1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Tình hình bạo loạn tại Luân đôn

Chủ đề trong 'Kỹ thuật quân sự nước ngoài' bởi alsou, 09/08/2011.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. saruman

    saruman Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    31/07/2006
    Bài viết:
    1.684
    Đã được thích:
    140
    Xem bài trên.

    Có gì để cãi cố nốt thì nhanh lên, sắp đến giờ làm rồi[:P]
  2. vuhuynh

    vuhuynh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    19/10/2004
    Bài viết:
    761
    Đã được thích:
    72
    Phúc lợi xã hội của bạn chỉ bao gồm bảo hiểm y tế và bảo hiểm xã hội thôi hả? Bạn có chắc 100% bảo hiểm y tế và bảo hiểm xã hội ở VN thu từ người dân đủ để chi không?:-"[/QUOTE]

    ODA cho y tế : đã bao giờ đi bệnh viện hay đưa người nhà đi viện chưa hả, có biết người ta sợ đi viện nhất là sợ gì hem : hóa đơn thanh toán. Bảo hiểm chịu 1 phần, tùy loại 30%, 70%... còn lại móc tiền túi ra.

    ODA cho giáo dục : trước giờ đi học có mất đồng nào hem :-w

    ODA cho cấp thoát nước : bộ toàn tắm sông tắm hồ hay sao mà không mất tiền vậy

    ...........
  3. phuocrautdm

    phuocrautdm Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    23/12/2008
    Bài viết:
    1.649
    Đã được thích:
    0
    Tôi nói lại một lần nửa! Bạn không thể tính IRR và NPV cho những dự án không có thu! Đối với những dự án có thu nó chỉ là tính toán cho tương lai! Bạn không thể áp dụng nó để tính hiệu quả đầu tư ODA cho toàn xã hội!
  4. saruman

    saruman Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    31/07/2006
    Bài viết:
    1.684
    Đã được thích:
    140
    Đành phải copy lại vậy. Có vẻ cậu chỉ biết nói vung tĩ mẹt mà cóc thèm đọc xem đối thủ của cậu viết những gì[:P]

    "Hố hố, có câu nào tớ tuyên bố IRR, NPV dùng cho mọi TH chưa, đừng nhét chữ vào mồm người khác[:P] Mục đích là chứng minh câu "ICOR là chỉ tiêu hiệu quả nhất khi xét ODA" là sai, và đã CM xong, thế thôi nhể;))"

    Tớ đảm bảo, với khả năng logic có hạn mà tạc đạn có thừa này, cậu không thể qua nổi vòng phỏng vấn ở bất kỳ cơ quan nào=))
  5. phuocrautdm

    phuocrautdm Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    23/12/2008
    Bài viết:
    1.649
    Đã được thích:
    0
    Tôi mệt với bạn quá! Phúc lợi xã hôi không chỉ có bảo hiểm. Như bạn bỏ tiền làm đường giao thông nông thôn, làm hệ thống cấp nước cho khu vực miền núi... bạn có tính được số tiền mà bạn thu về không? Tôi dám khẳng định bên bảo hiểm mỗi năm chính phủ vẫn phải chi ngân sách ra để bù vào quỹ bảo hiểm vì thu không đủ chi! Cái số thu ở đây là thu từ phí bảo hiểm và phí 30%... mỗi lần người dân đi khám chữa bệnh!
    -----------------------------Tự động gộp Reply ---------------------------
    [​IMG]
  6. darkpanther

    darkpanther Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    12/07/2009
    Bài viết:
    701
    Đã được thích:
    7
    Có ngân lưu thì tính NPV, IRR thỏai mái, không thu thì nó ra âm chứ có gì mà không tính được. Tuy nhiên đúng là dự án phúc lợi thì NPV thường là âm nên không có ý nghĩa lắm.
  7. killaruan

    killaruan Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    12/07/2009
    Bài viết:
    366
    Đã được thích:
    0
    Hết bạo loạn tới vùng cấm bay London, bà già độc tài, thủ tướng, ODA, ICOR, IRR rồi NPV. Không biết cái thớt này thành cái gì:))
  8. doandonga

    doandonga Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    05/09/2008
    Bài viết:
    1.353
    Đã được thích:
    6
    Quân Anh giết ai chưa ?????, ko có Quân Anh vào giải giáp còn lâu bọn Nhật điên mới đầu hàng, rồi chưa nói đến tụi Tàu Tưởng lăm le đô hộ nước ta nữa chứ, Quân Anh cũng phản chiến Tranh Việt Nam (bằng chứng rõ nhất là ko tham chiến đấy thôi), nhân dân Anh cũng đấu tranh cho VN còn gì !!!!!
    --------------------------------------------------------------
    Về đọc lại sử xem Douglas Davis Gracey đã "giải giáp" quân Nhật thế nào nhé, nhân tiện xem luôn ai ra lệnh cho Nhật ở Sài Gòn, Nha Trang đánh vào sau lưng bộ đội ta đi.

