1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Tâm lý học môi trường - Cũ mà lại mới -(Tiếp)

Chủ đề trong 'Tâm Lý Học' bởi Hoailong, 14/05/2011.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. Hoailong

    Hoailong Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    28/04/2004
    Bài viết:
    1.997
    Đã được thích:
    46
    Chúng ta hảy Tạm Gác sang bên các KN cổ đại Âm/ Dương để quay lại với 2 KN Ánh Sáng / BÓNG TỐI hiện đại (Cái này lại càng Hại điện gớm !!!)
    Nói đến Ánh Sáng / BÓNG TỐI & (Âm/Dương) Chúng ta k0 thể quên tên 1 nhà khoa học & củng là 1 nhà văn hiện đại :
    GS Trịnh Xuân Thuận à 1 nhà thiên văn học, tác giả của Quyển sách "Những con đường ÁNH SÁNG" được Pháp trao giải thưởng lớn

    Quyển sách Những con đường ÁNH SÁNG - Vật lý học và siêu hình học của ÁNH SÁNG và BÓNG TỐI của giáo sư, nhà thiên văn học Trịnh Xuân Thuận đã được Viện hàn lâm Pháp quyết định trao tặng giải thưởng lớn Moron vào tháng 9 2007.
    Cuốn sách do Nhà xuất bản Fayard (Pháp) ấn hành vào năm 2008 và dự kiến cũng ấn hành bằng tiếng Anh.

    Giải thưởng lớn Moron chuyên công nhận các công trình triết học của các tác giả liên quan tới các vấn đề đạo đức và mỹ học, tương đương với giải thưởng Pulitzer của Mỹ hay giải thưởng sách quốc gia.
    Nhiều năm qua, giải thưởng này được trao cho các công trình xuất sắc bằng tiếng Pháp, trong đó có cả những phát biểu của các học giả.
    Theo bình luận của UVa Today, trong quyển sách 750 trang này, tác giả Trịnh Xuân Thuận đã hồi tưởng lịch sử thế giới - từ Hi Lạp cổ đại tới thời hiện tại - về việc con người đã bước vào vương quốc của ÁNH SÁNG bằng cách nào để giải mã bí mật của nó. Ông tranh luận về ÁNH SÁNG, và liên quan tới nó là BÓNG TỐI, từ nhiều khía cạnh,
    kể cả tầm quan trọng trong việc nuôi dưỡng cuộc sống, tầm quan trọng của nó với khoa học, nghệ thuật và các khía cạnh tinh thần của ÁNH SÁNG.
    UVa Today bình: (http://www.virginia.edu/uvatoday/newsRelease.php?id=2785)."
    Giải Moron thường trao cho sách triết học hơn là khoa học; tuy nhiên Trịnh Xuân Thuận đã viết về khoa học từ quan điểm triết học, như ông đã làm trong Những con đường ÁNH SÁNG Giảng dạy môn vật lý thiên văn tại đại học Virginia, và đi đi lại lại giữa Hoa Kỳ và Pháp,
    TS Trịnh Xuân Thuận thường được mời giảng dạy, nói chuyện tại Trường đại học Paris 7, đài quan sát thiên văn Meudon,
    Viện Vật lý thiên văn Paris, và cộng tác thường xuyên với các nhà khoa học Pháp.
    Để nghiên cứu, ông thường sử dụng những kính viễn vọng lớn nhất trên mặt đất như Kitt Peak, Hawaii, Chile... và trong không gian như Hubble, Spitzer...
    Cuối năm 2004, nhờ kính viễn vọng Hubble mà ông đã phát hiện được thiên hà trẻ nhất trong vũ trụ (I Zwicky 18) - một phát hiện được tranh cãi sôi nổi trên báo chí thế giới.
    Cần nói thêm là tại Trường đại học Virginia, ông còn dạy một môn được đặt tên là "Thiên văn học dành cho các nhà thơ”, đem lại nhiều điều thú vị cho các sinh viên không thuộc các ngành khoa học, về những điều kỳ diệu của các thiên hà.
    Không chỉ là nhà thiên văn học chuyên nghiên cứu về vũ trụ ngoài dải Ngân hà, Trịnh Xuân Thuận còn là nhà văn được nhiều người biết đến.
    Những tác phẩm của ông cho thấy cái nhìn tinh tế của một nhà khoa học về thế giới, về vị trí của con người trong vũ trụ.
    Từ năm 1988 đến nay ông đã cho xuất bản tám tác phẩm tại Pháp, được dịch lại tại nhiều nước, trong đó tác phẩm gần đây nhất là cuốn sách Những con đường ÁNH SÁNG - Vật lý học và siêu hình học của ÁNH SÁNG và BÓNG TỐI vừa đoạt giải này.
    Trong lời bạt cho tác phẩm, Trịnh Xuân Thuận viết: Tôi ước ao được thám hiểm không chỉ tầm vóc khoa học kỹ thuật của ÁNH SÁNG mà còn về mặt thẩm mỹ, nghệ thuật và tinh thần.
    Tôi ước mong nghiên cứu không chỉ về vật lý ÁNH SÁNG, mà còn về khía cạnh siêu hình của nó.
    Ý định của tôi là biết được làm thế nào ÁNH SÁNG đã cho phép chúng ta trở thành những con người.

