầu dùng O2 lỏng và hấp thụ CO2 bằng vôi, rất đơn giản, mấu chốt kỹ thuật chỉ là bình chứa O2 lỏng. Tuy nhiên, bình chứa O2 lỏng chưa hoàn thiện, rất tốn năng lượng điện, là nguyên nhân 3 vụ tai nạn trên.

    Các 615 sử dụng động cơ thống nhất, chạy cả khi nổi và khi lặn, là loại động cơ diesel. Để tránh quá nhiệt khi chạy chế độ AIP lúc lặn, hỗn hợp cháy được làm nguội, một phần CO2 nguội quay trở lại trộn với O2. Tầu mang theo 8,5 tấn O2 và 14,4 tấn vôi.

    Về mặt cấu tạo khung. Các 615 thuộc thế hệ tầu ngầm đầu tiên sau WW2. Thế hệ này bao gồm nhiều lớp tầu khác. Chúng có cấu tạo chung giống như Type VII Đức. Chúng dùng chân vịt tàu thủy, vỏ tạo hình có hình dáng tầu thủy nổi, mục đích là để chiến đấu trên mặt biển, và vì thế rất ồn. Cuối 195x đầu 196x, các tầu ngầm có hình dáng ngoài tròn đều với chân vịt tầu ngầm chuyên dụng xuất hiện, để đối phó với các máy nghe điện tử ngày càng nhiều và nhậy. Vậy nên 615 nhanh chóng lạc hậu.

    Lớp tầu 615 có tốc độ và độ sâu, cũng như giới hạn nhiệm vụ, đều rất hạn chế. Tốc độ ngầm 15 lặn sâu 100, bảo vệ các hải cảng. Đương nhiên nguyên nhân của việc này là giá chế tạo bình O2 lúc đó còn cao và giá vận hành rất đắt. Tuy vậy, với nhiệm vụ bảo vệ cảng thì các tầu này quá thừa khả năng, chúng thừa sức lặn đến tận hạm đội địch quần thảo cắn nhau rồi về, điều các tầu ngầm khác lúc đó không làm được.

    Các AIP hóa học dừng lại khi có tầu ngầm hạt nhân.
    ====================







    ===================

    Các AIP hóa học trở lại trong chương trình phát triển sau 197x.
    Lúc này, điện tử phát triển nhảy vọt, bắt đầu trang bị ồ ạt máy số, rồi máy tính. Điều này dẫn đến việc các tầu ngầm dễ bị phát hiện , đặc biệt là phân loại tầu qua tiếng máy và phát hiện tầu từ rất xa bằng phản xạ hạ âm theo mặt biển. Trước khi có máy tính thì thu thập và phân tích hạ âm rất khó.

    Ngày nay, các tầu ngầm thường dùng tín hiệu hạ âm trên dưới 10 Hz, rất nhiều tầu dùng 11 Hz mình cũng chưa hiểu ra sao. Khác với dải sóng tần số cao hơn, hạ âm có bước sóng dài, nên coi mặt biển là nhẵn thín như gương, nên phản xạ ôm theo mặt biển mà rất ít hao, truyền đi xa đến hàng ngàn km. Các tầu ngầm hạt nhâh nhận lệnh tấn công tổng lực qua đường này.

    Trong 197x, Liên Xô trang bị các tầu ngầm hạt nhân có đỉnh điểm về động lực. Gồm 3 lớp Project 661 Anchar, Project 685 Plavnik , Project 705 Lira . Anchar là loại tầu chạy nhanh nhất thế giới 44,7. Plavnik là loại tầu chiến lặn sâu nhất quả đất 1000. Tuy vậy, Anchar và Plavnik chỉ có mỗi chiếc trong mỗi lớp. Do Mỹ quá đụt nên Liên Xô không theo đuổi các con số cao này. Các tàu ngầm tấn công ngư lôi Liên Xô giới hạn bởi hai loại. Một là loại đeo bám các tầu chiến lược của địch trong thời bình, có cỡ to hơn. Một loại chiến thuật thuần túy, dùng trong giao chiến giữa các tầu nổi và tầu ngầm, thiên về phục kích, nhỏ hơn. Loại tầu ngầm tấn công phục kích là Lira 705, tốc độ chỉ sau Anchar, Lira đạt 41.

    Khi điện tử phát triển, nhiệm vụ của Lira 705 được giao cho các tầu ngầm chạy ắc quy êm hơn. Bản thân các tầu ngầm hạt nhân mới cũng tăng khả năng chứa của ắc quy để chạy chế độ không có tuốc bin hơi nước, và chế độ chạy tuốc bin phụ nhỏ êm. Tuy vậy, dù tuốc bin không chạy, dù có dừng phản ứng, thì lò hạt nhân cũng vẫn phải chạy tối thiểu 3 ngày sau đó để làm mát, nên các tầu hạt nhân không bao giờ tắt quạt lò và thật là êm. Lira 705 chuyển vị trí cho các tầu không hạt nhân là 877 Paltus và 636 Varshavyanka. Các tầu này có vỏ hấp thụ âm thanh, tàng hình, và hầu như không thể phát hiện khi chúng bỏ neo kể cả chủ động lẫn thụ động, được quân Mỹ gọi là hố đen trong đại dương.


    Vào thời điểm đó, Mỹ dừng phát triển tầu ngầm, đến nay quá tụt hậu 2 thế hệ.

    Đáng chú ý là. Từ đó Mỹ dừng phát triển tầu ngầm =)). Trình độ Mèo Hoang đến đây là hết kể cả trong hạt nhân, tầu ngầm, vũ trụ.... Cho đến nay lớp tầu ngầm chiến lược mới nhất của họ cũng chỉ là Ohio, chiếc đầu tiên của lớp bắt đầu đóng 1974 nhận nhiệm vụ 1981. Về tầu ngầm tấn công hạt nhân, Mỹ bỏ các lớp tầu đánh phục kích, chỉ có lớp tầu ngầm lớn deo bám tầu chiến lược đối phương-đối diện với Yasen. Mỹ nỗ lực phát triển lớp Seawolf Class, với tham vọng đạt được như "tiêu chuẩn" của các tầu ngàm tấn công hạt nhân Liên Xô là sâu 600 nhanh 35. Tuy nhiên, Seawolf Class không thành công, thay cho 29 chiếc theo kế hoạch, thì chỉ có 3 chiếc được đóng. Chiếc đầu tiên, USS Seawolf SSN-21, khởi công 1989, nhận nhiệm vụ 1997. Chiếc thứ 2 là USS Connecticut SSN-22. Chiếc cuối cùng USS Jimmy Carter SSN-23 1996/2005. Cả ba chiếc đều không đạt những yêu cầu trên, chỉ đạt "tiêu chuẩn Mỹ", quá đụt so với mặt bằng chung của thế giới, cả 3 đều tốc độ 25. Seawolf SSN-21 sâu 240. Jimmy Carter SSN-23 sâu 320. Tham vọng của Seawolf Class là do Mỹ hy vọng mua được các nhà khoa học Ucraina khi chi tiền hậu hĩnh dỡ các 941 Akula lớn nhất thế giới, chủ yếu do Ucraina đóng tổng thành, tuy nhiên, ở Liên Xô thì các nhà khoa học đã thiết kế sẵn những bộ máy bảo vệ an toàn. Sau đó, Mỹ đưa ra Virginia Class với yêu cầu thiết kế ban đầu khiêm tốn với "tiêu chuẩn Mỹ" sâu 240 nhanh 25.

    So với các tầu ngầm khác trên thế giới, không chỉ quá cổ, quá ồn, mà tầu Mỹ còn có rất nhiều điểm ăn cắp đến mức quá hạ đẳng khác. Ví dụ, nó có tỷ số nước dằn quá nhỏ, lại không có sàn boong cao, nên không nổi cao lên khỏi mặt nước. Với băng cỡ 1 mét phải có người dọn băng, và như thế tất nhiên không thể tác chiến trên mặt nước như bắn IBCM được. Ấy nhưng điều đó lại được chế thành ****** gửi đến các chó dại thông điệp: tầu ngầm Mỹ ẩn mình dưới băng =)). Thậm chí khi cái tháp thò lên được trên bằng, thì kính tiềm vọng không ủn nổi mẩu bằng thừa mắc trên đó, phải thuê cửu trèo lên lấy xẻng dọn. (video USS Connecticut SSN-22, vãi đái siêu tầu ngầm =))) Không chỉ có lớp đó, mà đó là tình trạng chung của tầu ngầm Mỹ, ví dụ video USS HAWKBILL SSN 666 , lớp tầu ngầm có thể coi là đối diện với Lira 705, cả về nhiệm vụ và thời gian. Và đây là video khác, các bạn có thể nhận ra siêu tân kỳ, để cắm cờ ở Bắc Cực phải có tầu nổi chở trực thăng ra dọn băng cho nó. Toàn cảnh công việc là, các bác đỗ trực thăng xuống, khoan một cái lỗi xuyên qua băng, thò xuống đó một cái loa phát âm để liên lạc với tầu và xác định vị trí, sau đó tầu chọc băng nổi lên được một nửa cái tháp, các bác ra lấy cưa cưa băng dọn ra một lỗ, mở được cửa sàn boong.