    Trước khi Gracey cùng với mấy thằng lính Anh-Ấn của cái 20th Indian Division vào được SG thì Nhật đã rúm tứ túc lại cả rồi, không có Gracey thì bố bảo Nhật cũng không dám đánh lại V.iệt M.inh.

    Đã dốt còn hay nói chữ![-X
  9. maison2510

    maison2510 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    05/01/2009
    Bài viết:
    1.046
    Đã được thích:
    735
    VÀI NÉT VỀ HỆ SỐ ICOR

    Các nhà quản lý vĩ mô Việt Nam thường lấy ICOR để đánh giá hiệu quả đầu tư nhưng thực ra ICOR (Incremental Capital Output Ratio) vừa là kết quả, vừa là hiệu quả, vừa là cơ sở để xây dựng kế hoạch đầu tư.
    ICOR xác định mức độ sử dụng vốn trong nền kinh tế. Những nước sử dụng nhiều vốn (thực chất là máy móc thiết bị, công nghệ) thì ICOR cao, những nước sử dụng nhiều lao động thì ICOR thấp. Việt Nam là nước sử dụng nhiều lao động nên ICOR phải thấp.
    Mặt khác ICOR xác định mối quan hệ giữa vốn - tư bản và đầu ra - GDP, nếu ICOR quá lớn thì chúng ta phải mất một lượng tư bản lớn để tạo ra một giá trị GDP gia tăng, ví dụ ICOR của chúng ta là 8 có nghĩa để tạo ra 1 đồng GDP gia tăng chúng ta phải đầu tư 8 đồng.
    Đây là một giá trị rất lớn ở Việt Nam . Điều này do nhiều nguyên nhân, cơ cấu đầu tư không hợp lý, quá trì đầu tư bị thất thoát, lãng phí, chất lượng công trình đầu tư kém - một cây cầu nếu chất lượng cao thì tồn tại hàng trăm năm, của chúng ta chỉ vài chục năm là đã trục trặc - điều này dẫn đến đầu tư của chúng ta không tạo cơ hội cho sự phát triển, đặc biệt là phát triển bền vững.
    Hiện nay, hệ thống chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sản xuất kinh doanh đang được các cấp, các ngành đặc biệt chú ý, trên bình diện quốc gia nó còn là những chỉ tiêu phản ánh lợi thế của mỗi quốc gia nhằm phản ánh khả năng cạnh tranh về kinh tế cũng như thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Trong các nhân tố tác động tới tăng trưởng kinh tế (lao động, vốn, tài nguyên thiên nhiên, công nghệ,…) ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay thì yếu tố vốn được coi là nhân tố quan trọng nhất. Do vậy trong bài viết này chúng tôi xin tập bàn về hiệu quả của yếu tố vốn và tác động của nó đối với tăng trưởng kinh tế nói chung. Một trong những chỉ tiêu phản ánh hiệu quả của vốn đó là hệ số ICOR (Incremental Capital Output Ratio - Tỷ số vốn /sản lượng tăng thêm).
    1. Phương pháp tính hệ số ICOR
    Hệ số ICOR phản ánh quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và đầu tư (mô hình Harrod - Domar). Tính hệ số này dựa trên các giả định chủ yếu sau:
    - Nền kinh tế luôn cân bằng ở dưới sản lượng tiềm năng. Để có thể huy động được các nguồn lực dư thừa cần phải đầu tư để mở rộng quy mô sản xuất.
    - Công nghệ không đổi, sự kết hợp giữa vốn và lao động được thực hiện theo một hệ số cố định.
    Hệ số ICOR (k) là chỉ tiêu phản ánh hiệu quả của vốn đầu tư, nó được xác định theo công thức:
    k = DK/DY
    Trong đó:
    DK mức thay đổi vốn sản xuất
    (DK = Kt – Kt-1)
    DY là mức thay đổi về kết quả sản xuất và DY = Yt – Yt-1, ở đây t chỉ năm nghiên cứu và t - 1 chỉ năm trước năm nghiên cứu.
    Ý nghĩa của k là để tạo thêm được một đơn vị kết quả sản xuất thì cần tăng thêm bao nhiêu đơn vị vốn sản xuất. Hay nói cách khác, k là “giá” phải trả thêm cho việc tạo thêm một đơn vị kết quả sản xuất. Hệ số ICOR càng lớn chứng tỏ chi phí cho kết quả tăng trưởng càng cao nó phụ thuộc vào mức độ khan hiếm nguồn dự trữ và tính chất của công nghệ sản xuất; ở các nước phát triển hệ số ICOR thường cao hơn ở các nước đang phát triển và ở mỗi nước thì hệ số ICOR luôn có xu hướng tăng lên tức là khi kinh tế càng phát triển thì để tăng thêm một đơn vị kết quả sản xuất cần nhiều hơn về nguồn lực sản xuất nói chung và nhân tố vốn nói riêng và khi đó đường sản lượng thực tế gần tiệm cận với đường sản lượng tiềm năng. Điều này được giải thích bằng quy luật lợi ích cận biên giảm dần theo quy mô.
