1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Nước Mỹ và Các Giá trị Mỹ

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi NgoiSaoDen, 07/06/2011.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. Jenna.87

    Jenna.87 Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    11/04/2012
    Bài viết:
    668
    Đã được thích:
    5
    Giá trị gì của Mỹ?

    Đây có giá trị Mỹ đây: Ăn cắp!

    Edison được ví như thiên tài, vĩ đại, là điển hình của người Mỹ cống hiến cho nhân loại! Cho đến tận ngày nay, nhân loại vẫn tự hỏi: Làm thế nào mà một thằng ăn cắp lại trở thành thiên tài?

    Nhà thiên tài có 1093 phát minh/sáng chế đăng ký ở Mỹ. Nếu tính sự nghiệp phát minh là 20 năm thì trung bình chưa đến mỗi tuần, nhà vĩ đại này đẻ ra 1 phát minh. Nhanh chỉ kém gà để một tý. Trong khi cả đời người ta chỉ có 1 vài phát minh hữu ích là quí hóa lắm rồi.

    Để làm được việc đó, Edison có hẳn "xưởng phát minh". Ở đó ông ta thuê các nhân công, các kỹ sư, bác học làm công cho ông ta và sáng tác các phát minh cho ông ta. Những con người này có tài, nhưng vô danh, chẳng nói đâu xa, Nicolas Tesla là một người như thế.

    Mặc dù thế, hầu hết trong số hơn 1000 phát minh lại là những thứ vô dụng vô hại và ngu xuẩn. Những gì còn lại có giá trị là ... ăn cắp!

    Ăn cắp, người Mỹ vĩ đại đi ăn cắp. Tôi không nhầm. Không hề nhầm.

    Lấy thí dụ: Cho đến tận lúc này nhân loại biết thừa bóng điện là phát minh của Humphry Davy người Anh từ năm 1800, cách xa Edison 79 năm. Sau đó nữa Joseph Wilson Swan cải tiến nó để sáng lâu hơn và có giá trị sử dụng thực tế vào năm 1860, trước Edison gần 20 năm. Cũng như hàng ngàn kỹ sư, nhà nghiên cứu khác, cũng như Edison, tiếp tục tìm cách khai thác, kéo dài tuổi thọ và đưa vào ứng dụng thương mại. Edison đã mua, hoặc ăn cắp bóng đèn ở đâu đó và cố gắng đưa nó ra thương mại chứ không hề phát minh gì cả.

    Mặc dù ông ta đăng ký phát minh bóng đèn ở Mỹ, nhưng bằng phát minh đã bị tịch thu. Vậy mà người Mỹ vẫn cứ khoe khoang khoác lác Edison - người Mỹ phát minh ra bóng đèn!!!:)):)):))

    Tesla là 1 người làm công cho Edison ở xưởng phát minh. May mắn ông ta thoát ra được và nhân loại ngày nay biết đến cái tên Nicolas Tesla và cả chục phát minh hữu ích: Động cơ điện xoay chiều, máy biến thế, động cơ turbine, truyền tải điện xoay chiều, truyền tải không dây... Ngày hệ thống điện xoay chiều 3 pha như ngày nay ra đời, Edison làm xiếc cho điện giật chết con voi để làm trò, nói điện xoay chiều quá nguy hiểm, hệ thống 1 chiều của ông ta mới vĩ đại. Thật may, vẫn còn người Mỹ tỉnh táo và hệ thống dẫn điện 1 chiều Edison nhanh chóng bị phá sản.

    [​IMG]

    Vậy Edison không có phát minh nào thực sự của mình hay sao? Có chứ, những thứ vô dụng vô hại và ngu xuẩn: Một hôm đi chơi trên bãi biển, đá vào thanh nam châm thấy có các hạt ô-xít sắt bám vào. Nhà vĩ đại tức tốc chạy đến sở phát minh đăng ký và lập nhà máy tuyển sắt từ... cát. Cái nhà máy này nhanh chóng thất bại và bị sụp một cách bí hiểm. Báo hại hãng bảo hiểm đền bộn tiền. Nhân loại biết thừa, sắt, nhôm, đồng, chì, kẽm ... có mặt ở khắp nơi, nhưng để sản xuất công nghiệp, người ta cần cái mỏ có sản lượng lớn, hàm lượng quặng cao để khai thác, tuyển quặng và sơ chế có lãi. Không ai ngu xuẩn đi đãi hàng tấn cát để lấy vài gam mạt sắt bị nam châm hút.. như Edison vĩ đại.

    Phát minh sáng giá duy nhất mà Edison để lại cho nước Mỹ: Phát minh ra công nghệ ăn cắp phát minh.

    Có cả câu chuyện buồn về Nicolas Tesla, bị nhà băng Do Thái J. P. Morgan nhấn chìm bằng cách rút sạch vốn, và dồn tiền cho Edison, kẻ ăn cắp mà chúng bảo kê. Tương tự là Henry Ford, ông tổ của dây chuyền sản xuất công nghiệp cũng sụp đổ dưới gánh nặng nợ nần. Tất cả người Mỹ tử tế đều chết dưới tay bọn cho vay nặng lãi.

    Không biết đến bao giờ người Mỹ mới được độc lập tự do?
  2. Jenna.87

    Jenna.87 Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    11/04/2012
    Bài viết:
    668
    Đã được thích:
    5
    Viết những dòng như thế, chỉ mong ai đó là thầy cô đọc được, thì hãy thôi nói với lũ trẻ rằng: Edison thiên tài, Edison vĩ đại!
    Ta nên dũng cảm nói thẳng ra Edison là thằng ăn cắp. Mỹ cũng có người tài chứ, Tesla đấy.

    Thời kỳ WW-2, chiến dịch mang tên Paper-Clip tuyển mộ, đón và ép buộc di cư hàng chục ngàn nhà khoa học Đức, châu Âu. Lực lượng này đã làm nên thời kỳ phát triển nở rộ của nước Mỹ. Cũng tương tự một chiến dịch khác, giúp đào thoát chạy trốn cho hàng chục ngàn tội phạm khét tiếng Đức quốc xã. Ngày nay, khi mà lực lượng kia không còn. Cái máng lợn sứt mẻ lại lù lù hiện ra! (Huy Phúc);

    Nhưng chưa phải là hết: Tác phẩm: Hưng thịnh và suy tàn của nền Khoa học Đức thời kỳ WWII của kỹ sư-cựu tướng Đức Erih Schneider cho biết (dịch qua bản tiếng Nga): ngày 27-7-1946, Mỹ và các đồng minh họp ở London để thảo một hiệp định theo đó tịch thu toàn bộ phát minh, sáng chế nước Đức đăng ký trước ngày 1-8-1946, bất kể là quân sự hay dân sự, nhà nước hay tư nhân. Số lượng bị tịch thu là 346 000 phát minh, sáng chế. Số tài liệu bị tịch thu không thể tính đếm bằng tờ mà bằng tấn. 1500 tấn tài liệu phát minh sáng chế nước Đức đã bị cướp đoạt và chuyển trái phép sang Mỹ. Mất nhiều năm trời người Mỹ mới phân loại, biên dịch xong và phân phát ra 125 thư viện trên toàn nước Mỹ, sau đó mở cửa cho mọi thành phần nghiên cứu. Một nhà nghiên cứu Mỹ sau 3h lục lọi tìm kiếm trong đống giấy tờ Đức ở thư viện Mỹ hào hứng kể: tôi đã kiếm được nửa triệu đô la.
  3. MrKhuKhoam

    MrKhuKhoam Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    12/04/2011
    Bài viết:
    4.334
    Đã được thích:
    1.180
    Rất tiếc không biết tên tác giả. Nhưng, ai biết tiếng Anh rồi đọc chuyện này khoái hơn, tôi cười nghiêng ghế khi đọc chuyện này. Xin đăng lên đây hầu các bạn .

    Tên Việt trên Đất Mỹ

    Cũng như đêm cuối cùng của Đường Tăng trằn trọc không sao ngủ được, chờ ngày mai vào yết kiến Như Lai để lên kiếp Phật. Cụ Phúc đêm nay cũng vậy ! Ngày mai cụ tuyên thệ vào quốc tịch Mỹ. Cụ nằm trăn trở nghĩ đến cả mười năm trời dằng dẵng, từ khi đủ năm để hợp lệ nạp đơn đến những đêm đứa con trai đi làm về chở cụ đi học lớp luyện thi vào quốc tịch ở văn phòng USCC . Cụ nghĩ nó như con thoi giữa 2 thế hệ. Trong tuần đưa cụ đi học tiếng Anh, bắt cụ phải trả lời điện thoại " hello " chứ nói " tôi nghe đây " làm sao Mỹ hiểu được . Cuối tuần đưa con đi học tiếng Việt, mắng con gọi xe " fire truck" là " xe lửa " , phải nói là " xe cứu hỏa " hay " xe chữa lửa " chứ. Nhiều lúc cụ thấy phải chi mà thằng chắt đi học tiếng Anh, còn cụ đi học tiếng Việt thì mới đúng theo lý tự nhiên của trời đất.

    Thoạt đầu cụ tưởng cả lớp luyện thi vào quốc tịch này , đầy những cụ tuổi gần đất xa trời , học để giết thì giờ, cho bớt nỗi buồn xa xứ. Vậy mà ngày bà cụ Ngà thi rớt , cả lớp xôn xao lên như ngày Mỹ rút quân ra khỏi Việt Nam . Thực ra thì bà này rớt cũng đáng đời lắm . Đời thuở nào ông quan tòa hỏi tổng thống Mỹ là ai, bà cụ lại trả lời là Nguyễn văn Thiệu thì đậu làm sao được ?

    Sinh nhật người nào trong lớp, bà cũng làm cho một cái bánh gà-tồ rồi bắt các cụ vây quanh hát " Happy Birthday ". Cụ không biết đến ngày chết thì người ta có hát "Happy Deathday " không, bởi vì cụ nhớ bên quê nhà những ngày kỵ giỗ mới thật là quan trọng . Con cháu tụ họp ăn uống 2, 3 ngày liền. Chứ ngày bước vào trần thế khổ ải này, người ta phải dày công tu hành để thoát ra khỏi vòng luân hồi, thì mừng rỡ ngày sinh để làm gì ?

    Vậy mà thời gian thấm thoát qua đi, rồi cũng đến ngày cả lớp đi thi. Các cụ sáng sớm đã ngồi đầy ra ngoài phòng đợi của sở di trú trong tòa đô sảnh thành phố . Cụ nghĩ ngày xưa đi thi Hương , thi đình cũng chỉ nhộn nhịp đến thế là cùng . Con cháu đem theo cho nào là bánh trái, nước uống , cả ghế xếp để ngả lưng , như thi vào quốc tịch đến mấy ngày trờị Bây giờ trí nhớ các cụ kém cỏi , học được tiếng Mỹ chữ nào , vài bữa lại quên hẳn đi không biết phát âm làm sao . Cho nên đi thi, cụ nào cũng viết chi chít , như xâm mình trên tay , các câu trả lời phiên âm ra tiếng việt. Thằng cháu cụ Tốc thì cứ nhắc đi , nhắc lại Ngoại nhớ ngày lễ quan trọng nhất của Mỹ không phải là Tết, mà là ngày Độc Lập nha !. Cụ lại kéo tay áo lên lẩm bẩm kiếm chữ IN ĐẺ BÊN ĐÀNG . Bà cụ Ngà hỏi với qua " có phải là ngày Tây về nước không , cụ Phúc ? ". Cụ đành thở dài, biết ông tòa muốn đánh rớt thí sinh nào thì chỉ cần bắt hát bài quốc ca Mỹ là thí sinh đó rớt ngaỵ .

    Vậy mà Giời phù hộ, cả lớp đậu hết . Cụ còn nhớ ngày ăn mừng tân khoa , cụ nào cũng hí hửng như những đứa trẻ con vừa lên lớp, cầm vẫy lá cờ Mỹ để chụp hình lưu niệm. Bà cụ Ngà hôm ấy đẹp hẳn ra, mặc cái váy đầm thay cái quần đen vừa nói "Con gà tui lội sông" (congratulations), vừa high-five , vừa "hug" mọi người . Cụ thấy mọi người như trẻ ra dến cả chục tuổi. Có thể là vì cái ôm nồng nàn da thịt của bà cụ Ngà làm cụ thấy trong người đổi thay như cả một mùa xuân hừng hực kéo nhau về. Có thể là vào quốc tịch mới, làm người ta tưởng như đổi thành một kiếp người khác , trở lại cái tuổi tập ăn tập noí, nên hồn nhiên như một đứa trẻ thơ.

    Thế mà đêm nay cụ lại trằn trọc . Một phần là vì cụ cứ nghĩ đến ngày mai ở tòa đô chính , ông thị trưởng thành phố tổ chức nghi lễ tuyên thệ vào quốc tịch riêng cho cộng đồng người Việt , để đánh dấu một chặng đường gần phần tư thế kỷ tàn cuộc chiến tranh của người Mỹ tại Việt Nam . Ông chủ tịch mấy hôm nay hăm hở nhắc nhở bà con mặc đồ cho đẹp để lên truyền hình . Mọi người học thuộc lòng câu "I am proud to be American " để khi báo chí radio người Mỹ phỏng vấn thì tỏ ra cộng đồng người Việt mình mau hội nhập hơn các cộng đồng sắc tộc khác .

    Cụ cứ nghĩ tới lúc trước cử tọa cả nghìn người, có thống đốc tiểu bang, nghị sĩ , dân biểu quốc hội, quan chức các ngành , người ta gọi tên cụ lên khán đài nhận bằng công dân Mỹ , là cụ lại xốn xang trong người. Chả vì cụ ngang bướng giữ cái tên cúng cơm của cụ. Tên họ trong tờ khai sinh cụ là Dư Quí Phúc . Ỏ trại tỵ nạn, cụ đã bao nhiêu lần cãi gàn cãi bướng với mấy người thông dịch viên là tên cụ phải có dấu mới là tên của cụ Tiếng Việt một chữ có hằng chục nghĩa nếu không bỏ dấu. Thí dụ như LO có thể là lờ, lợ, lờ, lơ, lộ, lô, lố, lồ, lồ, lo, lọ ,lò, ló, lõ .. . Vậy mà có ai nghe cụ đâu , người ta cứ điền vào tên trước họ sau .

    Cho đến hôm cụ còn nhớ mãi ngày nhà thờ First Bapstist Church bảo trợ gia đình cụ đến thành phố này . Hôm ấy chủ nhật, nhà thờ đông đảo chật cứng đến nỗi người ta phải đứng lan ra ngoài hành lang. Ông mục sư trịnh trọng giới thiệu gia đình cụ mới định cư . Cứ mỗi lần tả cảnh gian khổ gia đình cụ trải qua, cả nhà thờ lại xướng ầm lên Alleluja có nghĩa là ngợi khen chúa. Cuối cùng ông mục sư nói dõng dạc giới thiệu cụ: Please welcome , Mr. Phuc Du Cái giọng ông oang oang lên "Phuc Du !" Cả nhà thờ đang xôn xao bỗng im lặng như chiếc xe lủa thắng gấp lại rồi lấy trớn lao tới cười nghiêng, cười ngửa . Ông mục sư ngơ ngác sửa lại gọng kiến, nhìn xuống tờ giấy viết tay rồi đọc lại tên cụ lần nữa Phuc Du Lần này đến phiên ông mục sư gấp người lại làm đôi, cười sặc sụa chảy cả nước mắt nước mũi ra . Cụ Phúc chân ướt chân ráo, tưởng đó là phong tục địa phương chào đón mình đứng bụm hai tay đưa lên trán bái tứ hướng để cảm ơn sự ưu ái của nhà thờ.

    Sau này ông mục sư cho người đến đề nghị cụ đổi tên gọi để lấy lại sự nghiêm trang . Một là cụ lấy hẳn tên Mỹ như John, Peter, Larrỵ..cho dễ gọi Hoặc phiên âm tên cụ tiếng Việt Ông Phúc Dư ra tiếng Mỹ là Mr. Foot Joy . Cụ bực lắm , tên cụ từ Việt Nam là Quí Phúc , nghĩa là ơn phước quí báu của trời phật ban cho , sang đến đây thì lại thành ...Túc Hân , là bàn chân hân hoan. Cụ bỏ xứ sở ra đi, mất hết chỉ còn một cái tên Việt là cái di sản gốc gác của cụ mà đành phải mất luôn sao . Từ đó cụ không đi nhà thờ Tin Lành nữa, nhưng tên cụ thì cứ tạm thời giữ vậỵ Cụ đi tỵ nạn vài bữa, khi nào quốc gia thanh bình thì cụ lại dắt các con cháu về. Thà làm cụ Phúc nước Việt , hơn làm cụ Túc nước Huê Kỳ.

    Ngày mai cụ tuyên thệ vào quốc tịch Mỹ. Thế mà cụ Phúc lại trằn trọc đêm nay không sao ngủ được. Cũng bởi vì mấy hôm trước các cụ tân khoa bàn về chuyện tiếp tân mừng ngày nhập tịch Mỹ. Bế tắc từ đầu chỉ vì các cụ phải chọn món ăn cho buổi tiệc . Món ăn nào đãi khách vừa thích hợp với quốc tịch mới , vừa có bản sắc dân tộc .

