1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Những bức ảnh có thể bạn chưa biết trong Kháng chiến chống Mỹ

Chủ đề trong 'Giáo dục quốc phòng' bởi vaputin, 28/03/2011.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    Ừ thằng cha nào nói một dặm, tớ đâu có nói, tớ chỉ cóp pát ảnh mà quên coi kỹ chú thích thôi. Tới giờ tớ chỉ nghe nói nó rơi ở Cát lái nhưng tớ vẫn chưa hình dung được nó rơi chính xác chổ nào.

    [​IMG]
  2. P20

    P20 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    02/11/2006
    Bài viết:
    5.619
    Đã được thích:
    203
    Bác xem lại, kể cả có đủ tiền thì cũng ko thể đưa hết 70k trẻ ra khỏi VN khi thời điểm sụp đổ của Sài Gòn đã cận kề, nên họ chỉ ưu tiên đưa những trẻ thuộc thành phần con lai ra trước. Thế nên kế hoạch hậu chiến bị hủy bỏ là tất nhiên vì những đứa đó là con lai, đen + trắng sau này không về làm chính trị gia được nữa thì cho nó quên luôn tiếng Việt cũng chả sao vì đằng nào nó cũng chỉ có 1 nửa là Vịt thôi.
    Chứ nếu họ đủ thời gian đưa được 70k đứa trẻ ra khỏi VN để làm kế hoạch hậu chiến như tuyên truyền thì cũng gay go to đấy. Chứ đem về nuôi thì hoan nghênh thôi>:D<
  3. MrKhuKhoam

    MrKhuKhoam Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    12/04/2011
    Bài viết:
    4.334
    Đã được thích:
    1.180
    Nhu Chua He Co Cuoc Chia Ly - Episode 29 : Mot Dan Toc Thong Nhat - Part 5/6
    [YOUTUBE]Tc5SBXyqCVY[/YOUTUBE]

    Tháng 4, 35 năm trước.

    78 đứa trẻ từ sơ sinh đến 7-8 tuổi đã chết trong chuyến bay định mệnh ngày 4/4, chuyến bay quân sự đầu tiên trong chiến dịch vận chuyển 3.300 đứa trẻ người Việt sang Mỹ và một số nước Tây, mang tên Chiến dịch Babylift.


    Hiện NCHCCCL đã nhận được 31 đề nghị tìm gia đình nguồn cội tại Việt Nam từ những người trẻ tuổi vốn là trẻ Babylift, tuy từ đầu họ đã được mặc định là "trẻ mồ côi". Trong NCHCCCL số 29 này, đoàn "Chiến dịch Đoàn tụ - Trở về Việt Nam 2010" với hơn 20 người trẻ tuổi mang quốc tịch Mỹ, Anh, Pháp, Na Uy, Australia, sẽ có mặt trong trường quay. Họ là những đứa trẻ Babylift của 35 năm trước, đã trưởng thành trong tình yêu thương của cha mẹ nuôi, được học hành đến nơi đến chốn. Ở tuổi xấp xỉ 40, họ đã ít nhiều thành đạt và trải nghiệm và đều có chung một điểm. Đó thường được gọi là cảm giác "khủng hoảng bản thể" khi mà một người bị ngắt ra khỏi đất mẹ của mình, lớn lên với vô vàn câu hỏi (vốn thường trực trong văn hoá Phương Tây) mà không thể trả lời: Tôi là ai? Những gì đã làm nên tôi?


    Sơ Susan chăm sóc những trẻ em cô nhi Việt Nam, 1975


    Một con người đặc biệt cũng tham gia chương trình. Sơ Susan MacDonald, người phụ nữ vào năm 1975, bằng sự chăm sóc của mình, đã tham gia Chiến dịch không vận cô nhi; và suốt 35 năm qua, đã hết lòng quan tâm đến họ. Lòng nhân từ của bà thể hiện qua thông điệp: Điều quan trọng nhất, là làm cho các em hiểu, những người mẹ đẻ của các em luôn yêu thương các em; và không gì tốt hơn là tìm được người ruột thịt tại Việt Nam cho mỗi một em.


    Cuối tháng 3 năm 1975.


    Hàng triệu đồng bào bị bỏ lại khi quân đội Việt Nam cộng hòa rút chạy khỏi các vùng chiến thuật. Những con đường chạy loạn từ Huế, Đà Nẵng, Chu Lai, hay từ cao nguyên về vùng duyên hải -- hàng ngàn đứa trẻ đã thất lạc gia đình.