    Công thức tính rất đơn giản nhưng thành phần cấu tạo công thức thì rất khó xác định. Yếu tố DY thì có trong số liệu niên giám thống kê, vấn đề là xác định được mức tăng lên của vốn sản xuất.
    Để tính được DK chúng ta phải hiểu rõ nội dung của chỉ tiêu vốn sản xuất. Vốn sản xuất là giá trị các tư liệu vật chất tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất và dịch vụ của nền kinh tế, bao gồm vốn cố định (công xưởng, nhà máy, trụ sở cơ quan, trang thiết bị, cơ sở hạ tầng) và vốn lưu động (có cả hàng tồn kho) và các vốn đầu tư khác.
    Vốn sản xuất được đánh giá ở góc độ hiện vật, thể hiện năng lực sản xuất, chỉ tính phần hiện còn tức là phần được tích luỹ lại và chỉ tính những tài sản có liên quan trực tiếp đến sản xuất và dịch vụ.
    Như vậy DK là phần tăng thêm trong năm bằng số vốn có đến cuối năm trừ đi số vốn có đầu năm hay bằng phần đầu tư mới, sửa chữa, đưa thiết bị vào sản xuất,... trừ đi phần giảm trong năm bao gồm khấu hao tài sản cố định, hư hỏng,...
    Trong thực tế việc xác định vốn có đến cuối mỗi năm là rất khó khăn (bởi phải kiểm kê đánh giá lại tài sản hàng năm) hoặc xác định số tăng và giảm trong năm rất khó đặc biệt là phần tài sản đưa vào sản xuất hoặc hư hỏng, cho nên người ta thay DK bằng chỉ tiêu vốn đầu tư phát triển được xem đó là số vốn tăng lên trong năm (chỉ tiêu vốn đầu tư phát triển trong năm có trong hệ thống số liệu thống kê hàng năm).
    2. Vận dụng chỉ tiêu ICOR xác định nhu cầu vốn và mục tiêu tăng trưởng
    Vì vốn đầu tư (I) có tác dụng tác động quyết định đến tăng trưởng kinh tế (g) và mức tiết kiệm (S) là nguồn gốc của đầu tư.
    Ta có: g = DY/Y, (trong đó Y là chỉ tiêu kết quả sản xuất - ở đây lấy chỉ tiêu GDP), nếu gọi S là mức tiết kiệm của nền kinh tế thì tỷ lệ tích luỹ trong GDP là: s = S/Y
    Vì tiết kiệm là nguồn gốc của đầu tư nên về mặt lý thuyết đầu tư luôn bằng tiết kiệm (S = I). Mục đích của đầu tư là tạo ra vốn sản xuất (I = DK)
    Từ công thức hệ số ICOR ta có:
    k= DK/DY = I/DY
    Vì g = DY/Y = (IDY)/(IY) = (I/Y):(I/DY)
    hay g = S/K
    Từ quan hệ trên ta, chúng ta có thể rút ra được hai điểm cơ bản sau:
    Một là: Xác định mục tiêu tăng trưởng kinh tế cho thời kỳ mới khi xác định được khả năng tiết kiệm của nền kinh tế thời kỳ gốc và dự báo hệ số ICOR thời kỳ kế hoạch là một trong những căn cứ quan trọng đối với các nhà hoạch định trong xây dựng chiến lược phát triển kinh tế, xã hội.
    Hai là: Khi đứng trước một mục tiêu tăng trưởng do yêu cầu của các cấp lãnh đạo đặt ra, mô hình cho phép chúng ta xác định được nhu cầu tích luỹ cần có để đạt được mục tiêu đó. Là căn cứ để đánh giá khả năng đạt mục tiêu đã đề ra
    Nhược điểm của ICOR:
    - Là một chỉ số đã được đơn giản hóa nên khó đánh giá các hiệu quả kinh tế - xã hội.
    - Đầu tư ở đây chỉ là đầu tư tài sản hữu hình, còn đầu tư tài sản vô hình, tài sản tài chính không được tính đến, nên phản ánh chưa trung thực ảnh hưởng của đầu tư tới thu nhập quốc dân.
    - Chỉ số này không biểu hiện được rõ ràng trình độ kỹ thuật của phía sản xuất, vì ICOR là tỷ lệ đầu tư/sản lượng gia tăng. Chẳng hạn một bên có kỹ thuật sản xuất kém hơn, với một lượng đầu tư tương đối cũng có thể cải thiện chỉ số ICOR xấp xỉ với bên có trình độ kỹ thuật cao hơn, do kỹ thuật càng cao thì càng chậm cải tiến.