    Ông Hai Bò lên tiếng ngaỵ Ông này tên việt nam là Cao Văn Tự, trong giấy tờ viết là Tu Cao. Mỹ đọc là " two cows " nghĩa là 2 con bò . Từ đó có tên Hai Bò . Vốn là dân thông dịch viên cho Mỹ ở căn cứ Long Bình , sang bên này ông bán bảo hiểm nhân thọ . Cụ nào mà được ông kéo riêng ra góc phòng đều sợ run lên như tử thần đến, vì ông Hai Bò cứ thúc dục luôn "cụ thử nghĩ coi cụ còn sống được bao lâu, trời gọi ai người nấy dạ . Thú chết để da, người ta chết để tiếng . Mấy cụ qua đây ăn phút tem (Food Stamps) thì có tiếng gì mà để, chi bằng mua cái bảo hiểm nhân thọ , đến khi chết để lại cả bạc triệu cho người ta xây một cái chùa hay nhà thờ có phải là tên tuổi mình khắc vào bia đá nghìn năm, bất tử với đời không". Tưởng ông dọa chết thì cóc ai thèm mua, thế mà từ ngày cụ Hanh mua cái bảo hiểm nhân thọ đầu tiên, Hai Bò bỗng đắt khách như tôm tươi. Chả vì cụ Hanh mới đoàn tụ gia đình vài năm nay. Mấy đứa con qua từ năm 75 , nhà cao cửa rộng , ngày cụ đến phi trường không thấy đứa nào ra đón. Thằng Tư thì đùn cho chị Ba, vợ thằng Bảy thì nói nhà nó có lầu cao, sợ ổng già đi chỏng gọng, té bể đầu. Hôm ấy, cụ Hanh lủi thủi đi với bà Mỹ USCC về ở cái phòng trong khu housing Mỹ đen. Hôm nghe Hai Bò dụ mua bảo hiểm nhân thọ, lại chịu lấy bằng phút-tem, cụ Hanh mua ngay. Vài hôm tin đồn cụ có cái bảo hiểm bạc triệu, mấy đứa con bỗng có hiếu hẳn ra , tranh nhau mời cụ về nhà ở. Chồng con Năm Thúy đánh lộn với thằng Tư chỉ vì tội không để cho nó báo hiếu nuôi ông già vợ. Ngày nào cụ muốn ăn thức gì , đám con rối rít đi mua về ăn không hết . Có điều hơi lạ là... không đứa nào mua sâm cao-ly để cụ uống cho khoẻ người , sống thọ thêm ra.

    Thỉnh thoảng trái gió trở trời , cụ mới ho hen cảm cúm nằm trên giường vài ngày là cả nhà xúm lại bàn chuyện làm cái di chúc sao cho hợp lệ với thủ tục tiểu bang, để lãnh tiền bảo hiểm mà không phải đóng nhiều thuế.

    Thấy cụ Hanh chỉ mua cái bảo hiểm nhân thọ mà được con cái hậu đãi, đi học mặc áo vest, tay cầm mô bai thì các cụ ngộ ra rằng tội gì ở xứ cờ hoa này mà không làm triệu phú . Sống trên đời mà không mua bảo hiểm nhân thọ, xuống âm phủ biết có hay không, bèn ùn ùn theo năn nỉ Hai Bò để được giá rẻ. Chết được bonus một cái hòm cẩm lai của nhà táng xác tặng quảng cáo .

    Hai Bò bỗng dưng trở thành ân nhân của hội bô lão , nên khi Hai Bò nói bất cứ cái gì , mọi người đều lắng nghẹ Hai Bò trịnh trọng xoa 2 tay vào nhau . " Cái tra***ion của người Mỹ từ trước đến nay, party mà có tính cách dân tộc là phải có barbecue . Barbecue là chữ ghép bởi 2 chữ "Barbaric" and "cuisine" có nghĩa là cách nấu ăn cách mọi rợ . Ám chỉ một sinh hoạt văn hóa bán khai của người da đỏ ngày trước. Họ mới là người Mỹ chính hiệu con nai vàng. Tuy những người da trắng đến đây, dùng vũ lực cướp hết đất đai của người da đỏ để lập nên Hiệp Chủng Quốc , người Mỹ luôn luôn nhắc nhở con cháu họ ông tổ Mỹ là người da đỏ bằng cách ăn barbecue . Do đó chúng ta trở thành công dân Mỹ, uống nước nhớ nguồn : " drinking water remember origin hole ". Tôi xin đề nghị món ăn barbecue "

    Cụ Can't Do đứng lên khua tay phản đối . Tên thật cụ là Đỗ Thành Cẩn. Viết theo lối Mỹ thì họ tên lẫn là Can T. Do . Bà cô dậy Anh ngữ thấy cụ chả bao giờ chịu làm homework , bèn đọc luôn là "Can't Do". Cụ là người duy nhất không mua bảo hiểm của Hai Bò vì bà xã cụ còn sồn sồn. Cụ chỉ sợ có bảo hiểm nhân thọ thì nhiều khi chết sớm vì lâu nay cụ Can't Do không còn hăng hái trong chuyện phòng the, mà vợ cụ còn xuân xanh lắm. Ngày xưa bán bánh cuốn ngoài chợ Thị Nghè, vợ cụ ngồi xổm nhiều nên cái bàn mông mẩy ra tròn trịa to như hai cái ***g bàn. Ở Việt Nam thì cái quần đen với cái áo bà ba che hết đi, qua Mỹ mặc cái quần jean vào nó lồ lộ , khêu gợi làm sao . Thế mà cụ Can't Do lại cứ cố tình phớt lờ như thể cụ là một nhà hiền triết đạo mạo.

    Ngày nào cụ cũng tập Tai Chi cho cứng gân cứng cốt , mà hễ cứ gần vợ cả người cụ rủ nhau... mềm nhũn ra như bún . Lần nào vợ cụ cũng thở dài thườn thượt , bảo cụ chết quách cho xong. Nói vậy thì cụ mua bảo hiểm nhân thọ để làm quái gì . Nghe Hai Bò trình bày món ăn barbecue, cụ Can't Do gạt phắt đi . "

    Miếng thịt Barbecue là biểu tượng cái đầu óc thực dân, kỳ thị của người da trắng . Họ coi sự chinh phục những người bản xứ da đỏ là một chiến thắng vĩ đại trong lịch sử Hoa Kỳ. Món barbecue của người Mỹ thường là do các đấng mày râu đứng nướng để biểu lộ hùng tính và cương vị thủ lãnh của phái nam, nhắc nhở chúng ta hình ảnh các chiến sĩ xẻo thịt rồi xóc vào gươm mà nướng để khao thưởng sau các trận mạc. Nước mỹ là nơi melting pot, hợp chủng quốc .Món ăn tiêu biểu phải là hamburger , món thịt bằm hầm bà lằng . Người Mỹ ăn hamburger còn để nhắc nhở con cháu họ về cuộc chiến Nam Bắc phân tranh tương tàn của họ. Tôi xin đề nghị món thịt băm hamburger ".

    Loan To , tên Việt là Tô thị Loan, Mỹ lại đọc là Lôn To, được dịp đứng lên phát biểu. Bà này lại có chồng Mỹ da đen Frank Quaker , hoả đầu quân của lính bộ binh Mỹ tham chiến thời trước. Nên tên bà nay có thêm họ Mỹ là Loan To Quaker. Mấy cụ trong lớp thì Việt Nam hoá tên bà là Lôn-To-Quá-Cỡ !!! Bà Lôn To phát biểu " Dạ tui không biết nhiều về lịch sử Mỹ, chỉ biết ngày đầu tiên về nhà chồng được ông xã tôi cho ăn món Hot Dog . Tui thấy hot dog mới là biểu tượng đúng cho chức vị siêu cường quốc , hùng mạnh của nước Mỹ. Tui xin đề nghi Hot Dog, mà size loại Jumbo à nghen ".

    Bà cụ Ngà ngồi bên đắc ý hùa theo "Cùng là bò mà thịt bò Mỹ nó khác thịt bò Việt Nam chị ạ . Để cả tuần trong tủ lạnh , bỏ ra nó cứ đỏ ửng lên. Còn thịt bò việt nam mình để từ sáng đến trưa nó tái hẳn đi như thịt trâu ấy " .

    Các cụ ông... lấm lét nhìn nhau không biết bà cụ Ngà đang bàn về văn hóa của những miếng thịt hay nói xéo qua về những đồ gia dụng hàng ngày của... các cụ ông ?

    Cụ Quýnh trưởng ban tổ chức thấy mọi người nhao nhao lên , nên theo tinh thần dân chủ của Mỹ đề nghị là sẽ có cả 3 món barbecue, hamburger và hot dog. Ông Hai Bò lại có thêm ý kiến để có tinh thần Mỹ Việt đề huề, các món ăn trong thực đơn phải dịch ra tiếng việt . Cụ Quýnh sẽ cho ghi bên cạnh là :barbecue (thịt nướng kiểu mọi), hamburger (thịt bằm dập), hot dog ( thịt chó nóng) .

    Đã gần nửa đêm mà Cụ Phúc chưa thấy ai lên tiếng về phần món ăn việt nam. Có thể là vì người việt mình ở Tây phương trong những xã hội tự do nhất hoàn cầu lại cảm thấy mình như côi cút, lạc lối , xa lạ cả với chính tình tự quê hương của mình. Từ xưa đến nay cụ vẫn tự hào về bản sắc văn hóa riêng biệt của người Việt . Ra ngoại quốc cụ thấy rằng cái mà xưa nay ta vẫn tưởng là Việt tính, nay chỉ còn lại chẳng bao nhiêu là Việt, mà tính cũng chẳng còn là bao ; cái mà xưa nay ta vẫn tưởng là của ta , ngờ đâu chỉ là cái đàn cha, đàn chú, đàn anh của ta vay mượn từ lâu của ngoại nhân . Với cái hoang mang đo , cụ nghĩ đến câu văn hào Paul Valry " Muốn biết văn hóa của giống dân nào thì cứ nhìn vào sinh hoạt hàng ngày của giống dân đó " . Cụ nghĩ nếu đãi khách bằng một món ăn có bản sắc dân tộc, biểu tượng cho người Việt thì phải chọn là món ăn gì . Không gì Pháp bằng crêpe, không gì Mỹ bằng hamburger, không gì Ý bằng pizza ,không gì Đức bằng bratwurst, không gì Mễ bằng taco , không gì Nhật bằng sushi . Còn Việt nam là phở ư ?

    Ở bên này Cụ thấy hầu hết những đám cưới, đám hỏi người ta giữ đủ phong tục nghi lễ cổ truyền mà có đám nào đãi ăn phở đâu mà gọi là món ăn dân tộc ?

    Hay là tại sao mình không tổ chức tiếp tân tại nhà hàng Tàu cho tiện .

    Chỉ có thế thôi mà giông bảo nổi lên trong phòng hội chỉ vì sự khủng hoảng về hiện tượng bám víu thê thảm vào cái tính đồng nhất riêng biệt của hành trang ý thức và tình cảm quê cha đất tổ .

    Trời đã quá đêm....


    Ánh trăng còn lại một chút trên khung cửa ẩm uớt hơi sương. Cụ Phúc vẫn còn nằm trăn trở không sao ngủ được ...
  4. MrKhuKhoam

    MrKhuKhoam Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    12/04/2011
    Bài viết:
    4.334
    Đã được thích:
    1.180
    [​IMG] George Friedman, người sáng lập và là Chủ tịch Công ty Dự báo chiến lược STRATFOR, một think-tank phi chính phủ hàng đầu thế giới từng dự báo chính xác một số sự kiện chiến lược. Cuốn sách 100 năm tới của ông đưa ra những dự đoán đáng kinh ngạc về nước Mỹ.

    Friedman dự báo trong thế kỷ XXI nước Mỹ vẫn dẫn đầu thế giới, thậm chí ông nói bây giờ nước Mỹ hãy còn là đứa trẻ (?), thập niên 50 thế kỷ này mới trở thành siêu cường đích thực và thập niên 60 mới là thời đại vàng của Mỹ.

    Dự báo ấy khác với quan điểm của Zbigniew Brzezinski, Henry Kissinger, Stephen Brooks, William Wohlforth hoặc của Martin Jacques (trong cuốn Khi Trung Quốc thống trị thế giới), cũng như nhiều dự báo rất xấu về kinh tế Mỹ trong cuộc khủng hoảng kinh tế hiện nay. Nó giội gáo nước lạnh lên những cái đầu phát sốt sau khi đọc sách của Lưu Minh Phúc cho rằng trong thế kỷ XXI Trung Quốc sẽ thay Mỹ lãnh đạo thế giới.

    Dự báo của Friedman dựa trên quan điểm sự thực lịch sử và tình trạng địa-chính trị quyết định tất cả. Friedman nhận định: nước Mỹ đã xây dựng được một nền văn hoá và chế độ chính trị tiên tiến nhất thế giới.

    Sự thực là văn hoá Mỹ đang giữ vai trò dẫn đầu thế giới, có sức lan toả và chiếm lĩnh mạnh mẽ. Nhạc pop, vũ điệu rock and roll cũng như fastfood và CocaCola… được giới trẻ khắp nơi ưa chuộng. Hollywood thống trị điện ảnh 5 châu. Truyền thông Mỹ dẫn đầu truyền thông thế giới. Văn hoá chính trị-tư tưởng của Mỹ rất phát triển, họ luôn có nhiều nhà tư tưởng, nhà chính trị học hàng đầu. Khoa học kỹ thuật và giáo dục đại học thì khỏi phải nói.

    Tư tưởng dân chủ bình đẳng sinh ra ở châu Âu nhưng nảy mầm và thành cây lá sum sê trên đất Mỹ – khi châu Âu còn dưới ách phong kiến… Vào thời những năm đầu của thế kỷ 16, 17 phần lớn những người di cư sang Mỹ đều là những kẻ, dưới quan điểm của giới “Quí Tộc”, là những kẻ bất mãn bị xã hội ruồng bỏ, những người vô gia cư bị coi là hạ đẳng, và các phần tử bị coi là tội phạm hay *********. Những con người này đến vùng đất mới châu Mỹ, họ đoạn tuyệt hoàn toàn với quá khứ. Văn hóa của họ, tức nguyên lý sâu xa nhất chi phối suy nghĩ của con người, chỉ đơn giản là “tự lo”, và cái nguyên lý ấy phát triển thành triết lý về “tự do” kiểu Mỹ sau này.

    Phạm trù tự do của Mỹ được xây dựng dựa trên nguyên lý tự do hành động, chính vì thế thượng tầng kiến trúc của xã hội Mỹ đã phải đối diện với một phạm trù mới về quản trị nhân sự — khi mà những yếu tố khống chế con người như: tôn giáo, ý thức hệ, truyền thống,… đã không còn. Phạm trù mới này đã nẩy nở thành hệ thống nhà nước pháp quyền và văn hóa quản trị trí thức – một hệ thống khái niệm về quản lý lao động tách rời nhân sự.

    Hiến pháp Mỹ 1787 là bộ hiến pháp thành văn đầu tiên của giai cấp tư sản trong lịch sử thế giới. Nó dựa trên cơ sở tư tưởng dân chủ tư sản, đầu tiên dựng nên một quốc gia có đặc trưng là chế độ cộng hòa, chế độ liên bang, chế độ Tổng thống, chế độ tam quyền phân lập, chính phủ dân bầu, chế độ nhiệm kỳ của người lãnh đạo. Cơ chế ấy bảo đảm dân chủ hóa trình tự ra quyết sách, tránh được sự lạm dụng chức quyền… Sức sống của mô hình chính quyền Mỹ thể hiện ở chỗ từ ngày lập quốc (1776) đến nay nước này chưa hề có đảo chính hoặc cách mạng lật đổ chính phủ. Rất ít nước lớn nào có nền chính trị ổn định, được lòng dân lâu như vậy.

    Dù từng phạm không ít sai lầm nhưng nước Mỹ đã đứng vững và chiến thắng trong hai cuộc thế chiến và chiến tranh lạnh, vượt qua các cuộc khủng hoảng kinh tế vô cùng trầm trọng. Được như vậy trước hết là do cơ chế chính trị phát huy được vai trò làm chủ của toàn dân, họ phát hiện và bầu lên được những người lãnh đạo khôn ngoan phù hợp với xu thế từng thời đại. Nhờ thế chỉ sau 150 năm dựng nước, Mỹ đã trở thành siêu cường bá chủ thế giới.

    Trong cuộc khủng hoảng kinh tế hiện nay, các số liệu về tỷ lệ thất nghiệp, nợ nhà nước và thâm hụt ngoại thương đem lại cảm giác kinh tế Mỹ chắc chắn sẽ sụp đổ. Thế nhưng giờ đây họ vẫn sống đàng hoàng bằng núi tiền các nước khác tự nguyện cho vay. Châu Âu mới là kẻ chịu thiệt với đồng Euro có nguy cơ đổ sập. Cơ chế chính trị Mỹ có khả năng tự sửa đổi cho thích hợp hoàn cảnh, như chính sách Kinh tế mới của Tổng thống Roosevelt, hoặc luật cải tổ tài chính Tổng thống Obama vừa trình Quốc hội đã và sẽ có thể đưa nước Mỹ thoát khỏi khủng hoảng.

    Trên lĩnh vực kinh tế, người Mỹ cũng dẫn đầu thế giới đưa ra nhiều sáng kiến vĩ đại. Thời gian 1863-1869 họ đã xây dựng xong tuyến đường sắt Thái Bình Dương 3.000 km xuyên suốt Đông Tây, vừa góp phần quan trọng thống nhất đất nước, vừa giúp nhanh chóng phát triển kinh tế. Công trình này được đài BBC đánh giá là một trong 7 kỳ tích của lịch sử công nghiệp hoá thế giới và được dân Mỹ coi là biểu tượng thống nhất quốc gia (thời gian 1861-1865 Mỹ có nội chiến, đất nước chia rẽ sâu sắc). 30 năm sau, nước Nga mới bắt đầu làm đường sắt xuyên Siberia .

    Thập niên 50 họ có sáng kiến xây dựng mạng xa lộ cao tốc nối tất cả các bang, các thành phố, khiến cho đất nước này trở nên vô cùng năng động, người dân tha hồ phóng xe đi khắp nơi tìm việc làm, khai thác tài nguyên.

    Thập niên 90 họ đầu tiên đề xuất và triển khai xa lộ cao tốc thông tin (gồm hệ thống thông tin số và mạng thông tin internet), dẫn đầu thế giới tiến sang kỷ nguyên thông tin, nhờ đó nguồn trí thức tăng gấp bội, bảo đảm công nghệ cao phát triển như vũ bão.