    Sau đây là fần giới thiệu của Vietimes:
    Trịnh Xuân Thuận:
    Vinh quang của "ÁNH SÁNG và BÓNG TỐI"
    Viện Hàn lâm Pháp đã quyết định trao Giải thưởng lớn Moron của năm 2007 cho nhà vật lý thiên văn người Mỹ gốc Việt Trịnh Xuân Thuận vì cuốn sách phổ biến khoa học mới nhất của ông Những con đường của ÁNH SÁNG: vật lý và siêu hình học về ÁNH SÁNG và BÓNG TỐI được NXB Fayard (Pháp) cho ra MẮT vảo tháng 3 năm 2007.
    Vietimes xin giới thiệu với độc giả Việt Nam nội dung cơ bản của cuốn sách đặc sắc này thông qua lời tựa của chính tác giả Trịnh Xuân Thuận cho cuốn sách của mình. Vào ngày 15 tháng 3 2009, tại Hội chợ sách Thành phố HCM , nhà vật lý lừng danh Trịnh Xuân Thuận sẽ có buổi giao lưu trực tiếp với những độc giả yêu mến các tác phẩm của ông.
    Giải thưởng lớn Moron được coi là tương đương với giải thưởng Pulitzer hay Giải thưởng sách quốc gia của Mỹ. Trong nhiều năm, giải thưởng này đã được trao cho các tác giả xuất sắc của nước Pháp, kể cả các chính khách và các học giả.
    Trong cuốn sách dày 750 trang này, Trịnh Xuân Thuận đã thảo luận về ÁNH SÁNG, và liên quan tới nó là BÓNG TỐI, trên nhiều phương diện, bao gồm tầm quan trọng của nó đối với sự sống, đối với khoa học, sự diễn giải ÁNH SÁNG của bộ NÃO, nghệ thuật của các hoạ sĩ thuộc trường phái ấn tượng, việc sử dụng ÁNH SÁNG trong kiến trúc và các khía cạnh tâm linh của ÁNH SÁNG,... Cuốn sách này cũng là bản sử thi về cuộc hành trình của con người đi vào vương quốc của ÁNH SÁNG và giải mã những bí mật của nó.
    Giải thưởng lớn Moron thường được trao cho các tác phẩm triết học hơn là khoa học.
    Tuy nhiên, Trịnh Xuân Thuận luôn viết về khoa học trên quan điểm triết học, như ông đã làm trong Những con đường của ÁNH SÁNG.
    Sinh ra và lớn lên ở Việt Nam, từ nhỏ đã được học trong các trường Pháp, nên Trịnh Xuân Thuận luôn viết sách bằng tiếng Pháp.
    Ông đã cho xuất bản 8 cuốn sách, trong đó có nhiều cuốn là best-seller và được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới.
    Đặc biệt, cuốn Cái vô hạn trong lòng bàn tay - một cuộc đối thoại giữa vật lý và Phật giáo,- đã được đón tiếp rất nồng nhiệt ở Pháp, Mỹ và Việt Nam.
    Lĩnh vực nghiên cứu hiện nay của Trịnh Xuân Thuận là tìm hiểu sự hình thành của các thiên hà.
    Lễ trao giải thưởng lớn Moron cho Trịnh Xuân Thuận đã được tổ chức trọng thể vào tháng 11 vừa qua với giải thưởng trị giá 5000 euro.
    GS Trịnh Xuân Thuận.
    Ảnh: VNN.
    ÁNH SÁNG là người bạn tri kỉ của tôi. Trong công việc của nhà vật lý thiên văn, tôi thường xuyên phải làm việc với nó. Nó là phương tiện đặc ân mà tôi có để đối thoại với vũ trụ. Các hạt có năng lượng cao phát ra từ các cơn hấp hối bùng nổ của các ngôi sao nặng, mà người ta gọi là các “tia vũ trụ”, hay các sóng hấp dẫn, các sóng độ cong của không gian được tạo ra từ sự co mạnh ở lõi của một khôi sao nặng để trở thành nơi giam cầm ÁNH SÁNG - một lỗ đen, hay từ chuyển động điên cuồng của một cặp lỗ đen nhảy múa quanh nhau, đều mang đến cho chúng ta rất nhiều thông tin mới lạ về không gian xa xôi. Nhưng không phải các tia vũ trụ, cũng chẳng phải các sóng hấp dẫn là các sứ giả chính của vũ trụ. Chính ÁNH SÁNG mới là cái đảm nhiệm vai trò này. Không còn nghi ngờ gì nữa, phần lớn các thông tin về vũ trụ mà chúng ta biết được đều là nhờ sự giúp đỡ hữu hiệu và trung thành của ÁNH SÁNG. Đó là sứ giả tuyệt vời nhất của vũ trụ. Chính ÁNH SÁNG cho phép chúng ta giao tiếp và kết nối với vũ trụ. Chính ÁNH SÁNG đã chuyển tải những đoạn nhạc và các nốt rời rạc của cái giai điệu bí ẩn của vũ trụ mà con người kỳ công tái dựng với tất cả vẻ đẹp tráng lệ của nó.
    ÁNH SÁNG đóng vai trò sứ giả của vũ trụ nhờ ba tính chất cơ bản mà các bà mụ đã ban tặng cho nó lúc chào đời:
    1) ÁNH SÁNG không lan truyền tức thì, và phải mất một khoảng thời gian mới đến được chỗ chúng ta;
    2) ÁNH SÁNG tương tác với vật chất; và
    3) ÁNH SÁNG thay đổi MÀU SẮC khi được phát đi bởi một nguồn sáng chuyển động đối với người quan sát.
    Bởi vì ÁNH SÁNG không lan truyền tức thì, nên chúng ta nhìn vũ trụ bao giờ cũng muộn hơn, và chính điều này cho phép chúng ta lần ngược trở lại theo thời gian, để khám phá quá khứ của vũ trụ và tái tạo bản sử thi hoành tráng và kỳ diệu của vũ trụ khoảng 14 tỷ năm dẫn đến chúng ta. Ngay cả khi ÁNH SÁNG lan truyền với vận tốc lớn nhất có thể trong vũ trụ: 300 000 kilômét mỗi giây - một cái nháy MẮT là ÁNH SÁNG đã có thể chạy bảy vòng quanh Trái Đất! thì ở thang vũ trụ vận tốc ấy cũng chỉ như rùa bò. Bởi vì nhìn xa, nghĩa là nhìn sớm – chúng ta nhìn Mặt Trăng muộn hơn hơn một giây, Mặt trời gần tám phút, ngôi sao gần nhất hơn bốn năm, thiên hà gần nhất giống dải Ngân Hà của chúng ta, thiên hà Andromède, sau 2,3 triệu năm, các quasar
    [*] xa nhất sau khoảng mười hai tỉ năm, nên các kính thiên văn, hay còn gọi là các giáo đường của thời hiện đại, nơi đón nhận ÁNH SÁNG của vũ trụ, là các cỗ máy đích thực lần ngược lại thời gian. Các nhà thiên văn học đang miệt mài chế tạo các kính thiên văn tiếp nối các kính thiên văn khổng lồ hiện nay để nhìn được những thiên thể mờ hơn, cũng có nghĩa là xa hơn và sớm hơn, và lần ngược lại thời gian khoảng 13 tỷ năm ÁNH SÁNG, tới tận khoảng 1 tỷ năm sau Big Bang, với hy vọng ngắm nhìn trực tiếp sự ra đời của các ngôi sao và thiên hà đầu tiên. Bằng cách khám phá quá khứ của vũ trụ, các nhà vật lý thiên văn có thể sẽ hiểu được hiện tại và tiên đoán được tương lai của nó.
    ÁNH SÁNG cho phép chúng ta lần ngược trở lại quá khứ do nó cần phải mất một khoảng thời gian mới đến được chúng ta. ÁNH SÁNG cũng mang theo nó bản mật mã vũ trụ, và một khi giải được mật mã này chúng ta sẽ tiếp cận được bí mật về cấu tạo hóa học của các sao và thiên hà, cũng như bí mật về chuyển động của chúng. Sở dĩ như vậy là vì ÁNH SÁNG tương tác với các nguyên tử cấu thành vật chất nhìn thấy được của vũ trụ. Trên thực tế, ÁNH SÁNG chỉ có thể nhìn thấy được nếu nó tương tác với các vật. ÁNH SÁNG tự thân là ÁNH SÁNG không nhìn thấy được. Để ÁNH SÁNG nhìn thấy được, thì đường đi của nó phải bị một vật nào đó chặn lại, vật ấy có thể là cánh hoa hồng, là các chất MÀU trên bảng MÀU của người họa sỹ, là gương của kính thiên văn hay võng mạc của MẮT chúng ta. Tùy theo cấu trúc nguyên tử của vật chất mà ÁNH SÁNG tiếp xúc, ÁNH SÁNG sẽ bị hấp thụ một lượng năng lượng rất chính xác. Tới mức nếu chúng ta thu được quang phổ của ÁNH SÁNG do một sao hay một thiên hà phát ra – hay nói cách khác, nếu chúng ta dùng ***** kính phân tách nó thành các thành phần năng lượng hay MÀU SẮC khác nhau –, thì chúng ta sẽ phát hiện ra rằng quang phổ này không liên tục, mà bị ngắt thành các vạch hấp thụ dọc tương ứng với năng lượng đã bị các nguyên tử hấp thụ. Vị trí của các vạch này không hề tùy tiện, mà là phản ánh một cách trung thực sự sắp xếp các quỹ đạo electron trong các nguyên tử của vật chất. Sự sắp xếp này là độc nhất đối với mỗi nguyên tố hoá học. Nó là một dạng dấu vân tay, một loại thẻ căn cước của các nguyên tố hóa học cho phép nhà vật lý thiên văn nhận ra các nguyên tố này một cách dễ dàng. ÁNH SÁNG cho chúng ta biết thành phần hóa học của vũ trụ bằng cách như vậy đó.
    ÁNH SÁNG cũng cho phép nhà thiên văn học nghiên cứu chuyển động của các thiên thể. Vì trên trời chẳng có gì là đứng yên. Lực hấp dẫn làm cho tất cả các cấu trúc của vũ trụ - như sao, thiên hà, đám thiên hà… - hút lẫn nhau và “rơi” vào nhau. Chuyển động rơi này hòa vào chuyển động giãn nở chung của vũ trụ. Thực tế, Trái Đất cũng tham gia vào một vũ điệu vũ trụ tuyệt vời. Nó mang chúng ta qua không gian với vận tốc khoảng ba chục kilômét mỗi giây trong chuyến chu du hàng năm quanh Mặt Trời. Đến lượt mình, Mặt Trời lại kéo theo Trái Đất, và cùng với Trái Đất là chúng ta, trong chuyến chu du của nó quanh trung tâm của Ngân Hà, với vận tốc hai trăm ba mươi kilômét mỗi giây. Thế vẫn chưa hết: Ngân Hà lại rơi với vận tốc chín mươi kilômét mỗi giây về phía thiên hà đồng hành với nó là Andromède. Đến lượt mình, cụm thiên hà địa phương chứa thiên hà của chúng ta và Andromède cũng lại rơi với vận tốc khoảng sáu trăm kilômét mỗi giây về đám Vierge, và đám này lại rơi vào một tập hợp lớn các thiên hà gọi là “Nhân hút Lớn”. Bầu trời tĩnh và bất động của Aristote đã chết hẳn ! Trong vũ trụ, tất cả đều vô thường, đều thay đổi và chuyển hóa liên tục. Chúng ta không nhìn thấy sự náo động mãnh liệt này bởi vì các thiên thể ở quá xa, và cuộc sống của chúng ta quá ngắn ngủi. Một lần nữa, lại chính ÁNH SÁNG đã tiết lộ cho chúng ta sự vô thường này của vũ trụ. ÁNH SÁNG thay đổi MÀU SẮC khi nguồn sáng chuyển động so với người quan sát. ÁNH SÁNG dịch chuyển về phía đỏ (các vạch hấp thụ dọc dịch chuyển về phía năng lượng nhỏ hơn) nếu vật tiến ra xa, và về phía xanh lam (các vạch hấp thụ dọc dịch chuyển về phía năng lượng cao hơn) nếu vật tiến lại gần. Bằng cách đo sự dịch chuyển về phía đỏ hay phía xanh này, nhà thiên văn học sẽ tái hiện được các chuyển động vũ trụ.
    Cuốn sách khoa học của tác giả Trịnh Xuân Thuận.
    Như vậy ÁNH SÁNG kết nối chúng ta với vũ trụ. Nhưng ÁNH SÁNG không chỉ thiết yếu đối với nhà thiên văn học. Tất cả chúng ta đều là con đẻ của ÁNH SÁNG. ÁNH SÁNG đến từ Mặt Trời là nguồn gốc của sự sống. Dù là tự nhiên hay nhân tạo, ÁNH SÁNG cho phép chúng ta không chỉ ngắm nhìn thế giới, mà còn tương tác với thế giới và tiến hóa trong thế giới. Nó không chỉ ban cho chúng ta nhìn thấy, mà còn ban cho chúng ta tư duy nữa. Từ những thời rất xa xưa cho tới ngày nay, ÁNH SÁNG luôn mê hoặc trí tuệ con người, dù đó là nhà khoa học, triết gia, nghệ sỹ hay tu sĩ. Tôi muốn thuật lại ở đây lịch sử hùng tráng của những nỗ lực của con người nhằm thâm nhập vào trong lòng của vương quốc ÁNH SÁNG để đột phá những bí mật của nó. Tôi muốn khám phá không chỉ các chiều kích khoa học và công nghệ của ÁNH SÁNG, mà cả các chiều kích thẩm mỹ, nghệ thuật và tâm linh của ÁNH SÁNG nữa. Tôi muốn nghiên cứu không chỉ vật lý về ÁNH SÁNG, mà cả siêu hình học về ÁNH SÁNG. Ý đồ của tôi là tìm hiểu xem bằng cách nào ÁNH SÁNG đã giúp chúng ta trở thành người.
    CHƯƠNG đầu tiên bắt đầu với khái niệm của người Hy Lạp về một “ngọn lửa bên trong”, một con MẮT chăm chú quan sát thế giới bằng cách phóng chiếu lên nó các tia sáng, trái ngược với quan niệm hiện nay về ÁNH SÁNG, theo đó, ÁNH SÁNG không phải đi từ MẮT tới vật, mà từ vật tới MẮT. Chương này tiếp tục với Euclid và hình học của ông về thị giác và mặt nón các tia thị giác, với nhà bác học Arập Alhazen, người vứt bỏ khái niệm ngọn lửa bên trong và đảo ngược hướng của các tia sáng, để rồi kết thúc với Léonard de Vinci, người hiểu được rằng các hình ảnh của thế giới bên ngoài được phóng chiếu theo chiều bị đảo ngược lên võng mạc của MẮT.