    Chỉ qua một vài video. Dễ thấy, người Nga làm bá chủ Bắc Băng Dương, tầu ngầm Mỹ ở đó chỉ là ****** xóc lọ các chó dại.=))


    Quay lại chủ đề chính. Khi các tầu tấn công chiến thuật chuyển sang chạy ắc quy thì Mỹ không theo được và bỏ loại tầu này. Báo hại Đài Loan ngóng dài cổ 60 năm không có tầu ngầm. Lớp lớp các thủy thủ đoàn Đài Loan đã huấn luyện trên những chiếc tầu ngầm WW2, nhưng lớp này đến lớp kia già, bạc lông, chết, chôn, mục..... hơn 60 năm qua Đài Loan vẫn chưa có tầu ngầm. Các nước khác đều có thể mua tầu ngầm của Đức Pháp Thụy Tây.... nhưng không ai dám bán vũ khí cho Đài Loan ngoài Mỹ, vì Trung Quốc phản đối.

    Chúng ta cần hình dung rằng, không chỉ chuyển sang điện là được, vì WW2 tầu ngầm cũng chạy điện. Chúng ta đã thấy các giải pháp ngăn âm thanh, thậm chí là tiếng nopis chuyện của thủy thủ đoàn hiện nay cũng có thể làm cho tầu bị phát hiện. Tầu ngầm Nga được bọc trong một lớp cao su dày cấu tạo phức hợp, gồm các lớp cao su có tỷ khối khác nhau được đan răng lược vào nhau, hấp thụ kỹ âm thanh. Motor điện của tầu không đi qua bánh răng, mà truyền động trực tiếp vào chân vịt qua đệm giảm chấn truyền động (tác dụng như cái đệm bánh sau xe máy). Motor đó không có bánh răng nên được điều khiển bằng brush less, quá sớm và quá khó vào lúc 877 ra đời, tuy nhiên ngày nay điều này dễ thực hiện. Chưa hết, cái motor kêu tó nhất tầu ngầm đó được treo trên đệm từ trường không tiếp xúc, tuy rằng điều này quá đắt và không phải chiếc nào thuộc 877/636 cũng được trang bị.

    Kết luận ở đây là, Mỹ không đủ trình theo đuổi cuộc chạy đua vũ trang về tầu ngầm. Ngày nay ai cũng thấy Mỹ đi nhờ Nga lên vũ trụ. Nhưng ngày đó, thì Mỹ cần nhiều ****** để thủ dâm các chó dại.

    Điều này dẫn đến một mất cân bằng Xô/Nga và Mỹ. Điều này mở đường cho Đức xuất khẩu rất nhiều tầu ngầm. Nhưng Đức Ý Nhật vẫn còn hơi hướng tù binh, Pháp tranh thủ vị trí đó bán ồ ạt tầu ngầm lởm. Thậm chí vào 197x-198x Pháp vẫn đóng mới những chiếc tầu ngầm mang mũi tầu thủy và chân vịt tầu thủy, và bán với giá trên trời.


    ==========








    =========

    Các nước Anh Pháp Tây Bán Nhà.... các nước quân sự theo Mỹ trừ Đức có cơ hội lớn bán hàng, đặc biệt là tầu ngầm không hạt nhân.


    Vấn đề ở đây là

    Liên Xô tự nhiên bỏ đi lớp tầu kinh khủng khiếp Lira 705, nó là lớp tầu có tốc độ đi ngầm lớn nhất thế giới được trang bị thực tế, nếu như không tính đến Anchar 661, vì Anchar chỉ có duy nhất một chiếc trong lớp coi như là thử nghiệm. Thay vào đó là các Paltus 877 và Varshavyanka 636, cả hai lớp 877 và 636 đều có cấu hình kích thước và vũ khí giống hệt 705, chỉ khác là chạy ắc quy và yếu như rùa, điểm động cơ mạnh yếu thì hoàn toàn ngược 180 độ với 705.

    Thế là bắt đầu chạy đua tầu phi hạt nhân.

    Mỹ không có tầu ngầm để bán.

    Đức phát triển tầu ngầm song song với Liên Xô, các tầu ngầm Đức nhỏ hơn, tiết kiệm hơn. Ngoài ra các tính năng chiến đấu của Đức có mặt hơn mặt kém. Ví dụ, tầu Đức ồn hơn do hình dáng không tròn đều , do tỷ số nước dằn thấp, sàn boong cao, nhưng lại lặn sâu hơn, thích hợp với những nước "vừa vừa" mua về đanh nhau với những nước cũng "vừa vừa".

    Có nhiều nước không thể mua vũ khí Liên Xô, đương nhiên sẽ tìm đến Mỹ. Nay Mỹ không có tầu ngầm, thì theo lệ thường tìm đến Anh-Pháp. Còn Đức Ý Nhật vẫn có hơi hướng tù binh. Mặt khác, một số vũ khí Đức xuất khẩu kỹ thuật bật tường qua Thụy Sỹ, Bỉ, Thụy Điển.... nhưng các nước này lại không đóng tầu ngầm. Đơn giản là Bỉ và Thụy Sỹ thì không có biển, còn Thụy Điển là nước nhỏ lại quyết tâm theo mô hình Đức giảm ngân sách quân sự.

    Như vậy, Đức và Anh-Pháp phải đảm nhiệm một thị trường rất lớn so với họ, không như các vũ khí khác. Và xảy ra là, Đức không thể ôm xuể cả về tốc độ sản xuất cũng như vị thế bán hàng.


    Và dẫn đến, Anh-Pháp tha hồ bán ******.


    ===========



    Máu chốt cả các AIP sau hạt nhân: bình đựng O2 lỏng (LOX)

    Bây giờ các bạn đã hiểu tại sao chiếc S-80 của Tây Ban Nha lại oai hùng đến thế. Đến khi đóng gần xong mới biết nó không nổi lên được. Người ta bảo các kỹ sư thiết kế nhầm dấu phẩy, ờ, thế ra ở đấy không có ai kiểm tra thiết kế =)). Nhưng nguyên nhân chính xác hơn là: vào năm 1865, khi đã có lò Mác Tanh, đã có động cơ điện kéo xe thay ngựa, pin kẽm đã được phát triển hàng trăm năm.... thì Tây Ban Nha có một cái tầu ngầm bằng gỗ, dùng kém đốt lấy nhiệt chạy hơi nước với hiệu suất bằng 1./10 lần dùng kãm chạy pin, và khó mà nói là an toàn.

    Cái S-80 cũng dùng MESMA, động cơ hơi nước cuả tk21 giá 1 triệu USD mỗi kw.


    Tất cả bắt đầu bằng sự lừa đảo. Người Nga người Đức bỏ động cơ nhiệt đi chạy pin và ắc quy cho êm. Còn các ****** ngược lại, mượn tiến bộ kỹ thuật của Nga để lắp máy nhiệt cho tầu ngầm cho kêu to. Thật hài hước như ví dụ trên, nếu như Nga bỏ Lira 705 nhỏ bằng 3/4 và công suất gấp 100 lần, lấy Soryu "mạnh nhất thế giới", chúng đều chạy máy nhiệt =)). Quá hết sức đơn giản để các nước chủ động hạt nhân, cả Nhật Thụy Đức Pháp.... chế ra cái lò độ 10 000 kw hay 5 000 kw nước nhẹ và êm ngang với cái Kockums, vì Kockums là piston ồn hơn tuốc bin. Lò tầu ngầm phức tạp vì chật, nhưng điều khiển phản ứng hạt nhân lại đơn giản vì chúng bất chấp mọi giá, ko lo tốn lõi. Và với cái vỏ cao su dày hàng chục phân, dáng tròn đều, thì chắc dek gì Kockums 300 kw đã êm bằng tuốc bin 30 ngàn kw.

    Cái tiến bộ gốc Nga ở đây là: Bình chứa oxy lỏng Nga đã phát triển từ thời 615, bằng trình gia công titan siêu việt của họ, nay hiện đại hóa bằng các vật liệu cách nhiệt mới bảo quảng O2 lỏng ở -180 độ C, áp suất khá an toàn 7-10 atm, một thời gian dài mà ít hao năng lượng chạy máy lạnh... Nga Đức dùng đó chứa O2 chạy pin, còn các chó dại mua về., và lắp vào máy hơi nước cuả thế kỷ 1.




    Chúng ta có thể điểm 4 dòng AIP hóa học sau hạt nhân.

    Một là. Chiếc tầu ngầm đầu tiên của AIP sau hạt nhân là U-1, Type 205, Đức. Chiếc tầu thử nghiệm động cơ diesel chu trình kín. Kiểu này sau được Hà Lan Đan Mạch đánh tiếng, nhưng như chúng ta biết, Đức hiện chỉ bán pin. Là tầu ngầm rất bé cũng y như 615, choáng nước chìm 500 tấn. U1 S180 là chiếc đầu tiên của lớp 201 năm 1962, sau đó cũng là chiếc đầu tiên khi 201 đóng lại thành lớp 205 1967, phục vụ từ 1967-1991. Trước khi tháo sắt vụn U1 được dùng để thử nghiệm này, 3 ngàn ngựa =2,25 ngàn kw.