    Tính đến trước chương trình live số 29 này, NCHCCCL đã đoàn tụ được 27 trường hợp trong tập hồ sơ có tên là "Đường Bảy". Nếu tính số năm mà họ phải sống ngoài đời không một người ruột thịt, không gốc gác, đã là (35 năm x 27). Gần một ngàn năm. Một thiên niên kỷ.


    35 năm hòa bình, những đứa trẻ tìm về cội nguồn, mẹ cha còn đi tìm lại những đứa con. Những chia ly bởi chiến tranh đang lành dần, khi dòng máu Việt thắm tươi đang chảy trong huyết quản mỗi chúng ta.


    Vụ Babylift (Bốc trẻ em)
    [​IMG] "Ông Dân Biểu" Nguyễn Văn Hàm Trong lúc tìm hiểu đề tài Babylift, liên quan đến “MS 118 – Tiffany Goldson tìm mẹ ở Việt Nam”, chúng tôi được tiếp cận với một “nhân chứng lịch sử”, một người nổi tiếng trên chính trường trước 75 với cái tên ngắn “Ông Dân biểu”. Ông là Nguyễn Văn Hàm, giáo sư, Nghị sĩ Hạ viện Sài Gòn. Ngay sau ngày giải phóng, ông từng là Phó Chủ tịch Ủy ban Nhân dân Sài Gòn. Trong cuộc đời ông, thời điểm nào cũng có những câu chuyện đấu tranh vì hòa bình, hoạt động nhân đạo, từ thiện đáng nể trọng. Ông từng là người đứng ra tổ chức các đoàn hội Phật giáo tương thân, đồng thời chính các đoàn thể này đã trở thành lực lượng chiến đấu vì hòa bình không mệt mỏi, từ năm 1967 đến ngày thống nhất đất nước. Vì lý do đó, ông đã từng bị chính quyền Nguyễn Văn Thiệu ám sát hụt.

    Do đứng giữa chính trường Sài Gòn, có quan hệ tốt với các bên, ông hiện nắm giữ nhiều tư liệu quý, một phần được ông ghi chép lại trong hơn 1.000 trang hồi ký, tựa đề “Ông Dân biểu”. Trong số đó, có tư liệu về chiến dịch Babylift, mà chúng tôi xin trích giới thiệu dưới đây.


    Tôi không biết gì hơn, nhưng việc mất Đà Nẵng làm tôi nghĩ, có lẽ Albert Francis, nhân vật quang trọng của CIA kiêm Tổng Lãnh sự ngoài đó thế nào cũng di tản vào đây. Chống gậy tới đường Tú Xương nhà Leymann, quả nhiên gặp hai vợ chồng Francis. Họ tiếp đãi rất tử tế.


    Tôi mời họ chớ chê nhà tôi tồi tàn chật hẹp, hãy đến dùng cơm. Họ vui vẻ nhận lời. Nhưng chỉ có mỗi anh chồng tới.


    Qua ly bia, tôi được biết Kiến, tức Earl Martin vẫn còn ở Quảng Ngãi. Vợ Martin thì đã cùng con trai Minh Martin về Mỹ. Tôi tỏ ra quan ngại cho Kiến. Francis cười khẩy bảo:


    “Ông đừng lo, ông Na, người cùng quê với tướng Trà, dạy Anh văn cho công tác thiện nguyện của Menonite ở Quảng Ngãi và thầy Huỳnh Ngọc Hiến, cả hai đều là học trò của ông Dân biểu. Năm ngoái hai người này đã tổ chức đưa Earl lên thăm vùng chiến khu ********* ở Nghĩa Hành, trước khi ông ấy tích cực giúp các ông phát động các cuộc biểu tình chống chánh phủ. Martin đã chụp hình đủ và đã gởi về Mỹ cho báo chí”


    Tôi cảm thấy nổi gai hết mình mẩy. Ra mạng lưới thu thập tin tức của Tổng Lãnh sự Đà Nẵng bủa khắp nơi, nắm từng chi tiết những hoạt động của bọn tôi, vậy mà gặp nhau chẳng bao giờ xì chút tin tức gì, lại vẫn đãi món Spaghetti ngon lành.