    CHƯƠNG 2 phát triển các quan niệm mới về ÁNH SÁNG do cuộc đại cách mạng khoa học thế kỷ XVII mang lại. Kepler và Descartes đã phát hiện ra rằng NÃO đóng vai trò tích cực trong thị giác, rằng chính NÃO đã tái lập lại sự định hướng đúng của vật và làm cho chúng ta nhìn thấy thế giới ở đúng vị trí của nó. Bằng cách *Lăng kính phân tách ÁNH SÁNG trắng thành bảy màu, bảy sắc cầu vồng, Newton đã đưa ra khái niệm về các MÀU cơ bản.

    CHƯƠNG 3 tập trung quanh cuộc tranh luận về bản chất của ÁNH SÁNG: ÁNH SÁNG là hạt, như Newton quả quyết, hay là sóng, như Huygens, Young và Fresnel khẳng định? Vào thế kỷ XVIII, Young đã chứng minh rằng sự thêm ÁNH SÁNG vào ÁNH SÁNG có thể lại dẫn đến BÓNG TỐI, điều này chỉ có thể giải thích được nếu ÁNH SÁNG có bản chất sóng. Faraday và Maxwell, khi ngợi ca sự kết hợp của điện và từ, và chứng tỏ rằng các sóng điện từ cũng không khác gì các sóng ÁNH SÁNG, đã củng cố thêm quan niệm sóng về ÁNH SÁNG. Vào thế kỷ XX, Einstein, bằng cách tự vấn thế giới có thể sẽ trình hiện như thế nào trước MẮT mình khi nó cũng chuyển động nhanh như một hạt ÁNH SÁNG, đã tạo ra một cuộc cách mạng trong các quan niệm về thời gian và không gian, và đã thống nhất vật chất và năng lượng bằng thuyết tương đối hẹp. Để giải thích hành trạng của các electron phát ra từ bề mặt của một kim loại dưới tác dụng của ÁNH SÁNG - mà người ta gọi là “hiệu ứng quang điện” -, Einstein đã đưa trở lại quan niệm ÁNH SÁNG là hạt, nhưng gán cho các hạt này một “lượng tử năng lượng”, ý tưởng đã được Planck đưa ra trước đó.
    Vậy ÁNH SÁNG là sóng hay hạt? Bohr và các đồng nghiệp của ông, những người sáng lập ra một môn vật lý mới gọi là “cơ học lượng tử”, tuyên bố rằng ÁNH SÁNG vừa là sóng vừa là hạt. Giống như Janus, ÁNH SÁNG có hai khuôn mặt bổ sung cho nhau. Nó xuất hiện như một sóng hoặc như một hạt tùy theo dụng cụ đo được sử dụng.

    CHƯƠNG 4 khám phá các dạng ÁNH SÁNG thiên thể khác nhau xuất hiện trong suốt lịch sử dài dằng dặc của vũ trụ. Chương này đặt ra câu hỏi: trong tương lai rất xa những ÁNH SÁNG này sẽ trở nên như thế nào? Bắt đầu bằng ÁNH SÁNG nguyên thủy, vô cùng nóng, của Big Bang, ÁNH SÁNG này trình hiện trước chúng ta ngày nay dưới dạng một bức xạ hóa thạch, bị lạnh đi rất nhiều bởi sự giãn nở của vũ trụ và choán khắp vũ trụ. Sau đó chương này sẽ đề cập đến sự tiến hóa của ÁNH SÁNG các sao và thiên hà, từ sự ra đời của các sao đầu tiên cho đến cái chết của các tinh tú gần đây nhất.
    CHƯƠNG này cũng nhắc đến đối trọng của ÁNH SÁNG, đó là BÓNG TỐI. Sau rốt, vật chất sáng của các sao và các thiên hà chỉ chiếm 0,5 tổng lượng vật chất và năng lượng của vũ trụ. Chúng ta đang sống trong một vũ trụ-tảng băng trôi, chỉ nhìn thấy phần nhô lên rất nhỏ. Trong 99,5% còn lại, 3,5% được cấu thành từ vật chất thông thường không phát ra bất kỳ ÁNH SÁNG nhìn thấy được nào, 26% vật chất ngoại lai không phát ra bất kỳ ÁNH SÁNG nhìn thấy được hoặc ÁNH SÁNG nào khác, và bản chất của chúng thì vẫn hoàn toàn là bí ẩn (người ta gọi đó là “vật chất tối”), và 70% còn lại tạo thành “năng lượng tối”, tác dụng như một lực đẩy làm tăng sự giãn nở của vũ trụ, và bản chất của năng lượng này cũng hoàn toàn bí ẩn.

    CHƯƠNG 5 đề cập chi tiết hơn về ÁNH SÁNG mặt trời, nguồn gốc của sự sống và năng lượng, và vô số các cảnh tượng ÁNH SÁNG với tất cả những vẻ đẹp mà ÁNH SÁNG mặt trời sinh ra trên Trái Đất. Chương này đề cập đến sự quang hợp của cây cối, phản ứng sinh hóa quan trọng nhất cho sự sống của chúng ta trên Trái Đất, và những nguy cơ mà con người đang gây ra cho hành tinh bởi hành động phá hủy dại dột các khu rừng nhiệt đới và gây ô nhiễm khí quyển trái đất. Chương này không chỉ đề cập đến những mặt tích cực, mà còn cả những mặt tiêu cực của ÁNH SÁNG mặt trời khi người ta lạm dụng nó. Tác giả cũng giải thích cảnh tượng huyền diệu của cầu vồng, MÀU đỏ rực rỡ của hoàng hôn, “tia xanh” bí hiểm, MÀU trắng của những đám mây, MÀU lam thẫm của các dãy núi xa xa, MÀU xanh thẳm của đại dương, MÀU xanh vắt của bầu trời quang mây…

    CHƯƠNG 6 kể lại cách con người chế ngự ÁNH SÁNG phục vụ cuộc sống của mình và giao tiếp với đồng loại, và nhờ vậy đã biến hành tinh thành một ngôi làng toàn cầu. Chương này bắt đầu bằng công cuộc chinh phục lửa, sau đó đề cập đến ÁNH SÁNG nhân tạo với phát minh ra đuốc và đèn thắp bằng mỡ động vật và dầu thực vật, nến, đèn gaz và, cuối cùng là bóng điện và đèn huỳnh quang. Tiếp theo là phát minh ra lazer, đứa con của cơ học lượng tử, kết quả của sự “khuếch đại” ÁNH SÁNG nhìn thấy được, và với vô số các ứng dụng đa dạng bắt nguồn từ đó.
    Sau đó tác giả đề cập đến việc sử dụng ÁNH SÁNG để vận chuyển thông tin và kết nối nhân loại. Các mạng cáp quang khổng lồ vận chuyển ÁNH SÁNG ngang dọc khắp thế giới. Chúng tải hàng triệu cuộc điện đàm và kết nối tất cả các máy tính của hành tinh thành một mạng khổng lồ gọi là Internet. Internet hiện nay vẫn dựa trên các máy điện quang, trong đó các electron kết hợp chặt chẽ với các photon để truyền thông tin. Nhưng công nghệ internet điện quang này sẽ sớm được thay thế bằng Internet quang tử, dựa hoàn toàn trên ÁNH SÁNG.
    CHƯƠNG 6 kết thúc với các máy của tương lai, các máy lượng tử. Làm thế nào để sử dụng được các tính chất lượng tử lạ lùng và kỳ diệu của ÁNH SÁNG để viễn tải các hạt (viễn tải lượng tử), để ngăn chặn tin tặc (mật mã lượng tử) và tính toán cực kỳ nhanh (máy tính lượng tử)?