    MỘT PHÂN TÍCH KHÁC VỀ ICOR:

    Giữa đầu tư và tăng trưởng kinh tế có mối quan hệ vận động và chuyển hoá. Mối quan hệ giữa đầu tư và tăng trưởng thường theo chiều thuận, nghĩa là đầu tư lớn thì tăng trưởng cao. Tuy nhiên cũng có những trường hợp diễn biến theo chiều ngược lại, đầu tư lớn mà không hiệu quả, hoặc lỗ nhiều. Có những trường hợp đầu tư chưa đem lại hiệu quả ngay như đầu tư vào các dự án trung và dài hạn, đầu tư vào cơ sở hạ tầng. Chính do đặc điểm có độ trễ trong hiệu quả đầu tư nên Hệ số ICOR thường được dự tính cho các kế hoạch phát triển dài hạn, thường là 5 năm.
    Mối quan hệ giữa đầu tư và tăng trưởng được thể hiện thông qua hệ số ICOR (Incremental Capital-Output Ratio). Hệ số ICOR là tỷ lệ vốn đầu tư so với tốc độ tăng trưởng (còn gọi là hệ số đầu tư tăng trưởng). Hệ số ICOR cho biết muốn có một đồng tăng trưởng thì phải cần bao nhiều đồng vốn đầu tư.
    Hệ số ICOR biểu hiện mối quan hệ giữa mức tăng sản lượng đầu ra (kỳ t) và mức đầu tư của kỳ (t-1) và được tính bằng công thức:
    Hệ số ICOR phụ thuộc vào nguồn dự trữ và công nghệ sản xuất. ICOR càng cao chứng tỏ đầu tư càng đắt. Hệ số ICOR ở một số nước có xu hướng tăng và ICOR ở các nước phát triển thường cao hơn ở các nước đang phát triển.
    Số liệu thống kê cho thấy hệ số ICOR thường nằm trong khoảng 3 và 4 trong thế kỷ 19, nhưng hệ số ICOR khác nhau đáng kể giữa các ngành kinh tế. Mức tăng trưởng tiềm năng được tính bằng cách chia tỷ lệ đầu tư cho hệ số ICOR. Ví dụ một nước dùng 12% tổng thu nhập vào đầu tư mới, và cần 3 đồng đầu tư để tăng 1 đồng kết quả/năm, khi đó tốc độ tăng trưởng sẽ là 4% (12%/3). Nếu hệ số ICOR cao hơn, giả dụ cần 4 đồng đầu tư mới để tăng 1 đồng kết quả/năm, khi đó mức tăng trưởng sẽ là 3% (12%/4). Cần lưu ý rằng một nền kinh tế mạnh thường “sống bằng” 80% kết quả, 20% còn lại có thể dùng để đầu tư mới và làm tăng mức tăng trưởng. Vì vậy một trong số nhân tố quyết định mức tăng trưởng là quy mô và sử dụng thặng dư xã hội.
    Nếu tốc độ tăng trưởng kinh tế không cao hơn tốc độ tăng dân số thì sản lượng bình quân đầu người không tăng. Nếu ta muốn tính tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân đầu người thì phải trừ đi mức tăng dân số từ mức tăng trưởng kinh tế. Vì vậy theo ví dụ trên mức tăng trưởng 4%, mức tăng dân số là 2% /năm sẽ có mức tăng trưởng trên 1 đồng đầu tư chỉ là 2%.
    Tăng trưởng kinh tế hoạt động như lợi ích kết hợp. Một nền kinh tế có sản lượng bình quân đầu người tăng ở mức 2%/năm sẽ gấp đôi sản lượng bình quân đầu người trong vòng 36 năm. Nếu tốc độ tăng giảm xuống còn 1,5%, sẽ cần 48 năm để gấp đôi sản lượng. Nếu tốc độ tăng trưởng tăng lên 2,5%/năm sẽ cần khoảng 29 năm. Vì vậy, việc tăng hoặc giảm tốc độ tăng trưởng có ý nghĩa khi xét tác động của nó trong vòng 3 hoặc 4 thập kỷ (nguyên tắc 72 là phương pháp nhanh nhất để tính tác động của tăng trưởng tích luỹ. Đơn giản, lấy 72 chia cho mức tăng trưởng hàng năm ta sẽ có kết quả là số năm cần để gấp đôi mức sản lượng bình quân đầu người).
    Vì vậy, quá trình phát triển kinh tế bắt đầu khi có đầu tư đủ để chuyển mức tăng trưởng kinh tế trên mức tăng dân số và duy trì được sự tăng trưởng. Rostow, một sử gia kinh tế đã phát triển thuyết “giai đoạn” phát triển kinh tế, ông gọi điểm bắt đầu quan trọng là giai đoạn “cất cánh” và từ cất cánh được sử dụng phổ biến. Tuy nhiên Rostow đã cố gắng để chứng tỏ rằng phần còn lại của quá trình phát triển kinh tế chắc chắn sẽ xảy ra (ít hoặc nhiều) khi giai đoạn “cất cánh” đã xảy ra, một gợi ý cho rằng từ “cất cánh” không hoàn toàn phù hợp với thực tế của lịch sử. Một nhà kinh tế khác gọi giai đoạn bắt đầu này là “sự đâm chồi”- bằng chứng của các dấu hiệu tăng trưởng đầu tiên.