    Con người đó, đối lập với Tổ Quốc của tôi, ngồi ngay trước mặt, thân ái trong căn nhà nhỏ nầy, còn khá trẻ, học thức và nhã nhặn, rất lịch duyệt về ngoại giao. Đầu tháng tư, trời nóng hầm hập, chu vi căn phòng lại chỉ có 3m x 6m tương phản với cái khổ người to lớn của anh, cả cái quyền lực mênh mông mà anh mới tiếp thu nơi ngài Eims, Giám đốc cơ quan Tình báo Mỹ ở Việt Nam vừa nghỉ hưu. Anh ngồi đó, mồ hôi lấm tấm, Chàng nghĩ là anh thừa biết tỏng mọi công việc của mình, mà vẫn thản nhiên. Tại sao? Tôi hỏi:


    “Tình hình VNCH xem chừng quá tuyệt vọng. Liệu chính phủ Mỹ có tái can thiệp không?”


    Anh ta nhìn trừng trừng vào mắt tôi. Tôi cũng đáp trả, trân tráo nhìn lại.


    Cuối cùng anh nhoẻn cười, chậm rãi từng tiếng:


    “Ông thuộc lực lượng thứ Ba. Tất cả chúng ta đều biết, với Hiệp Định Paris, chúng tôi chấm dứt việc dính líu vào chiến tranh Việt Nam.

    Ngừng tiếng súng. Ai đâu ở đó. Cử Hội Đồng Hòa Giải Hòa Hợp Dân Tộc. Bầu cử.

    Bốn việc đó, hai năm rồi, hai bên đều không làm”.


    Rồi anh ta thò tay vào túi, lấy ra một mảnh giấy, đưa cho tôi và nói:


    “Tôi tặng ông Dân biểu cái nầy”.


    Tôi nghiêng người chìa ra ánh đèn và đọc.


    Đây là bức thư của Phó Thủ tướng, bác sĩ Phan Quang Đán, Quốc vụ khanh đặc trách Xã hội - gởi Thủ tướng Việt Nam Cộng Hòa, để xin đưa bốn ngàn trẻ em Việt mồ côi sang Mỹ với mục đích:


    “Sẽ gây thêm xúc động trên khắp thế giới, đặc biệt là Hoa Kỳ, rất có lợi cho Việt Nam Cộng Hòa … Đại sứ Hoa Kỳ cũng can thiệp trực tiếp với tôi để số cô nhi trên được xuất ngoại tập thể …
    “Việc xuất ngoại tập thể này, thêm vào việc hàng triệu đồng bào nạn nhân chiến cuộc lìa bỏ những vùng Cộng sản chiếm đóng, sẽ giúp xoay chuyển dư luận dân chúng Hoa Kỳ, sẽ được các hãng Truyền thanh và Truyền hình cùng báo chí Hoa Kỳ mục kích, tường thuật, do đó có ảnh hưởng rất lớn lao …”

    Công văn nầy có ấn ký của Bác sĩ Đán, số 1388 đề ngày 2.4.1975.

    Dò theo đôi mắt tôi, đợi đến dòng cuối cùng, Francis nói, thong thả:


    “Đấy là việc riêng của người Việt Nam. Tôi đã phải từ Đà Nẵng tháo chạy theo họ vào đây. Việc của tôi bây giờ là phụ với ông Laymann tổ chức cho công chức, binh lính cuối cùng người Mỹ rời Việt Nam

    Nóng quá và trời cũng đã khuya, tôi xin về kẻo nhà tôi trông.

    Chúc anh mạnh khỏe. Mong rằng anh sẽ sống được với những người Cộng sản mà anh mong ước”.


    Anh nói thật nhanh, cùng lúc nhổm đít đứng dậy, không để cho tôi đáp lời.


    Vì còn phải chống tó (
    sau khi bị người của Nguyễn Văn Thiệu ám sát - BTV), tôi khó nhọc đứng dậy tiễn anh. Mãi sau khi tiếng máy xe xa dần tôi mới kịp để ý đến từ “anh” thân mật mà Francis gọi mình. Từ đó, tôi không gặp anh nữa.