    CHƯƠNG 7 đề cập đến mối quan hệ mật thiết của MẮT và NÃO, đến cách kết hợp chặt chẽ của hai cơ quan này để cho phép chúng ta nhìn thấy. Chương này cũng khám phá cách thức mà ÁNH SÁNG góp phần làm phong phú thế giới tinh thần và nghệ thuật của con người.
    MẮT là một dụng cụ quang học kỳ diệu mà tiến hóa sinh học đã nhào nặn một cách độc lập cho rất nhiều loài. Mặc dù MẮT người chỉ chứa ba loại tế bào thị giác nhạy cảm chỉ với ba loại màu: đỏ, xanh và tím, nhưng nhờ hoạt động của NÃO, con người có thể tri giác được tới khoảng vài trăm sắc thái và MÀU của thế giới. Chính nhờ có NÃO mà chúng ta nhạy cảm với ÁNH SÁNG, mà ÁNH SÁNG khơi dậy trong chúng ta biết bao xúc cảm và tình cảm.

    Theo Goethe, ÁNH SÁNG có một bản chất sâu kín và tâm linh, và các MÀU là “những hành động và nỗi đớn đau của ÁNH SÁNG”. Một vật có MÀU SẮC được tri giác bởi cả MẮT và NÃO.
    Các MÀU chuyển tải các mã, các ý nghĩa được che khuất, những điều cấm kị và các định kiến mà chúng ta phản ứng lại một cách vô thức.
    Các họa sỹ là những bậc thầy trong nghệ thuật sử dụng ÁNH SÁNG để gợi ấn tượng và cảm giác về hiện thực. Monet, một hoạ sỹ thuộc trường phái ấn tượng, đã biến ÁNH SÁNG thành một yếu tố căn bản và luôn thay đổi trong tranh của ông. Ông muốn thâu tóm trên tranh của ông “tính tức thời”, cái thần thái của sự vật ở một thời điểm nhất định. ÁNH SÁNG, vốn thay đổi theo thời gian, và MÀU SẮC, vốn thay đổi theo sự chiếu sáng, phải được tính đến bằng mọi giá. Bị mê hoặc bởi các phát kiến khoa học liên quan đến ÁNH SÁNG và thị giác, Seurat đã sáng tạo ra lối vẽ điểm hoạ của ông. Những biến đổi của sắc độ không còn được tạo ra bằng cách pha trộn các MÀU trên bảng MÀU nữa, mà bằng cách bắt MẮT và NÃO của người xem phải tổ hợp các điểm MÀU khác nhau trong một loại “đại tổng/Tích hợp thị giác”. Từ bỏ phép phối cảnh truyền thống, Cézane đã tiến hành thử nghiệm với không gian và MÀU SẮC. Theo ông, hội họa không phải là nghệ thuật bắt chước một vật. Vẽ, đó chính là sử dụng MÀU SẮC và hình khối để thể hiện các cảm giác bên trong mãnh liệt trước thế giới bên ngoài. Còn Kandinsky đã đẩy sự trừu tượng đi xa hơn nữa: khẳng định chiều kích tinh thần của ÁNH SÁNG và các MÀU SẮC, ông khẳng định rằng hội họa có thể vượt qua các hình khối và chỉ thể hiện bằng các đường nét, các vết và các màu, rằng mỗi một MÀU SẮC đều biểu lộ một sự cộng hưởng nội tại riêng có đối với tâm hồn và do đó có thể được sử dụng một cách độc lập với hiện thực thị giác.
    Chiều kích tinh thần này của ÁNH SÁNG đã được các tôn giáo và các truyền thống tâm linh ca ngợi đến cực điểm.
    Trong Cơ đốc giáo, Chúa là ÁNH SÁNG, và nghệ thuật Gothic trước hết là nghệ thuật ÁNH SÁNG.
    Trong Phật giáo, ẩn dụ ÁNH SÁNG được sử dụng để chỉ sự tiêu tan của vô minh và nhận ra diệu đế.

    Cuốn sách này dành cho những "chính nhân" không nhất thiết phải có một hành trang kỹ thuật, mà chỉ cần có óc tò mò ham hiểu biết về vật lý và siêu hình của ÁNH SÁNG. Trong quá trình viết cuốn sách này, tôi đã cố gắng hết sức có thể để tránh sử dụng các thuật ngữ chuyên ngành mà vẫn không làm mất đi độ chính xác và nghiêm túc khoa học. Tôi đặc biệt quan tâm làm thế nào để cho hình thức trình bày là đơn giản nhất, rõ ràng nhất và dễ đọc nhất, nhằm chuyển tải đến bạn đọc các khái niệm đôi khi khô khan, xa lạ và khó hiểu. Tôi cũng đã đưa vào nhiều hình ảnh và một tập các hình minh họa MÀU không chỉ để cụ thể hóa những gì tôi đã trình bày, mà còn để việc đọc cuốn sách này thêm vui MẮT.
    Trịnh Xuân Thuận
    nguồn vietimes


    Các Bác có thể tải Tóm Lược Quyển này tại đây:
    "Những con đường ÁNH SÁNG"
    [r2)]@}
  2. Hoailong

    Hoailong Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    28/04/2004
    Bài viết:
    1.997
    Đã được thích:
    46
    Nào Chúng ta hảy tiếp tục cùng GS TRỊNH XUÂN THUẬN Giải mã bí mật ánh sáng nhé !!
    Vương quốc của ánh sáng

    TTO – Từ những thời kỳ xa xưa cho đến ngày nay, ánh sáng luôn luôn mê hoặc đầu óc con người. Ánh sáng có ảnh hưởng lớn đến các xúc cảm và suy nghĩ của con người, đến cách con người quan niệm về thế giới, dù đó là thầy tu, triết gia, nhà thơ, nghệ sỹ hay nhà bác học.
    Rất lâu trước khi trở thành đối tượng của các nghiên cứu khoa học, ánh sáng đã được xếp vào hạng Siêu nghiệm (ordre transcendental). Các nguồn sáng trong bầu trời – như Mặt Trời, Mặt Trăng, các sao, cầu vồng, cực quang – đều đóng vai trò thần thánh trong rất nhiều thần thoại trên thế giới. Ánh sáng là sứ giả của thần thánh. Mối liên kết giữa ánh sáng với quan niệm cho rằng con người được sinh ra từ ánh sáng là mật thiết tới mức người ta có thể nói rằng một nền văn hóa được xác định bằng hình ảnh mà người ta ban tặng cho ánh sáng. Cézane đã vẽ không biết mệt mỏi rất nhiều lần ngọn núi Sainte-Victoire dưới các góc độ chiếu sáng khác nhau.
    Monet chăm chú theo dõi trò chơi sáng – tối suốt nhiều giờ trên các motif của giáo đường Rouen.
    Như vậy ánh sáng mang theo nó một hàm ý thẩm mỹ về “cái đẹp” và một hàm ý tinh thần về “cái thiện”.
    Ánh sáng cho phép chúng ta ngắm nhìn thế giới và giải thích thế giới.
    Trong khoa học, ánh sáng cũng đóng vai trò hàng đầu. Ánh sáng thu hút sự chú ý của nhà quang học, người chuyên chế tạo các kính thiên văn và các loại kính viễn vọng khác để bắt bức xạ rất yếu của các thiên thể ở xa.
    Đối với nhà thiên văn, ánh sáng là phương tiện đặc ân để tiếp xúc với phần còn lại của vũ trụ. Ánh sáng mà nhà thiên văn thu nhận được, thứ ánh sáng đến từ những thời xa lắc xa lơ, vượt qua không gian mênh mông giữa các vì sao và giữa các thiên hà, mang theo nó bản mật mã của vũ trụ mà nhà thiên văn phải hoá giải nếu muốn tái dựng quá khứ, hiểu được hiện tại và tiên đoán tương lai của vũ trụ.
    Còn nhà vật lý thì lại quan tâm đến bản chất của ánh sáng. Họ đã phát hiện ra rằng ánh sáng có hai mặt, giống như Janus: trong một số hoàn cảnh nào đó, ánh sáng trình hiện như một sóng, nhưng trong các hoàn cảnh khác, nó lại biến hoá thành hạt.
    Về phần mình, nhà sinh vật học muốn hiểu được làm thế nào mà sự tiến hóa theo Darwin, được kích thích bởi chọn lọc tự nhiên, lại có thể tạo ra được một dụng cụ hoàn hảo đến thế – đó là mắt của con người.
    Còn nhà thần kinh học thì lại muốn tìm hiểu làm thế nào mà các thông tin thị giác được mắt truyền lên não lại có thể cho phép não xây dựng được một biểu tượng về thế giới.