    Cần xét đến một số khía cạnh ít mang tính số lượng hơn của việc tăng trưởng. Một thời kỳ dài của tăng trưởng bền vững dẫn đến sự tăng trưởng bình thường. Các nhà lập chính sách hy vọng sẽ có tăng trưởng liên tục và sẽ sửa đổi chính sách nếu không tăng trưởng. Nếu thặng dư xã hội, hệ số ICOR và mức tăng trưởng kinh tế kết hợp mang lại cho xã hội tốc độ tăng trưởng 0,5%/năm / vốn đầu tư tăng trưởng, điều chắc chắn là không một ai muốn có tốc độ tăng trưởng này. Nếu tốc độ tăng trưởng duy trì ở mức 0,5%/năm thì phải cần tới 144 năm để gấp đôi thu nhập từ 1 đồng vốn. [4].
    Ở góc độ toàn nền kinh tế, hệ số ICOR biểu hiện tỷ lệ vốn đầu tư so với tốc độ tăng trưởng GDP. ở nước ta tỷ lệ vốn đầu tư toàn xã hội so với GDP còn thấp so với các quốc gia trong khu vực. Vấn đề đặt ra là phải có các chính sách và biện pháp để tăng huy động vốn (cả về số lượng và tỷ lệ) và đặc biệt quan trọng là phải nâng cao hiệu quả quản lý và sử dụng vốn đầu tư.
    Hệ số ICOR năm 1991 của Việt Nam là 0,39, tức là để có 1 đồng tăng trưởng cần phải đầu tư 0,39 đồng vốn. Đến năm 2001, số liệu này là 3,82. Thực tế cho thấy càng tiếp cận sâu rộng với thị trường thế giới thì lợi thế cạnh tranh ban đầu sẽ giảm đi (tài nguyên phong phú, lao động rẻ). Nếu không phát huy được lợi thế cạnh tranh ban đầu và không tạo được những lợi thế cạnh tranh mới thì khó có thể đạt được mức tăng trưởng mong muốn.
    Đầu tư vốn cho khoa học công nghệ là một hướng đầu tư quan trọng và mang tính đặc thù. Vốn đầu tư cho công nghệ sẽ mang lại hiệu quả cao trong phát triển dài hạn, tuy nhiên đây cũng là lĩnh vực đầu tư có nhiều rủi ro. ở các nước mới thực hiện công nghiệp hoá, chính phủ đóng vai trò hỗ trợ chính trong phát triển khoa học và công nghệ. Hiện nay ở nước ta quy định sử dụng 2% tổng ngân sách cho hoạt động nghiên cứu khoa học và công nghệ, nhưng trong thực tế chỉ đạt 1%, (chiếm 0,2% GDP). Đây là một tỷ lệ rất thấp và bất hợp lý so với tỷ lệ 2,5-3% ở các nước công nghiệp phát triển .
    Theo phân tích của Báo đầu tư thì nguyên nhân của đầu tư kém hiệu quả ở nước ta hiện nay, trước hết là do việc chọn và quyết định dự án đầu tư. Nếu thời kỳ 1991-1997, hệ số ICOR là 2,6 thì hiện nay đã tăng lên khoảng 8,0.
    Cùng một đơn vị vốn có thể tạo ra những mức sản lượng rất khác nhau, phụ thuộc vào hiệu quả sử dụng vốn. Hiệu suất của một đơn vị vốn có thể giảm nếu việc quản lý lực lượng làm việc không hiệu quả hoặc không bảo đảm đủ nguyên vật liệu cho sản xuất, đồng thời cũng bị những ràng buộc về lực lượng lao động. Vì những lý do này mà mức sản lượng thu được từ một lượng vốn sẽ rất khác nhau giữa các nước. So sánh mang tính quốc tế về hệ số ICOR sẽ gặp khó khăn trong việc tính sự thay đổi về vốn. Ví dụ, trong liên doanh liên kết đầu tư ở nước ta phần góp vốn đầu tư của nước chủ nhà thường tính bằng giá trị đất đai, nhà xưởng và thực tế ở nước ta giá đất quá đắt và thay đổi rất nhanh. Hoặc trong đầu tư xây dựng cơ bản thì chi phí cho giải phóng mặt bằng chiếm một phần rất lớn và chi phí này tăng lên theo giá đất đai ... do vậy cũng gây khó khăn cho việc xác định giá trị đầu tư. Mặc dù có những khó khăn trong việc tính vốn đầu tư cũng như các yếu tố thuộc lĩnh vực quản lý, thì hệ số ICOR vẫn được sử dụng là một số đo hiệu quả đầu tư và so sánh hiệu quả đầu tư ở các nước khác nhau.
    Mối quan hệ giữa đầu tư và tăng trưởng kinh tế, không chỉ được đặt ra đối với nền kinh tế của một quốc gia mà còn phải đặt ra cho từng lĩnh vực, từng ngành kinh tế và từng đơn vị kinh tế. Việc đầu tư vào đâu, đầu tư bao nhiêu và đầu tư vào thời điểm nào để đạt được hiệu qủa kinh tế cao là những vấn đề mà các nhà đầu tư, đặc biệt là các nhà hoạch định chính sách, xây dựng dự án đầu tư phải nghiên cứu kỹ.
    Đầu tư và tăng trưởng đang trở thành vấn đề kinh tế quan trọng hiện nay của đất nước. Tăng thêm vốn đầu tư và đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu. Đầu tư và tăng trưởng sẽ mang lại hiệu quả nếu có những giải pháp thích hợp