    Bốn ngày sau, một bức thư “Làm tại Miền Nam Việt Nam ngày 6-4-1975”, ký tên
    Thay Mặt Toàn Thể Cô Nhi Viện Toàn Quốc, mang con dấu của cô nhi viện Ngọc Ninh (Phan Rang), hai cô nhi viện Nhất Chi Mai ở Lâm Đồng và Biên Hòa gởi Quốc hội và Nhân dân Hoa Kỳ, Hội đồng Thập tự Quốc Tế, Cơ quan Bảo trợ Nhi đồng Liên Hiệp Quốc, toàn thể các Hội đoàn, các Tổ chức Từ thiện Quốc tế, tố giác rằng:

    … “Lịch sử chiến tranh thế giới xưa nay dù người ta có sử dụng vô số các âm mưu thủ đoạn nào để đạt mục tiêu đi chăng nữa, nhưng chưa bao giờ sử dụng phương thức xuất cảng cô nhi như Chính phủ mới đây.

    Chúng tôi đau đớn mà tố giác rằng trong khi đời sống của bốn ngàn cô nhi đang bình lặng tại các cơ sở nghĩa dưỡng toàn quốc, thì Chính Phủ Sài Gòn do sự khuyến khích của Tòa Đại sứ Mỹ đã bất ngờ đưa hết số cô nhi trên về Sài Gòn để chờ lên máy bay rời bỏ quê hương.

    Chúng tôi cũng gay gắt lên án các Hội Nghĩa Dưỡng quốc tế tại Việt Nam đã cấu kết chặt chẽ với âm mưu trên nhằm ý đồ chính trị, bội phản lại chủ trương nhân đạo nhân chánh một cách bỉ ổi.

    “Chúng cực lực phản đối nhà cầm quyền Sài Gòn đã bất chấp tình đồng bào ruột thịt khi tuân hanh mệnh lệnh quái ác: Xuất cảng cô nhi”

    Chúng tôi long trọng xác nhận:

    - Quyết tâm bảo vệ cô nhi Việt Nam đến cùng.
    - Không bao giờ chấp nhận xuất cảng cô nhi cho mưu đồ chính trị tàn nhẫn.
    - Số cô nhi còn lại tại các cô nhi viện, chúng tôi thà chết chứ không để chính quyền bắt mang đi.

    Chúng tôi kêu gọi ông Tổng Thư ký Liên Hiệp Quốc và các tổ chức từ thiện cùng nhân dân thế giới hãy:

    - Áp lực bắt buộc chính phủ Mỹ ngưng ngay chương trình “Xuất cảng cô nhi”.
    - Kêu gọi nhân dân tiến bộ các nước Tây Phương đừng tiếp tay, đồng lõa với chính phủ Mỹ mà bắt buộc các trẻ em Việt Nam phải rời bỏ bản xứ.

    Sau cùng, chúng tôi nghiêm khắc cảnh giác rằng:

    Lịch sử đạo đức nhân loại sẽ vô cùng lâm nguy nếu ngày nào ý nghĩa “Nhân đạo” còn bị các thế lực hiếu chiến sử dụng vào mục tiêu chính trị thấp hèn”.


    Tài liệu này được phát tán nhanh chóng đi khắp nơi, nhất là những chỗ người ta đưa trẻ mồ côi tới, gây xôn xao lớn trong chính giới. Đặc biệt là tại Úc, ba chục năm sau, một đoàn làm phim đã đến Tp.HCM năm 2005 tìm đến nhà tôi.


    Tôi đã giới thiệu hai nhà Đạo diễn người Úc, cô Trang Đài (gốc Việt) và cô Lake đến nhà anh Mai Chí Thọ cùng một số tri thức cũ thời đó để hỏi và tái hiện Babylift. Phim Babylift đã được trình chiếu ở Úc vào dịp kỷ niệm 30 năm kết thúc Chiến tranh Việt Nam và được chiếu lại trong dịp 30/4 năm 2007.


    Tôi nghĩ thế nào Francis cũng có bản văn này, nhưng không lo lắng mấy, vì biết rằng dưới trướng của Bác sĩ Phan Quang Đán ở 308 Hai Bà Trưng, Quận 1, cũng có mấy sinh viên gốc Quảng Nam, đang tham mưu cho ông, nhưng là nội tuyến cho Cách mạng.


    Bấy giờ Sài Gòn đã có chuyến bay chở cô nhi sang Phi Luật Tân, từ đó trung chuyển đi Úc và Mỹ, mãi tới lúc một chuyến rơi ở Hòa Bình, giết hại hàng trăm trẻ em mồ côi.


    Để đủ túc số mà tuyên truyền, chẳng gì đáng ngạc nhiên khi, trong chuyến đầu tiên, người ta bốc cả những trẻ con ở ngoài các trại cô nhi.