    Hai mạng xa lộ nói trên đã đem lại cho nước Mỹ sức mạnh bá chủ thế giới trong 50 năm qua.

    Giờ đây George Friedman dự báo trong thế kỷ XXI Mỹ sẽ hoàn tất xây dựng xa lộ cao tốc năng lượng, năm 2080 nhà máy điện trên vũ trụ sẽ bắt đầu phát điện về cho trái đất sử dụng.

    Nước Mỹ có ưu thế tốt nhất thế giới về địa lý. Đất rộng và màu mỡ, giàu tài nguyên, có nhiều con sông lớn thông thương được và những hồ nước ngọt khổng lồ. Hai đại dương quan trọng nhất bao bọc hai bên. Ngày nay tiêu điểm cạnh tranh địa chính trị toàn cầu đã chuyển từ đại lục Âu Á sang giành giật quyền kiểm soát biển, mà về mặt này Mỹ có ưu thế vô địch, đã và đang kiểm soát toàn bộ các đường hàng hải, vì thế họ sẽ tiếp tục kiểm soát nền kinh tế toàn cầu.

    Friedman viết: trong 10-20 năm đầu thế kỷ XXI, Mỹ sẽ gặp những thách thức nghiêm trọng, nhưng không nước nào có thể thay thế vị trí số 1 của Mỹ; thế giới vẫn lấy nước Mỹ làm trung tâm.

    Copy từ internet
  5. MrKhuKhoam

    MrKhuKhoam Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    12/04/2011
    Bài viết:
    4.334
    Đã được thích:
    1.180
    Những cảnh đời người Việt homeless tại Little Saigon

    [​IMG]

    Các cán sự xã hội Quận Cam trong một lần tiếp xúc homeless tại Little Saigon. Từ trái: Lance Lindgren, Mark Nguyễn (trực thuộc P.E.R.T.), đang nói chuyện cùng “Anh Ba,” một homeless Việt Nam.[​IMG]
    Những ngôi nhà trong các lùm cây

    WESTMINSTER, California - Ðó là một thế giới bình thường, của một nhóm người bình thường, như tất cả chúng ta. Bởi vì, cái thực tế “homeless,” hay “vô gia cư,” chẳng phải là một điều gì bất bình thường. Ðiều duy nhất khác nhau, giữa những người ngủ ngoài đường, và những người ngủ trong nhà, là trong khi một nhóm người cứ cùng nhau thẳng tiến trong cuộc sống, nhóm kia bị mắc kẹt lại đâu đó trong cuộc đời họ.

    Và gánh nặng sẽ đặt nặng trên vai họ. Chính họ, không phải ai khác, sẽ quyết định có “đi” tiếp hay không, và đi đến đâu, trong cuộc sống!

    Ðối với chúng ta, họ sẽ là một thế giới rất “lạ,” cho đến khi chúng ta, những con người được xem là “bình thường,” bước vào thế giới ấy. Sự hiểu biết lẫn nhau khiến chúng ta giật mình: phản ứng và hành xử của con người trước và trong hoàn cảnh bao giờ cũng giống nhau. Phản ứng ấy không phân biệt một con người đang sống trong nhà hay một con người đang sống nơi lề đường.
    [​IMG] Trước hết, hãy cùng nhau thừa nhận một điều: homeless không phải là một cái tội; homeless không phải là một tình trạng bất hợp pháp. Sẽ chẳng một ai bị bắt, bị truy tố, hay bị bỏ tù vì “tội homeless” cả.

    Là người không có nơi cư trú cố định; hoặc sống trong motel; hoặc bị đuổi khỏi nơi đang cư trú và không thể tìm được một nơi cư trú mới; hoặc đang sống tại các địa điểm không được thiết kế cho một cuộc sống bình thường (như xe, garage, công viên, nhà bỏ hoang...) Một người được xem là homeless thường xuyên nếu người ấy bị tàn tật, hoặc tâm thần, hoặc nghiện ngập... và lâm vào tình trạng vô gia cư liên tiếp tối thiểu một năm; hoặc lâm vào tình trạng vô gia cư tối thiểu bốn lần trong ba năm.

    Homeless, đơn giản là không có nhà! [​IMG] Không có nhà, điều này không đồng nghĩa với việc một con người không đi ngủ. Chính cái chuyện ngủ nghê sinh ra lắm điều phiền toái. Và hệ quả pháp lý tất yếu của một homeless là... ngủ ngoài đường.

    “Homeless là một tình trạng. Tình trạng không có nơi ở.” Sĩ Quan Cảnh Sát Dave Bridgewaters, thuộc Sở Cảnh Sát Westminster, nói với Người Việt. “Luật không cấm homeless, nhưng luật cấm cắm trại nơi công cộng.” Bridgewaters cho biết. “Mà homeless dựng lều, hay mang mền gối ngủ ngoài đường thì xem như phạm luật.”

    Cứ mỗi một lần cảnh sát đi tuần, một homeless, nếu bị bắt gặp ngủ ngoài đường, tức nơi công cộng, sẽ bị cho một giấy phạt (ticket) trị giá khoảng trăm đồng. Mà cái định nghĩa “nơi công cộng” nhiều khi cũng rất oái oăm cho những cảnh đời homeless. Cùng Bridgewaters và Lance Lindgren, một nhân viên Sở Xã Hội Quận Cam, chúng tôi lê la khắp hang cùng ngõ hẻm Little Saigon trong một buổi tối đầu Tháng Bảy. Những “nơi công cộng” mà giới homeless Việt Nam chấm điểm là những lùm cây thấp trong các khu chợ búa hay phía sau các cơ sở làm ăn. Vào buổi tối, đi xe, thậm chí đi bộ, ngang các lùm cây ấy, sẽ chẳng một ai biết được phía bên trong là “nhà” của một homeless. Ðiều bất hạnh, cho dù ngủ trong lùm cây kín đáo ấy, cái lùm cây lại thuộc về nơi công cộng, người homeless đương nhiên bị xem là “cắm trại nơi đông người.”[​IMG] Ngay phía sau một cơ sở làm ăn của người Việt Nam trên đường Dillow, đoạn cắt ngang Bolsa, chúng tôi gặp một nhóm homeless đang ngồi tụm năm tụm ba. “Hi guys!” Bridgewaters lên tiếng trước. Nhóm homeless chào lại. Hóa ra, họ “quen” nhau từ nhiều năm qua. Bridgewaters là một sĩ quan cảnh sát được giao nhiệm vụ đặc biệt lo về homeless tại địa phương từ nhiều năm nay. Ông nhẵn mặt và biết tên từng “partner” của mình.

    Sơn Phan, 33 tuổi, qua Mỹ từ năm 1991, cho biết: “Tôi homeless sau một thời gian ở tù vì hút.” Sơn hút xì ke nhưng đã bỏ từ lâu. Là con lai duy nhất trong một gia đình 4 anh chị em, Sơn cho biết anh quê Sóc Trăng, và tìm đến nhóm homeless này vì “thấy anh em thì mình đến chơi, làm quen, rồi nhập bọn.” Sơn có nghề sửa xe. Anh cho biết sẽ cố gắng tìm việc làm, chứ “sống như vầy không khá.”

    Một người khác, ngồi cùng nhóm, tự xưng tên Mike, cho biết anh “đến chơi chung với bạn bè chứ bản thân không phải homeless.” Mike cho biết anh có nhà cửa, vợ con nhưng thích đi chơi. Quay sang Lance: “Rất có thể Mike không phải homeless. Nhìn anh ta xem: cạo râu sạch sẽ, mặc đồ và ăn nói... đàng hoàng.”

    Bridgewaters cho biết cảnh sát không phải lúc nào cũng đi tuần để bắt homeless. “Cảnh sát ra quân khi City Counsel chỉ thị phải làm, hoặc khi các chủ doanh nghiệp phàn nàn nhiều quá.” Cảnh Sát Bridgewaters cho biết rằng đi tuần phạt ticket chỉ được thực hiện mỗi khi bị “pressure.” Ông nói thêm, mỗi homeless, sau khi nhận ticket, phải ra tòa để trả tiền. Thường thường, ít khi homeless trả tiền, đơn giản vì không có tiền. Trong trường hợp đó, “đương sự” sẽ vào tù chừng vài ngày đến một tuần. “Ra tù,” Bridgewaters tiết lộ, “đâu cũng vào đấy. Họ sẽ trở lại chỗ cũ.”

    Lance, một chuyên viên tâm thần của Sở Y Tế, làm việc cho Psychiatric Emergency Response Team, cho biết anh được cơ quan cử xuống làm việc chung với Sở Cảnh Sát Westminster. Ðối với Lance, những người homeless là khách hàng của anh. Nhiệm vụ của Lance là tìm hiểu những người homeless bị tâm thần. Rất nhiều lần, anh vào trong tù, tìm những homeless tâm thần mang ra ngoài. Lance quan niệm Sở Y Tế như một doanh nghiệp mà khách hàng là homeless. “Nếu các bạn muốn chụp hình, các bạn phải xin phép những người homeless. Và tôi khuyên các bạn đừng chụp hình rõ mặt những khách hàng của tôi.”

    Nhìn xung quanh “nơi ăn chốn ở” của nhóm người homeless sau đường Dillow, chúng tôi thấy một số chai bia đã uống xong được vất trong các lùm cây. Phía trên trần của mái hiên nhà là một số nồi niêu xoong chảo. Bridgewaters cho biết rằng các homeless Việt Nam thường “trang bị” đồ nấu nướng; và đặc biệt rất thích uống bia. Theo kinh nghiệm của mình, Bridgewaters nhận định: “Mỗi nhóm homeless có những đặc tính riêng. Homeless Spanish và da trắng rất thích hình khỏa thân và rượu. Trong khi đó, homeless Việt Nam thích thực phẩm, bia và... báo Việt ngữ.”[​IMG] Trong bốn lần đi tìm homeless, gồm 3 buổi tại Little Saigon và 1 buổi trên đường Bolsa gần Hoover, nơi có đường xe lửa, được xem là ngoài Little Saigon, chúng tôi nhận ra rằng giới homeless không có khái niệm “lãnh địa,” tức là theo băng nhóm và khu vực riêng. Thường thường, mỗi homeless có một hoàn cảnh riêng. Bản chất của họ lương thiện. Do đó, cho dù tụm năm tụm ba theo nhóm, tính chất của họ không phải băng đảng. Bridgewaters cho biết vẫn có một số homeless Việt Nam buổi tối ngủ chung khu vực homeless không phải Việt Nam.

    Một trong các lý do khiến Việt Nam về với Việt Nam, Mỹ về với Mỹ và Spanish về với Spanish là vì văn hóa chung. Những người cùng văn hóa, cùng hoàn cảnh thường dễ tìm về với nhau hơn.

    Trong các chuyến tuần tiễu, Bridgewaters cho biết ông ít khi hỏi ID của homeless. “Ðiều đầu tiên mà họ muốn giấu là... ID. Ðơn giản vì ID tiết lộ nhiều điều về nhân thân.”

    Về mặt tinh thần, giới homeless có thể được phân thành hai thành phần: những người tỉnh táo và những người mắc những triệu chứng tâm thần.[​IMG] Lee Nguyễn, một homeless thường trực tại khu chợ ABC trên đường Bolsa, góc Magnolia, Westminster, California. Lee, gốc Nha Trang nhưng sinh tại Ðà Lạt năm 1963, qua Mỹ từ năm 1990.

    Gặp Lee Nguyễn, một homeless lâu đời trong khu chợ ABC, Lee cho biết “Tôi đâu có thất nghiệp. Tôi làm việc cho... chính phủ.” Trong khi nói, Lee đưa tay chỉ lên trời, phát biểu: “Bây giờ chính phủ làm việc bằng computer không hà. Khi tôi ngồi đây, tôi đang làm việc, tôi làm việc bằng... voice.” Lee cho biết tháng này anh chưa được... lãnh lương. Thường thì, theo anh, chính phủ vẫn trả lương cho anh đều đặn bằng cách cho người mang đến đưa tận tay. Lee Nguyễn, gốc Nha Trang nhưng sinh tại Ðà Lạt năm 1963, qua Mỹ từ năm 1990. Lúc đầu anh ở tiểu bang Iowa, sau đó về California, để lại vợ ở Kansas City. Anh nói: “Từ hồi qua California đến giờ tôi chưa gặp lại vợ, vì “chương trình làm việc chưa... cho phép.” Lee không bao giờ tắm rửa, nhưng dùng “chemical để clean up.” Anh cho biết thêm, để trau giồi tiếng Việt, anh thường đọc kinh. Mặc dầu “làm việc cho chính phủ,” Lee vẫn bị “ticket” như thường. Anh cho biết đã bị giấy phạt vài lần nhưng không trả. Ngay trước mặt, Lee để một nhành hoa giả do chính tay anh nặn từ... giấy báo. “Tôi bán nhành hoa này giá $370. Ðể kiếm thêm, tôi làm hoa giả bán cho bà con.”[​IMG] Joshua Hứa, tên Việt Nam là Quang, một homeless trong khu chợ ABC.

    Chỉ cách Lee vài chục thước, cũng trong khu chợ ABC, là “điểm hẹn” của một homeless khác: Joshua Hứa. Có lẽ, Joshua là homeless sang nhất trong giới của mình. Joshua đi xe Jeep màu đỏ, đeo nhiều đồng hồ, thích bánh cuốn và đặc biệt, rất thích... ống dòm. Joshua nói rất nhiều, có khả năng nói không bao giờ ngưng và rất tự hào rằng mình... hát hay. Joshua cho biết tên Việt Nam của anh là Quang, và anh đã từng là một technician, đã từng làm nghề kế toán trong bốn năm. Anh qua Mỹ từ năm 1975, trạm dừng chân đầu tiên là trại Pendleton, nơi anh khẳng định rằng “ông Nguyễn Cao Kỳ cũng có ở đó và ngủ gần cái lều của ông anh tui.” Joshua bị ám ảnh bởi “một cây cung và một cục đá.” Không hiểu cây cung và cục đá có vai trò gì, nhưng chắc chắn, với Joshua, đó là những hình ảnh linh thiêng. Trong lúc nói rất nhanh, và không bao giờ muốn ngưng nói, Joshua đề cập đến nhiều tên gọi mà một người bạn đi cùng cho biết toàn là tên gọi trong Thánh Kinh. Khi chia tay Joshua lúc gần nửa đêm, anh nói nhỏ: “Hôm nay tôi có thể nói nhiều.” “Tại sao?” “Hôm nay trời không có sao. God không biết!”
    [​IMG] Cuốn sổ ghi chép và giải toán đại số của ông Phan Như, hay ngồi trước nhà hàng Hương Giang trên đường Brookhurst.

    Vòng qua khu chợ có Phở 86 và nhà hàng Hương Giang trên đường Brookhurst, chúng tôi bắt gặp một người đàn ông vào độ trên 50 ngồi trước Hương Giang. Kế bên ông la liệt tàn thuốc lá, một ly cà phê sữa, và đặc biệt là một cuốn sách đại số. Ông tên Phan Như, sinh tại Quảng Ngãi, cho biết trước đây đã từng là homeless nhưng gần đây được tiền SSI nên đã “share” một phòng trong khu mobile home. “Tôi đi homeless được 49 tháng. Bây giờ được SSI một tháng $836 nên thuê nhà ở.” Ông Như cho biết đã từng là một công chức hồi còn ở Việt Nam. “Trước 1975, tôi làm tại Phòng Học Vụ của Cao Ðẳng Nông Lâm Súc.” Ông Như, sinh năm 1951, khi qua Mỹ đã làm nhiều việc khác nhau. Ông đã từng làm nghề điện tử, làm thợ cho một công ty sản xuất ống nhựa, làm cho một tiệm nữ trang. Sau nhiều lần bị sa thải, ông ly dị vợ, hiện đang sống tại Colorado, để về California.

    Trường hợp của ông Như nhắc chúng tôi về giải thích của Bridgewaters và Lance: “Ðôi khi, những người bị đẩy vào hoàn cảnh homeless vì những điều rất bất chợt; một lần bị sa thải, một lần cãi nhau với vợ con. Một số khác, do hút xách mà lâm vào thế vô gia cư.”

    Ông Như khẳng định một tổ chức quốc tế còn nợ mình một số tiền... $30 triệu. Ông vẫn còn đợi số tiền ấy, và trong khi chờ đợi, mỗi tối, ông ra trước nhà hàng Hương Giang giải toán qua ngày. Trên cuốn vở, chúng tôi thấy nét chữ rất đẹp. Ông Như đang giải những phương trình bậc 3, và cả bậc 4. Nhìn cách ông lấy đạo hàm, tôi đoán ông Như là người có căn bản về toán. Một lần, chiếc xe cũ kỹ của ông bị “tow” vì đậu qua đêm tại một parking lot. Sau 14 ngày không có tiền trả, chủ nhà hàng Hương Giang quyết định cho ông mượn tiền lấy xe ra. Sau khi trả hơn $800, ông Như lấy xe, ít hôm sau, người em của ông từ San José về trả lại số tiền nợ của anh mình.
    [​IMG]
    Ông chủ nhà hàng Hương Giang, một người Huế tốt bụng, nói về ông Như: “Ông ấy chỉ hút thuốc, gạt tàn lung tung, ngoài ra chẳng phá phách gì.” Mỗi tối, trước khi đóng cửa nhà hàng ra về, ông “Hương Giang” thường tặng ít tiền cho ông Như. “Thỉnh thoảng có tiền, ông Như vào trong nhà hàng, ngồi đàng hoàng như mọi người. Ăn xong, ông nhất định trả tiền và lưu lại ít tiền tip.”