    Diesel chu trình kín của Đức khác Liên Xô. Đức dùng He để giảm quá nhiệt , pha He vào O2, sau đó tách CO2 khỏi He và He nguội quay lại. He là chất dùng làm tải nhiệt máy nhiệt rất tốt vì nó có nhiệt dung riêng đẳng tích rất cao, nhưng đắt. CO2 được nén cho tan vào nước, rồi bơm cao áp đẩy ra ngoài, cũng như cách của Hellmuth Walter. Chỉ nhìn qua cũng biết kiểu này thất thoát He thường xuyên. Tuy nhiên, đây là thử nghiệm, việc bỏ He để chỉ dùng CO2 cũng không giảm hiệu suất mấy tí, nếu như chê He đắt.

    So sánh với 615. Liên Xô 615 hấp thụ CO2 vào vôi không bơm ra ngoài, một phần CO2 quay lại pha loãng O2 tránh quá nhiệt. Tuy nhiên, cái bình O2 lỏng ngày nay đã an toàn, thử nghiệm U1 thì tất nhiên không công bố đánh giá, còn 615 thì không an toàn.

    Có thể thấy liên hệ giữa máy của Hellmuth Walter và U1 S180. Chúng đều trộn chất giãn nở sinh công với chất đốt, Hellmuth Walter dùng nồi hơi trực tiếp cũng như là đốt trong.

    Nói thêm ngoài lề và S180 U1. Có tên U1 vì đây là chiếc tầu ngầm đầu tiên Đức đóng sau WW2. Đức đã nố lực dùng thép không nhiễm từ, nhưng không thành công. U1 ban đầu thuộc lớp type 201, tuy nhiên chỉ có 4 tầu được trang bị thì dừng, tất cả các tầu này đều đóng lại thành type 205. Điều đáng nói là Type 205 không dùng được thép không nhiễm từ. Cho đến nay tầu ngầm Đức đều vướng với việc không khử từ sạch như tầu ngầm Nga. U1 nhận nhiệm vụ lần đầu năm 1962, đến năm 1967 nó đóng lại thành Type 205.

    Lớp 201 có cấu tạo rất khác các tàu ngầm thường ngày nay. Choáng nước khi lặn của nó chỉ hơn 450 tấn, nhưng mang đến 8 ống lôi (636 3100 tấn mang 6 ống lôi), 201 không có ngư lôi dự trữ và nạp ngư lôi, mà chỉ dùng ngư lôi lắp sắn trên các ông lôi, có 8 quả. Thép không nhiễm từ lần đầu tiên được sử dụng cho tầu ngầm phương Tây, gặp các sự cố.

    Lớp 205 được đóng lại từ 201 với các cải tiến quan trọng nhất là thay thép, bỏ thép không nhiễm từ, kéo dài thân, và có sonar cùng máy mới, 500 tấn như trên, cũng 8 ống lôi.

    Lớp 206 sử dụng được thép không nhiễm từ, 498 tấn, cũng 8 ông lôi như trên, bắt đầu phục vụ năm 1973. Các tầu không nhiễm từ của Đức tuy khử từ không tốt bằng Liên Xô dùng vỏ tầu titan hay các hợp kim thép không nhiễm từ khử từ sạch hơn, nhưng cũng đủ để vô hiệu hóa mìn thủy lôi và các vũ khí phát hiện tầu ngầm NATO. Điều này minh chứng quá sớm việc các vũ khí Mỹ sản xuất đối đầu với tàu ngầm Liên Xô chỉ là ******, nên thông tin về các lớp tầu này không dược show rộng rãi bên Mỹ và các môi trường chó dại khác.

    Về đại thể, các Type 201/5/6 đều giống 615 Liên Xô, có cấu tạo đơn giản, làm nhiệm vụ tầm gần như chặn đường eo biển hay bảo vệ các bến cảng, lặn nông tuy rằng 206 đến 200 mét hơn 615 chỉ có 100 mét. Tầm lặn xa nhất với tốc độ lờ đờ 4 knot chỉ hơn 300 km. Có xuất khẩu sang Đan Mạch.

    Sau 3 lứa đầu tiên Type 201/5/6, Đức bắt đầu đóng các tầu ngàm thật sự Type 209 1810 tấn, cũng 8 ống lôi như trên. Tuy nhiên, Type 209 có vẻ như là được phát triển song song với các Type 201/5/6 nhưng không được quân Đức mua, trái lại nó xuất khẩu đi 13 nước.

    Loại tầu ngầm thật sự đầu tiên của quân Đức là type 212, sau đó là các đương đại 214 và phát triển tiếp 216. Type 212 có 6 ống phóng ngư lôi, có nạp nhanh, băng 13 lôi, và đeo được tối đa 24 mìn thủy lôi ngoài tầu, 1830 tấn. Như đã nói chuyện, Type 212 có phiên bản sử dụng AIP bằng pin H2-O2.



    Hai là. Sau đó, Nga-Đức dùng pin H2O2 của Siemens. Nga chuyển cho Đức những phát triển cực âm trước đây mà họ vốn đứng đầu thế giới, Đức góp vốn lưới lọc nano mới có. Nguồn nguyên liệu Ru-Rh Nga đảm bảo bằng công ty Norilsk bá chủ và quyết định giá nickel toàn cầu. Các nguyên liệu trên là phụ phẩm khai khoáng hiếm, không phải ai cũng có.

    Siemens đứng ra tập hợp các nguồn lực chủ yếu là khoa học, đứng ra thiết kế tổng thành và bán. Nga cũng phòng thủ bằng một chương trình pin H2-O2 riêng nhưng hiện nay tồi hơn.

    Như chúng ta đã biết, Đức áp dụng pin H2-O2 vào Type-212A , và Type-214. Ở Type-212 cải tiến, bình được oxy lỏng đặt ở dưới gầm sàn boong, các chai H2 nén đặt ở giữa hai lớp vỏ tầu. Type2012A dài 56 mét, choáng nước chìm 1830 tấn, máy đẩy điện 1700 kw, 2 tổ hợp pin mỗi cái 120 kw, tốc độ lặn 20, lặn sâu 700. Chiếc đầu tiên bắt đầu nhận nhiệm vụ năm 2002.

    Ta có thể dễ dàng tính được ra hiệu suất của pin H2-O2 không được như quảng cáo của cái chuồng lợn wiki "The energy efficiency of a fuel cell is generally between 40–60%, or up to 85% efficient if waste heat is captured for use". NHư đã nói, wiki kiểu Mỹ và Mỹ thì đang nhà nhà làm fuel cell, người người phát minh fuel cell.

    Nếu không tính khâu xạc, thì từ H2-O2 mỗi gram cho 30 kJ, mỗi kg cho 20 MJ điện, hiệu suất đạt chỉ 20%. Cách tính thế này, điện thế pin 0,7 volt, cứ mỗi một gram H có 6,23E23 điện tử, mỗi Cu-Lông C có 1,6E19 điện tử, mỗi gram H trong pin cho ra 6.23E23 /1.6E19 * 0.7 ~ 27KJ Giun ~ 19,3%, so sánh với nhiệt năng đốt H2 trong O2 là 141,8 MJ/kg.

    Pin H2-O2 thấp hơn nếu sử dụng máy đốt trong đạt 30-40%, và tất nhiên phải vượt qua rất nhiều những vấn đề kỹ thuật so với đốt trong đã thử thách lâu đời. Nếu như Nga chạy máy nổ thì một cái máy kích thước cỡ chiếc xe 4 chỗ nặng 1 tấn quá thừa đủ 240 kw (320 ngựa, bằng máy xe tải chở cát), với đầy đủ các chức năng máy nổ, phát điện, làm nguội sản phẩm cháy, bơm nước ngưng lên áp cao đủ cho ra ngoài, vì nó đơn giản hơn nhiều chu trình của tầu 615. Nếu như chạy nồi hơi trực tiếp kiểu Hellmuth Walter, thì thừa kế được mô hình này và các kỹ thuật mới về tuốc bin. Khác với Hellmuth Walter chạy H2O2, Hellmuth Walter chạy H2 và O2 không cần giàn phản ứng tách O2 khỏi H2O2, nên đầu vào tuốc bị dùng được áp lực thấp, hiệu suất cao. Đầu ra chỉ có nước nên rất thuận tiện, không cần tách CO2 và 2 tầng nén CO2 đổ ra ngoài. Hiệu suất chung mô hình Hellmuth Walter chạy H2-O2 dễ dàng đạt được 40%.

    Như vậy, pin này chỉ có công dụng trong tầu ngầm xịn. Với những tầu ngầm đểu chấp nhận dùng máy nhiệt, thì Đức và Nga đã từ lâu đời có những giải pháp tốt hơn nhiều. Vì vậy, các máy nhiệt dưới đây là ******. Còn nếu như Nga-Đức chấp nhận dùng máy nhiệt, thì họ sẽ đương nhiên là thay H2 bằng dầu diesel hay cồn, cùng hệ thống bớm CO2 ra ngoài như của Hellmuth Walter.


    Ba là. Đức He đốt trong. Vậy thì đệ tử của Đức là Thụy Điển He.... đốt ngoài Stirling. Kockums 750 kg 75 kw tối đa, thường xuyên 64 kw.