    Một người bạn cùng quê, cùng tuổi với tôi, bấy giờ gia đình đang ở Qui Nhơn, có đứa con gái mười tuổi, đi học bán trú một trường Đạo, một hôm không thấy về nhà. Đăng báo, nhờ đài tìm trẻ thất lạc vô hiệu, coi như mất tích luôn.


    Mười bảy năm sau, một thiếu phụ xinh đẹp về thăm quê, lẵng nhẵng theo chân là một thanh niên Mỹ, đẹp trai, mang kính cận thị và một bé trai rặt Việt Nam, con với người chồng trước. Đó là Quỳnh Ngọc, cô bé mất tích năm xưa, ý cẩm hồi hương.


    Đến thăm tôi, Ngọc kể:


    “Hồi đó, cháu đang ở trường dòng. Buổi sáng, xơ Mai gọi ra bảo có chuyến phi cơ đi Mỹ cho các con mồ côi, Ngọc có đi theo không?

    Bấy giờ, cháu với con bạn Bạch Ngọc thương nhau như chị em ruột. Cha mẹ nó chết cả, tất nhiên nó lên máy bay, thế là cháu đi theo. Ở ngoại ô Manila mấy tháng, chúng cháu được đưa sang Mỹ. Rồi lớn lên ở xứ người, sách vở, ăn uống đầy đủ, nhưng không có tình yêu gia đình, cháu cặp với người cùng cảnh ngộ.

    Cho nên, chồng trước của cháu cũng trong đám mồ côi. Có chung với nhau thằng bé này thì bắt đầu cãi nhau, đánh lộn suốt.

    Ra tòa ly dị ít lâu, cháu gặp Tony đây”.
    Vừa nói Ngọc vừa nhếch đôi môi mọng đỏ cười tình với chồng, vừa trỏ chàng giới thiệu:

    “Bác H., bạn thân của Cha”.


    Người thanh niên ngơ ngác, gục gặt đầu chào tôi. Ngọc tiếp:


    “Ảnh hiền lành lắm, nghe cháu một bề, giỏi nghề địa ốc. Bác biết ở Sài Gòn có chỗ nào chính phủ cho thuê đất, chúng cháu mướn làm những biệt thự, ở vùng ngoại ô một tí cũng được, bán cho những người di tản đã có tuổi, nay muốn về quê yên nghĩ”.


    Ngọc đãi tôi tô hủ tíu, làm dấu thánh giá trước khi ăn. Tôi không ngớt nghĩ về tính bí nhiệm của đời sống. Nếu không có “Thiêng liêng”, một cô bé mười tuổi lạc loài, tứ cố vô thân như Ngọc sao còn tồn tại đến giờ, rồi cũng lớn lên, chồng con đàng hoàng, lại một anh chàng Mẽo trẻ măng, thua vài tuổi, đẹp trai ra phết.


    (Trích hồi ký của ông NGUYỄN VĂN HÀM - “Ông Dân biểu”)

    * Những di sản của chiến dịch Babylift

    Không có hồ sơ lý lịch cá nhân


    Ngày 5-4-1976, tờ Time cho biết, nhiều trẻ em hoàn toàn không có hồ sơ về lý lịch cá nhân, đó là những con người không có họ và tên, không có giấy tờ chứng minh ngày và nơi sinh, quốc tịch… cho nên không thực hiện hồ sơ con nuôi.
    Cục di trú và nhập tịch cho biết, có 1,671 em hợp lệ, và 353 không hợp lệ.


    Bi kịch gia đình


    Nhiều trường hợp đau lòng khó xử xảy ra.


    - Bà Hà Thị Võ. Người từng đưa 3 đứa con đi theo chương trình Babylift, khi đến Mỹ, đưa đơn kiện, khi nhận ra đứa con út 3 tuổi tại một gia đình nhận con nuôi, bà đòi con lại. Cậu bé không nhận bà, khiến cho nhà chức trách bác bỏ yêu cầu của bà.


    - Bà Doãn Thị Hoàng An. Bà An ở bang Montana, nhận mình là mẹ ruột của cậu bé Ben, 4 tuổi, được vợ chồng Johnny và Bonnie Nelson nhận làm con nuôi từ chương trình Babylift.


