1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Những bức ảnh có thể bạn chưa biết trong Kháng chiến chống Pháp

Chủ đề trong 'Giáo dục quốc phòng' bởi vaputin, 17/10/2011.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. dongthap10

    dongthap10 Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    20/07/2006
    Bài viết:
    155
    Đã được thích:
    22
    My Dad tham gia kháng Pháp năm 12 tuổi, tiểu đoàn 311 Long Châu Sa - Nam Bộ

    [​IMG]
  2. MrKhuKhoam

    MrKhuKhoam Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    12/04/2011
    Bài viết:
    4.334
    Đã được thích:
    1.180
    Deutsche Legionäre im Indochinakrieg

    Bộ phim về những người Đức làm lính đánh thuê cho Pháp tại Việt nam. Một con số kinh khủng hiếm ai biết được: 70% là dân Đức (kể cả Áo), trong đó riêng người Đức có 35.000 người!

    Phim tài liệu của Đức sản xuất năm 2005. Phim này mà dịch được thì sẽ hiểu rõ về quân đội Pháp ở Việt Nam hồi ấy. Vì cuộc sống nghèo đói của nước Đức thập niên 40-50 mà người Đức phải sang Pháp làm lính đánh thuê ở Việt nam.

    http://docufilms.com/de/node/5123

    [youtube]RcFhQysmD2s[/youtube]


    Trong phim có cụ Chiến Sĩ, người trong ảnh này (lấy từ website tapchithoidai.org)[​IMG]

    Từ trái qua phải:
    Ngồi: Phạm Văn Đồng, Erwin Borchers / Chiến Sỹ, Ernst Frey / Nguyễn Dân, Võ Nguyên Giáp, Đặng Bích Hà (vợ tướng Giáp) ; Đứng : Lưu Văn Lợi, X, X, Rudy Schröder / Lê Đức Nhân (Bộ ảnh sưu tầm của H. Schütte)


    Đúng ra ở hàng ngồi, người mà tapchithoidai.org cho là cụ Phạm Văn Đồng thực ra là cụ Trần Tử Bình.
    Hàng đứng: thứ 3 từ trái sang, tính từ cụ Lưu Văn Lợi, là cụ Hoàng Văn Thái.
  3. suhomang

    suhomang Thành viên gắn bó với ttvnol.com Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    07/05/2012
    Bài viết:
    15.659
    Đã được thích:
    1.839
    @MrKhuKhoam

    Bác nhờ lão vê mát dịch hộ xem thế nào ?
  4. kyokushin

    kyokushin Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/06/2012
    Bài viết:
    6
    Đã được thích:
    0
  5. MrKhuKhoam

    MrKhuKhoam Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    12/04/2011
    Bài viết:
    4.334
    Đã được thích:
    1.180

    Bác Karel Phùng (ở Đức) dịch và ***g sub Lính đánh thuê gốc Đức tại Đông Dương:

    Tập 1: [youtube]cu4EknDvpGM[/youtube]
    Tập 2: [youtube]CrDftdARWK8[/youtube]
    Tập 3: [youtube]pU67GOytzbU[/youtube]
    Tập 4: [youtube]nAAKK3LiKDE[/youtube]
  6. CongDanTuDo

    CongDanTuDo Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    30/04/2013
    Bài viết:
    44
    Đã được thích:
    0
    Hồ Chí Minh và tập đoàn nhúng tay vào máu vì áp lực viện trợ của Trung Cộng và Liên Xô!
    Friday, February 22, 2013 5:53:13 PM



    Share on print Print Share on email Email [​IMG]