    Theo NHỮNG CON ĐƯỜNG CỦA ÁNH SÁNG – TRỊNH XUÂN THUẬN

    nguồn:maxreading.com
    – TRỊNH XUÂN THUẬN (1948- )
    Ref:

    http://vi.wikipedia.org/wiki/Trịnh_Xuân_Thuận
    http://www.trinhxuanthuan.com/indexen.htm


    Các tác phẩm tiêu biểu của Trịnh Xuân Thuận:
    - Giai điệu bí ẩn - và con người đã tạo ra vũ trụ, Phạm Văn Thiều dịch, NXB Khoa Học Và Kỹ Thuật.
    - Hỗn độn và hài hòa, Phạm Văn Thiều và Nguyễn Thanh Dương dịch, NXB Khoa Học Và Kỹ Thuật.
    - Cái vô hạn trong lòng bàn tay (Từ Big Bang đến Giác Ngộ), Phạm Văn Thiều - Ngô Vũ biên dịch, NXB Trẻ & tạp chí Tia Sáng.
    - Lượng tử và hoa sen, NXB tổng hợp TP.HCM.
    - Trò chuyện với nhà vật lý thiên văn Trịnh Xuân Thuận, Phạm Văn Thiều dịch, NXB Trẻ & tạp chí Tia Sáng.
    - Nguồn gốc - Nỗi hoài niệm về những thuở ban đầu, Phạm Văn Thiều và Ngô Vũ dịch (NXB Trẻ).
    Hiện NXB Trẻ đã mua được tác quyền cuốn Les voies de la lumière - Những con đường ÁNH SÁNG xuất bản vào năm 2008.
    (Theo TT)
    [r2)]
  3. Hoailong

    Hoailong Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    28/04/2004
    Bài viết:
    1.997
    Đã được thích:
    46
    Theo NHỮNG CON ĐƯỜNG CỦA ÁNH SÁNG – tiếp tục
    Chúng ta hảy thử tiếp tục cùng Với nhà NHà ĐẠO HỌC HIỆN ĐẠI Cao Xuân Huy & nhà Thiên văn Học Trịnh Xuân Thuận
    Giải mã ngược lại bí mật 2 Khái Niệm & Fạm Trù cùng các biểu tượng cổ đại (ÂM-DƯƠNG) & chữ ĐẠO theo những CON ĐƯỜNG (ÁNH SÁNG -BÓNG TỐI)

    Chữ ĐẠO /(ÂM-DƯƠNG) & những CON ĐƯỜNG (ÁNH SÁNG -BÓNG TỐI): AI SIÊU HÌNH ,SIÊU NGHIỆM & BIỆN CHỨNG HƠN AI ???
    Nếu như Các nhà nghệ sỹ Hội Họa Tây Fương Cézane, Monet, Seura hay L da Vinci đả tạo ra những SIÊU FẪM nghệ thụật của mình bằng ÁNH SÁNG & MÀU SẮC
    thì sự hình thành các BIỂU TƯỢNG & CHỬ VIẾT Trung Quốc là những Bức Họa, SIÊU FẪM Biểu Cãm & duy lý của 1 tầng lớp trí thức Tinh hoa của Xã hội cổ đại Đông Fương & Trung Quốc ; đóng góp k0 thể chối cải vào sử thi & kho tàng đời sống triết lý, văn học, nghệ thuật Đông Fương & mở rộng ra là tư tưởng, tư duy Văn hoá của các nước đồng văn Đông Á.

    Sự vận động của tự nhiên tuân theo quy luật nào, vận động như thế nào? đó là điều người Trung Hoa tìm hiểu hàng ngàn năm và đúc kết thành một học thuyết độc đáo: Thuyết Âm Dương, Bát Quái & Sau đấy là Thuyết Tam Tài, Ngũ Hành
    Có thể nói đây là lý thuyết chủ đạo, nền tảng, lâu đời nhất, & được cho là huyền bí nhất và cũng được ứng dụng nhiều nhất trong thế giới quan phương Đông.

    Theo GS CXuan Huy:
    "Trong MÔI TRƯỜNG sống & đời sống con Ng những ấn tượng đầu tiên & thiết thân nhất là sáng (#cái sáng; ánh sáng MÔI TRƯỜNG sáng); Tối (#CáiTối, BÓNG TỐI, MÔI TRƯỜNG Tối) nóng lạnh vv...
    những ấn tượng ấy kế tiếp nhau 1 cách nhịp nhàng, chia thành những khoảng cách đều đặn, có chừng, lặp đi lặp lại. (# CHU Kì)
    (Trích Thoáng có Tích hợp & Bổ sung theo quyển "Tư Tưởng FD gợi những điểm nhìn tham chiếu"
    Fần 1 tr. 77-79 sđd. Cái Bi kịch của sự Đồng Nhất Hóa .

    Trên cơ sở ấy, Ng ta tạo ra những ký niệm (meme) / ký hiệu & biểu tượng Để diễn tả; những Ng Cổ đại Đông Fương đả lập nên 2 ký hiệu biểu tượng
    ___ (Cái sáng; ánh sáng MÔI TRƯỜNG sáng liên tục) & ký hiệu vạch liền để biểu thị DƯƠNG
    _ _ (#CáiTối, BÓNG TỐI, MÔI TRƯỜNG Tối: cái gián đoạn của cái sáng) vạch đưt để biểu thị ÂM

    & Có lẻ đây củng là những ký hiệu & Chử Viết đâ`u tiên của những Ng Cổ đại Đông Fương

    Ghi Chú:
    Phần # là Ghi Chú của Ng viết
  4. Hoailong

    Hoailong Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    28/04/2004
    Bài viết:
    1.997
    Đã được thích:
    46
    Khi Nói qua Chử Đạo & ÁNH SÁNG/ BÓNG TỐI chúng ta Không khỏi không tham khảo 1 thoáng sang
    Kinh Thánh (Cựu Ước & Tân Ước) theo Ngôi Lời (LOGOS/The Word /Parole) trong Đạo Ki Tô (Ca Tô) giáo & Cơ Đốc giáo; Tin Lành & Hồi giáo và Do Thái Giáo
    http://thanhlinh.net/thanhkinh/index_cuuuoc.htm
    Ki Tô (Ca Tô) giáo & Cơ Đốc giáo; Tin Lành:
    http://thanhlinh.net/thanhkinh/index_tanuoc.htm

    Theo Cựu Ước & Sách Sáng thế (Sáng thế ký Nhóm Phiên dịch CGKPV)

    Sách Sáng thế (Sáng thế ký 1,1–50,26)

    1 1 Lúc khởi đầu, Thiên Chúa sáng tạo trời đất [# THIÊN ĐỊA].

    2 Đất còn trống rỗng, chưa có hình dạng, BÓNG TỐI bao trùm vực thẳm, và thần khí Thiên Chúa bay lượn trên mặt nước.

    3 Thiên Chúa phán : "Phải có ÁNH SÁNG." Liền có ÁNH SÁNG. 4 Thiên Chúa thấy rằng ÁNH SÁNG tốt đẹp. Thiên Chúa phân rẽ ÁNH SÁNG và BÓNG TỐI. 5 Thiên Chúa gọi ÁNH SÁNG là "ngày", BÓNG TỐI là "đêm". Qua một buổi chiều và một buổi sáng : đó là ngày thứ nhất.

    6 Thiên Chúa phán : "Phải có một cái vòm ở giữa khối nước, để phân rẽ nước với nước." 7 Thiên Chúa làm ra cái vòm đó và phân rẽ nước phía dưới vòm với nước phía trên. Liền có như vậy. 8 Thiên Chúa gọi vòm đó là "trời". Qua một buổi chiều và một buổi sáng : đó là ngày thứ hai.

    9 Thiên Chúa phán : "Nước phía dưới trời phải tụ lại một nơi, để chỗ cạn lộ ra." Liền có như vậy. 10 Thiên Chúa gọi chỗ cạn là "đất", khối nước tụ lại là "biển". Thiên Chúa thấy thế là tốt đẹp.

    11 Thiên Chúa phán : "Đất phải sinh thảo mộc xanh tươi, cỏ mang hạt giống, và cây trên mặt đất có trái, ra trái tuỳ theo loại, trong có hạt giống." Liền có như vậy. 12 Đất trổ sinh thảo mộc, cỏ mang hạt giống tuỳ theo loại, và cây ra trái, trong trái có hạt giống tuỳ theo loại. Thiên Chúa thấy thế là tốt đẹp. 13 Qua một buổi chiều và một buổi sáng : đó là ngày thứ ba.

    14 Thiên Chúa phán : "Phải có những vầng sáng trên vòm trời, để phân rẽ ngày với đêm, để làm dấu chỉ xác định các đại lễ, ngày và năm. 15 Đó sẽ là những vầng sáng trên vòm trời để chiếu soi mặt đất." Liền có như vậy. 16 Thiên Chúa làm ra hai vầng sáng lớn : vầng sáng lớn hơn để điều khiển ngày, vầng sáng nhỏ hơn để điều khiển đêm ; Người cũng làm ra các ngôi sao. 17 Thiên Chúa đặt các vầng sáng trên vòm trời để chiếu soi mặt đất, 18 để điều khiển ngày và đêm, và để phân rẽ ÁNH SÁNG với BÓNG TỐI. Thiên Chúa thấy thế là tốt đẹp. 19 Qua một buổi chiều và một buổi sáng : đó là ngày thứ tư.

    20 Thiên Chúa phán : "Nước phải sinh ra đầy dẫy những sinh vật lúc nhúc, và loài chim phải bay lượn trên mặt đất, dưới vòm trời." 21 Thiên Chúa sáng tạo các thuỷ quái khổng lồ, cùng mọi sinh vật vẫy vùng lúc nhúc dưới nước tuỳ theo loại, và mọi giống chim bay tuỳ theo loại. Thiên Chúa thấy thế là tốt đẹp. 22 Thiên Chúa chúc phúc cho chúng rằng : "Hãy sinh sôi nảy nở thật nhiều, cho đầy biển ; và chim phải sinh sản cho nhiều trên mặt đất." 23 Qua một buổi chiều và một buổi sáng : đó là ngày thứ năm.