    Kockums là công ty đóng tầu kỹ thuật cao của Thụy Điển, cung cấp các tầu kỹ thuật cao cho nước này và xuất khẩu. Nhưng nay Kockums đã bị các tập đoàn Đức thôn tính. Nếu như không tính thử nhiệm S180 U1 cuả Đức không được ứng dụng và quá khác biệt, thì Gotland là chiếc đầu tiên trang bị AIP trào lưu sau hạt nhân trên thế giới. Gotland là hòn đảo được gán tên cho dân Scandinavi di cư vào lục địa châu Âu, tổ tiên chung của các giống dân Nga, Thụy, Đức, Phần Lan, Na Uy, Baltik, Đan Mạch..... mà những người làm thuê kiếm ăn trong La Mã thường được gọi là "Rợ Gốt", mang theo thứ văn hóa được dân La Mã thèm thuồng là "văn hóa Gô-Tích", "kiến trúc Gô-Tích", "chú kiểu Gô-Tích".... Vì vậy cái lớp tầu này cũng là "Tầu ngầm Gô-Tích". Các tầu ngầm Gô-Túc gồm 3 chiếc, khởi công năm 1992 và bắt đầu phục vụ 1996. HMS Gotland , HMS Uppland , HMS Halland .
    http://www.kockums.se/en/products-services/submarines/stirling-aip-system/
    http://www.kockums.se/en/products-services/submarines/gotland-class/

    Các tầu ngầm Gô-Tích có choáng nước chìm 1599 tấn, dài 60,4 rộng 6,2, mang 4 ống lôi 533mm, và thêm 2 ống bơm mìn 400 mm (ống bơm mìn cũng có thể coi là ống phóng ngư lôi nhỏ, có thể bố trí khắp quanh tầu trước sau giữa). Máy AIP gồm 2 máy Kockums V4-275R, mối máy có công suất tối đa đột xuất 75kw, công suất tối đa thường xuyên 64 kw. Tổng là 128 kw (tối đa đột xuất 150 kw).

    Ngoài ra, Thụy Điển đóng lại 2 chiếc lớp Vastergotland. Lớp Vastergotland ban đầu có 4 tầu ngầm, choáng nước chìm 1150 tấn, dài 48,5 mét, rộng 6,1 mét, bắt đầu phục vụ vào các năm 1987-1989. Sau đó, hai chiếc cuối của lớp là HMS Sodermanland và HMS Ostergotland được đóng lại bằng cách chèn thêm khúc giữa có máy AIP, phục vụ trong cấu hình mới vào các năm 2003-2004. Phần AIP cũng có 2 máy Kockums V4-275R. Sau khi đóng lại, được gọi là lớp Sodermanland Class, choáng nước chìm 1700 tấn, dài 60,5 mét , rộng 6,1 mét.

    Còn lại, 2 chiếc đầu của lớp Vastergotland là HMS Västergötland và HMS Helsingland được bán cho Sing Gà Phò năm 2005, không có cải tiến gì nhiều. Chương trình tầu ngầm thử nghiệm A26 định thay thế các tầu ngầm Gô-Tích cũng vẫn dùng Stirling Kockums.

    Chiếc Gô-Tích HMS Gotland được Mỹ thuê một năm 2005-2006, thu được những tiếng vang lớn. Điều này là một trong các nố lực đòi ngân sách quân sự Mỹ phát triển tầu ngầm mà họ đình đốn từ 197x nay đã quá lạc hậu. CÙng với nhiều nỗ lực khác, nhưng ngân sách quân sự Mỹ vẫn ngó lơ với tầu ngầm.

    Lớp Soryu Class của Nhật Bản cũng dùng 4 náy này, tổng công suất 256 kw, tối đa đột xuất 300 kw. Soryu choáng nước chìm 4200 tấn, bắt đầu ngận nhiệm vụ 2005, và có khả năng xuất khẩu sang Úc. Ngoài ra, chiếc Asashio SS-589 lớp Harushio class nhận nhiệm vụ năm 1997, vào năm 2002 thì nó được dùng để thử nghiệm AIP, tầu này choáng nước khi lặn 3200 tấn, nổi 2900 tấn.


    Đốt ngoài sẽ tách biệt được áp lực của lửa và áp lực chất giãn nở sinh công, nhờ đó đốt được ở áp suất cao và tống sản phẩm cháy ra ngoài dễ dàng. Nhưng hiệu suất thấp và máy phức tạp nặng nề công suất thấp.

    Kockums Stirling dùng O2 lỏng và dầu thường để đốt. Chất giãn nở sinh công là He. Nồi hơi cách ly có "ống nước" He và "ống lửa" là chất đốt, nén N2 truyền nhiệt giữa "ống nước" và "ống lửa".

    Thật ra, Stirling chỉ là cái đồ chơi thú vị mang tính nhố nhăng. Một cái máy đốt ngoài hoàn chỉnh cần tách chức năng nén và giãn nở sinh công riêng ra, các thiết bị được chuyên dùng.

    Điều này cho thấy bản thân Gotland Class và các lớp tầu khác dùng máy này cũng có tính ****** đồ chơi, như là cái tầu ngầm Tây Ban Nha đi quyên tiền.


    Và MESMA, không làm được gì tiến bộ ngoài việc mua bình chứa gốc Nga, dùng hơi nước quá lạc hậu. Đủ các nhược điểm: đắt, nặng, ồn ào, và đẳng cấp là dành cho tầu ngầm đóng gần xong mới biết không nổi lên được. Và giá với nặng nề thì hết sức phi lý.
    ..................................







    Ngoài cái kết luận ******, thì một đặc điểm chung là, các AIP trên trừ có S180 U1 , có vẻ như nhớ cũ, còn tất cả đều có công suất yếu, chỉ đủ cho tầu chạy 4-6 knot. Điều này cho thấy, chiến thuật của chúng đã thay đổi, với các ưu tiên ỉa bậy hơn là cắn trộm. Các tầu này đều có công suất máy đẩy ngầm cao hàng ngàn kw chạy ắc quy, các AIP trên đây chỉ phụ nạp ắc quy khi đi ngầm, cắn trộm ỉa bậy bị lộ chì co cẳng chạy.

    Như vậy

    Các AIP sau hạt nhân có dải công suất giống nhau chỉ trừ U1 thử nghiệm của Đức. Vậy từ đây nói AIP sau hạt nhân là chỉ còn 3 cấu hình trừ U1 của Đức.

    khác với
    Hellmuth Walter, 615 và S180 U1, các AIP sau hạt nhân chủ yếu vẫn là tầu ắc quy chỉ bổ sung máy phát điện nhỏ, có công suất rất nhỏ so với 4-8 ngàn kw tối đa của máy đẩy ngầm. Tác dụng của các máy AIP sau hạt nhân chỉ là xạc ắc quy khi lặn hoặc di chuyển với tốc độ rất chậm-nếu như không dùng ắc quy khác cấp cho máy chính.

    Công suất các AIP đó chỉ 150-200-300 kw. Ví dụ, Soryu 4200 tấn có công suất máy ngầm 8000 kw, nhưng có công suất máy AIP ngầm chỉ tối đa không thường xuyên 300 kw / tối đa kéo dài 256 kw.

    So với các AIP trước hạt nhân, thì phần AIP của các tầu sau hạt nhân cũng rất yếu, ví dụ tầu 615 504 tấn có công suất 2300 ngựa khoảng 1750 kw.

    So với các hạt nhân thì các tầu không hạt nhân đều rất yếu, ta đã ví dụ Lira 705 3200 tấn hơn 30 ngàn kw máy chính không kể máy phụ.

    Như vậy, Với bản chất là các tầu chạy ắc quy cực êm, thì pha máy nhiệt vào gây ồn là nhiều ngớ ngẩn. Như ta đã nói, đó là sự lừa đảo. Nga và Đức hướng tới tầu chạy ắc quy chứ không phải AIP, vì người ta không điên rồ đi thay tầu 30 ngàn kw bằng tầu 300 kw, và các mafia lừa đảo tuyên Nga-Đức dùng AIP để lắp các máy nhiệt.



    Điều kết luận về 2 đời AIP trước và sau hạt nhân là.

    AIP nhiệt trước hạt nhân đã được thay bởi hạt nhân. Các AIP này cũng như hạt nhân đều là các tầu có máy nhiệt động lực mạnh khi chạy ngầm. Thử nghiệm cuối 198x đầu 199x của chiếc S180 U1 cũng là loại này. Điểm khác biệt giữa lớp AIP này và các AIP sau hạt nhân là: máy AIP của chúng là máy đẩy chính khi lặn ngầm, còn các AIP sau hạt nhân vẫn là tầu ngầm ắc quy chỉ thêm AIP để đi ngầm với tốc độ chậm và nạp ắc quy khi lặn ngầm. Các AIP trước hạt nhân có công suất rất lớn so với phần AIP của tầu có AIP sau hạt nhân.