    [FONT=Arial, Helvetica, sans-serif]
    Sổ Tay


    Vũ Ánh

    Ðây không phải là một câu chuyện mới mẻ gì. Nó chỉ là câu chuyện cũ về điều mà nhiều người dân miền Bắc cho tới nay vẫn tin là “bác bôn ba hải ngoại để tìm đường cứu nước.”
    Nhưng nếu họ được phép “thong thả” đọc cuốn biên niên thời sự “Bên Thắng Cuộc” của Huy Ðức thì họ sẽ thấy từ trang 255 cho đến trang 265, những người phụ tá thân cận của ông Hồ tiết lộ trong những cuộc phỏng vấn của tác giả hay trong những tài liệu mà không phải ai cũng tiếp cận được sẽ thấy nó chứa đựng nhiều điều khác hẳn với suy nghĩ của họ. Nội dung của những lời lẽ của những nhân chứng nói trên đã phơi bầy ra một thực tế mà từ trước đến nay không ai trong số những tác giả ở Việt Nam dám đề cập tới: đó là việc ông Hồ không tìm ra ra được con một con đường nào để cứu nước cả. Áp lực rất nặng nề về viện trợ của Bắc Kinh và Liên Xô khiến ông ta chỉ còn cách nhắm mắt bước vào một ngõ cụt là thực hiện những gì mà các “đàn anh, đàn thầy” mình áp đặt. Tác giả “Bên Thắng Cuộc” trích dẫn lời của Hoàng Tùng, chánh văn phòng Trung ương để chứng minh con hẻm đó như thế nào, xin trích:
    “Cho dù Stalin và Mao tiếp tục thúc ép, tại Ðại Hội II diễn ra vào năm 1951, thay vì chủ trương cải cách ruộng đất, Tổng bí thư Trường Chinh (Ðặng Xuân Khu) đã đưa ra thuyết 'ba giai đoạn' theo đó trước hết phải giảm tô, giảm tức rồi mới đi đến cải cách ruộng đất. Theo lời ông Hoàng Tùng: thuyết ba giai đoạn của Trường Chinh đưa ra tại Ðại Hội II là có ý kiến của ông Hồ, nhưng Trường Chinh phân tích rất hay. Năm 1946, khi họp Xứ ủy, tôi đã được nghe ông (Trường Chinh) nói rằng, những cải cách nhỏ đều có ý nghĩa cách mạng, nhiều cải cách nhỏ cộng lại thành cuộc cách mạng lớn. Nhưng sau Ðại Hội, theo ông Hoàng Tùng, Mao và Stalin đã gọi ông Hồ sang nhất định bắt phải làm (theo đường lối của họ). Mao Trạch Ðông nói thẳng: nếu các đồng chí (họ Hồ) không cải cách ruộng đất, chúng tôi sẽ không viện trợ nữa. Ðể có viện trợ từ Liên Xô và Trung Quốc, Hồ Chí Minh đã phải chấp nhận cuộc đấu tranh giai cấp ở một nước Ðông phương, điều mà trước đó ông đã từng cho là không thích hợp.”
    Những điều mà ông Hoàng Tùng nói ra từ trước đến nay vẫn được coi là “tuyệt mật.” Thời kỳ “đổi mới” của ông Nguyễn Văn Linh, một vài viên chức cấp trung và thấp có nói mé trên một vài tờ Tin Sáng cuối cùng trước khi tờ báo này bị đóng cửa về điều gọi là “sức ép của các đàn anh” sau khi một phần của những số báo này lọt được vào trong tù qua những lần các bạn tù của tôi được thăm nuôi. Người nhà họ khéo léo ngụy trang những bài báo nói trên trong những bao bì gói quà tiếp tế. Theo Huy Ðức, chính vì Stalin và Mao quá giáo điều cho nên ông Hồ phản ứng mạnh đối với kế hoạch cải cách ruộng đất theo kiểu của họ mà thôi, chứ thực tế thuyết “ba giai đoạn” của Trường Chinh đã thể hiện một cách rõ ràng bước đi của một nhà nước công nông đúng theo như các lãnh đạo đệ tam quốc tế chủ trương. Cũng vẫn theo tác giả, sau khi chính phủ Ðoàn kết Dân tộc tan vỡ và nhất là thời kỳ chính phủ ********* rời bỏ Hà Nội lên chiến khu Việt Bắc, các chính sách mang mầu sắc giai cấp đã bắt đầu được hình thành.