    Ông Như là một trường hợp may mắn. Nhờ có ông Hương Giang và người em trai giúp tiền để có xe chạy. Ða số các homeless đều đi xe đạp. Từ xe hơi chuyển sang xe đạp là cả một quá trình! Lance giải thích rằng, đa số homeless, khởi thủy, đều có xe hơi. Nhưng dần dần về sau, do không có tiền đóng thuế, mua bảo hiểm, hoặc phạm luật bị thâu bằng lái nên bắt buộc chuyển sang xe đạp.


    Cảnh sát không “đối đầu” homeless


    WESTMINSTER, California - Sĩ Quan Bridgewaters cho biết ông đã trải qua nhiều khóa huấn luyện dành cho người làm việc với homeless, nhất là những homeless bị tâm thần. “Những người ấy thường nghe một thứ âm thanh mà chúng ta không nghe ra.” Bridgewaters giải thích.

    Ông nói rằng ông không biết âm thanh ấy có tồn tại hay không, nhưng một thực tế là những người tâm thần khẳng định họ “nghe” được. Những người không có kinh nghiệm, khi gặp những người này, trong lúc nói chuyện lại thấy họ quay sang... không khí nói với một ai đó. “Lúc đầu tôi tưởng họ không tôn trọng mình. Về sau, khi được huấn luyện, các giáo sư cho biết việc nghe những “âm thanh vô thanh” là có thật.” Từ đó Bridgewaters có cái nhìn khác về nhóm người này.

    Tuy nhiên, viên cảnh sát cảnh cáo chúng tôi phải cẩn thận khi đứng gần những người nghe “âm thanh vô thanh.” “Bạn sẽ không bao giờ ngờ được sự thay đổi trong suy nghĩ của những người này. Một phút trước, họ có thể là những người hiền nhất thế giới. Và chỉ phút sau đó, họ trở nên vô cùng nguy hiểm. Vì trong đầu họ và trong tai họ là những hình ảnh và âm thanh mà chúng ta không thấy và không nghe được.” Những khi họ đột nhiên trở nên hung dữ, nên hiểu là họ hung dữ với những âm thanh và hình ảnh ấy. Lance giải thích rằng những trường hợp như thế, những người trong nghề như anh, hiểu rằng khách hàng của mình là những người bị bệnh. Trong khi đa số những người khác nghĩ rằng cái con người đang la hét trước mặt mình là một người hung dữ, và vì vậy thường xem họ như một “criminal.”

    Trở lại với nhóm homeless trên Dillow, Lance cho biết khi đi cùng cảnh sát, anh không tin những gì homeless nói là thật. “Rất nhiều lần tôi nổi nóng vì ‘khách hàng’ của tôi nói dối tôi.” Lance cho biết. Về sau, chính Lance rút ra kinh nghiệm: “Họ không nói dối tôi, họ nói dối với bộ đồng phục cảnh sát của cảnh sát viên đi cùng. Từ đó tôi không xem vấn đề nói dối là một vấn đề cá nhân nữa. Tôi hết giận!”[​IMG] Một homeless Mỹ, trong tư thế nằm, trả lời những câu hỏi của sĩ quan cảnh sát Dave Bridgewaters và Lance Lindgren

    Từ lời nhận xét của Lance, tôi quyết định sẽ làm những cuộc interview độc lập; có nghĩa là không đi cùng cảnh sát. Kết quả có khác thật. Những người homeless tâm sự nhiều hơn, và nói những điều khác với lần tôi đi cùng cảnh sát.

    Trong một hẻm tối trên đường McFadden, chúng tôi gặp một homeless đang ngủ say. Lúc ấy đã hơn 10 giờ tối. Cùng Bridgewaters và Lance tiến vào, tôi bất ngờ: hóa ra một homeless... da trắng. Bridgewaters đánh thức ông ta, yêu cầu rút hai tay ra khỏi mền. Người homeless làm theo, nhưng vẫn điềm nhiên nằm tư thế cũ. Trao đổi qua lại, chúng tôi được biết người này có việc làm hẳn hoi. Giọng ngái ngủ, ông nói: “Ngày mai 5 giờ phải dậy đi làm.” Bridgewaters chúc “khách hàng” của mình ngủ ngon rồi đi ra. Tôi hỏi: “Sao ông ấy không ngồi dậy?” “Tại sao phải ngồi dậy?” “Vì ông là... cảnh sát!” Viên cảnh sát lão luyện cười cho biết “không nhất thiết phải bắt ông ta ngồi dậy.” Bridgewaters giải thích: “Phá giấc ngủ là điều không nên. Lại bắt ông ta lấy tay ra khỏi mền, bây giờ lại bắt ông ta ngồi dậy thì thật là không hay.” Bridgewaters kết luận “điều quan trọng là tránh tạo nên tình huống đối đầu. Rõ ràng chẳng cần thiết phải như vậy.” Ông nói thêm rằng mặc dầu vậy, một số cảnh sát viên vẫn chọn phương pháp yêu cầu người homeless ra khỏi... mền.
    [​IMG] Dave Bridgewaters, vào Tháng Mười này, vừa tròn 23 năm kinh nghiệm làm cảnh sát. Là người được giao làm việc trực tiếp với homeless, ông tỏ ra rất hiểu biết về giới homeless Việt Nam. “Tôi biết từng lùm cây có homeless trong địa phương này.” Bridgewaters nói rằng trước đây Little Saigon không nhiều homeless, về sau, khi cộng đồng Việt Nam phát triển mạnh, homeless Việt Nam kéo về đông hơn. “Một phần vì văn hóa Việt Nam của quý vị.” Bridgewaters nói rằng vì “người Việt Nam hay cho (giving) nên sinh ra homeless. Hơn nữa, văn hóa Việt Nam là tự 'take care' nên mỗi khi va chạm trong gia đình, một người bỏ nhà ra đi và thành... homeless.” Ông kết luận: “Little Saigon là một thành phố trong một thành phố với một lối sống và văn hóa riêng của người Việt Nam. Những người có cùng văn hóa sẽ hội tụ về với nhau.”[​IMG] Lance Lindgren, một “partner” gần gũi của Bridgewater, nói thêm rằng “đôi khi hoàn cảnh sinh ra vô gia cư. Một số người khác lại chọn kiếp sống vô gia cư.” Lance nói rằng Quận Cam có nhiều “shelter” dành cho homeless. Chính anh đã đưa nhiều homeless Việt Nam vào các shelter, nhưng chỉ ít hôm sau lại thấy họ xuất hiện chỗ cũ. “Vào shelter có nơi ăn, chốn ở nhưng người homeless không thích vì muốn tự do, và có thể... uống bia.” Bridgewaters nhận định rằng cuộc sống homeless có quán tính. Có nghĩa là, một khi một người đã “tạo dựng” được một nơi để ngủ và chứa đồ cá nhân, đối với người ấy, đó là nhà. “Nhìn vào đồ đạc, trang bị, có thể biết một người đã đi homeless bao lâu. Ðiều quan trọng là đừng để họ 'established,' tức là định cư quá lâu một chỗ, thành quen.” Ông cho biết một lần nọ cảnh sát tìm giúp gia đình một homeless ở mãi tận Georgia bên miền Ðông. Gia đình gởi một vé máy bay sang và nhờ cảnh sát đưa người homeless ấy lên máy bay về nhà. Mọi chuyện suôn sẻ. Một tuần sau, Bridgewaters thấy người ấy xuất hiện đúng “ngôi nhà” cũ của mình. Hóa ra, người này chấp nhận lên máy bay, bay một mạch về Georgia. Vừa đến nơi, anh ta ra thẳng trạm xe bus Greyhound, đón xe về lại... California. “Nó như cái nhà của mình. Ở lâu, có cảm tình, đi thấy nhớ và nhất định trở lại.”
    [​IMG] Trong vai trò cảnh sát, đôi khi, quan niệm của Bridgewaters khá “thoáng.” Vòng từ một khu thương mại Việt Nam ra đường Bolsa, đèn xe chúng tôi chiếu sang bên kia đường, có một quán nhậu. Một hình ảnh thật tức cười: một thanh niên sau khi ngà ngà say, đang đứng “câu cá” ngay trên lề đường, mặt xoay vào tường. Viên cảnh sát chĩa đèn pin vào người thanh niên, nói lớn: “Bring it in!” Anh chàng chạy vội vào trong. Tôi làm bộ ngây thơ, hỏi: “Câu cá ngoài đường có bị ticket không?” ông cười, trả lời: “Ðủ yếu tố cho ticket” nhưng ông quyết định thôi, vì “đôi khi những người tốt, rất tốt lại làm một điều xằng bậy!”

    Trong khu vực thuộc chi nhánh Bưu Ðiện trên đường Bolsa, chúng tôi gặp một nữ homeless tên Phương Nguyễn. Thoạt đầu, Phương bỏ chạy vì thấy cảnh sát. Khi thấy có nhiều người mặc đồ dân sự đi cùng, Phương có cảm giác không phải một cuộc “ra quân” của cảnh sát nên dừng lại, dáng hơi ngại ngùng. Cô cho biết năm nay đã 27 tuổi. Qua Mỹ từ lúc 4 tuổi và “không biết gì, cũng không nhớ gì về Việt Nam.” Phương, dáng dong dỏng cao, sống với thân phụ. Một ngày nọ, cô cho biết “tham gia đánh lộn ngoài đường, vào tù. Sau khi ở vài tháng, ra tù, cha đã bỏ đi xuyên bang” tự bao giờ. Từ đó, cô đi vào con đường homeless. “Em ăn đồ của bà con cho. Tối ngủ lòng vòng không nhất định.” Phương kể thêm rằng cô đã từng có bạn trai, đã đi học đến lớp Bảy, đã từng làm nghề nhà hàng nhưng “chủ trả thấp quá nên thôi.” Phương cho biết cô đọc được tiếng Việt, hay đọc mục rao vặt Người Việt để kiếm việc làm.

    Trước khi kết thúc câu chuyện, Bridgewaters nói với Phương: “Lần sau gặp cảnh sát, cô đừng bỏ chạy. Bởi vì cô không làm gì sai trái cả.” Phương lí nhí: “I am sorry, sir.” Bridgewaters nói với chúng tôi: “Những người homeless hay mặc cảm do bị đối xử không tốt.” Theo ông, đó là điều đáng buồn. Trường hợp của Phương Nguyễn cũng vậy, Bridgewaters cho rằng cô bỏ chạy, một cách không cần thiết, vì sợ.[​IMG] Lúc hơn 9 giờ tối, trong bóng tối nhá nhem của dãy nhà kho trên đường Dillow, chúng tôi thấy lố nhố vài bóng người đang đẩy một chiếc xe dùng để đi chợ, hóa ra là nhóm homeless gặp ban chiều, có cả Sơn Phan và “Anh Ba,” một người đàn ông cao to, cũng là homeless. Họ đang hè nhau đẩy một chiếc xe đi chợ, bên trên chất đầy gỗ và mấy tấm ván lót đồ. Một người trong nhóm, ra dáng thích thú, cho biết: “Chúng tôi đang đi làm! Anh Dzũ cho mấy chục, nhờ dọn giùm mấy cái này.” Hóa ra, anh Dzũ tức doanh gia Trần Dũ, chủ nhân nhiều siêu thị tại Little Saigon. Lance có vẻ thích thú khi thấy những “khách hàng” của mình có việc làm. Ðiều này chứng minh điều anh nói với tôi hồi chiều: “Không có tiền, họ không thể thay đổi được cuộc sống.”

    Công việc của Lance, ngoài việc tìm hiểu và giúp đỡ những homeless bị tâm thần, anh thường mang theo quần áo, giầy dép đến cho họ. Lance nói: “Homeless rất cần thẻ xe bus, thẻ thực phẩm, và đặc biệt là... vớ.”
    Lance không hiểu tại sao homeless lại rất cần vớ. Anh tin rằng vì trời lạnh, và vì vớ dễ dơ nhất.

    “Hãy đi thăm Người Nhìn Mặt Trời!”
    [​IMG]
    Ông Lai Phan, biệt danh “Người Nhìn Mặt Trời,” một homeless lâu đời trước tiệm cơm chay Vạn Hạnh trên đường Bolsa

    Bridgewaters nói với Lance. Cả hai giải thích với tôi rằng Người Nhìn Mặt Trời là một homeless Việt Nam, trụ trì quanh năm trong khu cơm chay Vạn Hạnh trên Bolsa. Lai Phan, với biệt danh Người Nhìn Mặt Trời, có lẽ là một trong những homeless im lặng nhất. Ông ngồi bên tiệm cơm chay Vạn Hạnh từ năm này qua năm khác, tai lúc nào cũng đeo một dây nghe radio. “Xưa giờ 10 năm rồi không có nhà.” Ông Lai cho biết. Trước 1975, ông Lai ở đường Kỳ Ðồng, Quận 3. Ông qua Mỹ từ năm 1975, lúc mới 21 tuổi. Lúc đầu ông ở Texas, làm nghề “Food To Go,” sau về Minnesota, cuối cùng dọn về California vì “nơi đây đông người Việt Nam.”

    “Người Nhìn Mặt Trời” Lai Phan có một cuộc sống “vương giả:” ông, từ nhiều năm nay, chỉ tắm biển mà thôi. “Hai, ba tuần tôi đón xe bus một lần, đi thẳng ra Huntington Beach... tắm biển.” Những ngày không tắm, ông Lai dùng... dầu thơm. Lục trong túi xách, ông rút ra một chai dầu thơm, hiệu Jordache. “Mua ở chợ 99!” Ông Lai đã bị 10 giấy phạt vì ngủ nơi công cộng; cả 10 lần, ông đều không đóng tiền, vào tù 4 ngày lại ra. Thú vui duy nhất của ông bây giờ là “nghe radio để theo dõi tin tức.” Ông Lai là một trong những homeless có vẻ điềm tĩnh nhất khi cảnh sát lại gần. Một phần vì ông đã quen quá với Bridgewaters và Lance, phần khác vì ông tin cảnh sát ở Mỹ tốt hơn ở... Việt Nam. “Ở Việt Nam,” ông nói, chắc nói về Việt Nam trước 1975, “bắt homeless vào trại tế bần. Ở Mỹ ‘cao’ hơn, nói thôi, không bắt.” Ông quả quyết rằng ông không sợ cảnh sát.

    Ðược hỏi vì sao, ông Lai nói chậm rãi: “Cảnh sát cũng... thường thôi.”

    Mỗi ngày, nhu cầu của ông Lai là... một đồng. “Một đồng bạc là có cơm ăn.” Ông đưa tay chỉ tiệm Vạn Hạnh. Cũng như bao nhiêu người khác, ông mơ ước có tiền, làm giàu. Và ông mua vé số. “Con người trao đổi với nhau bằng tiền. Có tiền thì sẽ có tiền nhiều thêm.” Rồi ông nhìn lại ông, cười cười, nói: “Như tui,... khó giàu.” Thỉnh thoảng, ông Lai mua vé số, và ông tâm nguyện nếu trúng sẽ cúng chùa một ít, còn lại mang gởi vô bank. Thời giờ rảnh, ông dùng để sám hối vì tin rằng con người sống cần có đạo đức.

    [​IMG]
    Hoàng Trọng Vũ, một “cựu” homeless, hiện nay rất thỏa mãn với cuộc sống bình thường của mình. (Hình: Thiện Giao/Người Việt)

    Chui xuống gầm xa lộ thăm homeless

    WESTMINSTER, California - Ðó là lần đầu tiên tôi được chui xuống gầm một xa lộ! Ngoài trời nắng chang chang, nóng kinh khủng. Nhưng vừa chui xuống bóng mát gầm xa lộ, nhiệt độ giảm hẳn, gió mát hiu hiu. Ðó là gầm xa lộ 405, đoạn song song Bolsa gần Hoover. Ðây là “nhà” của cả một đội quân homeless Mỹ.
    [​IMG]
    Vào buổi tối, đi xe, thậm chí đi bộ, ngang các lùm cây này, sẽ chẳng một ai biết được phía bên trong là “nhà” của một homeless.

    Một buổi sáng yên tĩnh, không một bóng người, nhưng có bóng dáng của sinh hoạt thường nhật. “Chắc đi làm hết rồi.” Bridgewaters nhận xét. Lance cho biết cuộc sống của homeless, về giờ giấc, cũng từa tựa người thường: tối về “nhà” ngủ, sáng... đi làm. Chúng tôi len lỏi trong các đám cây chạy dọc bức tường xa lộ 405. Lance chỉ một bụi rậm: “Trong đó có homeless.” Anh quả quyết như thế vì thấy đám cỏ xẹp xuống. Leo lên sát gầm cầu xa lộ, chúng tôi quan sát từng ngăn, được ngăn cách bởi các dầm bê tông đỡ xa lộ. Cứ cách vài ngăn lại có một “nhà.” Quan sát một căn nhà vắng chủ: quả có sự khác biệt với homeless Việt Nam. Trong “nhà,” chủ đã sắp xếp ngay ngắn các vật dụng: một cẩm nang đi xe bus, một cuốn sổ tay, một cây viết và một gói thuốc rê hiệu TOP. Có cả nước cam và thực phẩm! Trong góc nhà là một tự điển Webster. Nếu không có tiếng xe vọng từ trên xuống, có lẽ đây là một địa điểm lý tưởng để ngủ trưa vào mùa Hè.

    Những đô thị nhiều homeless nhất Hoa Kỳ


    [​IMG]

    Detroit: 1.65%
    Orange County: 1.17%
    Boston: 1.02%
    Los Angeles County: 0.92%
    San Francisco: 0.84%
    King County (Seattle): 0.47%
    Santa Clara County: 0.45%
    (Tài liệu: Institute for the Study of Homeless and Poverty at the Weingart Center)

    Trên con đường dẫn vào khu vực homeless, trên các vách tường, người ta có thể thấy đầy những hình vẽ “graffiti.” Bridgewaters cho biết các hình vẽ nguệch ngoạc này không phải là tác phẩm của homeless. “Mấy tay homeless thường chẳng bao giờ tham gia vào các trò vẽ bậy này.” Ông nói, như đinh đóng cột:

    “Mấy tay phá phách và thích vẽ bậy vào mấy chỗ vắng vẻ này để... thi vẽ graffiti.”
    [​IMG]

    Trên con đường về lại Little Saigon, chiếc xe đi ngang qua nhiều ngã tư có những người Mỹ đứng ôm bảng “Homeless” để xin tiền. Bridgewaters cho biết ôm bảng đứng giữa đường là phạm luật. Theo luật, một tấm bảng của một cơ sở làm ăn, muốn được trương ra nơi công cộng, phải có giấy phép thành phố.