    AIP sau hạt nhân bắt đầu từ Liên Xô, Đức bám theo Liên Xô, còn lại đều là của giả, kể cả Thụy Điển-Nhật và Pháp-Tây Ban Nha- Ấn Độ-Malaysia.... Theo quan điểm của Liên Xô và Đức thì bản chất các tầu ngầm này vẫn là tầu ắc quy, chỉ có thêm bộ nạp điện cho ắc quy AIP, bộ nạp điện đó vấn là pin để đảm bảo êm nhu ắc quy. Công suất tối đa khi chạy ngầm của chúng vẫn lớn vài ngàm kw, dùng để tấn công hay co cẳng chạy, đạt được bằng ắc quy. Còn khi bỏ neo chờ cắn trộm ở đáy biển chúng vẫn âm thầm xạc ắc quy bằng pin hydro, hoặc có thể lẽo đẽo hành quân xa với tốc độ 4-6 knot bằng AIP.

    Còn các của giả chạy máy nhiệt thì gây tiếng ồn, nên mới cố nhồi sọ rằng hạt nhân không phải AIP siêu đẳng động cơ hơi nước đốt cồn. Thực chất, đây là lợi dụng tiến bộ mới về kỹ thuật mà Nga tung ra, là các bình chứa O2 lỏng đời mới có cốt lõi kỹ thuật là titan, các của giả đem lắp vào các máy lạc hậu hàng trăm hàng ngàn năm.

    Có gì để nói về các của giả: máy Stirling nghe lạ tai nhưng thật ra là thứ đồ chơi bán ế 200 năm không ai dùng. Động cơ đốt trực tiếp đầu xi lanh có từ thế kỷ 17, Stirling gây được ấn tượng vì rất đơn giản, nên hay được ***g kính làm đồ chơi trong trường phổ thông dạy trẻ con về máy nhiệt, nên đọng trong não các con lợn không bao giờ lớn quá tuổi nhi đồng. Nhưng Kockums còn biết chuyển sang dùng He giã nở sinh công cho hiện đại, MESMA vẫn là hơi nước cổ lỗ với rất nhiều nhược điểm như nhiệt dung riêng pha lỏng quá cao và nhiệt độ-áp suất ngưng lớn, gây hiệu suất rất thấp, mà nay các máy hơi nước chỉ dùng để tận dụng than đá rẻ tiền. Cái danh dự của MESMA là trang bị cho S80 , chương trình hơn tỷ đô đóng gần xong mới biết không nổi lên được.

    Máy Stirling nổi tiếng trên mạng hàng trăm năm, nhà nhà làm Stirling người người phát minh Stirling, cũng như hôm nay bên Mỹ nhà nhà có Fuel Cell người người phát minh Fuel Cell. Trong các thiết kế trên mạng có rất nhiều ảo thuật - tất nhiên chưa từng thử nghiệm, về hiệu suất của chúng và các thiết bị tạo ra hiệu suất đó. Nhưng đơn giản là nó bán ế 200 năm.

    Có thể chú thích với các Kockums và MESMA rằng. Một cái máy nhiệt đốt ngoài hiện đại cần tách riêng chức năng nén và giãn nở sinh công, như thế các thiết bị có tính chuyên dụng, thực tế, bền bỉ . Và nên từ bỏ cái hơi nước đã quá cổ lỗ đi, vào 1700, hiệu suất máy quá thấp, nên không thể kéo máy nén, người ta mới dùng nước ở pha lỏng bơm vào súp-de đỡ công nén nhưng làm giảm hiệu suất, và cũng 1700 đó nước lỏng tránh dễ dàng quá nhiệt nổ nồi. Ngày nay có rất nhiều chất giãn nở sinh công đã được dùng như He, Argon...

    Và, đốt ngoài mà làm gì. Sang Nga và Đức xem chúng nó đốt trong. Tầu 500 tấn 615 Liên Xô được 1750 kw, Đức S180 U1 cũng 500 tấn được 2250 kw, hồi cổ tám mông WW2 Hellmuth Walter được hơn 3000 kw tầu to hơn. Cái tầu Soryu 4200 tấn chẳng lẽ không nhét được và chống ồn cho cái máy của tầu 500 tấn, để có công suất gấp 6 lần con số 256 kw khốn nạn thủ dâm.

    Toàn bộ sự thật là như vậy. Tất cả các AIP hóa sau hạt nhân, gồm 4 loại. Một là Pin H2-O2 do Siemens bán Nga-Đức dùng. Hai là Kockums Stirling Thụy Điển cũng nằm trong tay Đức, Thụy Nhật dùng và Mỹ mượn về xóc lọ. Ba là MESMA Pháp, Tây Bán Nhà, Malaysia, Ấn Độ. Bốn là động cơ Diesel chu trình kín CCD của Đức nhưng chính Đức dẹp đi rồi.

    Cả bốn đều dựa trên một phát triển kỹ thuật cốt lõi, là bình chứa O2 lỏng thế hệ mới. Chúng có khả năng cách nhiệt rất lớn, chứa O2 ở -180 độ C, áp suất 7-10 atm, rất cách nhiệt, tốn ít điện nằn khi bảo quản O2 hàng tháng trời. Lỹ thuật này có cốt lõi là gian công titan của Nga.

    Tuy nhiên, các AIP hóa-nhiệt đã lắp kỹ thuật duy nhất mua của Nga đó vào các kỹ thuật siêu cổ điển, để làm các ******, và các ****** đó chưa ra đời đã tự chứng minh hạ đẳng.

    Tính hạ đẳng chó lợn của các AIP nhiệt sau hạt nhân cũng như là Ictineo II của ông Narcís Monturiol i Estarriol, người Tây Ban Nha, 1865. Ông ta đóng tầu gỗ và đốt kẽm lấy nhiệt chạy máy hơi nước. Đó là thời đại đã có lò Mác-Tanh, và đã có xe chạy điện, pin kẽm đã được phát triển hàng trăm năm đến mức hoàn thiện gần như ngày nay. Chỉ cần nói rằng, nếu thay cho đốt kẽm chạy máy hơi nước, bằng lấy kẽm đó chạy pin, thì hiệu suất cao hơn 10 lần và an toàn hơn nhiều. Nhưng các chính phủ nghiêm túc lúc đó đã không làm tầu ngầm, vì họ đã tính được rằng tầu ngầm chưa dùng được, còn ống Narcís Monturiol i Estarriol người Tây Ban Nha thì đã dùng được tầu ngầm, vì ông quyên được 160 kg vàng đóng tầu hết cùng lắm là 5-10 kg vàng.

    Tây Ban Nha có cả Ictineo II của ông Narcís Monturiol i Estarriol vvaf S80 đóng gần xong mới nổi lên được. Bây giờ dùng máy hơi nước bằng Oxy lỏng, thì có khác gì Ictineo II của ông Narcís Monturiol i Estarriol đốt kém chạy máy hơi nước. =))





    ==========================


    Nếu như nói về pin và ắc quy thì có đôi điều.

    Chúng ta ai cũng biết một vài điều cơ bản về pin và ắc quy. Về định nghĩa gốc, chúng là các thiết bị biến đổi năng lượng hóa học thành năng lượng điện. Khi phát điện, tất cả các pin và ắc quy đều có cấu tạo gồm ba phần: cực âm sinh điện tử, cực dương tái hòa nhập điện tử, và dung dịch điện phân. Các pin và ắc quy đều hoạt động dựa trên phản ứng tạo điện áp của các điện cực tan vào dung dịch điện phân. Cũng là biến hóa năng thành dạng năng lượng cơ thể biến thành cơ năng đẩy tầu, thì pin có hiệu suất rất cao thấp khác nhau. Các pin kim loại có hiệu suất cao.

    Ví dụ, khi kẽm ngâm trong dung dịch a-xit hoặc đơn giản hơn là muối ăn, thì một số nguyên tử kẽm tan vào dung dịch tạo thành các ion Zn-2, chúng để lại các điện tử trong thanh kẽm. Thanh điện cực kẽm nếu không nối đi đâu sẽ mang điện âm, hút các ion kẽm kia ở lớp sát điện cực, không cho tan vào dung dịch, phản ứng hóa học dừng. Phản ứng trên tạo ra một điện thế giữa điện cực kẽm và dung dịch. Nếu như có một kim loại không phải kẽm thực hiện phản ứng đó, thì nó sẽ cho một điện thế khác. Nối hai điện cực này sẽ có một dòng điện. Hiệu điện thế khác nhau giữa các điện cực làm bằng các chất khác nhau là sự phân cực.

    Ta có thể ví dụ đơn giản như sau. Có hai điện cực bằng kẽm Zn và đồng Cu cùng nhúng vào dung dịch muối đồng như CuCl2. Bên điện cực đồng không tạo điện thế nào. Bên điện cực kẽm, thì lực hút ion kẽm và điện tử nhỏ hơn ion Cu+2, nên có xu thế ion Cu+2 chiếm vợ của ion kẽm, ion kẽm bị đẩy ra khỏi thanh kẽm tan vào dung dịch. Phản ứng sẽ dừng nếu không nối hai điện cực vì điện thế thanh kẽm như trên. Nếu như nối hai điện cực, thì điện tử chạy từ điện cực kẽm sang điện cực đồng. Trên mặt điện cực đồng, điện tử sẽ nhập với ion Cu+2 tạo thành nguyên tử đồng bám vào điện cực đồng. Phản ứng Zn+CuCl2 = ZnCl2+Cu. Nhưng phản ứng diễn ra hai nửa ở hai bên điện cực, Zn tan ở cực âm và Cu kết ở cực dương.