    Ðây chính là thời điểm bố tôi cùng nhiều người bạn của ông phải “dinh tê” có nghĩa là phải bỏ kháng chiến để trở về vùng “tề” hay còn có một từ ngữ khác là “về thành.” Huy Ðức trích dẫn một trong những sắc lệnh của Hồ Chí Minh đầu tiên về cải cách ruộng đất:
    “Ngày 14 tháng 7, 1949, Hồ Chí Minh ký sắc lệnh buộc các chủ điền phải giảm tô cho các tá điền từ 25 đến 35%, lấy ruộng đất của điền chủ người Pháp và người Việt bị ghép tội Việt gian để chia cho nông dân. Ngày 22 tháng 5, 1950, ông ta lại ký sắc lệnh khác xóa bỏ hợp đồng vay nợ giữa chủ điền và tá điền trước năm 1945, nếu là món nợ sau năm 1945 thì chỉ trả vốn mà không phải trả lãi. Ngày 20 tháng 4, 1953 ông Hồ lại ký sắc lệnh “Giảm tô” bằng cách giảm thêm giá thuê đất 25% để tổng số tổn phí của tá điền không quá 1/3 hoa lợi.”
    Thế nhưng xương sống của những sắc lệnh của ông Hồ từ 1949 đến 1953 là bạo lực chính trị để bắt buộc người dân miền Bắc phải theo chính là chính sách đấu tố ruộng đất. Ðể thăm dò phản ứng và để thị uy, ông Hồ ra lệnh cho ông Trường Chinh thực hiện với 6 xã thí điểm ở huyện Ðại Từ thuộc tỉnh Thái Nguyên và sau đó chính thức thực hiện vào năm 1953. Về tổng quát, những điều mà tác giả “Bên Thắng Cuộc” đưa ra không phải là những điều mới mẻ, nhưng một vài chi tiết là những bằng chứng mới cho thấy ông Hồ và những phụ tá thân cận của ông biết rằng những áp lực của Bắc Kinh và Ðiện Kremlin ép họ phải thực hiện ngay chính sách cải cách ruộng đất bằng đấu tố sẽ gây ra những hậu quả tai hại, điều mà ông Hồ vẫn cho rằng “đó là điều không phải.” Tại Hội nghị Trung Ương 5 họp từ ngày 14 đến ngày 23 tháng 11, 1953, Hồ Chí Minh đã đọc một bài diễn văn, trong đó ông nhấn mạnh: “Vấn đề mấu chốt là cải cách ruộng đất” và “để đẩy mạnh kháng chiến (chống Pháp), chúng ta phải ra sức thực hiện cải cách ruộng đất.”
    Lời lẽ của Hồ Chí Minh mặc nhiên là một lời xác nhận và là một lệnh cho những cấp dưới của ông phải tiến hành ngay việc đấu tố ruộng đất làm như đó là một quyết định của chính ông ta chứ không phải là quyết định từ Bắc Kinh và Mạc Tư Khoa. Và để che giấu sự việc ông và tập đoàn lãnh đạo ********* bị ngoại bang dùng viện trợ (để kháng chiến) để buộc mình phải làm, ông Hồ còn tự phê, xin trích:
    “Chúng ta đã nặng về đoàn kết địa chủ để kháng chiến mà không xem trọng đầy đủ vấn đề nông dân và vấn đề ruộng đất. Nông dân ta chiếm 95% dân số mà chỉ có 3/10 ruộng đất, quanh năm khó nhọc và suốt đời nghèo nàn. Giai cấp địa chủ không đầy 5% nhân số mà chiếm hết 7/10 ruộng đất, ngồi mát ăn bát vàng. Tình trạng ấy thật là không công bằng. Nước ta bị xâm lược, dân ta lạc hậu và bần cùng cũng vì đó.”