    Khi ra toà, cậu bé Ben không nhận bà Hoàng An, không có phản ứng trước những cử chỉ trìu mến và thương yêu của bà Hoàng An, dù vậy, tòa phán quyết cậu Ben thuộc về bà mẹ Việt Nam.


    Thế là vợ chồng Nelson tiếp tục đưa đơn kiện lên toà thượng thẩm.


    Trở về cố hương


    Trẻ mồ côi trở về Việt Nam trong vai trung tá Mỹ


    Gần 40 năm sau khi được một trung sĩ Mỹ, thuộc KQ/HK và vợ ông, nhận làm con nuôi năm 1972, cô Mitchell được biết là một trẻ sơ sinh mang số 899, bị bỏ rơi tại cô nhi viện Thánh Tâm, Đà Nẳng.


    Trung tá Mitchell hiện là Phó giám đốc văn phòng Trợ giúp Quân nhân và Thân nhân tại Bộ QP/HK, cho biết: “Tôi muốn cố gắng nối kết lại với quá khứ còn chưa biết của mình.” Trung tá Mitchell đã thăm Sài Gòn và Đà Nẳng trong chuyến đi một tuần lễ về VN.


    Chuyến thăm tại trại mồ côi Thánh Tâm, nay là một tu viện, được coi là phần xúc động nhất của chuyến đi. Tại tu viện, Mitchell gặp “Sơ” Mary, là người đã từng làm việc trong thời gian tiếp nhận em bé số 899 vào cô nhi viện. “Sơ Mary cho biết, cái tên mà họ đặt cho tôi là Trần Thị Ngọc Bích, nghĩa là viên ngọc quý. Đây là chuyến thăm của một đời người, nghĩa là một lần duy nhất. Tôi chắc chắn sẽ không chờ 40 năm nữa để quay trở lại”, Mitchell thuật lại.


    Phim Người con gái Đà Nẳng (The daughter from Da Nang)


    Phim tài liệu The daughter from Da Nang được đề nghị lãnh giải Oscar về loại phim tài liệu. Phim đã chiếm nhiều giải nhất trong các Đại Hội Điện Ảnh (Film Festival) Hoa Kỳ năm 2002: Sundane Film Festival, San Francisco International, Ojai Film Festival, Durango, Colorado, Texas, New Jersey International, Nashville, Cleveland.


    Nội dung phim


    Vào những ngày sau cùng của cuộc chiến VN, chính phủ Gerald Ford đã bỏ ra 2 triệu USD để mở chiến dịch Babylift. Gần 3,000 trẻ mồ côi từ VN sang Hoa Kỳ, Canada, Pháp và Úc để làm con nuôi.


    Cuộc di tản bắt đầu bằng một tai nạn kinh hồn làm chết hàng trăm trẻ em.


    Cuốn phim xoay chung quanh cuộc đời của Heidi Bub và trong chuyến đi tìm mẹ ruột sau 22 năm.


    Heidi Bub sinh năm 1968 tại Đà Nẳng, con của bà Mai Thị Kim và một quân nhân Hoa Kỳ.


    Chồng bà Kim là Đỗ Hữu Vinh, từ năm 1964, đã bỏ vợ và 3 con ở lại Đà Nẳng, nhảy núi theo ********* chống Mỹ.


    Bà Kim vào làm công nhân trong căn cứ Mỹ ở Đà Nẳng. Ở đó, bà đụng một ông lính Mỹ rồi sanh ra Mai Thị Hiệp (Heidi). Khi VC đánh vào Đà Nẳng, vì sợ con lai Mỹ bị VC khủng bố, nên bà đưa con vào Hội Cha Mẹ Nuôi lúc Heidi 6 tuổi.


    Khi sang Mỹ, Mai Thị Hiệp được bà Ann Neville, một phụ nữ độc thân, khoa trưởng ở một trường đại học, nhận làm con nuôi, tên là Heidi Bub.

    Bà Ann Neville sinh sống ở bang Tennessee, thánh địa của kỳ thị chủng tộc Klu Klax Klan. Bà che dấu nguồn gốc và cố làm cho Heidi giống 101% như Mỹ để bảo vệ con.
    Về vật chất, Heidi không thiếu thốn gì cả, nhưng tình cảm giữa hai mẹ con rất khô khan cằn cỗi, thiếu hẳn những bộc lộ tình thương mẹ con. Bà Ann quá nghiêm khắc.