    Người homeless ôm bảng đứng ngoài đường thì chắc chắn không có giấy phép. Ðiều lạ, trong số những người xin tiền ở các ngã tư đường tại Little Saigon, không thấy một người Việt Nam nào cả; toàn là Mỹ. Có người tự xưng là... cựu giáo sư đại học Berkeley, một số khác là cựu chiến binh đã từng tham chiến tại Việt Nam. Nhiều ý kiến khác nhau, thậm chí trái ngược nhau về chuyện có nên cho tiền những homeless này. Có người cho rằng, đối với những homeless từng là cựu chiến binh tại Việt Nam, người Việt Nam nên giúp đỡ. Có lẽ, đó cũng là một trong những lý do có nhiều homeless Mỹ tại Little Saigon. Có người, ngược lại, phản đối việc cho homeless tiền, vì tin rằng họ không chịu đi làm.

    Một người bạn, rất thường dừng xe nơi các ngã tư tại Little Saigon, để... cho tiền homeless, lại có một lý luận rất khác. Anh nói: “Mỗi lần đi ngang ngã tư hay ghé qua cây xăng, tôi hay cho homeless 1 đồng, có khi mua lon bia cho ông già lở lói ngồi cây xăng Shell góc Magnolia và Bolsa.” Anh bạn tôi không nghĩ mình là người tốt bụng, ngược lại, anh nói, “dù mới qua Mỹ hơn 3 năm, tôi luôn cảm thấy mắc nợ mấy người homeless này, đưa chút tiền cho họ là một bổn phận đương nhiên.” Anh bạn tôi giải thích rằng, mấy người homeless đó có khi đã từng đi làm, đóng thuế, chính phủ lấy tiền thuế đó vớt H.O. qua, cho trợ cấp, cho Medical, cho chữa bệnh “chùa,” cho đi học, cho housing, cho tiền già. Anh bạn này cưới con của một H.O. rồi cô vợ bảo lãnh anh qua hồi 2003, anh nghĩ rằng, về “nhân-quả,” sự hiện diện của anh nơi đất Mỹ này, có phần tiền, mồ hôi nước mắt của mấy anh homeless anh hay gặp.

    Chỗ thân tình, anh than, có ý như trách: “Một số người quen của anh, lớn tuổi, hưởng nhiều thứ của nước Mỹ, nhưng mỗi khi con cái chậm xe ở ngã tư để cho tiền homeless, thì cứ bực bội rầy rà.” Anh kết luận: “Nhiều người chỉ thích sự vẻ vang, trọng vọng trong cộng đồng mà không chú ý tới điều nhỏ nhặt; homeless không phải là nơi để thực hành sự tiếng tăm.”

    Thành phần homeless tại Quận Cam (2005)
    Người già: 14%
    Nạn nhận bạo hành trong gia đình: 9%
    Thanh, thiếu niên: 7%
    Cựu chiến binh: 7%
    Phụ nữ đang mang thai: 4%
    Người nhiễm AIDS/HIV: 2%

    (Tài liệu: InfoLink Orange County, County of Orange Housing and Community Services Department, OC Partnership)
    [​IMG]

    Số lượng homeless đang ngày càng gia tăng tại Quận Cam. Theo một thống kê của Trung Tâm Weingart, chuyên nghiên cứu về homeless và nạn nghèo đói, Quận Cam là khu vực có số lượng homeless cao thứ nhì toàn quốc, chỉ sau Detroit, và đứng trên Boston. Riêng tại Little Saigon, theo lời Bridgewaters, “có khoảng 70 homeless, đa số là người Việt Nam.” Theo thống kê của Sở Cảnh Sát Westminster, cứ 307 cú điện thoại gọi vào cảnh sát, hết 186 cú liên quan đến homeless. Một chi tiết thú vị hơn nữa, thành phố Westminster, vào buổi tối, 80% người đi ngoài đường là cư dân đến từ các thành phố lân cận. Lance nói với Người Việt: “Ðiều khó khăn của những người homeless là không có cơ hội. Ðiều chính yếu là cho họ cơ hội. Và chính họ phải biết tận dụng cơ hội để trở lại cuộc sống bình thường.”

    Bridgewaters đồng ý với nhận định ấy, ông nói: “Vấn đề homeless không bao giờ có điểm kết thúc. Ðây là vấn đề muôn thuở.” Và ông thêm rằng, chẳng ai cho ai con cá, điều quan trọng là dạy người ta câu cá, và cho người ta cần câu. Ý Bridgewaters, và cả Lance, giống nhau: để trở lại cuộc sống bình thường, chính cá nhân mỗi homeless phải tự cố gắng. Sơn Phan, người homeless 33 tuổi đã được đề cập, cũng thừa nhận điều ấy: “Sống như vậy không khá!”

    [​IMG]

    Sơn biết chắc chắn như vậy, và Sơn đã cố gắng để khá hơn. Chúng tôi trở lại gặp Sơn vào một ngày giữa Tháng Mười, trông anh có vẻ tươi tỉnh và tự tin hơn. Sơn, ngồi chung với 4 người bạn khác, cho biết anh vừa tìm được việc làm hôm qua, tại một tiệm sửa xe. “Tuần sau sẽ đi mướn nhà. Có nhà là có tất cả.” Sơn mãn nguyện.


    [​IMG]

    Có nhà là có tất cả! Thật vậy, cái nguyên tắc căn bản để một người được xem là sống “bình thường,” là “Foods, Clothes, and Shelter:” đồ ăn, quần áo và nơi để ngủ. “Hồi tôi đi homeless lần đầu, người ta dạy tôi muốn thoát khỏi homeless phải biết tự lo liệu ba điều: đồ ăn, quần áo và nơi ngủ.” Anh Hoàng Trọng Vũ, 48 tuổi, một “cựu” homeless giải thích. Anh Vũ, trông dáng rất đẹp so với tuổi 48, nụ cười rất hiền, ngồi trước quán Kang Lạc trên đường Bolsa, nói chuyện với chúng tôi về khoảng thời gian 2 năm vô gia cư của anh.

    Hoàng Trọng Vũ không uống bia, chỉ hút thuốc lá. Nhớ về những ngày đi lang thang, Vũ nói, rất chững chạc và rất đàn anh: “Không bao giờ nên ra đường sống. Mất hết tuổi trẻ thôi.”

    Vũ hiện đang phải uống thuốc an thần, anh cho biết. “Hồi trước, lúc nào cũng nghe tiếng o, o, o... trong đầu.” Khi được bác sĩ chứng nhận tình trạng sức khỏe, Vũ được cho vào “bording house,” và được chu cấp thuốc uống liên tục. Uống thuốc đều, Vũ thấy người trở lại bình thường, từ đó sinh ra “đi chơi liên tục. Mà bác sĩ và quản lý bording house cũng chẳng phàn nàn chuyện tôi đi sớm về trễ. Chắc họ nghĩ Hoàng Trọng Vũ còn đi chơi được là... còn khỏe.” Anh cười thật tươi. Mỗi ngày Vũ hít đất 200 cái. Khi khỏe, tăng lên 300. Vũ không uống bia, chỉ hút thuốc lá. Nhớ về những ngày đi lang thang, Vũ nói, rất chững chạc và rất đàn anh: “Không bao giờ nên ra đường sống. Mất hết tuổi trẻ thôi.”

    Theo Vũ, ra đường là điều chẳng đặng đừng, một số người trẻ tuổi ỷ lại vào sức khỏe, cứ sống lang thang. “Ðến khi giật mình nhìn lại thì đã già.”
    Bây giờ, Vũ ra nhà hàng Kang Lạc là để tránh việc “ở nhà nhiều quá, ngủ nhiều sẽ bị sleeping disorder.” Anh đến ngồi trước Kang Lạc, làm quen với mấy người làm tại đây. Một thanh niên làm việc tại Kang Lạc, có vẻ thân với Vũ, cho biết “Anh ấy chỉ ngồi đó thôi, không phá phách gì hết.” Rồi anh chỉ tay vào bộ đồ Vũ đang mặc, chọc quê: “Chơi hàng hiệu hẳn hoi.”

    Bao nhiêu người sẽ may mắn như Sơn Phan và Hoàng Trọng Vũ? Bao nhiêu người sẽ có nhà ở, hoặc có việc làm và sẽ đi mướn nhà? Câu chuyện của Sơn và Vũ cho thấy những may mắn ấy, thật ra, tùy thuộc vào chính người homeless.

    Bridgewaters đã nói: “Ðừng để họ đi homeless lâu quá. Ðừng để họ established.”

    Ngồi chung với Sơn Phan trong một con hẻm tối om om sau lưng tiệm “7-Eleven” ngay góc Magnolia và Bolsa, Trần Quang Bình, 33 tuổi, chỉ vừa “bước vào cuộc đời homeless được một tháng.” Trước khi mở đầu câu chuyện, Bình nói ngay: “Em muốn đi rehab.” Hóa ra, Bình chơi xì ke. “Em chơi xì ke, có problems với vợ nên bỏ nhà ra đi. Bây giờ em muốn đi cai.”

    Bình, qua Mỹ năm 1989, đã học trung học tại Mỹ, đã làm người bán furniture trong 5, 6 năm. Bình có vẻ hối hận về chuyện hút xách của mình. Anh cho biết anh không còn hy vọng về lại với vợ, nhưng chắc chắn sẽ đi cai. Khi Bình lâm vào cuộc sống homeless, bố mẹ anh ở tiểu bang khác chưa biết gì về việc này! Cuộc sống của Bình bây giờ, giống như tất cả các homeless khác: sống nhờ vào đồng hương, không có chỗ tắm rửa nên “ở dơ luôn,” ngủ ngoài đường, bị giấy phạt và chẳng bao giờ trả tiền phạt.

    Bình trái ngược hẳn với Sơn. Trong khi Bình trông lúng túng, mang cái vẻ của người mới sa cơ, Sơn ngồi vắt vẻo trên một thùng rác, dáng tự tin: “Có việc làm, mướn được cái phòng là thoát!” Anh nhấn mạnh chữ “thoát.” Tức là thoát khỏi kiếp homeless. Tôi hỏi anh có happy không. Anh trả lời ngắn gọn: “Bắt buộc!”
    [​IMG]

    Chỉ ba tháng trước đó, tâm trạng của Sơn giống hệt Bình. Ba tháng trước, Sơn ngồi bệt dưới đất trên vỉa hè đường Dillow, trông cũng “sa cơ” như Bình bây giờ. Lúc ấy, Sơn nói anh sẽ đi kiếm việc làm. Nhưng cái kẹt của Sơn, là “bộ vó.” Anh nói: “Trông tướng tá như thế này ai cho việc làm.” Cán sự xã hội Lance, lúc đó hỏi tôi: “Sơn mang giầy số mấy?” Hóa ra, Lance hiểu được hoàn cảnh của Sơn. Anh muốn Sơn trông tươm tất hơn, để dễ tìm việc làm hơn!

    Thiện Giao & Nhơn Thành
    Người Việt
  6. MrKhuKhoam

    MrKhuKhoam Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    12/04/2011
    Bài viết:
    4.334
    Đã được thích:
    1.180
    A. Einstein đã ăn cắp lý thuyết tương đối của Poincare

    [​IMG] A. Einstein, khi làm việc tại văn phòng bằng sáng chế, đơn giản "vay mượn" ý tưởng của hai nhà khoa học: nhà toán học và vật lý Jules Henri Poincare và nhà vật lý G.ALorenz.

    Cả hai nhà khoa học trong nhiều năm làm việc với nhau để tạo ra lý thuyết này. Chính Poincare đưa ra định đề về tính đồng nhất của Vũ trụ và định đề về tốc độ của ánh sáng. Còn G.A Lorenz rút ra hai công thức nổi tiếng. A. Einstein, trong thời gian làm việc tại văn phòng bằng sáng chế, có điều kiện tiếp cận các công trình khoa học họ và quyết định lấy tên mình đặt cho lý thuyết. Ông thậm chí còn giữ tên của G.A Lorenz trong các lý thuyết tương đối "của mình": các công thức toán học cơ bản trong lý thuyết "của ông" được mang tên "Các phép chuyển vị của Lorentz ", nhưng, tuy nhiên, ông không giải thích rõ tự (chẳng có) ông có liên quan đến các công thức này như thế nào, và nói chung không hề nhắc đến tên tuổi của Henri Poincare là người đã đưa ra những định đề. Nhưng, " tại sao đó", đã đặt tên của mình cho lý thuyết.

    Cả thế giới biết rằng Albert Einstein - người đoạt giải Nobel, và tất cả không nghi ngờ rằng giải thưởng này ông nhận được do phát minh các lý thuyết tương đối Hẹp và Rộng. Tuy nhiên, nó không phải như vậy. Vụ bê bối xung quanh lý thuyết này, mặc dù nó đã đã được biết đến trong phạm vi hẹp của giới khoa học, không cho phép Ủy ban Nobel trao giải thưởng này cho ông vì học thuyết này. Lối thoát rất đơn giản - A. Einstein đã được trao giải Nobel ... phát minh Định luật thứ hai của hiệu ứng quang điện, mà nó là trường hợp riêng biệt của Định luật đầu tiên của hiệu ứng quang điện.

    Những thật lạ lùng điều mà các nhà vật lý Nga Alexander G. Stoletov (1830-1896) đã phát hiện ra chính hiệu ứng quang điện lại không được nhận giải thưởng Nobel, hay giải thưởng nào đó khác nhờ phát minh của mình, trong đó, họ đã trao cho A. Einstein giải thường vì "sự nghiên cứu " trường hợp đặc biệt của định luật vật lý này. Xảy ra sự phi lý, xét từ mọi quan điểm. Lời giải thích duy nhất của việc này là một người nào đó đã làm rất nhiều để biến Einstein thành người đoạt giải Nobel và tìm kiếm cho bất kỳ lý do nào để thực hiện điều đó.


    "Thiên tài" phải cố vắt óc một ít với phát minh của nhà vật lý Nga A. Stoletov, khi "nghiên cứu" hiệu ứng quang điện, và … nhà đoạt giải Nobel mới được "chào đời". Ủy ban Nobel có lẽ cho rằng hai giải Nobel cho một phá minh hơi nhiều quá và quyết định chỉ trao một … cho "nhà khoa học thiên tài" A. Einstein!


    Có quá "quan trọng" không giải thưởng được trao cho Định luật đầu tiên của hiệu ứng quang điện hoặc Định luật thứ hai. Điều chính yếu nhất, giải thưởng được trao cho phát minh của nhà khoa học "thiên tài" A. Einstein. Và những gì bản thân nhà vật lý Nga A. G. Stoletov phát minh ra - đó là "điều nhỏ nhặt" không đáng quan tâm. Điều quan trọng nhất là nhà khoa học "thiên tài" Albert Einstein đã trở thành người đoạt giải Nobel. Và bây giờ, hầu như tất cả mọi người cho rằng rằng giải thưởng này, Einstein nhận được nhờ các lý thuyết tương đối hẹp và rộng VĨ ĐẠI "của mình".
    http://www.newsland.ru/news/detail/id/963805/
    http://trueinform.ru/modules.php?name=video&file=article&sid=952
  7. Jenna1987

    Jenna1987 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    25/05/2012
    Bài viết:
    936
    Đã được thích:
    1.889
    Theo thống kê NASS, ở Mỹ có 40 triệu con bò, 60 triệu con lợn… cộng với số giun sán giòi bọ là khoảng 300 triệu con. Có thể nói nước Mỹ là cái trại nuôi súc vật khổng lồ.

    Để chăn nuôi bằng ấy con, cần rất nhiều cám. Thật thiên tài khi chế biến được một khối lượng cám khổng lồ nuôi đủ bằng ấy súc vật.
    Dường như là lạc đề khi nói đến ngành chăn nuôi. Nhưng ở đây, cả Lịch Sử cũng được chế biến thành cám cho lũ súc vật. Nhờ có vô số cám, lũ này đóng cửa tự sướng với nhau, vì vậy người ta mới thấy những cái đoạn phì cười kiểu: nhân dân Iraq trải thảm đỏ tay cầm cờ hoa đón chờ đoàn quân giải phóng Mỹ! Một phép thắng lợi tinh thần AQ. Thật vậy!


    Lịch sử WW-2 được mô tả như thế nào ở Mỹ

    Tất cả đều biết người Mỹ chép sử theo kiểu của mình. Lịch sử WW-2 cũng không phải là ngoại lệ và còn là một minh chứng rõ ràng cho điều đó. Có rất nhiều các ví dụ lấy từ các sách của Mỹ, mà trong đó phần lớn công lao đóng góp của Liên Xô trong việc đánh bại phát xít Đức đã bị coi nhẹ, bị lờ đi. Còn binh lính Mỹ thì được thể hiện với tất cả vinh quang lịch sử.

    Những bằng chứng như thế đã được đăng trên bài báo của ông Tigran Khalatyan, một Ph.D khoa học đang sống ở Mỹ.

    Hầu hết người Mỹ đều cho rằng, họ có công lao chính trong việc đánh bại phát xít Đức, còn đóng góp của Liên Xô thì rất mơ hồ. Phần lớn nghĩ, Liên Xô tham gia vào chiến tranh bên phía Hitle… Làm thế nào để xuyên tạc lịch sử mà không phải hạ mình dối trá một cách trắng trợn? Đơn giản là chỉ nói một nửa sự thật. Và điều đó còn giữ được thanh danh hơn là dối trá trắng trợn. Đó là cách viết lịch sử ở phương tây. Những vấn đề tư tưởng được giải quyết bằng cách bóp méo và giấu giếm.