    24 Thiên Chúa phán : "Đất phải sinh ra các sinh vật tuỳ theo loại : gia súc, loài bò sát và dã thú tuỳ theo loại." Liền có như vậy. 25 Thiên Chúa làm ra dã thú tuỳ theo loại, gia súc tuỳ theo loại và loài bò sát dưới đất tuỳ theo loại.
    Thiên Chúa thấy thế là tốt đẹp.

    26 Thiên Chúa phán: "Chúng ta hãy làm ra CON NGƯỜI (#NHÂN) theo hình ảnh chúng ta, giống như chúng ta, để CON NGƯỜI (#NHÂN) làm bá chủ cá biển, chim trời, gia súc, dã thú, tất cả mặt đất và mọi giống vật bò dưới đất."

    27 Thiên Chúa sáng tạo CON NGƯỜI (#NHÂN) theo hình ảnh mình,
    Thiên Chúa sáng tạo CON NGƯỜI (#NHÂN) theo hình ảnh Thiên Chúa,
    Thiên Chúa sáng tạo CON NGƯỜI (#NHÂN) có nam có nữ.

    28 Thiên Chúa ban phúc lành cho họ, và Thiên Chúa phán với họ: "Hãy sinh sôi nảy nở thật nhiều, cho đầy mặt đất, và thống trị mặt đất. Hãy làm bá chủ cá biển, chim trời, và mọi giống vật bò trên mặt đất."29 Thiên Chúa phán: "Đây Ta ban cho các ngươi mọi thứ cỏ mang hạt giống trên khắp mặt đất, và mọi thứ cây có trái mang hạt giống, để làm lương thực cho các ngươi.30 Còn đối với mọi dã thú, chim trời và mọi vật bò dưới đất mà có sinh khí, thì Ta ban cho chúng mọi thứ cỏ xanh tươi để làm lương thực. Liền có như vậy."31 Thiên Chúa thấy mọi sự Người đã làm ra quả là rất tốt đẹp! Qua một buổi chiều và một buổi sáng: đó là ngày thứ sáu.



    由 Kinh Thánh Tân Ước
    "Ngôi Lời đã hoá thành nhục thể, và Người đã cư ngụ giữa chúng ta" (Ga 1, 1-5. 9-14)

    (1) Lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời. Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa, và Ngôi Lời là Thiên Chúa.

    (2) Lúc khởi đầu, Người vẫn hướng về Thiên Chúa.

    (3) Nhờ Ngôi Lời, vạn vật được tạo thành, và không có Người, thì chẳng có gì được tạo thành.

    (4) Ðiều đã được tạo thành ở nơi Người là sự sống, và sự sống là ÁNH SÁNG cho nhân loại.

    (5) ÁNH SÁNG chiếu soi trong BÓNG TỐI, và BÓNG TỐI đã không diệt được ÁNH SÁNG.

    (6) Có một người được Thiên Chúa sai đến, tên là Gioan.

    (7) Ông đến để làm chứng, và làm chứng về ÁNH SÁNG, để mọi người nhờ ông mà tin.

    (8) Ông không phải là ÁNH SÁNG, nhưng ông đến để làm chứng về ÁNH SÁNG.

    (9) Ngôi Lời là ÁNH SÁNG thật, ÁNH SÁNG đến thế gian và chiếu soi mọi người.

    [r2)]@-)
  5. Hoailong

    Hoailong Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    28/04/2004
    Bài viết:
    1.997
    Đã được thích:
    46
    Ngoài ra, Trong các triết thuyết Ấn ĐỘ theo kinh VeDa /Phệ Đà (Vedanta, Upanisad) & muộn hơn là Phât Gíao (PG) ÁNH SÁNG/ BÓNG TỐI & MÀU Sắc đều được đề cập đến : theo kinh VeDa (Vedanta) chúng ta có triết thuyết CHAKRA (Luân Xa) & Vastu shastra
    trong PG theo 1 Bộ Kinh nổi tiếng Bát-nhã-ba-la-mật-đa tâm kinh ( âm Hán Việt: Bàn nhược ba la mật đa tâm kinh , tiếng Hoa: 般若波羅蜜多心經; phiên latinh từ Phạn ngữ: Prajñā Pāramitā Hridaya Sūtra, Prajnaparamitahridaya Sutra; Anh ngữ: Heart of Perfect Wisdom Sutra) còn được gọi là Bát-nhã tâm kinh, hay Tâm Kinh. Đây là kinh ngắn nhất chỉ có khoảng 260 chữ của Phật giáo Đại thừa và Thiền tông. Nó cũng là kinh tinh yếu của bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 cuốn của Phật giáo. Kinh này được hầu hết các Phật tử tại Việt Nam, Triều Tiên, Nhật Bản, Tây Tạng, và Trung Quốc biết đến và rất thường dùng trong việc đọc tụng.
    trong Kinh có câu:
    >> “Sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không không tức thị sắc
    > 色 不 易 空 。空 不 易 色 。色 即 是 空 。空 即 是 色”
    Nghĩa là:
    Sắc chẳng khác Không, Không chẳng khác Sắc,
    Sắc tức là Không, Không tức là Sắc.
    Về phương diện Nhận thức luận, Đả có nhiều cach diễn giãng về 2 câu này :

    không 空 tiếng TQ, tiếng Phạn (SansKrit) gọi là Sunyata, là bản thể . Sắc là hiện tượng của bản thể ấy.
    Sắc bất dị không , không bất dị sắc , sắc tức thị không , không tức thị sắc, nghĩa là : hiện tượng không khác với bản thể, bản thể không khác với hiện tượng , hiện tượng tức là bản thể , bản thể tức là hiện tương .
    Ví dụ cụ thể : sóng tức là nước , nước tức là sóng . Đây là thuyết Bất Nhị của Phật giáo . Khi học pháp, đức Phật phương tiện chia ra 2 phạm trù để chỉ dạy : Tánh Và Tướng. Tánh là bản thể , tướng là hiện tượng. Phật sợ rằng chúng sanh không hiểu chia ra 2 phạm trù như vậy để dễ hiểu mà hiểu lầm tánh khác với tướng nên bằng kinh Bát Nhã Phật nói : Không tức là sắc, sắc tức là không , nghĩa là bản thể ( Tánh ) tức là hiện tượng ( tướng ) , hiện tượng ( tướng ) tức là bản thể( tánh ).

    Ở đây hiểu theo kiểu bình dân. Hay dùng bình dân nói cho dễ hiểu. Mượn cái đẹp ( sắc) để lý giải: cái đẹp ( sắc) không tự dưng nó đẹp, do tâm ta cảm nhận nó là đẹp. Cảm nhận được cái đẹp ( sắc) không phải do tâm ta tự cảm nhận được mà do cái đẹp ( sắc) tác động đến tâm của ta. Cũng có thể dễ hiểu một chút: " Sắc không tự là sắc, do tâm nên có sắc. Tâm không tự là tâm do sắc nên có tâm".
    Khi ta nhìn một bông hoa, ta cho nó là đẹp, đó là khi con tim ta đã rung động trước bông hoa đó. Tim ta rung động vì màu sắc, bố cục, không gian, các các đối tượng tương phản xung quanh bông hoa. Nhưng thật ra bông hoa đó không tự dưng nó đẹp được, và bông hoa đó nó cũng chẳng định nghĩa được nó đẹp hay nó xấu. Chỉ đơn giản là một bông hoa với màu sắc và hình dáng đặc thù của nó. Nó đẹp nhờ ta tác động vào bằng cách ta nhìn vào nó và thốt lên: "Một bông hoa đẹp". Lúc này cái đẹp ( sắc) đó do chính ta định nghĩa nó là đẹp. Và cái đẹp ( sắc) này nó gói gọn trong khuôn khổ trong tâm rung động của ta mà thôi. Chứ thật ra cái đẹp ( sắc) nó cũng chẳng có hình dáng hay màu sắc cố định nào cả. Cái đẹp đó do ta tạo ra từ một sự vật hoặc hiện tượng nào đó. Nói chính xác ở đây là bông hoa đã tác động lên tâm trí của ta và ta có giao động. Giao động nhiều hay dao động ít là do sự cảm nhận của ta về bông hoa mà nói lên rằng hoa đẹp hay không đẹp hoặc không đẹp không xấu.

    Nhưng:

    Nếu không có bông hoa kia tác động vào ta, thì ngay chính bản thân ta có cái đẹp ( sắc) hoặc cái xấu trong tâm không. Tôi xin nói là có, tự trong mỗi người đều có cái xấu, cái đẹp ( sắc) pha tạp vào nhau. Nó là bằng chứng để tâm ta đánh giá sự vật hiện tượng qua cách nhìn hình thức bên ngoài. Nhưng cũng chính vì điều này đôi lúc hoặc vô số lúc nó cũng đã đánh lừa lý trí của ta làm cho ta đánh giá sự vật và hiện tượng không đúng đắn. Nếu bông hoa kia được đặt trong một không gian khô cằn, sắt đá. Ta nhìn thấy một bông hoa, ta ngạc nhiên và thốt lên rằng một bông hoa thật đẹp, tôi chưa bao giờ nhìn thấy bông hoa nào đẹp như vậy cả. Nhưng cũng chính bông hoa đó, ta đặc nó chung với vô vàng những bông hoa khác. Thì cái đẹp ( sắc) ở đây tự chính trong tâm ta lại định nghĩa nó ở một mức độ khác. Sao kỳ vậy, tâm ta cũng vậy, bông hoa đó cũng vậy. Sao ta lại có sự rung động khác nhau. Đó mới chỉ xét theo hình thức bên ngoài.