    Cái pin đồng-kẽm mô tả trên không nạp được, vì khi điện phân pin đã chạy, ion đồng sẽ bám vào cực kẽm thay cho ion kẽm. Ban đầu khi pin xả điện, thì điện cực kẽm tan và đồng bám vào điện cực đồng. Nhưng khi cắm điện ngoài âm vào cực kẽm có ý muốn xạc , thì lại bám vào đó là đồng.

    Pin Volta là hai điện cực đồng kẽm cắm vào a-xit. Phản ứng là Zn+ H2SO4 = H2 + ZnSO4. Pin Con Thỏ là phát triển tiếp theo với các điện cực kẽm-than chì và dung dịch điện phân là Clorua Amôn NH4Cl, cực dương của nó là thanh than chì bọc than hoạt tính chứa MnO2 = chất oxi hóa, kẽm đẩy Hydro ra khỏi dung dịch, Hydro mới sinh bị oxy hóa thành nước. Pin Volta ra đời đúng 1800, chỉ vài chục năm sau đó khoa học đã hoàn thiện nó như pin con thỏ ngày nay với vai trò là thiết bị phát điện gần như duy nhất để nghiên cứu điện.

    Chất MnO2 trong pin Con Thỏ để tránh "sự tách cực" khi các bọt khí bám vào điện cực làm điện cực tách khỏi dung dịch. Dung dịch trong pin Con Thỏ hòa vào bột cho "trạng thái rắn" gọn nhẹ. Sự tách cực trong pin của máy lớn có thể dễ dàng thự hiện hơn như đơn giản là quấy.



    Một ắc quy đơn giản có thể ví dụ thế này, có Na-S. Ắc quy loại này có các điện cực là Na và S ở trạng thái nóng chảy, chất điện phân là Na2S cũng nóng chảy. Dễ hiểu, khi phát điện là 2Na+S=Na2S. Khi nạp là Na2S=2Na+S. Nghe thì dơn giản, nhưng cái ắc quy này lại chỉ chạy ở 300 độ C, và nếu như không biết thiết kế thì xóc nó lên là nó nổ. Điền đáng quan tâm là ắc quy Na-S có hai điểm cực cao: khả năng chứa điện trên khối lượng và hiệu suất.

    Loại ắc quy thông dụng là ắc quy axit-chì. Hai điện cực lúc chưa xạc là PbSO4, dung dịch là H2SO4. Khi xạc, điện cực âm sẽ thanh Pb, điện cực dương thành PbO2. Ắc quy axit-chì là ắc quy phổ biến trên tầu ngầm cũng như dân sự, nó không dùng nguyên liệu hiếm và chiến lược, rẻ tiền, dễ thiết lập chu trình tái chế. Nhược điểm của nó là nặng. Với hàng dân sự thì có thêm nhược điểm là tuổi thọ thấp, điều này được khắc phục trong hàng quân sự tránh được sự sùi cực. Với tầu ngầm thì nặng không thành vấn đề lắm. Ắc quy này ra đời 185x.

    Loại ắc quy hay dùng chỗ nào nhẹ là ắc quy kiềm (NaOH) hoặc cách gọi khác là ắc quy kền (Ni). Nhẹ hơn ắc quy chì nhưng vướng nickel là nguyên liệu chiến lược, chỉ dùng cho các nhu cầu số lượng ít.

    Chúng ta đã đề cập đến dòng ắc quy hydro các loại. Chúng có phản ứng chính là hydro vào ra dung dịch. Điện cực âm làm bằng các kim loại hoạt hóa hydro, như Ru Rh Ni Fe Pt Pd.... Trong viên pin nhỏ thì H2 không thoát ra mà ở trong một số chất trung gian. Còn loại pin cho máy móc lớn thì dùng khí H2. Loại pin Ni-H dùng trên các Molnyia 1965 là cái này. Dòng pin H2 còn có rất nhiều biến thể như Ni, Ni-Cd , Ni-Fe... Nicken được dùng làm điện cực âm hoạt hóa từ lâu đời. Loại mà chúng ta hay nói đến là pin H2-O2, thì không dùng điện cực dương là các chất hấp thụ rắn, mà xài luôn khí O2, cộng với cực âm H2 cũ, cả hai cực đều là chất khí. Như đã bàn, pin Siemens kết hợp khéo léo tính hoạt hóa của Ru Rh rất mạnh và khả năng khai mỏ này của đồng minh Nga trên khắp thế giới, hãng Norilsk Nickel.

    Nhược điểm của pin dùng H2-O2 là hiệu suất thấp do năng lượng để lắp ráp và phân tác các phân tử H2 và O2, không như các kim loại ở trạng thái nguyên tử. Điều này ngược hoàn toàn với các chó sủa trong phong trào toàn dân phát minh Fuel Cell, nhà nhà làm Fuel Cell, rất kiểu M.

    NGoài việc dùng trên tàu ngầm, pin H2 được dùng trên vệ tinh Liên Xô Molniya vì lúc báy giờ vệ tinh này chứa như ngày nay, mà máy điện tử ngâm trong khí điều hòa nhiệt độ. Khí này làm lạnh bằng máy lạnh nén khí, và hâm nóng bằng nguồn nhiệt từ pin


    Điện cực khí hoặc lỏng.

    Với các tầu ngầm chạy ắc quy, thì xuất hiện nhược điểm là nó nạp rất lâu. Tầu có thể nạp bằng cắm điện trên bờ hoặc nổi lên nổ máy dùng xăng dầu và không khí. Đồng thời, trữ năng lượng cả các ắc quy thấp so với trữ xăng dầu và oxy lỏng, nếu so khối lượng.

    Như vậy, để đảm bảo chạy ắc quy như Nga-Đức yêu cầu, thì cần đến loại ắc quy bơm được điện cực bằng cách dùng điện cực khí hoặc lỏng. Ắc quy có điện cực rắn như ắc quy chì thì không bơm được điện cực rắn có cấu tạo phức tạp.

    Loại pin có điện cực lỏng Na-S có trữ năng lượng rất lớn và là lỏng. Trữ năng / khôi lượng của của pin này cao, nếu tính cả bì thì không khác gì trữ dầu và O2 lỏng dùng cho máy nhiệt, kích thước nhỏ hiệu suất cao cho phép tầu vận động hết tốc độ bằng AIP ngầm chứ không chỉ lờ đờ 4-6 knot, và có thể bơm được từ tầu khác và cảng xuống tầu, hay chứa chúng trong các thùng tiêu chuẩn như thùng bia - bình gas nấu ăn. Điều xuất sắc là hiệu suất nạp-xả của chúng đến 95%, đặc biệt cao. Tuy vậy, loại pin này khi để Na và S nóng chảy chạm vào nhau sẽ cháy nổ, cần đến cấu tạo và điều khiển đặc biệt. Loại pin này làm việc từ hơn 100 đến 300 độ C, nên khó dùng ở cỡ nhỏ như pin máy tính, nhưng nhiệt độ không thành vẫn đề với những pin hàng trăm tấn của tầu ngầm. Liên Xô là nước phát triển loại này đã đến mức ứng dụng thực, nhưng tiếc là không thuộc về Nga, cũng như Akula 941.

    Và chỉ còn H2-O2, thứ này gọi là pin đúng hơn gọi là ắc quy, nhưng kết một một vài máy móc thì tính năng ắc quy đầy đủ, trong khi không làm sứt mẻ tính năng pin. Như đã nói, Nga Đức đã chung nhau pin này và Nga hiện có chương trình dự phòng của riêng. Xô là nước đi đầu sử dụng điện cực âm của dòng hydro, là nước dùng Ni-H đầu tiên trên vũ trụ, và sớm phát triển các thành phần khác, cũng như đảm bảo các kim loại hoạt hoá cực âm bởi công ty khai mỏ kim loại hiếm độc tài thế giới Norilsk Nickel, cũng như phát triển titan để có bình chứa. Siemens góp vốn các giải pháp hiện đại trong đó có lưới lọc proton. Ắc quy / pin H2-O2 khi tầu tự nạp thì nó sản xuất H2 O2 ở chỗ khác, phần phát điện chuyên nghiệp. Nó quá lý tưởng thỏa mãn toàn bộ các yêu cầu: chạy ắc quy, điện cực lỏng-khí bơm được bằng hậu cần không cần tầu tự xạc, tầu tự xạc được khi nổi bằng xăng dầu, trữ năng lớn. Hiện nay, chưa H2 còn khó phải chữa dạng chai khí nén chưa chứa được lỏng, nhưng pin đã khá khỏe cho tầu ngầm AIP sau hạt nhân, nên tương lai rất hứa hẹn với việc phát triển trữ năng của pin khi có cách chứa H2 lỏng. Về hiệu suất, pin H2-O2 có hiệu suất khoảng 15% kể từ lúc nạp-xả, 20% nếu chỉ xả, thấp hơn nhiều pin / ắc quy Na-S.
  4. shinsaber

    shinsaber Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/04/2009
    Bài viết:
    1.644
    Đã được thích:
    483
    Ủa chứ giờ thằng nào được thừa kế cái của đó vậy?
  5. huyphuc_ttvnol

    huyphuc_ttvnol Thành viên gắn bó với ttvnol.com Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    30/05/2012
    Bài viết:
    1.490
    Đã được thích:
    1.047
    Liên Xô không chỉ có Nga bạn ạ. Một trong nhưnbgx cái Nga không thừa kế được của Liên Xô có thể kể về máy động lực.