    Sách dùng cho lớp 7, của Prentice Hall nhan đề History of Our World, 2007. Trang 623 (quyển 4, chương 21) nói về chiến tranh giai đoạn 1943-1945 ở châu Âu, tất cả chỉ có một đoạn như thế này:

    “Chiến thắng ở châu Âu. Sau khi tập trung ở Bắc Phi và Ý, Các đồng minh mở mặt trận phía tây chống quân Đức suy yếu. Ngày 6 tháng 6 năm 1944, tàu chiến của đồng minh với 156 ngàn quân đổ bộ lên Normandy, bờ biển phía bắc nước Pháp. Được biết đến như D-day cuộc tấn công Normandy là khởi đầu chiến dịch to lớn của đồng minh tiến về phía đông. Sau 6 tháng quân đội đồng minh đã đến nước Đức. Sau một nỗ lực cuối cùng để giành thắng lợi tháng 12 năm 1944, được biết đến là Trận đánh Ardennes (Battle of the Bulge-ND), quân đội Đức đã bị đập tan. Đồng minh tuyên bố chiến thắng ở châu Âu ngày 8 tháng 5 năm 1945”.

    Và thế là chiến tranh châu Âu kết thúc. Cần phải nói là, trận đánh Moscow và Stalingrad cũng được nhắc đến trong chương này. Nhưng khi người Mỹ đến châu Âu thì các tác giả lập tức quên ngay người Nga. Không nhắc đến những trận đánh dữ dội nhất của Hồng Quân trong những năm 1944-1945, không nhắc đến trận công phá thành Berlin. Còn quân Đức suy yếu, là suy yếu do các cuộc tấn công đường không chiến lược của đồng minh!

    Nhìn vào các thư viện địa phương ở Mỹ, có rất nhiều sách về WW-2. Nhìn chung, chúng đề cập đến các trận đánh mà người Mỹ tham gia hay là về Holocaust. Rất nhiều sách đền cập đến cuộc tấn công Trân châu cảng của Nhật Bản và về D-Day. Đối với những người chưa biết đến sách sử Mỹ, thì cần nói rằng, việc mở Mặt trận thứ 2 vào ngày 6-6-1944 ở Mỹ được gọi là D-Day, theo ý nghĩa quân sự là ngày mở màn các trận đánh.

    Điều đó cũng không phải là tình cờ, rất là thích hợp khi mà thay vì nói về Mặt trận thứ 2, người Mỹ thích nhớ hơn đến “D-Day: bắt đầu của sự kết thúc đối với phát xít Đức” (D-day: the beginning of the end for Nazi Germany), là trận đánh quan trong nhất của WW-2 trong khái niệm của họ. Còn khi nói về Mặt trận thứ 2 thì sẽ làm dấy lên những câu hỏi, Mặt trận thứ 1 ở đâu? Mặt trận nào là quan trọng? Do vậy mà người Mỹ, rõ ràng và ngắn gọn: D-Day.

    Trong thư viện Mỹ. đặt ở chỗ dễ thấy là 3 tập sách được in ấn đẹp của nhà sử học nổi tiếng Mỹ Stephen Ambrose, “Trận đánh tuyệt vời. WW-2 đã thắng lợi như thế nào, 2001” (Stephen E. Ambrose. The good fight. How World War II was won, 2001).

    Lời chú dẫn trong phụ trương về tác giả đầy triển vọng: "Steven E. Ambrose, một trong những nhà sử học ưu tú nhất trong thời đại của chúng ta đã viết ra niên đại lịch sử tuyệt vời WW-2 cho các đọc giả trẻ…”. Và khi mở ra đọc thì thấy sửng sốt cái niên đại liệt kê những sự kiện chính của WW-2 như thế này:

    1939
    1-9. Đức xâm lược Ba Lan, bắt đầu WW-2.
    1940
    27-9, Nhật ký Hiệp định sắt thép.
    1941
    5-11, CP Nhật quyết định phát động chiến tranh bí mật chống Mỹ.
    7-12. Nhật tấn công bất ngờ vào căn cứ quân đội Mỹ tại Trân châu cảng, Hawaii.
    8-12, Mỹ tuyên bố chiến tranh với Nhật.
    1942
    20-1. Hội nghị Wannsee.
    18-4. 18. Tấn công bất ngờ Doolittle trên đất Nhật.
    4-4. Trận đánh Midway, Nhật chiếm đảo Attu và Kiska của Alaska.
    7-8. Lính thủy đánh bộ Mỹ tấn công quân Nhật bảo vệ Guadakanal.
    8-8. Chiến dich Torch, đồng minh đổ bộ vào Bắc Phi.



    Cứ như thế.. Vô hình chung, chẳng có Liên Xô chống phát xít.

    Thế là, để trả lời câu hỏi, WW-2 đã thắng lợi như thế nào, thì “một trong những nhà sử học ưu tú nhất trong thời đại của chúng ta” lại im lặng và chẳng thấy lương tâm bị cắn rứt khi chỉ nói đến những trận đánh và sự kiện người Mỹ tham dự. Và ở Mỹ người ta tiếp thu điều đó như là điều bình thường. Vào các website bán sách phổ biến, nhìn chung có những phản ánh rất tích cực từ đọc giả về cuốn sách (đã trừ ra các ý kiến của những tên tôi tớ ngoan ngoãn).

    Stephen Ambrose, một trong những nhà sử học nổi tiếng nhất, viết sách lịch sử ở Mỹ, còn có đoạn văn “xuất chúng” sau trong cuốn sách không kém phần “xuất chúng” “Những người chiến thắng: Eisenhower và các cậu trẻ của ông ấy Người của WW-2” (The Victors: Eisenhower And His Boys The Men Of World War II). Trang 352, thật trứ danh:

    “Mùa xuân năm 1945 trên các vùng khác nhau của thế giới nổi nên những đội quân từ một tá những người trẻ tuổi có vũ trang và trang phục, gây khiếp đảm con tim mọi người. Cho dù những nhóm này là Hồng Quân… hay là quân Đức… hay là quân Nhật… thì đội quân này nghĩa là cưỡng hiếp, tàn sát, cướp bóc, chiếm đoạt, tàn phá qui mô lớn, giết người như điên dại. Nhưng cũng có một ngoại lệ: nhóm những người Mỹ, mà dáng vẻ đem đến nụ cười tươi sáng nhất có thể nhìn thấy ở mọi người và đem đến thiện cảm trong trái tim họ…”


    Rõ là, nhà sử học Ambrose không nhìn thấy sự khác nhau giữa Hồng Quân và quân phát xít đã thực hiện những cái gì. Nhưng còn những người bạn Anh? Để tự sướng nhà sử học cũng đã quên hết luôn cả họ. Ông ta là nhà sử học Mỹ hàng đầu cơ đấy! sách của ông ta bán khắp mọi nơi. Nhưng liệu không thể tìm thấy trong thư viện Mỹ một cuốn nào đề cập đến vai trò của Liên Xô trong WW-2?

    Có thể tìm thấy, đây là 1 cuốn năm 2004: Margaret J. Holstein, “WW-2 ở châu Âu” (Margaret J. Goldstein. World War II in Europe). Ở trang 17 có in bản đồ châu Âu được đặt tên “Hitler's Blitzkrieg 1939 — 1941”. Chỉ có điều là Liên Xô được tô màu sao đó trên bản đồ. Nhìn cẩn thận thì thấy: “Liên Xô (đồng minh của Đức cho đến tháng 6 năm 1941)”. Thật là rõ ràng, không cần bổ xung thêm gì cả. Còn sau đó thì không cần phải ngạc nhiên nữa về vai trò không nhiều lắm của Liên Xô. Mặc dù như thừa nhận là sau tháng 6-1941 là đồng minh của Anh-Mỹ. Trên trang 86 là danh sách các trận đánh lớn.

    Trận đánh lớn của WW-2 ở châu Âu:
    Đức xâm lược Ba Lan - 1 tháng 9 năm 1939
    Đức xâm lược Na Uy và Đan Mạch - 09 tháng 4 năm 1940
    Đức xâm lược Bỉ, Hà Lan và Pháp - 10 tháng 5 1940
    Trận đánh nước Anh - Từ tháng 7 đến tháng 10 năm 1940
    Đức xâm lược Liên Xô - 22 tháng 6 năm 1941
    Trận đánh ở Kiev, Kursk, Leningrad, Moscow, Sevastopol và Stalingrad - tháng 6 năm 1941 đến tháng 6 năm 1944
    Nhật Bản ném bom Trân Châu Cảng, Hawaii - 07 tháng 12 năm 1941
    Trận đánh El Alamein – tháng 10 đến tháng 11 năm 1942
    Đồng minh tấn công ở Algeria và Morokko - 08 tháng 11năm 1942
    Đồng minh tấn công ở Tunisia và Libya từ tháng 2 đến tháng 5 năm 1943
    Đồng minh tấn công Sicily - 10 Tháng 7, 1943
    Trận chiến Monte Cassino, Ý - 04 tháng 1, 18 tháng 5, 1944
    Đồng minh tấn công Ý, qua Anzio ngày 22 tháng 1, 1944
    Đồng minh tấn công Pháp qua Normandy (D-Day) - ngày 6 tháng 6 năm 1944
    Đồng minh tấn công miền Nam nước Pháp - tháng 8 năm 1944
    Trận Ardennes ở Bỉ - Tháng 12 năm 1944.

    Hầu hết những trận đánh quan trọng của người Mỹ được tập trung vào một đống. Trận chiến Budapest và Berlin, và vô số những trận đánh khác của Liên Xô không hề được kể đến. Do đó mà, người Mỹ chẳng bao giờ đoán được, 80% quân Đức đã bị đập tan ở Mặt trận phía đông. Họ chỉ nhớ “sau trận đánh ở Ardennes quân đội Đức đã bị đập tan”. Có cảm tưởng rằng, sau khi người Mỹ đến châu Âu, chủ yếu họ là chính trong chiến tranh với Đức.

    Có thể ai đó cho rằng, tác giả bài viết này đã tìm những sách kém đứng đắn nhất và rằng thực ra thì các sách khác sẽ tốt hơn. Vậy thì vẫn cần tìm thêm chúng. Cần phải thu thập những hạt sự thật, chỉ có trẻ em Mỹ chắc là hiểu. Và một vài đoạn trích từ những xuất bản phổ thông nhất. Ví dụ, còn gì phổ thông hơn loạt sách “For Dummies” xuất bản với số lượng lớn phổ biến khắp quanh thế giới.

    Lấy quyển của Keith D. Dikson “WW-2 cho ngốc” (Keith D. Dickson. World War II for Dummies). Trên bìa có dòng gây chú ý đến người đọc: “Học sử về Hitle, Trân châu cảng, D-Day và Hisroshima”. Câu phát biểu thật đáng chú ý, chính xác như nó cho thấy, đó là những gì mà người Mỹ tham gia vào chiến tranh. Sẽ chẳng còn ngạc nhiên thêm nữa khi mà trong số 10 sự kiện quan trọng trong niên đại không có trận đánh Mat-xcơ-va và Vòng cung Kursk. Nhưng đáng quan tâm là chương 23, trang 271 mang tên “Mười nhà lãnh đạo của WW-2”.

    Tác giả tiếp cận đến vấn đề bằng lối nghiêm trọng: “Khi sắp xếp một danh sách như thế, luôn luôn cần phải không loại trừ ai đó đáng được chú ý… Tôi thực hiện chọn lựa của mình dựa trên phẩm chất của nhà lãnh đạo, trên sở hữu khoa học quân sự, khả năng lãnh đạo và truyền cảm hứng cho mọi người trong chiến đấu, dựa trên việc sử dụng vai trò cá nhân để giành lấy lợi ích dân tộc. Để tránh những tranh cãi lớn, tôi liệt kê tên theo thứ tự ABC”.

    Và kết quả có 10 cái tên:

    1. Winston S. Churchill: Nhà vĩ đại vĩnh cửu (England).
    2. Dwight D. Eisenhower: Đừng lo lắng, hãy vui vẻ (USA).
    3. Douglas MacArthur. Địa ngục hủy diệt! (USA).
    4. George Marshall: Lòng tận tụy chân thật (USA).
    5.. Chester W. Nimitz: Chúa tể biển cả (USA).
    6. George S. Patton: Chiến binh mọi lúc của năm (U.S.).
    7. Erwin Rommel: Cáo sa mạc (Germany).
    8. Franklin D. Roosevelt: Kẻ mưu mẹo xảo quyệt (USA).
    9. Isoruko Yamamoto: Chiến binh Sa-mu-rai (Japan).
    10. Georgy Zhukov: Lãnh đạo của quần chúng (the USSR).

    Không như các sách “cho thằng đần” khác, cuốn về WW-2 này không được dịch sang tiếng Nga. Người Mỹ dường như có 1 WW-2 tuyệt đối khác.

    Nhưng, ai đã nói những câu này?

    "Lịch sử không thấy ví dụ vĩ đại nào khác về lòng can đảm hơn là đã được chứng tỏ bới nhân dân Xô Viết Nga…” Henry L. Simpson, Bộ trưởng chiến tranh Mỹ.

    “Chúng ta và đồng minh của chúng ta vô cùng và mãi mãi biết ơn công lao đóng góp của quân đội và nhân dân Liên Xô…” Frank Knox, Bộ trưởng hải quân Mỹ.

    “Khả năng và tinh thần chiến đấu năng nổ của binh lính Nga làm quân đội Mỹ khâm phục…” George Marshall, Tổng tư lệnh QĐ Mỹ.

    Qui mô và mức độ lớn lao của cống hiến người Nga có thể được coi như là thành tựu quân sự hùng tráng nhất trong lịch sử của chúng ta”. Douglas MacArthur, tướng tổng chỉ huy QĐ Mỹ ở Thái bình dương.



    Trước năm 1943, khi mà Liên Xô một mình đương đầu với nước Đức và cứu cả thế giới khỏi thảm họa phát xít, họ nói theo cách tuyệt đối khác...



    http://www.online812.ru/2012/05/23/010/
    http://berioska.ru/news-15-834.html


    [YOUTUBE]38qRLkHOYgk[/YOUTUBE]​
  8. MrKhuKhoam

    MrKhuKhoam Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    12/04/2011
    Bài viết:
    4.334
    Đã được thích:
    1.180
    Cải cách ruộng đất giết bao nhiêu người?
    Hỡi Quân Đội Mỹ, Đừng Để Các Chiến Binh Mỹ Mất Dạy Về Nhân Quyền

    Hoang Huu Phuoc, MIB
    [​IMG]
    George Santayana tức Jorge Agustín Nicolás Ruiz de Santayana y Borrás (1863-1952), triết gia, tiểu thuyết gia và nhà thơ Tây Ban Nha, học tập thành tài tại Mỹ và ở lại giảng dạy tại Đại học Harvard cho đến năm 48 tuổi bỏ về Tây Ban Nha không bao giờ trở lại, được biết đến toàn thế giới với câu nói lừng danh “Those who do not remember the past are condemned to repeat it” tức “Kẻ nào lãng quên quá khứ (sai lầm xằng bậy của mình) sẽ phải lập lại quá khứ (sai lầm xằng bậy) ấy.” Hai bức ảnh trên gồm bức đen trắng ảnh một binh sĩ Hoa Kỳ chụp hình lưu niệm với những gì còn sót lại phần trên thân thể một chiến binh ********* và bức ảnh màu chụp cảnh các binh sĩ Hoa Kỳ chụp hình lưu niệm với những gì còn sót lại phần dưới thân thể một chiến binh Afghanistan. Khoảng cách nửa thế kỷ của hai bức ảnh giữa một bên là vào những năm 60 của thế kỷ trước và năm cuối thập niên đầu tiên của thế kỷ này (2010) vẫn cho ra một điều giống y nhau về thú tính bất nhân mọi rợ của những binh sĩ Hoa Kỳ ít – hoặc chẳng bao giờ được – học về nhân quyền, vốn là một sự thật mà bài viết này muốn nói đến, với sự trùng hợp của định mệnh khi tháng 4 năm nay là tháng của Lễ Chiến Thắng của Việt Nam – tức ngày chiến bại của Hoa Kỳ, đất nước của binh sĩ trong ảnh đen trắng bên trái – và tháng 4 năm 2012 này cũng là tháng mà tờ báo Los Angeles Time Hoa Kỳ đăng tải hàng chục bức ảnh bất nhân mọi rợ của các binh sĩ Mỹ đối với xác “đối phương” và người dân vô tội Afghanistan với bức ảnh màu bên phải là một thí dụ. Vậy lập lại sai lầm như thế nào.

    Khi người thợ săn hạ được con thú, người ấy đứng chụp hình bên chiến lợi phẩm (y như nhà vua Vương Quốc Bỉ vừa bị “bỉ’ mặt vì lén qua Phi Châu dùng tiền thuế của dân bắn hạ một con voi, chụp hình với xác voi, rồi bị hồn thiêng của voi vật té ngựa bị trặc hông phải nhập viện làm bại lộ chuyến đi). Khi các binh sĩ Mỹ chụp hình với xác đối phương, ấy là họ xem đối phương là con thú. Họ xúc phạm Đức Chúa Trời nếu họ cho rằng ông ta tạo ra vạn vật và loài người. Họ xúc phạm tổ tiên Hoa Kỳ, những người bị lưu đày, những tên tội phạm, những kẻ thất thế sa cơ ở Châu Âu đổ về vùng đất mới (nay gọi là Hoa Kỳ) để được sống kiếp người, để con cháu họ được là người và biết tôn trọng con người, tôn trọng nhân quyền. Hãy thử xem đó là do sự dốt nát của vài chiến binh, hay là sự lập lại, sự lây lan, sự lưu luyến những lề thói cũ của những kẻ cho mình là người và những kẻ gần những kẻ cho mình là người nên cũng nghĩ chỉ có mình mới là người và bắt chước bọn tự cho mình là người ấy để xem kẻ thù chung là con vật.