    Ông Hồ nói tới mục đích của cải cách ruộng đất, đó là “tiêu diệt chế độ phong kiến, chiếm hữu ruộng đất, giải phóng nông dân, thực hiện người cày có ruộng, bồi dưỡng nông dân, phát triển sản xuất, đẩy mạnh kháng chiến.” Phương châm mà ông ta đưa ra là: “Làm cho nông dân tự giác, tự nguyện đấu tranh giành lại quyền lợi của mình, dùng lực lượng nông dân để giải phóng nông dân,” với phương thức để thực hiện: “phóng tay phát động quần chúng nông dân và lãnh đạo quần chúng nông dân đấu tranh, phải dựa hẳn vào quần chúng nông dân, đi đúng đường lối quần chúng, tuyệt đối chớ dùng cách ép buộc, mệnh lệnh, bao biện.” Cái lối kể chuyện lại, trích dẫn nhưng câu chữ của họ Hồ, nghe qua có thể làm cho độc giả chán nản, bảo: “Ồ, câu chuyện này ai mà chẳng biết.” Nhưng với những người cần tìm ra những bằng chứng để thiết lập một cáo trạng đối với mặt trận ********* trong việc lợi dụng lòng yêu nước của người Việt Nam, lợi dụng kháng chiến để áp đặt lên đầu lên cổ dân chúng cái ách Cộng sản thì những câu chữ của ông ta là những thông tin cần thiết.
    Thế giới cộng sản là thế giới còn có rất nhiều khoảng tối chưa được soi sáng. Những người ở ngoài thế giới u minh này chỉ hiểu được một phần rất nhỏ những khoảng tối ấy. Cho nên họ rất cần những người từng ở trong cái chăn của chế độ còn giữ được lương tri viết lên một phần sự thật về những con rận vẫn còn ẩn núp trong bóng tối. Từ 38 năm qua, trong cộng đồng người Việt Nam ở hải ngoại, nhất là trong những cộng đồng người Việt Nam tại Mỹ, người ta hay có thói quen tự cô lập mình và tự tạo ra những điều cấm kỵ đối với quê hương cũ của mình. Cho nên, nhiều người vẫn mù mờ đối những vấn đề tại Việt Nam, ngay cả vấn đề lịch sử của cuộc chiến quốc cộng trước đây. Từ chỗ đặt ra những điều cấm kỵ, những nhà lãnh đạo và những chính trị gia cộng đồng tiến tới việc “phịa” ra những nguyên tắc đi ngược lại tự do tư tưởng: viết phải có lập trường, nghiên cứu cũng phải có lập trường chống Cộng, thậm chí họ tiến tới việc vi phạm vào nhân quyền khi đặt vấn đề tư cách chính trị của nhiều tác giả. Cầm tới một cuốn sách, không cần biết những dữ kiện trong phần nội dung có khả tín hay không mà chỉ cần hỏi: “Ông này là ai, từ đâu đến, VNCH hay *********?” Ðó là lý do người ta hiểu tại sao trong gần 4 thập niên, các tác phẩm nào gây được tiếng vang trong cộng đồng người Việt là một con số nhỏ nhoi vì những tác giả “phe ta” chỉ viết cho phe ta đọc. Do chỉ viết cho “phe ta” đọc cho nên nhiều tác giả phải tránh những cái hố cấm kỵ và không tác giả nào lại dại dột phơi bầy ra những mảng tối chưa được soi sáng của phe mình !
    Tôi nêu ra những yếu tố trên chỉ là có lý do để đưa ra một lời cảnh giác với tư cách của một người thích đọc sách mà thôi: đừng có quá đơn giản khi phủ nhận một tác phẩm nghiên cứu chỉ vì xuất xứ của tác giả. Hãy chú ý đến những thông tin và mức khả tín của chúng trong tác phẩm để giúp cho những nhận định riêng và độc lập của mình. Chẳng hạn như ở trang 262 trong “Bên Thắng Cuộc,” tác giả đưa ra một loạt những phương thức thực hiện trong chính sách đấu tố ruộng đất vốn là những điều mà tác giả từ phía người quốc gia đã nhắc tới nhiều, nhưng phần lớn đó là những kinh nghiệm cá nhân. Huy Ðức thuộc thế hệ của những thanh niên miền Bắc mới lớn sau chiến tranh Quốc Cộng đã có một cái nhìn tổng quát hơn về hậu quả của chính sách cải cách ruộng đất. Trong vụ này, người ta mới chỉ thấy ông Trường Chinh chính thức lên tiếng