    Xét về hình thức bên trong. Cũng không gian đó, khung cảnh đó, vẫn bông hoa đó. Nhưng hôm qua ta thấy nó đẹp, nhưng sao hôm nay ta thấy nó không đẹp bằng hôm qua.
    Định nghĩa như cụ Nguyễn Du cho dễ hiểu: "người buồn cảnh có vui đâu bao giờ".
    Từ đây suy ra ta mới thấy chỉ 2 sự vật cho ta vô số hiện tượng khác nhau. Một bông hoa luôn tồn tại ở trạng thái: đẹp và không đẹp. Một con người cũng tồn tại trong 2 trạng thái: đẹp và không đẹp. Nếu ta có thêm một đối tượng khác là một bông hoa khác hoặc thêm một đối tượng là một người khác thêm vào thì sao? sẽ vô số trạng thái được xuất hiện ra ở đây. Và nếu ta cộng thêm một đối tượng là thời gian thì ta có hằng hà sa số trạng thái mà ta không thể liệt kê ra được.
  6. Hoailong

    Hoailong Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    28/04/2004
    Bài viết:
    1.997
    Đã được thích:
    46
    ÁNH SÁNG -BÓNG TỐI Không và Sắc trong Phật giáo

    Trong Phật giáo 2 khái niệm “Không và Sắc”, “Hữu và Vô”.Thường, người không theo đạo Phật rất khó hiểu
    Khái niệm ấy đôi khi được giải thích một cách phức tạp. Thường thường, người ta hiểu thế nào là “sắc”, thế nào là “không”.
    Ngũ hành có thể giải nghĩa “sắc không” một cách giản dị, từ đó cho phép ta hiểu sâu hơn “không sắc”, dần dần tự mình tu tại gia, mang lại niềm hạnh phúc cho chính tâm hồn mình và sự yêu thương cho đồng loại.
    “Sắc” là những vật thể hiện hữu có sắc mầu, có hình thể, có thể cảm nhận được. Mở rộng ra “sắc” là mọi thứ trên đời. “Không” là mặt đối lập của nó. Mặt đối lập ấy là một thùng chứa “trống không”. Nhưng thùng chứa ấy là cái gì, nằm ở đâu? Để tìm bản chất của cái thùng “trống không” ta sẽ phân tích như sau.
    Trước hết, ta hãy bắt đầu bằng nhịp điệu tích/tản. Con người hơn mọi vật khác là có tới bốn cấp độ tích/tản.
    Giống như các vật thể vô tri, con người tích/tản trường tế vi. Như cây cối, con người tích/tản khí.
    Như động vật con người tích/tản chất (thực phẩm). Và hơn cả mọi loài, con người còn tích/tản thông tin dưới mọi hình thái.
    Ta tự hỏi, đối với trường tế vi, khí và chất (dinh dưỡng) ta có thể tích được bao nhiêu. Cái đó tùy người.
    Nhưng với người to béo và cả người gầy ốm nữa, mỗi chúng ta không thể tích quá nhiều hơn kẻ khác ba loại vật chất ấy.

    3 loại vật chất ấy tích vào bao nhiêu thì phải tản ra bấy nhiêu, để đạt sự cân bằng. Ba quá trình tích/tản đó gọi là tích/tản cân bằng tĩnh. Vì trường tế vi nếu tích/tản không cân bằng thì ta nóng đổ mô hôi hoặc chết rét. Đối với khí (không khí) cũng vậy, tích nhiều lắm thì cũng chỉ bằng dung tích của lá phổi, ngược lại khi tích được dưới mức cân bằng ta sẽ phải thở ô xy (khi ốm chẳng hạn), nếu không ta sẽ chết. Còn chất dinh dưỡng, dù có bổ béo cũng không thể tích quá nhiều.

    Tuy nhiên, gọi 3 quá trình tích/tản trên là cân bằng tĩnh cũng còn hàm nghĩa là có thể tích hơi nhiều hơn tản vẫn chấp nhận được trong thời gian nào đó. Chẳng hạn, nếu tích thực phẩm quá nhiều mà không tản hết (thành dưỡng chất qua thành dạ dày, thành bã thải qua cơ quan bài tiết), thì lượng dư có thể đọng lại trong các mô mỡ, hoặc sinh thành sỏi thận, hay thành cặn đóng thành mạch máu,… Lượng dư ấy sẽ giết chết ta một cách dần dà, chứ không phải ngay lập tức. Lượng dư của quá trình tích/tản có thể được phép ở lại trong cơ thể một thời gian nào đó. Thời gian lưu trú lượng dư của ba loại tích/tản này rất quan trọng. Nếu ngắn thì ta khỏe mạnh, hào sảng và minh mẫn, nếu lâu quá thì ta dần dần mắc bệnh tật, ốm đau.

    Như vậy, nếu chúng ta có thể thực hiện ba bậc tích/tản sơ cấp (trường, khí, chất) một cách cân bằng thì cái thùng chứa thân thể không bị dày vỏ thêm. Nó vẫn là “không”. Trường hợp hai vị thiền sư chùa Đậu, Hà tây, là một minh chứng hùng hồn về cái vỏ không thân xác đó. Thân xác của hai vị này (Vũ Khắc Minh tự là Đạo Chân, Vũ Khắc Trường tự là Đạo Tâm) là mượn của tự nhiên. Khi còn sống hai vị thiên sư đã dùng cái vỏ vay mượn đó để thực hiện các phép tích/tản. Khi biết sắp chết họ đã tiến hành phép tích từ từ và tản bằng lửa tam muội để hóa phủ tạng và óc não, chỉ để lại xương cốt và yêu cầu học trò dùng sơn ta và giấy bản bồi đắp thành tượng. Phép “hóa”, mà dân ta dùng một cách thành kính đối với các vị thần thánh, trong trường hợp này chính là phép biến đổi vật chất (phủ tạng, gan ruột, tim óc,…) thành năng lượng, dưới dạng “khí” rồi từ từ tản ra không gian xung quanh.
    Hai vị thiền sư Đạo Chân và Đạo Tâm thực sự đã đạt đến nghệ thuật bậc cao của phép tích/tản, và tấm gương tích/tản của hai vị chính là bảo bối văn hóa cao quí của dân tộc Việt nam.

    Cuối cùng, để tìm ra chân tướng của cái “không” Phật giáo, chúng ta phân tích nhịp điệu tích/tản thông tin.
    Gặp một Giáo sư trong hành lang trường Đại học, ta dừng lại nói: “Kính chào Giáo Sư”. Đó là tích hình ảnh, tản âm thanh.
    Đọc một quyển sách cũng là tích hình ảnh các con chữ và tản ra bài phê bình, (chẳng hạn). Đó là tích/tản thông tin. Thời gian lưu của thông tin vừa tích vào tại não bộ có thể rất dài lâu, chẳng hạn một áng văn thơ tuyệt tác ta có thể nhớ suốt đời. Nhưng thời gian lưu thông tin cũng có thể rất ngắn, như các thông tin về giá vàng lên xuống hàng ngày. Các thông tin lưu trữ được cất vào bộ nhớ, một phần khá lớn chìm xuống tiềm thức. Nhưng dù có mổ óc ra ta cũng không tìm thấy các thông tin đó dưới dạng vật chất, ngoài những nếp nhăn nhằng nhịt trên hai bán cầu đại não. Gần như, quá trình tích/tản thông tin không làm cho bộ não nặng thêm về mặt vật chất. Cho nên, có thể nói quá trình tích/tản thông tin vẫn bảo toàn cái “không” vật chất của bộ não.

    Nhưng nếu, tích/tản thông tin để mưu cầu sự giầu có và quyền lực cho cá nhân, thì khối thông tin đó đã trở thành “sắc”. Khối thông tin tích được đó, ngày đêm quằn quại trong tâm trí ta, hun đúc thành kế hoạch (plan) hoặc âm mưu (conspiracy). Nếu ta không thể tản cái kế hoạch hoặc âm mưu ấy ra thì tâm hồn ta là “sắc”, không còn là “không” nữa. Ngược lại, cái khối thông tin tích lũy được trong tâm trí ta là những tri thức có thể mang đến sáng tạo và yêu thương thì ta luôn sẵn sàng tản. Lúc đó, hồn ta là “không”, vì cái tích vào đã được tản ra. Để có thể vươn tới cái “không” Phật giáo thì phép tích/tản thông tin của con người phải dựa trên cơ sở vị nhân sinh.