    Động cơ xe tăng trước 1991 là loại máy đẩy turbo, hai thì, có 2 hàng xi lanh / 1 trục khủy như máy V, nhưng máy này hai hàng xi lanh nằm ngang đối đầu nhau. Việc thiết kế đúng đắn các turbo sẽ cho phép máy hai thì khắc phục được nhược điểm lẫn khí cháy rồi. Tỷ số công suất / dung tích xi lanh lớn gấp gần 2 lần máy 4 thì nếu so ở cùng một tốc độ. Loại máy đẩy xe tăng này thấp, tạo ra xe tăng thấp và khỏe đặc trưng của Liên Xô, 1200 hp. Cho đến 1999 Nga mới thực hiện được máy chạy pít tông 1250 HP, trước đó chấp nhận máy 750 hp. Thêm nữa, để có V99 1250 HP, Nga phải mua kỹ thuật phun dầu điện tử Đức, và chấp nhận hoán cải xe làm cao thêm khoang máy một chút. Cấu tạo V99 là máy V 4 thì bình thường như máy ô tô.

    Một thế hệ tầu ngầm được Nga bỏ là 941 Akula , NATO Typhoon. Đây là các tầu ngầm lớn nhất thế giới. Sau 1991, Mỹ chi tiền cho Ucraina dỡ , nên Mỹ biết cấu tạo chi tiết đến từng cái đinh ốc. CHính vì thế mà có chương trình Seawolf Class, Mỹ tưởng là nhờ Ucraina sẽ có tầu ngầm sánh với Nga.

    Đạn của 941 Akula cũng do Ucraina sản xuất. Hiện nay các 941 bên Nga vẫn còn, nhưng Nga đã quyết chỉ giữ lại 1-2 cái làm tầu thử nghiệm tên lửa, còn lại dỡ sắt vụn.

    Một loại máy động lực mạnh mẽ là tên lửa. Tên lửa Zenit do Ucraina làm phàn chính. Ucraina đem tên lửa đó lien doanh với Mỹ ở Sealaunch . Gần đây,k báo chí chó dại có vtc5 ra rả một trang la liếm Sea Launch như một thành tựu vĩ đại của vũ trụ Mỹ =)). Thật ra, Công ty Sea Launch được thành lập do Mỹ nắm cổ phiếu quyết định, bao gồm Na Uy, Mỹ, Ucraina, Nga. Nhưng về vũ trụ chỉ có Nga và Ucraina. Như chúng ta đã biết, sau đó Nga bóp chết Sea Launch, thu cổ phiếu quyết định, giành quyền sản xuất hoàn toàn Zenit.

    Các động cơ máy bay phần nhiều Nga vẫn mua của Ucraina. Niềm tự hào về máy bay Liên Xô cũ là An-124/An-125 đều của Ucraina. Hiện nay Nga không thâu tóm quyền sản xuất hai máy bay này, nhưng quyết định việc sản xuất chúng. Hiện các máy bay này được Âu-Mỹ-Tầu đề nghị Nga tăng sản xuất trở lại.
    =================






    Mình đã nói về cái chương trình Seawolf Class.

    Đây là lớp tầu ngầm có tham vọng đạt được những điểm số như tầu Nga, lặn sâu 600 lặn nhanh 35. Những điểm số này đặc biệt quan trọng với tầu ngầm tấn công. Như chúng ta biết, rất ít vũ khí mò xuống đến 600, và độ sâu này rất êm, do hạ âm phản xạ mặt biển sẽ dội xuống đáy, bị đáy biển hấp thụ, không như tầu lặn nông hạ âm phản xạ ôm theo mặt biển đi xa hàng ngàn km.

    Tuy vậy, lớp tầu không thành công. Thay cho 29 chiếc chỉ có 3 chiếc được đóng, tất cả đều theo tiêu chuẩn Mỹ, và chương trình bị dừng lại thay bởi Virginia Class. Virginia thì ngay từ đầu đã khiêm tốn với tiêu chuẩn Mỹ rồi. Cả 3 chiếc Seawolf Class đều có tốc độ lặn tối đa 25. Có chiếc lặn sâu 240 và có chiếc lặn sâu 320. Cũng như Virginia class, các tầu Seawolf Class đều không có độ sâu và tốc độ bằng tầu ngầm chở đạn chiến lược Nga. Tức là con mồi thịt đi nhanh lặn sâu hơn thú săn chuyên nghiệp.=))=))=)) Thạm chí là các con mồi thịt đó ăn thịt thú săn rồi mà thú săn vân chưa biết sự có mặt của mồi thịt.





    Về tầu ngầm thì các chó dại động cỡn hơn Sài Đồng. Điều này là đương nhiên. Vì thậm chí là Mỹ không có lấy một mẩu tầu ngầm điện, báo hại Đài Loan không thể có tầu ngầm. Cứ nhìn xem các chó dại quen mặt ở đây thì biết.

    Riếng về Seawolf Class thì các chó dại tiếng Việt tặng hẳn một chiến dịch. Cái lớp tàu ngầm hỏng bị bỏ ấy được đàn chó dại tiếng Việt mút c liếm l, bôi trát vào thành siêu tầu ngầm hiện đại nhất nước Mỹ. Nguồn gốc thì có đâu xa, cứ cái cám nào đặc mù lợn chó, thì lên wiki là thấy.

    vtc, đài truyền hình lớn nhất xây lên bằng tiền thuế
    "Các tàu ngầm Lớp Sói Biển của hải quân Mỹ ra đời là kết quả của cuộc chạy đua vũ trang với Liên Xô trong Chiến tranh lạnh, với những ưu thế được giới chuyên gia quân sự đánh giá vượt trội các tàu ngầm tấn công của hải quân Liên Xô.
    Tuy nhiên, khi Chiến tranh lạnh kết thúc và quan trong hơn cả là do học thuyết chiến tranh trên biển của Mỹ đã thay đổi, từ lực lượng hạm ngầm chiến lược chuyển sang xây dựng các lực lượng tác chiến ven bờ tinh gọn, hiệu quả hơn.
    " (toàn bộ các tầu ngầm các lớp này đều được khánh thành sau 1997 =)))

    "Theo xếp hạng của các chuyên gia vũ khí Nga, hạm ngầm SSN Seawolf Class đứng ở vị trí thứ 2 trong top 10 tàu ngầm tấn công mạnh nhất thế giới hiện nay."=))=))=)) Chắc lại thuê mấy thằng NGO người Nga sủa.

    "Tốc độ di chuyển khi lặn của các tàu ngầm Lớp Sói biển có thể đạt tối đa 35 knot (64,82 km/giờ); " Con chó đẻ vtc cho hỏi, trong 3 cái tầu ngầm đó, gồm Seawolf (SSN 21), Jimmy Carter (SSN 23), Jimmy Carter (SSN 23) , cái tầu ngầm nào chạy được quá 30 knot. Đây là đài truyền hình lớn nhất Việt Nam đấy nhé.

    "Độ sâu tối đa có thể lặn và hoạt động đạt 610 m". Loại chó dại vtc cho hỏi, trong 3 chiếc tầu đó, gồm Seawolf (SSN 21), Jimmy Carter (SSN 23), Jimmy Carter (SSN 23) , cái nào lặn quá 320 mét. Đây là đài truyền hình lớn nhất Việt Nam đấy nhé.





    Còn đây là những báo chí tiếng Việt khác
    "Trong chương trình trang bị quân sự thế kỷ 21, hải quân Mỹ đang phát triển tàu ngầm hạt nhân tấn công Lớp Sói biển (SSN Seawolf Class) nhằm thay thế các tàu ngầm hạt nhân tấn công Lớp Los Angeles." Đấy là chúng sủa về loại tầu ngầm 199x không phát triển được và đã bị bỏ.


    Chó già bị đá ra sa mạc cũng góp nhời. Nghe cái giọng chó lợn đặc trưng ngu, thì biết ngày là chó già sủa.


    Vậy nên, các bạn mới chứng kiến cái topic này nhiều chó dại đến thế. Những nhà máy như vtc thì công suất sản xuất chó phải biết.





    =========

    Thôi, chúng ta đã quan sát gần hết các AIP rồi. Thật ra còn một loại AIP nữa, là các tàu ngầm cảm tử Nhật, nhưng chúng mang tính ngư lôi hơn là tính tầu ngầm, ta nói sau. Bây giờ chúng ta quay lại phân tích tiến trình phát triển khoa học để hiểu tại sao sau 1979 nước Mỹ đụt về tầu ngầm đến thế.

    Chúng ta đã thấy, Mỹ đụt 2 thế hệ, và nhân lên là 4 loại tầu ngầm

    Một thế hệ là các 941 Akula. CHúng mang được đạn rất lớn, mỗi đầu đạn có máy đẩy riêng rất lớn, để vượt qua phòng thủ vào thời chưa có các START, và dễ dàng đánh nhiều mục tiêu xa nhau trên diện rộng, có tính chiến lược đánh gẫy xương sống đối phương trong loạt đạn đầu. Để chở được nặng các tên lủa dùng chất đẩy lỏng.