    Trong khi dân quân Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa vội đến cứu sống viên phi công John McCain ngày 26-10-1967 khi máy bay bị bắn rơi xuống Hồ Trúc Bạch, Hà Nội, đối xử với Ông với tình người và tinh thần nhân quyền, tôn trọng tù binh chiến tranh, để sau này Ông thành Thượng Nghị Sĩ, ứng cử viên Tổng thống Hoa Kỳ
    [​IMG]
    hoặc võng cáng đưa tù binh Mỹ bị thương đi
    [​IMG]
    thì các chiến binh Hoa Kỳ lái xe thiết giáp kéo lê xác một “*********” như xác một con vật,
    [​IMG]
    hoặc xúm lại tra tấn tù binh cộng sản (hai chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa giữ đầu để đổ nước vào mũi, còn chiến binh Hoa Kỳ dùng đầu gối ấn vào bụng cho tù binh ói nước)
    [​IMG]
    và khi gặp phải tù binh trung kiên với Đảng, không khai báo, họ lôi tù binh lên trực thăng và ném xuống
    [​IMG]
    Đối với tù binh cộng sản, các quân nhân Mỹ đã làm những điều điều tàn ác như thế, thì chỉ có dân lành mói đúng là số đông lý tưởng cho một cuộc đi săn thú mà thôi, như cuộc thảm sát ở Mỹ Lại năm nào:
    [​IMG]
    Học tập từ quân trường Quang Trung theo các bài bản của Mỹ, viên đại úy Việt Nam Cộng Hòa này đã đằng đằng sát khí lăm lăm ngọn lưỡi lê chực chọc vào bụng một tù binh cộng sản trong khi các quân nhân Cộng Hòa khác ái ngại thảng thốt đứng nhìn
    [​IMG]
    Tương tự vị sĩ quan, người lính Cộng Hòa này đã dùng lưỡi lê cắt đầu người nông dân do không chịu chỉ điểm vị trí của ********* (ảnh của Horst Faas chụp ngày 09-01-1964, Hãng Thông Tấn AP)
    [​IMG]
    lưỡi lê luôn là dụng cụ tra tấn và sát hại tù binh cộng sản
    [​IMG]
    sự sợ hãi ***g căm thù khiến người chiến binh Cộng Hòa xem người phụ nữ già không khác gì một tên giặc
    [​IMG]
    đến độ sự vô cảm với người dân còn được ống kính một phóng viên nước ngoài ghi cảnh một nông dân bế xác con cầu cứu, với gương mặt hoặc tò mò hoặc cười vui vẻ của các quân nhân Việt Nam Cộng Hòa trên xe thiết giáp, tháng 3 năm 1964
    [​IMG]
    Nhưng trong khi các sĩ quan Mỹ giở trò thú tính và vị tư lệnh Mỹ phải cố phân trần và kết tội họ, thì tình hình rất khác trong quân đội Việt Nam Cộng Hòa khi các quân nhân Việt Nam Cộng Hòa tước khẩu AK của chiến binh cộng sản Bảy Lốp
    [​IMG]
    dẫn Bảy Lốp đến gặp Tướng Tư Lệnh Cảnh Sát Việt Nam Cộng Hòa Nguyễn Ngọc Loan, và viên tướng này rút súng chỉa vào thái dương Bảy Lốp mà bóp cò trước anh mắt kinh ngạc của những quân nhân, và mặc cho có sự có mặt của phóng viên nước ngoài
    [​IMG]
    viên tướng lạnh lùng cất súng vào bao lúc Bảy Lốp ngả vật xuống đường, tay vẫn còn bị trói thúc ké sau lưng trong tư thế một tù binh chiến tranh
    [​IMG]
    Thế đấy, trong khi những người cộng sản ViệtNambiết tuân thủ các công ước quốc tế về tù binh chiến tranh thì các chiến binh của họ đã không được kẻ thù đối xử tương tự. Họ: những kẻ cho mình là người, và xem kẻ thù là súc vật, khiến bức ảnh sau trên tạp chí Life số ra ngày 26-11-1965 đã khiến người dân các nước trên thế giới phản đối
    [​IMG]
    Sau khi xảy ra vụ tồi tệ tại Mỹ Lại, Mỹ đã phủ nhận “quá khứ”, để rồi tháng 4 năm 2012 này lại phải đối mặt với vụ tồi tệ mà các binh sĩ Mỹ đã gây ra với tù binh và dân thường Afghanistan.
    [​IMG]
    Sau khi giết em Mudin, một thiếu niên đang chạy bộ kiếm mua thức ăn cho gia đình, các quân nhân Mỹ đã lột trần truồng thi thể của Mudin. Andrew Holmes và Jeremy Morlock thay phiên nắm tóc dựng đầu xác chết của Mudin, một thiêu niên trên đường chạy mua thức ăn đã bị trúng đạn lạc. Việc chụp hình như một chiến công đã bắn hạ một quân phiến loạn tức một con vật. Tệ hại hơn, Holmes đã cắt mấy ngón tay của cậu bé Mudin, cất vào túi có dây kéo và bảo chiến hữu rằng sẽ phơi khô đem về làm bộ sưu tập sau này.
    [​IMG][​IMG]
    Morlock còn khét tiếng với màn chụp hình vui vẻ với vài trẻ em Afghanistan dạn dĩ rồi lên xe quân sự Stryker vừa lái vừa ném kẹo để các trẻ này cùng rất đông trẻ em rụt rè khác túa ra từ nhà dân lượm kẹo, còn Morlock xả súng sát hại các bé này, trong khi chiến hữu khác cho xe Stryker cán dày xéo lên người các em.
    [​IMG]
    Andrew Holmes, Michael Wagnon, Jeremy Morlock và Adam Winfield đã làm ô danh nước Mỹ và tất nhiên nếu luật pháp Mỹ tha tội cho chúng như đã từng tha tội cho những kẻ gây ra cuộc thảm sát ở Mỹ Lại (Việt Nam), thì chúng cũng sẽ kết thúc phần đời còn lại trong tủi nhục vì bị khinh rẻ bởi người dân Mỹ chân chính. Nhưng chính quân đội Mỹ mới phải chịu phần trách nhiệm lớn nhất vì đã đào tạo ra những anh hùng cá nhân bịnh hoạn, không mô phỏng mô hình giáo dục quân đội cộng sản Việt Nam, nơi đào tạo ra những chiến binh anh hùng cách mạng. Ngay từ ngữ phân trần của tư lệnh Mỹ tại Afghanistan rằng quân nhân Mỹ được học điều lệnh rằng phải handle remains (xử lý xác hoặc phần thi thể còn lại) của quân thù một cách nhân văn nhất có thể được mà không hiểu rõ tiếng Mỹ tiếng Anh rằng “handle” không mang nội hàm duy chỉ có nghiêm túc, còn “nhất có thể được” luôn mang nội hàm không bao giờ cao nhất, không bao giờ tốt nhất, và thậm chí có cũng được mà không thì cũng chẳng hề chi. Một quân đội lại dùng thứ tiếng Anh thô thiển đầy sai sót như thế trong quân lệnh, thì sao lại có thể trách các binh sĩ nếu họ đột xuất thành thú vật như người sói lúc tròn trăng?

    Vì sai lầm muốn hạ “Bắc Việt” bằng mọi giá, năm 1974 Mỹ đã làm ngơ để các chiến hạm Việt Nam Cộng Hòa bị Trung Quốc đánh tan tác, binh sĩ Việt Nam Cộng Hòa bị Trung Quốc sát hại, và Quần Đảo Hoàng Sa bị chiếm đóng, nhằm làm Bắc Việt hoặc phải lo đánh nhau với Trung Quốc không thể chống cự lại Mỹ, hoặc mang tiếng “bán nước” vì để yên cho Trung Quốc xâm chiếm Hoàng Sa. Sai lầm này của Mỹ đã khiến Trung Quốc chiếm ưu thế mưu bá đồ vương làm chủ Biển Đông, về sau đe dọa an ninh các quốc gia đồng minh của Mỹ trước kia thuộc khối quân sự SEATO tức Tổ Chức Liên Phòng Đông Nam Á, cái tổ chức đã tan rã với sự tháo chạy của Mỹ, và kết hợp lại với Việt Nam thành khối kinh tế ASEAN ngày nay, mà Mỹ dù nuốn quay lại cũng đã muộn trước thế lực hải quân hùng mạnh của Trung Quốc.

    Vì sai lầm muốn hạ Việt Nam cộng sản bằng mọi giá, thay vì nhanh chóng thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam, viện trợ Việt Nam, bồi thường chiến phí, giúp Việt Nam nhanh chóng giàu mạnh như Nhật Bản để bảo vệ an nguy cho toàn vùng Đông Nam Á vốn toàn là đồng minh của Mỹ, cho phép Mỹ sử dụng căn cứ hải quân Cam Ranh, cho phép chiến hạm Hoa Kỳ ngang dọc Biển Đông triệt tiêu tham vọng của Trung Quốc tràn xuống phương Nam chiếm đóng Đông Nam Á và xâm lược Châu Đại Dương cùng Châu Nam Cực, Mỹ vừa bật đèn xanh tuyên bố ủng hộ Trung Quốc ồ ạt tấn công Việt Nam năm 1978, vừa bao vây cấm vận kinh tế Việt Nam, khiến Việt Nam chậm phát triển hơn trong thời điểm Trung Quốc phát triển nhanh hơn, và nay đe dọa uy thế của chính Hoa Kỳ, hù dọa các nước Đông Nam Á, thách thức sức mạnh hải quân Mỹ trong khu vực trọng yếu này của thế giới.

    Vì tất cả những sai lầm trên, việc đầu tiên Mỹ có thể nhanh chóng sửa sai là giáo dục lại quân đội Hoa Kỳ về nhân quyền, để họ biết phân biệt thế nào là văn minh và mọi rợ, thế nào là chiến binh anh hùng và sát thủ chuyên nghiệp, nhất là thế nào là danh dự quốc gia vốn là điều mà binh sĩ Hoa Kỳ hầu như không biết đến; đồng thời, các tướng lĩnh Mỹ phải rà soát lại các điều lệnh, sử dụng những nội dung tiếng Anh mang nội hàm rõ ràng, minh bạch, nhằm triệt tiêu bất kỳ sự vi phạm nào mang tên do-không-hiểu-biết hoặc tại-bị-vì-bởi-ngôn-ngữ-chứa-sẵn-lời-động-viên-làm-bậy. Nếu không chấn chỉnh, sự có mặt của Hoa Kỳ ở Biển Đông thay vì đáp ứng sự kỳ vọng của người dân ASEAN, hành vi thú tính mất dạy về nhân quyền của binh sĩ Mỹ sẽ đưa Mỹ lâm vào bước đường mạt vận với các hạm đội Trung Quốc từ phương Bắc tràn xuống và các chiến binh Hồi giáo cảm tử Indonexia tức giận vì thi thể chiến hữu bị làm nhục sẽ từ phía Nam đánh lên bằng xuồng cao tốc.

    Hãy học hỏi ViệtNam về nhân quyền để đừng bị lời nguyền lập lại sự thất trận của quá khứ.
    “Those who do not remember the past are condemned to repeat it”
    JORGE AUGUSTÍN NICOLÁS RUIZ DE SANTAYANA Y BORRÁS
    Hãy đừng bao giờ quên vinh danh chiến thắng của ViệtNamđể được ban phúc được hưởng niềm vui tương tự
    “Those who do not forget to pay homage to the victory of Vietnam are blessed to enjoy the same”

    TANNHAUSER BEOWULF THOR HOANG HUU PHUOC
    [​IMG]
    Hoàng Hữu Phước, Thạc-sĩ Kinh-doanh Quốc-tế
    Máy nhắn tin: 0988898399
    Email cá nhân: hhphuoc@yahoo.com
  9. MrKhuKhoam

    MrKhuKhoam Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    12/04/2011
    Bài viết:
    4.334
    Đã được thích:
    1.180
    Học sinh Mỹ học gì về cuộc chiến tranh Việt Nam?

    Cuốn sách THE AMERICANS – The History of a People and a Nation cho biết học sinh Mỹ được học như thế nào về sai lầm không gì khắc phục nổi của những ông chủ Nhà Trắng.
    [​IMG] ảnh trang 698 với ghi chú: “Cảnh hàng ngày ở Việt Nam. Lính Mỹ khiêng đồng đội bị thương tới máy bay trực thăng”



    Cuốn sách được một người bạn từ Mỹ, gửi cho chúng tôi khi đang nỗ lực tìm những tài liệu hỗ trợ cho vụ kiện các Cty Hóa chất Mỹ của nạn nhân da cam Việt Nam.

    THE AMERICANS – The History of a People and a Nation (tạm dịch: Người Mỹ – Lịch sử về một quốc gia, một dân tộc) cho biết học sinh Mỹ được học như thế nào về sai lầm không gì khắc phục nổi của những ông chủ Nhà Trắng – những kẻ luôn tin rằng đạn bom sẽ mang lại chiến thắng cho các cuộc xâm lược;Trong trường học Mỹ, sự thật về tác hại của chất độc da cam có bị che đậy bưng bít và phủ nhận không.


    THE AMERICANS – The History of a People and a Nation dày 821 trang, in trên giấy đẹp, có nhiều ảnh màu minh họa, do nhà xuất bản SRA (thuộc tập đoàn IBM) xuất bản năm 1982, được sử dụng giảng dạy cho học sinh các trường phổ thông trung học tại Hoa Kỳ từ đó đến nay.



    Cuốn sách “THE AMERICANS – The History of a People and a Nation”

    Đồng tác giả :[​IMG]

    +Mr. Winthrop Jordan – Tiến sỹ lịch sử, giảng dạy tại trường đại học Berkeley – California từ năm 1963. Ông từng nhận 4 giải thưởng quốc gia cho cuốn sách Trắng lấn át Đen (White over Black) viết về sự phân biệt chủng tộc, nỗi khổ của người da đen từ năm 1550 đến 1820.



    + Mrs. Miriam Greenblatt- Chuyên gia tư vấn chương trình giáo dục. Bà đã viết hơn 25 chương trình Xã hội học cơ bản cho các cấp trung học cơ sở và trung học phổ thông.



    + Mr. Jonh S.Bowes – Trưởng ban Xã hội học trường Trung học Bayport, tác giả các cuốn sách Về nguồn Hoa Kỳ, Khám phá quá khứ của chúng ta, Lịch sử Hoa Kỳ.



    Cuốn sách thể hiện lịch sử Hoa Kỳ từ lúc những người châu Á cổ đại di cư sang châu Mỹ (20.000 – 40.000 năm trước) cho đến đầu những năm 1980. Để chuyển tải được chừng đó nội dung, nhóm sử gia đã nén các sự kiện lại khá chặt.



    Họ dành 2 trang để giới thiệu lịch sử Việt Nam trước khi xảy ra cuộc chiến kéo dài nhất trong lịch sử nước Mỹ. Phần này nhấn mạnh nước Việt luôn phải đối mặt với chiến tranh để giành độc lập.



    Tóm tắt những cuộc khởi nghĩa của Bà Trưng, Bà Triệu, Ngô Quyền chống lại nhà Hán; kháng chiến chống thực dân Pháp; Tinh thần tranh đấu của người Việt để bảo vệ bản sắc văn hóa dân tộc trong suốt 1.000 năm Bắc thuộc và 100 năm người Pháp xâm chiếm
  10. giacaymamtep

    giacaymamtep Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    03/10/2008
    Bài viết:
    1.390
    Đã được thích:
    5
    Người cao tuổi tại nước Mỹ

    Người Việt ở Mỹ có một câu nói: Mỹ là thiên đường giới trẻ, địa ngục giới già. Mỹ có tất cả những sản phẩm dành cho thanh thiếu nhi: đồ chơi, phim ảnh, máy chơi điện tử thính thị, khu giải trí có chủ đề (theme parks). Còn đối với người già, thì chỉ có sự cô lập và nỗi cô đơn. Tại Mỹ, càng già càng mất mát nhiều – bạn bè, thân nhân, trí nhớ, khả năng di chuyển, và ý nghĩ của chính mình.

    Tại các quốc gia phát triển, như Hoa kỳ, nhu cầu công ăn việc làm đã khiến gia đình phân tán, trái ngược với tình trạng các gia đình sinh sống gần gũi nhau trong các trang trại lớn vào đầu thế kỷ 20. Do đó, đa số người già thường sống cô đơn trong ngôi nhà mà họ đã tạo lập từ thuở trung niên. Con cái họ thường là ở xa, có khi cách cả hàng ngàn cây số.

    Bạc đãi người cao tuổi là một vấn đề thường xẩy ra trong mọi xã hội, nhưng người ta hay tránh né, không muốn nói tới hoặc tìm hiểu thêm. Nhiều người lại không tin, cho là làm gì có chuyện bạc đãi đó.



    Thực tế thì riêng tại nước Mỹ, hàng năm có cả từ nửa triệu tới một triệu người già bị bạc đãi, nhưng rất ít trường hợp được phát giác. Trong tương lai, con số này sẽ cao hơn vì tổng số những người cao tuổi trên khắp thế giới mỗi ngày mỗi gia tăng.

    Theo định nghĩa chung, bạc đãi người già là một sư cố tình đối xử tàn tệ và gây thiệt hại về tinh thần lẫn thể xác cho nhóm người này. Sự bạc đãi có thể xẩy ra một lần hoặc tái diễn.
    Đôi khi, hành động không tốt xẩy ra vì vô tình, vì không hiểu biết thấu đáo cách săn sóc người cao tuổi vốn đã có sức khỏe kém, sống phụ thuộc vào người khác.

    Nạn nhân của sự lạm dụng thường thường là ở lứa tuổi trên 60 nhiều nhất là tuổi 80. Nạn nhân nữ nhiều hơn nam, da trắng nhiều hơn dân da mầu. Người già gốc Á Châu được coi là ít bị ngược đãi, có lẽ nhờ con cháu còn giữ được truyền thống nhớ ơn và phụng dưỡng các đấng sinh thành.