    Khám sức khỏe kinh tế Việt từ chỉ số ICOR

    Chỉ số ICOR đo lường hiệu quả đầu tư, tính trên lượng vốn cần tăng thêm để đạt mức gia tăng một đơn vị sản lượng, chính là thông số biểu hiện cụ thể nhất của thể trạng sức khỏe nền kinh tế. Chỉ so ICOR cao đồng nghĩa với hiệu suất kinh tế thấp, nói lên tính cách “tinh và gọn” của hệ thống.
    Tỷ lệ đầu tư trên GDP của Việt Nam luôn ở mức cao so với các nước trong khu vực. Tính trung bình từ năm 2007 đến 2008 tỷ lệ đầu tư/GDP của Việt Nam là 39.7%. Năm 2008, tỷ lệ đầu tư/GDP lên đến 43.1%, còn theo ước tính sơ bộ đến hết tháng 8 năm 2009 tỷ lệ này là 43,9%. Dù đầu tư cao như vậy nhưng tốc độ tăng trưởng chỉ từ 6 - 8.5%, và dự kiến, năm 2009, mức tăng trưởng cao của Việt Nam cũng chỉ dừng ở 5,2%, do đó, hệ số ICOR luôn ở mức cao.
    ICOR càng cao đồng nghĩa với hiệu quả đầu tư trong nền kinh tế càng thấp. Chất lượng tăng trưởng thấp kéo dài là tiền đề gây nên lạm phát, khủng hoảng và suy thoái kinh tế.
    Ngay từ năm 2007, khi hệ số ICOR của Việt Nam dừng ở mức 5-6, đã có những cảnh báo về sự lãng phí trong đầu tư và hiệu quả thấp trong sử dụng nguồn lực của Việt Nam.

    Ông Trần Đức Nguyên, nguyên thành viên Ban Nghiên cứu của *********, đã phân tích: chỗ yếu của nền kinh tế nước ta là tăng trưởng kém chất lượng. Hệ số ICOR của nước ta trong các năm 2001-2007 là 5,2 nghĩa là cần 5,2 đồng vốn đầu tư để tăng được một đồng GDP, cao gấp rưỡi đến gấp hai nhiều nước xung quanh trong thời kỳ đầu công nghiệp hoá. Các nước làm giỏi, ICOR của họ thời kỳ đầu CNH là trên dưới 3.
    Tăng trưởng GDP và ICOR một số nước Đông Á
    Quốc gia
    Giai đoạn
    GDP (%)
    Đầu tư/GDP
    ICOR
    Hàn quốc
    1961 – 1980
    7,9%
    23,3
    3,0
    Đài Loan
    1961 – 1980
    9,7%
    26,2
    2,7
    Indonesia
    1981 – 1995
    6,9%
    25,7
    3,7
    Thái Lan
    1981 – 1995
    8,1%
    33,3
    4,1
    Trung Quốc
    2001 – 2006
    9,7%
    38,8
    4,0
    Việt Nam
    2001 – 2006
    7,6%
    39,1
    5,1
    Nguồn World Bank

    Ông Nguyên chỉ rõ, năm 2007, vốn đầu tư thực hiện so với GDP là 45,6%, nếu hạ được hệ số ICOR xuống, bước đầu ở mức 4,5 thì tốc độ tăng GDP của Việt Nam đã là 10%.