    Như vậy, con người là một bộ tích/tản. Thân xác ta là bộ tích/tản có công suất hữu hạn, còn óc não ta lại là bộ tích/tản dường như vô hạn.
    Vì bộ não được coi là bộ tích/tản vĩ đại, nên lượng tích tản ấy ngang trời và ngang cả đất nữa. Do đó, con người được coi là một trong tam tài (thiên, địa, nhân). Vì vậy mà người xưa đã ví cái thân xác bé nhỏ của ta ngang với trời đất. (Nhưng, cũng phải mở ngoặc, một đại phú hào như Hòa Thân bên nhà Thanh Trung quốc, một đời tích biết bao vàng bạc châu báu, biết bao sản vật, nhưng chưa chắc đã được xếp vào hàng tam tài, mặc dù ngài có quyền lực cực kỳ lớn với người và có sở hữu cực kỳ nhiều với vật).

    Vậy, chúng ta đã có thể tìm được bản chất của cái thùng chứa “trống không” rồi. Đó chính là thân xác ta và óc não ta. Lúc ta mới sinh ra đời, bắt đầu khởi hành vào cuộc đời này, cái thân xác bé nhỏ của ta chính là cái thùng chứa trống không theo nghĩa Phật. Nó là “không”, ngay tại khi ta bắt đầu các nhịp điệu tích/tản, bằng tiếng khóc chào đời, bằng hành vi tìm vú mẹ.

    Trong quá trình thực hành các nhịp điệu tích/tản bốn cấp, dần dần cái thùng chứa có thể không còn là “không” nữa. Nó có thể chứa đầy lòng tham, sự đố kỵ, mối hận thù,… Tu Phật là làm cho thân xác ta trở về “không”, trở về nguyên vẹn là một cơ phận chuyên dùng để vận hành các quá trình tích/tản. Cái vỏ thùng có thể cân nặng vài chục kilo đấy, nhưng vài chục kilo đó là của mẹ cha ban tặng, và là sự vay mượn của trời đất. Nghĩa vụ của ta trên đời này là tích để rồi tản ra các giá trị mới, sáng tạo ra các công trình làm đẹp cho đời. Nghĩa vụ ấy là dùng “không” sáng tạo ra “sắc”. Tuyệt nhiên không phải là tích “sắc” vào để trở thành giàu có và danh vọng. Làm như vậy, cái vỏ thùng luôn sạch bong, không có bất kỳ hạt bụi tham sân si nào đóng cắn trên thành vách cả. Nghĩa vụ của ta là thực hiện cái vòng Ngũ hành: Tích, Tản, Sinh (Kim, Thủy, Mộc). Về với Phật, biến mình thành “không” là đi theo con đường của Đạo :

    “Đạo sinh một, một sinh hai, hai sinh ba, ba sinh vạn vật”.
    Vậy, “không” đối với Phật giáo chính là thân xác và tâm trí con người. Nó vốn là “không” khi ta mới sinh thành, nó trở thành”có” khi ta không biết tích/tản một cách đúng mức. Một người tích được nhiều của lắm tiền, mà không tản yêu thương, thì tâm trí nặng nhọc, không nhẹ nhàng, cái “không” biến thành “sắc”. Khi gột rửa được tham sân si, tâm trí nhẹ nhàng, thân thể thanh thoát, “sắc” dần về “không”. Người mà biết giữ nhịp điệu tích/tản nhịp nhàng, sống ung dung, tự tại, gặp nghịch cảnh vẫn an nhiên thì dần về cõi Phật, dần về niết bàn, ngay cả khi còn tại thế. Họ không phải chờ một thiên đàng sau cái chết.
    Vậy, triết lý của Phật chính là biết tích “sắc”, lại biết tản “sắc” để giữ trọn cái “không”.

    Nguồn: Chungta.com
  7. Hoailong

    Hoailong Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    28/04/2004
    Bài viết:
    1.997
    Đã được thích:
    46
    Theo Mục định nghĩa TÂM LÝ HỌC MÔI TRƯỜNG trong Wikipedia (tiếng ANH environmental psychology definition Wikipedia)
    http://en.wikipedia.org/wiki/Environmental_psychology
    Nguồn gốc của nghiên cứu về lĩnh vực TÂM LÝ HỌC MÔI TRƯỜNG bao gồm
    Nghiên cứu những tác động của môi trường vật lý và xã hội về hành vi con NG.
    TÂM LÝ HỌC MÔI TRƯỜNG là một lĩnh vực liên ngành tập trung vào sự tương tác giữa con người và môi trường xung quanh.
    Trường định nghĩa thuật ngữ môi trường rộng rãi, bao gồm môi trường tự nhiên, môi trường xã hội, môi trường xây dựng, môi trường học tập, và môi trường thông tin. Kể từ khi khai sinh ra mình, lĩnh vực TÂM LÝ HỌC MÔI TRƯỜNG cam kết cho sự phát triển của ngành là các giá trị định hướng và vấn đề định hướng, ưu tiên nghiên cứu nhằm giải quyết các vấn đề môi trường phức tạp trong việc theo đuổi của cá nhân trong một xã hội rộng lớn hơn [1]

    về Lịch sử & Nguồn gốc của lĩnh vực nghiên cứu "Tâm Lý Học Môi Trường" này chưa được biết, tuy nhiên, Học Giả Willy Hellpach được cho là là người đầu tiên đề cập đến "Tâm lý học môi trường".
    Một trong những cuốn sách của ông, Geopsyche thảo luận về các chủ đề như làm thế nào MẶT TRỜI (Nhật/ Dương 日 ) và MẶT TRĂNG (Nguyệt/Âm 月) có ảnh hưởng đến hoạt động của con người, tác động của môi trường khắc nghiệt, và những ảnh hưởng của MÀU SẮC và hình dáng.
    Trong số các học giả khác được coi là khai SÁNG lĩnh vực tâm lý học môi trường là Kurt Lewin,Jakob von Uexküll, Egon Brunswik, và sau đó là Gerhard Kaminski và Carl Friedrich Graumann. [2]
    [r2)]
  8. xiangqi_87

    xiangqi_87 Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    06/12/2010
    Bài viết:
    461
    Đã được thích:
    1
    Cảm ơn Hoailong nhé!! Hy vọng bạn vẫn còn nhiệt huyết để viết tiếp, hôm nay Mình mới chỉ bắt đầu đọc topic của bạn, và cũng chưa ngấm vào nhiều, nên mình sẽ đọc lại....
  9. Hoailong

    Hoailong Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    28/04/2004
    Bài viết:
    1.997
    Đã được thích:
    46
    Cảm ơn Bác xiangqi_87, sẻ có 1 tiết về cờ (Kỳ) trong Mục HOẠ-KỲ-THI_CẦM trong tương Lai tặng Bác nhé !!!

    mong Bác đón xem !!!

    [r2)]:-ss:-bd
  10. Hoailong

    Hoailong Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    28/04/2004
    Bài viết:
    1.997
    Đã được thích:
    46
    Chúng Ta mới dạo 1 vòng quanh các triết thuyết Tôn giáo nói về (ÁNH SÁNG -BÓNG TỐI) từ Trung cân Đông sang tận Ấn Độ

    Chúng Ta hảy quay lại với các BIỂU TƯỢNG & CHỬ VIẾT TQ (& Hán Nôm), theo 1 giai thoại Về tuổi thơ Danh nhân Lê Quý Đôn như sau:

    Nhà Lê Quý Đôn ở gần ngã ba sông Hồng và sông Trà Lý.
    Một hôm, một vị quan bên Liêu Xá đến thăm ông Lê Trọng Thứ. Vị quan có nghe tiếng cậu bé con quan Thượng Lê rất hay chữ, muốn trực tiếp thử tài.
    Nể tình, ông Lê Trọng Thứ cho gọi Lê Quý Đôn tới. Khoanh tay, kính cẩn chào khách xong, Lê Quý Đôn đứng nép bên cha, chờ đợi.
    Ông khách nói: --Ta nghe cháu còn bé mà đã hay chữ. Vây ta ra vế đối, cháu đối lại nhé!
    Lê Quý Đôn lễ phép: -- Dạ, xin Bác ra đề ạ!
    Ông khách nói : -- Nhà cháu gần ngã ba sông, vậy ta ra vế đối là tam xuyên (三川)!

    Vế đối giản dị mà hóc búa, chữ tam (三) có ba nét sổ ngang nhưng dựng lên, thành ba nét sổ đứng và là chữ xuyên (川).
    "Tam xuyên" (三川) có nghĩa "ba con sông".
    Lê Quý Đôn chưa đáp ngay mà cứ trân trân nhìn ông khách có mang cặp kính.

    Ông khách rất vui vì tìm được vế đối rất hiểm. Thấy Lê Quý Đôn chưa đối được,
    ông khách hỏi: -- Sao, có đối được không, cháu bé?
    Lê Quý Đôn lễ phép thưa: -- Dạ, cháu xin đối là tứ mục (四目).

    "Tứ mục" (四目) có nghĩa "bốn con mắt". Ông khách chỉ còn biết thốt lên: -- Tuyệt vời!
    Chữ đối lại thật chuẩn, chữ "tứ" (四) viết quay dọc lại, cũng là chữ "mục" (目).

    Quay sang ông Thượng Lê, khách xuýt xoa:
    Thằng bé này về sau văn chương sẽ lẫy lừng đấy!

    (Còn Tiếp)
    [r2)]^:)^ :)>-" border=0 alt="" src="/images/smilies/67.gif" smilieid="89">

Chia sẻ trang này