    Cuối cùng, bà đuổi Heidi ra khỏi nhà mà không giải thích lý do.


    Lúc 6 tuổi, Heidi tưởng rằng mình không ngoan nên bị mẹ ruột từ bỏ. Lúc 22 tuổi, cô có mặc cảm, có lẻ mình quá tệ hại nên đã bị mất mẹ hai lần.


    Năm 22 tuổi, Heidi bắt đầu tìm mẹ ruột. Trong lúc đó, ở VN, bà Mai Thị Kim cũng ra sức tìm lại đứa con.


    Năm 1991, mẹ con bắt liên lạc được, qua một nhân viên của sứ quán HK. Heidi bắt đầu học tiếng Việt.


    Năm 1997, ký giả Trần Tương Như, người VN đầu tiên mà Heidi tiếp xúc tại Mỹ. Trần Tương Như giúp Heidi trong chuyến về VN gặp lại mẹ ruột.


    Tại phi trường Đà Nẳng, Heidi gặp lại mẹ ruột và các anh chị cùng mẹ khác cha. Tiếp theo là những tổ chức, như những bữa cơm đại gia đình, viếng thăm hàng xóm, đi chợ…


    Chỉ vài ngày sau, Heidi cảm thấy khó chịu, bị sốc vì khác biệt văn hoá. Biên giới riêng tư của mình bị xâm phạm.


    Bà Kim muốn ngủ chung giường với Heidi để tâm sự suốt đêm, không muốn rời con, nhưng đối với Heidi thì đó là một cuộc tấn công, lấn át không gian cá nhân. Heidi không có thì giờ để suy nghĩ về những sự việc quá mới, quá xa lạ đối với mình.


    Heidi thật sự bị sốc khi các anh chị cho rằng cô có bổn phận phải cung cấp tiền bạc và làm đơn bảo lãnh cho gia đình sang Mỹ.


    Heidi nghĩ rằng cô bị bóc lột và bị lợi dụng, nên đã đổi vé máy bay về Mỹ sớm hơn lịch trình ấn định.


    Khi về đến Mỹ, cô nhận được thơ của các anh chị khác cha, chủ yếu vẫn là tiền bạc và bảo lãnh. Cô cảm thấy không sốt sắng để trả lời những búc thơ đó.
  4. MrKhuKhoam

    MrKhuKhoam Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    12/04/2011
    Bài viết:
    4.334
    Đã được thích:
    1.180
    Chuyến bay thảm họa


    Galaxy C-5A là máy bay quân sự lớn nhất lúc bấy giờ, trên khoang không có ghế ngồi, cũng không có phòng vệ sinh cho hành khách.

    Sau khi cất cánh rời khỏi Sài Gòn được 40 dặm, một vụ nổ đã làm bay cánh cửa của khoang chính. Ở độ cao 23 ngàn feet, tương đương hơn 7.000 mét, không có đủ mặt nạ dưỡng khí để thở, nhiều người đã bị sốc và ngất.

    Các phi công đã phải quyết định quay trở lại Sài Gòn. Chiếc máy bay cố gắng đáp xuống một nơi cách sân bay Tân Sơn Nhất hai dặm. Nó trượt đi trên mặt đất chừng 500 mét rồi bất ngờ lại bay ngược lên nửa dặm cao, ngoài sự kiểm soát của tổ lái. Cuối cùng, thảm họa ập đến khi C-5A lao sầm xuống đất, húc vào một bờ kè ruộng và vỡ thành nhiều mảnh. Một phần máy bay bốc cháy.

    Những chiếc trực thăng cứu hộ từ Sài Gòn đã có mặt ngay lập tức nhưng không thể hạ cánh trên mặt nước của các thửa ruộng bao quanh. Đáng tiếc, tai nạn kinh hoàng đã lấy đi sinh mạng của hơn một nửa trong tổng số 300 trẻ em và người lớn đi kèm. Các tài liệu công bố sau đó cho biết, toàn bộ những người ngồi phía đuôi khoang máy bay đã tử nạn, trong đó phần lớn là trẻ em dưới hai tuổi.

    Safi Thi-Kim Dub, một con nuôi sống sót kể lại: “Tôi đã may mắn. Tôi được đặt ngồi ở hàng phía trên và thoát chết, nhưng bị thương nặng phải đưa vào cấp cứu ở bệnh viện Sài Gòn. Tôi bị chấn thương vùng đầu và hai bên xương hông đều bị vỡ. Nhiều năm sau, tôi phát hiện ra mình bị thương tổn não dạng nhẹ do bị thiếu ô-xy trên chuyến bay khi thảm họa xảy ra.”