    Dù các chuyên gia quan ngại và lên tiếng cảnh báo từ lâu nhưng, đến 2008, chỉ số ICOR Việt Nam lại vượt ngưỡng, lên mức 6,66. Và năm 2009, một lần nữa, chỉ số ICOR ở mốc mới. Theo tính toán của Ủy ban Tài chính và Ngân sách của ********, hệ số ICOR năm 2009 của Việt Nam đã lên tới 8, mức cao nhất từ trước tới nay.

    Cho rằng chỉ số ICOR tuyệt đối chỉ mang tính tham khảo, vì có thể có sự khác nhau trong cách tính, tuy nhiên, ông Trần Sĩ Chương, chuyên gia kinh tế độc lập, quan ngại, chỉ so với năm 2008, hệ số ICOR năm 2009 đã tăng 17,5%. “Những nỗ lực của chúng ta trong việc nâng sức cạnh tranh của nền kinh tế đã không mang lại hiệu quả như mong muốn, thậm chí còn khiến tình hình kém hơn".

    Điều này đồng nghĩa với việc trong cuộc "so găng" với các đối thủ trong khu vực, với thể trạng kinh tế yếu như hiện nay, nếu các nước chỉ cần một lần có thể nhấc được mục tiêu, thì Việt Nam phải tốn sức gấp đôi, thậm chí gấp ba.

    ICOR của Việt Nam qua các giai đoạn

    Giai đoạn
    ICOR
    1991 – 1995
    3,5
    1996 – 2000
    4,8
    2001 – 2003
    5,24
    2004 – 2006
    5,04
    2007 – 2008
    6,15
    2009 (dự tính)
    8

    Nguồn TCTK
    -----------------------------Tự động gộp Reply ---------------------------
    Giá trị hiện tại thuần (NPV - Net present value)

    Giá trị hiện tại thuần là hiệu số của giá trị hiện tại dòng doanh thu (cash inflow) trừ đi giá trị hiện tại dòng chi phí (cash outflow) tính theo lãi suất chiết khấu lựa chọn. Khái niệm giá trị hiện tại thuần đựơc sử dụng trong hoạch định ngân sách đầu tư (capital budgeting), phân tích khả năng sinh lợi của một dự án đầu tư, hay cả trong tính toán giá cổ phiếu .

    NPV được tính theo công thức sau
    [​IMG]


    Trong đó:
    * t - thời gian tính dòng tiền
    * n - tổng thời gian thực hiện dự án
    * r - tỉ lệ chiết khấu
    * Ct - dòng tiền thuần tại thời gian t
    * C0 - chi phí ban đầu để thực hiện dự án

    Việc tính toán NPV rất hữu ích khi chuẩn bị ngân sách cho một dự án, bằng phép tính này nhà đầu tư có thể đánh giá liệu tổng giá trị hiện tại dòng doanh thu dự kiến trong tương lai có bù đắp nổi chi phí ban đầu hay không. Với một dự án cụ thể, nếu NPV dương thì nhà đầu tư nên tiến hành dự án và ngược lại khi NPV âm. Tuy nhiên trong trường hợp có hai sự lựa chọn đầu tư loại trừ lẫn nhau trở lên thì nhà đấu tư còn phải xét đến chi phí cơ hội nữa, lúc này, dự án nào có NPV cao nhất sẽ được tiến hành.

    Ví dụ: một doanh nghiệp dự định đưa ra thị trường một dòng sản phẩm mới. Chi phí ban đầu để sản xuất sản phẩm này (tiền mua sắm máy móc, thiết bị, chi phí đào tạo nhân viên...) là $100,000. Các chi phí quản lý dự kiến là $5,000/năm. Doanh thu từ sản phẩm này dự kiến là $30,000/năm. Tỉ suất hoàn vốn là 10%. Sản phẩm này dự kiến sẽ bán trong vòng 6 năm.
    Theo công thức ở trên ta có thể tính toán giá trị hiện tại thuần của dự án là:

    NPV = -100000 + (30000-5000)/1.1^1 + (30000-5000)/1.1^2 + (30000-5000)/1.1^3 + (30000-5000)/1.1^4 + (30000-5000)/1.1^5 + (30000-5000)/1.1^6 = $8881.52 > 0

    Vậy nên tiến hành sản xuất loại sản phẩm mới này.

    Việc tính toán NPV phụ thuộc rất nhiều vào tham số tỉ lệ chiết khấu r, mỗi nhà đầu tư lại có cách đánh giá r riêng của mình. Ngoài ra dòng doanh thu, dòng chi phí không đồng đều, giá trị thanh lý tài sản cố định giữa các năm cũng sẽ làm cho việc tính toán trở nên phức tạp hơn nhiều.