    Đa số nạn nhân đều suy yếu về sức khỏe thể xác, có một vài rối loạn về tâm thần. Họ cũng có khó khăn về vấn đề tài chánh, nhiều khi phải phụ thuộc vào thân nhân. Họ thường sống xa với xã hội, đôi khi sợ bị bỏ rơi nên cắn răng chịu đưng, không dám than phiền.

    Người lạm dụng, bạc đãi phần lớn lại là thân nhân, và sự bạc đãi thường hay xảy ra ở ngay trong môi trường gia đình. Theo kết quả một nghiên cứu được công bố năm 1998 ở Hoa Kỳ, thì tỷ lệ con cái bạc đãi cha mẹ lên đến 43%; vợ chồng già đối xử không tốt với nhau là 30%.



    Một điểm đặc biệt, theo nghiên cứu này, thì sự bạc đãi ở ngoài gia đình ( nhà người già, viện điều dưỡng người cao tuổi, chương trình sinh hoạt ban ngày, trong các trung tâm sinh hoạt cộng đồng..) lại rất thấp và số nam giới đối xử xấu với người nữ nhiều hơn.

    Với người cao tuổi nhận sự chăm sóc của thân nhân, con cái thì ta thấy có nhiều lý do đưa đến sự bạc đãi: người chăm sóc quá kiệt sức, bị căng thẳng vì hàng ngày phải liên tục lo lắng cho người già mà không được nghỉ ngơi, không có sự tiếp tay của người khác; có khó khăn về kinh tế; sợ mất việc vì phải bỏ nhiều thì giờ nghỉ ở nhà để chăm sóc người thân nên chuyển sự bực bội sang họ; sống chung trong một căn nhà nhỏ hẹp không đủ chỗ cho mọi người; thấy mình như bị bắt buộc phải lãnh trách nhiệm lo cho người thân mặc dù hoàn cảnh không cho phép. Đôi khi chính người chăm sóc lại có vấn đề với rượu chè, hút sách, có rối loạn tâm thần hoặc cũng đã từng bị bạo hành khi còn nhỏ.


    Trong nhà dành cho người cao tuổi thì sự đối xử không tốt thường xẩy ra khi nhân viên làm việc quá sức, làm việc nhiều giờ liên tục lại không được trả lương thỏa đáng; bực mình vì sự ngang bướng, cứng đầu , đòi hỏi quá đáng của người già. Đôi khi nhân viên làm việc kém chu đáo vì không được huấn luyện cách chăm sóc những người đã già mà lại có sức khỏe suy nhược.

    Các hình thức bạc đãi:


    1-Về thể xác:


    Đụng chạm, tiếp cận tới cơ thể nạn nhân một cách không thích hợp như là cắn, đánh, đấm, đạp, tát , xô đẩy người cao tuổi. Với sự lạm dụng này, nạn nhân có thể mang nhiều thương tích trên mình như các vết bầm, vết cắt, sưng trên da; vết da cháy phỏng do đầu thuốc lá, hóa chấtù; thương tích không biết lý do như gẫy xương, bầm trên mắt, vết cào cấu trên da.


    Nhiều nạn nhân gầy ốm vì thiếu ăn, khô nước vì bị bỏ đói khát.Trong trường hợp này, người lạm dụng thường hay kiếm cách che đậy, không đưa nạn nhân đi nhà thương, không cho thân nhân thăm người già riêng rẽ; ấp úng không giải thích được những dấu hiệu thương tích trên người nạn nhân. Nạn nhân thì lo sợ, không dám nói ra và còn tìm cách tránh né bạn bè, thân nhân.


    2- Lạm dụng ********:


    Người già bị lợi dụng để ******** dưới nhiều hình thức mà không có sự đồng ý như hãm hiếp, sờ soạng...Nạn nhân có mang các thương tích nơi cơ quan sinh dục, ngực; quần áo bị sé rách vớí nhiều vết máu; đi lại, đứng ngồi khó khăn. Nạn nhân thường sợ hãi khi phải đối diện với người khác phái.
    3- Hành hạ tâm thần:


    Dùng những lời nói cay nghiệt, lăng mạ, làm nhục, làm mất uy tín, mất tự tin, đe dọa, gây sợ hãi, cô lập nạn nhân. Trước những hoàn cảnh này, nạn nhân thấy bất lực, lo sợ, buồn rầu, tự cô lập vì sợ hãi. Đôi khi họ trở nên mất định hướng, rối loạn, không nói lên , không diễn tả được tâm trạng lo âu của mình.


    4- Lợi dụng tiền nong:


    Khi được người thân tín nhiệm giao cho việc quản trị chi thu thì lại lạm dụng, ăn bớt ăn sén, biển thủ, mạo chữ ký, lấy trộm, dối trá mua một nói mười để thủ lợi. Vì lòng tham, đôi khi không lo thực phẩm đầy đủ, bớt sén cung ứng các nhu cầu thường nhật nhưng vẫn kê khai chi tiêu lớn. Có trường hợp người lạm dụng còn làm những chuyện phi pháp như đổi di chúc, lạm dụng giấy ủy quyền để lấy phần lợi cho mình.

    Ngoài sự lạm dụng cố tình, đôi khi cũng có những lỗi lầm chăm sóc do chểnh mảng, do không biết tường tận tình trạng người già; do bị quá căng thẳng không có đủ thì giờ ngủ nghỉ.

    Sự lạm dụng ở nhà điều dưỡng người già cũng thường xảy ra và cũng có những hình thức như vừa kể cộng thêm việc cho người già dùng nhiều thuốc an thần hoặc trói buộc bằng dây để trấn áp người già. Khi vào thăm một số cơ sở điều dưỡng người cao tuổi, ta thấy các vị này ngủ nằm ngủ ngồi vì được cho uống thuốc ngủ ngõ hầu khỏi quấy rầy nhân viên.


    Theo lệ thường, người cao tuổi bị bạc đãi ít khi than phiền, tố cáo vì nhiều lý do.


    Một số cảm thấy ngượng ngùng, bối rối khi đề cập tới việc bị bạc đãi; một số ngại bị trả thù; một số không đủ khả năng để khai hoặc không ý thức được là mình đang bị đối xử tồi tệ.



    Một vài dấu hiệu có thể khiến ta nghi là có lạm dụng như nạn nhân có những thương tích không giải thích được; bệnh tình đột nhiên trầm trọng hơn, gầy yếu không lý do; vệ sinh cơ thể tồi tệ; sống cô lập, sợ sệt; mất định hướng, rối loạn tâm trí, hoang tưởng, buồn rầu trầm cảm.

    Sự đối xử tồi tệ với người cao tuổi đã được chính quyền các quốc gia lưu tâm và nạn nhân đã được luật pháp bảo vệ. Mới đây, tại tiểu bang California, cơ quan tư pháp đã mở cuộc kiểm tra các nhà điều dưỡng dành cho người già. Kết quả cho thấy 1/3 các cơ sở này đều có những vi phạm trầm trọng trong việc chăm sóc người cao tuổi.


    Riêng tại Hoa Kỳ, mỗi tiểu bang đều có biện pháp trừng trị kẻ lạm dụng ngưòi già. Nhân viên y tế nghi ngờ có dấu hiệu lạm dụng đều phải thông báo với nhà chức trách. Chính phủ cũng dành ngân khoản trợ cấp cho các tổ chức bảo vệ người già bị lợi dụng. Có những đường giây điện thoại khẩn cấp để giúp khám phá cũng như báo cáo khi có lạm dụng. Một số điện thoại miễn phí cho liên bang là số 800- 677. 1116. Vài tiểu bang còn có luật trừng phạt tù và tiền khi biết mà không báo cáo những trường hợp đối xử tồi tệ với người cao tuổi.


    Thêm vào đó, đa số người già ở đây đều trải qua nhiều cuộc hôn nhân trong đời, rất ít người sống cùng với người phối ngẫu nguyên thủy. Con cái nhiều dòng, con ông con bà, con chúng ta, khó có sự đoàn kết trong tình máu mủ ruột thịt.


    Nhận thức được sự khó khăn này, chính phủ Mỹ đã lập ra chương trình An Sinh Xã Hội, chương trình chăm sóc y tế miễn phí cho người già từ 65 tuổi trở lên ( medicare ). Chính phủ còn trợ cấp cho các chương trình giúp đỡ người già do các cộng đồng địa phương thực hiện. Các cộng đồng này điều hành nhiều trung tâm cao niên, cung cấp bữa ăn trưa với giá rẻ cho người già, cung cấp vài dịch vụ y tế căn bản như khám sức khoẻ, đo huyết áp, khám mắt, thử đường, cholesterol trong máu. Nhiều trung tâm còn tổ chức các cuộc giải trí lành mạnh, như thể dục thể thao, đi bộ, bơi lội, đi xe đạp v.v.



    Các trung tâm cao niên này đã tạo ra một môi trường làm vơi bớt nỗi cô đơn cuả họ.Các bữa cơm tập thể cũng cung cấp cho họ những chất dinh dưỡng căn bản hàng ngày. Một cuộc khảo sát về ích lợi của bữa ăn tập thể đối với người cao niên cho thấy họ có khả năng hấp thụ nhiều chất dinh dưỡng hơn người già dùng bữa ăn cô độc ở nhà. Có thể đây cũng là một yếu tố tâm lý chứng minh người già cần một môi trường gia đình hay đoàn thể để tâm hồn được ổn định, đưa đến sự cải thiện các chức năng cơ thể.


    Tóm lại, ở Mỹ người già có thể vừa trông cậy vào sự giúp đỡ của gia đình vừa dựa vào sự trợ giúp của chính phủ và cộng đồng xã hội, thế nhưng sự trông cậy này đang gặp khó khăn, người già ở Mỹ hiện nay ngoài bị bạc đãi, giờ đây còn phải đối mặt với sự vất vả, cái đói và sự cô đơn.


    Nỗi vất vả tuổi già của người cao tuổi tại các vùng nông thôn và cô lập khác trên khắp nước Mỹ ngày càng gia tăng. Cuộc sống của họ ngày một khó khăn hơn khi chịu tác động của suy thoái kinh tế và việc cắt giảm ngân sách dành cho người già diễn ra ở nhiều bang và địa phương tại nước này.


    Đài truyền hình CNN của Mỹ cho biết hệ thống Medicare (bảo hiểm xã hội dành cho người trên 65 tuổi hoặc người tàn tật dưới 65 tuổi ở Mỹ) sẽ cắt giảm 16 tỷ USD tiền trợ cấp cho các nhà dưỡng lão trong 10 năm tới, khiến những cơ sở này phải giảm nhân viên cũng như các dịch vụ dành cho người già.

    Ngoài việc bị giảm trợ cấp từ chính quyền liên bang, các nhà dưỡng lão còn bị giảm nguồn tài chính từ chính quyền tiểu bang.


    Theo báo cáo gần đây của một tổ chức nghiên cứu ở Washington, ít nhất 24 bang đã cắt giảm những chương trình như vậy và hàng trăm triệu USD dự kiến sẽ bị cắt giảm vào năm tới. Những khó khăn này dễ nhận thấy tại khu vực nông thôn ở Mỹ bởi vì dữ liệu điều tra dân số cho thấy những khu vực già hóa nhanh nhất cả nước lại không phải những nơi có nhiều người về hưu mà là những khu vực hẻo lánh.



    Tại đó, trong nhiều thập kỷ, thanh niên thường thoát ly đi học hoặc kiếm việc làm, phần lớn không trở về quê. Những người già ở lại ngày càng bị cô lập và lâm vào cảnh khó khăn. Giao thông công cộng gần như không có, trong khi chăm sóc y tế nơi có nơi không và dịch vụ điện thoại không mấy tin cậy. Thậm chí, dịch vụ Internet không đảm bảo khiến cảm giác xa cách giữa họ và con cháu cũng như thế giới bên ngoài ngày càng lớn dần.


    Trong khi người già ở khu vực nông thôn ngày càng khó khăn thì việc cắt giảm trợ cấp khiến hệ thống nhà dưỡng lão ở Mỹ đang có nguy cơ sụp đổ, có thể đẩy hàng nghìn người cao tuổi Mỹ vào cảnh không nơi nương tựa. Tính đến năm 2008, 1,85 triệu người cao tuổi ở Mỹ sống trong 16.000 nhà dưỡng lão.



    Theo Hiệp hội chăm sóc người cao tuổi Mỹ, các nhà dưỡng lão tại nước này hiện đang chịu sức ép lớn về ngân sách. Ngoài việc bị giảm trợ cấp từ chính quyền liên bang, các nhà dưỡng lão còn bị giảm nguồn tài chính từ chính quyền tiểu bang. Hệ thống Medicare (bảo hiểm xã hội dành cho người trên 65 tuổi hoặc người tàn tật dưới 65 tuổi ở Mỹ) sẽ cắt giảm 16 tỷ USD tiền trợ cấp cho các nhà dưỡng lão trong thập niên tới.



    Điều này dẫn đến việc các nhà dưỡng lão phải cắt giảm nhân viên và các dịch vụ khác. Trong khi quy mô hệ thống nhà dưỡng lão thu hẹp dần, số người già trên 65 tuổi ngày càng tăng và sẽ vượt qua con số 60 triệu người trong vòng 10 năm tới do sự bùng nổ thế hệ sinh ra sau Thế chiến II.



    Trong khi đó, theo kết quả khảo sát tại hơn 30 bang ở Mỹ của Experience Works, một tổ chức phi lợi nhuận tại Mỹ, 46% người cao tuổi được hỏi cho biết, họ phải đi tìm kiếm việc làm vì không còn sự chọn lựa nào khác khi các hóa đơn tiền thuê nhà, thực phẩm hoặc chi phí thuốc thang cần thanh toán cứ được gửi đến hàng tháng.



    Gần 3/4 trong số những người già được hỏi đều thừa nhận tuổi tác là một trong những yếu tố khiến họ khó có thể cạnh tranh khi xin việc so với những người lao động ít tuổi hơn.

    Với người lớn tuổi ở đô thị, nhật báo Wall Street cho biết trong một thống kê, số người lao động trên 75 tuổi ở trong tình trạng thất nghiệp ở Mỹ đang lên tới 73.000 người - tăng gần gấp rưỡi so với một năm trước.

    Trong năm 2008 những tiểu bang Rhode Island có tỷ lệ những người trên 65 tuổi thất nghiệp cao nhất, 7.7 và 7,6%; California đứng hạng cao, 5.5%, trong khi số trung bình toàn quốc là 4.2% mà tới đầu năm 2009 đã lên 5.7%, thấp hơn tỷ lệ thất nghiệp chung ở Mỹ là 7.6%. So sánh hai tỷ số đó, chúng ta có cảm tưởng người “già” không bị thất nghiệp nhiều như người trẻ. Nhưng thực ra tỷ số thấp hơn có thể chỉ vì đại đa số những người trên 65 tuổi mà bị mất việc thì biết thân tự nguyện ra khỏi thị trường nhân dụng, không đi tìm việc nữa và không được đếm nữa!

    Tỷ lệ thất nghiệp của những người trên 65 tuổi đầu năm nay đã tăng hơn một phần ba so với cũng tỷ lệ đó trong thời kỳ kinh tế suy thoái nặng vào năm 1981, khi đó chỉ có 4.3%. Nhưng tình trạng gia tăng này cũng không có nghĩa là người già đang thua thiệt hơn thời xưa. Chẳng qua chỉ vì từ mười năm nay số người trên 65 tuổi vẫn còn đi làm tăng lên, cho nên khi kinh tế xuống, tỷ lệ thất nghiệp cũng cao hơn. Mười năm trước, trong lực lượng lao động ở Mỹ chưa tới 12% người trên tuổi 65, nhưng hiện nay họ chiếm gần 17%. Lớp người lao động trên 75 tuổi chỉ chiếm dưới 5% mười năm trước đây, giờ đã lên tới hơn 7% lực lượng lao động cả nước!

    Người già ở Mỹ khó kiếm việc hơn, những người trên 55 tuổi trung bình mất việc 25 tuần sau mới tìm lại được việc làm (nửa năm trời). Những người dưới tuổi đó trung bình chỉ đợi 19 tuần đã kiếm được việc.

    Tình trạng con cái lãng quên chăm sóc cha mẹ khi về già đã trở thành vấn đề của xã hội Mỹ. Hơn 8 triệu người cao tuổi tại Mỹ đang phải đối mặt với cái đói, chủ yếu do sự bỏ bê chăm sóc của con cái.

    Đói thực sự đang là một vấn đề ngày càng gia tăng đối với hàng triệu người già trên khắp nước Mỹ. Sau những cánh cửa khép kín, rất nhiều người đã bị cách ly hẳn với thế giới bên ngoài. Mỗi ngày, 5.000 chương trình từ thiện trên toàn nước Mỹ đang mang tới hơn 1 triệu suất ăn, nhưng với những cao tuổi, con số đó có nghĩa là chỉ một bữa ăn mỗi ngày. Một nghiên cứu mới đã chỉ ra rằng, còn cần thêm rất nhiều những suất ăn như vậy nữa.

    Bà Enid Borden, quản lý chương trình lương thực cho người già nói: “Chúng tôi nhận thấy có 8,3 triệu người cao tuổi ở Mỹ đang đối mặt với mối đe dọa của cái đói. Một con số khó tin, trong đó 60% là phụ nữ”.

    Các tổ chức xã hội ước tính, họ phải cần thêm 3,3 triệu bữa ăn từ thiện mỗi ngày thì mới đủ cung cấp cho những người đang phải đối mặt với nguy cơ đói. “Đó là điều ước của tôi. Tôi mong rằng những người Mỹ hãy dành một phút suy ngẫm về những người mẹ, những đang ở một mình, cô đơn và bị bỏ đói…” - bà Mary, 78 tuổi nói.

Chia sẻ trang này