    Trích Con nuôi nước Úc: Nhìn lại chiến dịch Di tản trẻ em (Operation Babylift) - bayvut.com.au
  5. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    Tớ nghĩ nếu người Mỹ họ còn quan tâm đến VN thì họ sẽ làm khác chứ không cần làm một kế hoạch dài hơi, tốn kém và không biết kết quả như thế nào. Bản chất người Mỹ là thực dụng mà. Ghét Mỹ thì cứ chửi cho đã thôi, kiểu nào cũng chửi được. Người VN ta giỏi cái đó. Ngày xưa quân miền Nam+Mỹ 2 triệu mà còn ko ăn thua thì 70K là cái đinh gì?
  6. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    [​IMG]
    Máy bay Úc cũng tham gia Babylift

    [​IMG]

    Phi trường Phú Quốc 4/1975

  7. berocca

    berocca Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/05/2012
    Bài viết:
    34
    Đã được thích:
    0
    Bác Va cứ post tiếp ảnh và tư liệu đi a ! Cãi với bọn vạch lá tìm sâu, ngu muội cuồng tín làm gì cho mệt. Rất trân trọng những tư liệu của bác và bác OV10 đã post. (Hỏi nhỏ bác có phải là LS tức LXồm chuyên bốc thuốc mát bên Quán Nước ...của VMH không?)
  8. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    Hehe có phản biện mới dzui, nên tôn trọng mọi sự khác biệt
    chứ không thì 4R buồn ngủ lắm
    Tớ ko phài Lông Xồm gì đâu, lão OV10 biết tớ mà [r2)]
  9. P20

    P20 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    02/11/2006
    Bài viết:
    5.619
    Đã được thích:
    203
    Xin phép trích lại bài của bác Khù văn Khoằm [:D]
  10. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    Nguồn của Khoằm là thứ dữ rồi, nào là sachhiem, giaodiem, nguyen manh quang... Có nguồn nào khác độc lập trong và ngoài nước xác nhận về nội dung cái thư đó không nhỉ?

    Cho dù ông Đán có viết như thế thì cũng vì lợi ích VNCH chứ không phải vì lợi ích nước Mỹ. Con trai ông Đán viết rằng "
    Normal 0 false false false EN-US X-NONE X-NONE /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-priority:99; mso-style-qformat:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:11.0pt; font-family:"Calibri","sans-serif"; mso-ascii-font-family:Calibri; mso-ascii-theme-font:minor-latin; mso-fareast-font-family:"Times New Roman"; mso-fareast-theme-font:minor-fareast; mso-hansi-font-family:Calibri; mso-hansi-theme-font:minor-latin; mso-bidi-font-family:"Times New Roman"; mso-bidi-theme-font:minor-bidi;} [FONT=&quot]Tháng 4, 1975 Đại sứ Graham Martin đã đòi hỏi các trẻ mồ côi phải được sự chấp thuận trước của Chính phủ Việt nam trước khi ông cung cấp máy bay di tản. Bác-sĩ Đán, Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Xã Hội đòi hỏi phải có một danh sách đầy đủ với tên, ngày và nơi sinh của các em. Cả Bác sĩ Đán lẫn Đại sứ Martin đã hành xử quyền hạn và bổn phận của họ trong một tinh thần trách nhiệm. Các em trên 10 tuổi không được chấp thuận vì các em không phải hoàn toàn là trẻ mồ côi, và do đó không hội đủ điều kiện làm con nuôi, chứ không phải vì các em này bị Chính phủ Việt Nam giữ lại để chiến đấu. Không ai biết được là Bác-sĩ Đán và Đại sứ Martin có biết hay không sự kiện các giấy khai sanh đã bị giả mạo. Vì thực tế là, cho dầu có hậu ý tốt chăng nữa, các giấy khai sanh đã bị ngụy tạo. Điều gần như chắc chắn là các em trên 10 tuổi không được chấp thuận là vì các em không thật sự là trẻ mồ côi, do đó không thể được “nhận làm con nuôi”, chứ lý do không phải là vì các em phải ở lại để đánh giặc."[/FONT]



    [FONT=&quot][/FONT]

Chia sẻ trang này