    Hai là cũng tầu chở đạn chiến lược, các Borei chở Bulava. Khi các START trở nên ngặt nghèo, thì người ta đầu tư nhiều tiền thêm cho mỗi đầu đạn. Các đạn mang ít đầu đạn hơn, nhưng tên lửa rắn t=có thời gian trực chiến cao hơn. Rắn chở kém hơn lỏng, là một phần của đầu tư thêm tiền vào đầu đạn - hàng hóa mà tên lửa chở đi. Các Topol và Bulava có quỹ đạo thấp để né radar đánh chặn, mang nhiều mối giả gây nhiễu, có máy đẩy riêng mỗi đầu đạn lớn.

    Đi kèm tầu ngầm là Mỹ không có hai thế hệ tên lửa trên.

    Ba là loại tầu ngầm tấn công đeo bám tầu chở đạn chiến lược, cũng như những giải pháp như vậy cho tầu chở đạn chiến lược. Đó là các giải pháp giảm âm khi máy nghe phát triển, đặc biệt là hiệu ứng âm thanh hạ âm phản xạ ôm sát mặt biển. Mỹ không có những tầu lặn sâu, đi nhanh, bọc cao su dày chục phân, không nhiễm từ... và có chế độ chạy êm giảm hay ngừng tuốc bin hạt nhân, cũng như có chân vịt đóng kín pump jet. Sau này Virginia nhật pump jet của Anh BAE, nhưng tầu chở đạn chiến lược không có.

    Như chúng ta đã bàn. Lặn sâu và giảm tuốc bin là yếu quyết của êm trong thời đại mới, do nó giảm âm thanh phản xạ mặt biển so với tầu lặn nông. Âm thanh này đi xa hàng ngàn km, và giúp máy nghe phan loại, định vị, định hướng đi, định tốc độ của mục tiêu.


    Bốn là tầu điện. Các tầu ngầm tấn công chiên thuật chuyển sang chạy điện cho thật là êm, Mỹ không có.

    riêng các tầu điện các nước đã phát triển được hai thế hệ. Đức có các 201/5/6/219 coi như không tính vì đây là các tầu kiểu cũ Đức mới được phép đóng tầu ngầm sau ww2. Còn hai thế hệ của Đức là 212 và 214. Nga có thế hệ đầu là các 877 và 636, sau là 677 Lada.

    Đến nay thì các tầu điện có AIP, Mỹ và các nước theo Mỹ xóc lọ với các mức độ khác nhau. Pháp làm đồ giả MESMA.

    Còn Mỹ, thì đặc sắc nhất là "nhà nhà làm fuel cell", "người người phát minh Fuel cell". Đầu tiên là pin, nhiều nhà phát minh quá đăng ký hết pin rồi thì có battery. Hết battery thì có cell. Có thể thấy phong trào trên qua wiki, bát cứ cái gì chó nhất lợn nhất đều thấy trên wiki. "The energy efficiency of a fuel cell is generally between 40–60%, or up to 85% efficient if waste heat is captured for use"


    Như chúng ta đã tính trên. Hiệu suất chỉ tính phần phát của các pin H2-O2 chỉ đạt 19%. Con số này là quá thấp so với các máy đốt trong, và cả các máy hơi nước lạc hậu nhưng có nhiệt độ hơi 300 độ C trở lên, bao gồm các máy hơi nước phát điện ở các mỏ than rẻ tiền thay cho chuyển than đi 300 độ C 30% mà chúng ta đã tính. Pin này có hiệu suất ngang với các máy hơi nước trên tầu ngầm cổ khi không chạy tuốc bin phụ, vì gọn nhẹ nên người ta không kéo tầng áp thấp vớt năng lượng.

    Phép tính này rất dẽ dàng, học sinh ai ai cũng hiểu được. Vậy wiki dành cho ai, cho chó cho lợn-đương nhiên thế. Chó lợn là ai thì các bạn cứ theo dõi topic này cũng đếm được mấy con đủ màu.

    Pin H2-O2 có hiệu suất thấp vì năng lượng liên kết các phân tử khí H2 và O2 cao. Năng lượng này tỏa ra khi các nguyên tử H và O tổng hợp thành H2 và O2. Năng lượng này thu vào khi ngược lại. Do đó, năng lượng phát điện của pin bị trừ đi năng lượng phân tách các phân tử H2 và O2 thành H và O tự do.

    Nhược điểm trên là nhược điểm chung của các pin điện cực khí. Siemens cũng đã phát triển phin H2-O2 nhiệt độ cao, dùng nhiệt năng của nó chạy máy nhiệt phụ. Nhưng hệ thống này cồng kềnh và không an toàn, không hiệu quả. Vả lại, nếu xem H2 và O2 là chất đốt bơm được, thì hiệu suất 19-20% không phải là thấp, không như khi xem H2-O2 là điện cực của ắc quy nạp lại. Như chúng ta đã nói trên, về đại thể các tầu ngầm này vẫn là tầu ắc quy, chỉ dùng máy AIP để xạc khi lặn và di chuyển khi lặn với tốc độ rất thấp. Máy AIP có công suất rất nhỏ so với máy đẩy chạy ắc quy. Như vậy, xem H2 và O2 là chất đốt bơm được như xăng dầu sẽ sang hơn đứng trên góc độ nổi tầu lên mặt nước chạy máy nổ để điện phân H2-O2, tức là nạp lại cho pin H2-O2 như ắc quy.


    Các điện cực lỏng kim loại ở dạng nguyên tử có hiệu suất rất cao khi nạp-xả. Đó là pin Na-S. Như vậy, vấn đề AIP là độc lập với vấn đề Na-S. Ưu thế của pin Na-S không như đám chó lợn Tây sủa khi kỹ thuật này biết đến từ Liên Xô cũ. Bản thân một khối pin Na-S phức tạp, nặng, nên khi thực hiện các cục độc lập không đáng giá. Ưu thế của nó chỉ có thể có được khi coi các điện cực Na và S là các điện cực bơm được như xăng dầu, chí ít là nội bộ trong quá trình xả-nạp trong tầu. Khi đó, một khối pin nhỏ, nhưng kho điện cực-chất đốt của nó lớn, tạo ra hiệu quả lớn, với trữ năng / khôi lượng ngang ngửa trữ O2 lỏng.

    Như thế, việc phát triển các pin H2-O2 và pin Na-S là song song, cả hai đều cần cho một tầu ngầm. Na-S làm ắc quy đẩy máy chính và H2-O2 để xạc ắc quy. Nếu không được nổi lên, tầu ngầm khi bỏ neo ở đáy biển vẫn có thể phát diện bằng AIP, nạp ắc quy , duy trì các máy móc vận hành, và khi gặp trận thì nó chạy mạnh mẽ hết tốc độ với ắc quy đầy.



    Chúng ta đã biết, tại sao các chó dại trong hệ thống báo chí được các công ty thực dân nuôi, bao gồm vtc, lại có những chiến dịch sủa đồng loạt như Seawolf hay ông Hòa. Nghệ thuật thủ dâm có từ ngàn năm qua và đang được các chó dại sử dụng, chúng cả gan lấy Hoàng Trường của chúng ta làm ******, định biến ông Hòa thành 160 kg vàng. Nhưng ở ta, dù bcs và thực dân sủa thỏa, thì ta vẫn là ta, bác Hòa vẫn là bác Hòa. Ta không như xã hội toàn chó dại bên Mỹ.

    Nhưng tại sao Mỹ lại đụt thế sau 1979. Để đến nỗi phải sai cho la liếm hạ đẳng nhục nhã đến thế ?
  6. trungnd010

    trungnd010 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    02/12/2011
    Bài viết:
    86
    Đã được thích:
    1
    Chó vẫn sủa, đoàn người vẫn đi.
  7. VasilyTran

    VasilyTran Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    12/10/2008
    Bài viết:
    900
    Đã được thích:
    167
    Đi thì đi cmn đi, còn đứng lại xổ vào đây coi chừng bị ị vào mồm!
  8. OnlySilverMoon

    OnlySilverMoon Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    20/10/2012
    Bài viết:
    1.307
    Đã được thích:
    1.299

    Định *** nói nhưng ghét thằng trình bày. Đã dốt còn tỏ ra có học.
    Thế bây giờ cho bạn có quyền, thì bạn sẽ làm cái gì để cứu cho cái xó này qua được tình thế khó khăn hiện nay? Học nó thì cụ thể là học nó điểm nào, dám làm là dám làm cái gì?
    Nói được thì tranh luận tiếp, không thì tắt tiếng đi cho nó sạch diễn đàn.
  9. longmuonhieu

    longmuonhieu Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    15/07/2013
    Bài viết:
    1.081
    Đã được thích:
    232
  10. luongmy

    luongmy Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    26/12/2010
    Bài viết:
    1.559
    Đã được thích:
    1
    [r23)]Đi thì đi đi chọc chó làm gì cho nó sủa ỏm lên :))

Chia sẻ trang này