    -----------------------------Tự động gộp Reply ---------------------------
    Tỉ suất hoàn vốn nội bộ (Internal Rate Of Return - IRR)

    IRR là tỉ lệ khấu trừ được sử dụng trong tính toán nguồn vốn để quy giá trị thuần của dòng tiền hiện tại của một dự án cụ thể về 0. Hiểu một cách chung nhất, tỉ lệ hoàn vốn nội bộ càng cao thì khả năng thực thi dự án là càng cao. IRR còn được sử dụng để đo lường, sắp xếp các dự án có triển vọng theo thứ tự, từ đó khiến cho công ty có thể dễ dàng hơn trong việc cân nhắc nên thực hiện dự án nào. Nếu giả định rằng tất cả các yếu tố khác của các dự án là như nhau thì dự án nào có tỉ suất hoàn vốn nội bộ cao nhất thì dự án đó có thể được ưu tiên thực hiện đầu tiên. IRR đôi khi còn được gọi là tỉ suất hoàn vốn kinh tế ERR (economic rate of return)

    Chúng ta cũng có thể coi IRR là tốc độ tăng trưởng mà một dự án có thể tạo ra được. Vì tỉ lệ hoàn vốn nội bộ thực tế của một dự án khi thực hiện xong luôn khác với tỉ lệ ước tính nên một dự án có tỉ lệ IRR tương đối cao so với các dự án khác thì vẫn có khả năng sẽ tạo ra tăng trưởng cao hơn.

    IRR cũng có thể được so sánh với tỉ suất hoàn vốn trên thị trường chứng khoán. Nếu một công ty không thấy dự án nào có IRR tốt hơn mức lợi nhuận có khả năng tạo ra trên thị trường tài chính, công ty đó có thể đơn giản là đầu tư tiền của mình vào thị trường này thay vì thực hiện dự án.

    Trong việc tính toán phân bổ nguồn vốn có rất nhiều cách khác nhau để đánh giá một dự án. Mỗi cách thức đều có những ưu nhược điểm riêng. IRR là một chỉ số thường xuyên được sử dụng. Nhưng vì chỉ sử dụng một tỉ lệ chiết khấu duy nhất trong việc tính toán IRR nên sẽ có nhiều tình huống ảnh hưởng tới IRR. Nếu một nhà đầu tư tiến hành định giá hai dự án, cả hai đều sử dụng chung một tỉ suất chiết khấu, cùng dòng tiền ước tính, cùng chịu rủi ro như nhau và thời gian thực hiện ngắn, IRR có thể là một chỉ số hiệu quả. Nhưng vấn đề là ở chỗ tỉ suất chiết khấu luôn thay đổi theo thời gian. Ví dụ sử dụng lãi suất trái phiếu kho bạc làm tỉ suất chiết khấu. Mức lãi suất này có thể thay đổi từ 1% đến 20% trong vòng 20 năm, do đó dẫn đến sai lệch trong tính toán.
  10. Odyssey_Dawn

    Odyssey_Dawn Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    20/03/2011
    Bài viết:
    326
    Đã được thích:
    0
    Người nghèo ở Anh dẫu sao vẫn hơn ở các nước độc tài khác các bác ạ ! Họ có an sinh xã hội của người nghèo, họ được trợ cấp khi thất nghiệp, chữa bệnh miễn phí nếu không có khả năng tài chính, con cái người ta được nhà nước trợ cấp học hành miễn phí cho đến 18 tuổi mà không phải chạy trường chạy lớp học thêm và bồi dưỡng cho giáo viên như ở ta và đó là cái rất sướng của người nghèo ở những quốc gia này mà nhiều nước khác chỉ có nằm mơ.

    Tình trạng ở Anh khác ở Iran nhiều, bạo loạn ở Anh chủ yếu là do bọn du côn du đãng mà chủ yếu là những người nhập cư nghèo nhưng làm biếng, họ không có tôn chỉ chính trị nào cả, họ không biết đòi hỏi gì ngoài nhân việc lộn xộn để cướp bóc vào hôi của cho thỏa mãn lòng tham, nói chung họ chỉ là những tên cướp không hơn không kém và phải bị trừng trị như những tên tội phạm.
    -----------------------------Tự động gộp Reply ---------------------------
    Em cmt thiếu Quân Anh đã phạm tội ác gì ở VN chưa ? Trả lời là Chưa, bằng chứng ư, Anh có tham chiến (theo đuôi như lời Pro Nga) ở VN đâu nào !!!! Bằng chứng rõ ràng nhất thì ko bác Nga vàng nào dám chú thích lại ;))

Chia sẻ trang này