nhận sai lầm trong các hoạt động cải cách ruộng đất khiến chúng biến thành các cuộc hành hình mang tính giai cấp để chữa cháy cho ông Hồ. Cho tới nay, con số thực của những người chết vì đấu tố vẫn chưa được cấp cao nhất trong đảng Cộng sản chính thức xác nhận. Tuy nhiên, dường như tác giả “Bên Thắng Cuộc” đã có thể rút ra những con số thiệt hại từ Nội San Cải Cách Ruộng Ðất ngày 25 tháng 2, 1956, một nội san phổ biến hạn chế trong số những viên chức, cán bộ Ủy Ban Cải Cách Ruộng Ðất để đưa ra thông tin, xin trích:
    “Số người bị qui oan lên tới 123,266 chủ yếu vì các biện pháp truy bức để 'đôn' tỷ lệ địa chủ lên 5% dân số như một định mức bắt buộc, dùng nhục hình như đánh, trói, giam cầm khi chưa có tòa án xét xử, kích động và hù dọa quần chúng để họ tố oan cho nạn nhân. Ở trên thì ‘phóng tay phát động’, ở dưới những ‘đoàn’, những ‘đội’ cải cách tha hồ lộng quyền, ‘nhất đội, nhì giời’. Một quốc gia nghèo như Việt Nam mà các đội đã đưa được 'định mức địa chủ' lên tới 5.68% dân số các địa phương tham gia.”
    Tác giả không đưa ra ý kiến của mình về tỷ lệ 5.68% địa chủ trong một quốc gia nông nghiệp nghèo đói như Việt Nam vào thập niên 40, 50. Nhưng độc giả chắc chắn sẽ có những so sánh và người ta sẽ lạnh xương sống khi nghĩ đến việc giết người có định mức mà tập đoàn Hồ Chí Minh chủ trương và thực hiện. Cá nhân, những thông tin này giúp tôi hiểu lý do tại sao làng tôi chỉ là một làng rất nghèo cách thành phố Hải Phòng không xa lắm, bà nội tôi chỉ có 10 mẫu ruộng mà cũng bị đấu tố chết trong đợt phóng tay phát động cuối cùng mà Huy Ðức đề cập tới trong “Bên Thắng Cuộc.” Nhưng ngày nay chuyện bà nội tôi chết oan không còn là vấn đề cá nhân gia đình tôi nữa mà là vấn đề của lịch sử đất nước. Lịch sử cần có thêm những người viết lại, viết thêm về thảm kịch này, không phải là để chửi rủa thù oán, mà là để cho những thế hệ mai sau và trước mắt thế hệ trẻ hiện nay ở Việt Nam cũng như ở hải ngoại có thể rút ra được những bài học.
    Hồ Chí Minh qua đời năm 1969. Những thuộc hạ của ông ta đã xây một lăng tẩm rất lớn tại quảng trường Ba Ðình. Thời kỳ Việt Nam còn đóng cửa với thế giới bên ngoài, những khách ngoại quốc hay trong nước thăm Hà Nội thường được yêu cầu vào viếng xác ướp của “Bác.” Khách được chụp hình đăng trên báo Nhân Dân để làm bằng chứng về nghi thức ngoại giao. Nhưng từ năm 2000 đến nay, cảnh này không còn diễn ra nữa, một phần cũng vì Hà Nội hiểu rằng hợp đồng kinh tế và những dự án viện trợ, vay nợ, việc chia chác quyền lực, đàn áp những nhà bất đồng chính kiến, cấu véo công quĩ làm của riêng ngày nay quan trọng hơn việc dẫn khách viếng thăm xác ướp của họ Hồ. Ngay cả đối với dân chúng miền Bắc, ngày nay ông Hồ cũng không còn là hình ảnh thiêng liêng như trước đây dù lệnh bất khả xâm phạm đối với cái tên của ông ta vẫn còn trên cửa miệng những người cầm quyền. Một phụ tá rất quan trọng của ông Hồ là ông Hoàng Tùng cũng tiết lộ những chi tiết về người “boss” của mình đã giúp cho những người thích lên án có thể cáo buộc ông Hồ tội nhúng tay vào máu của ngay cả những người ân của mình. Ở các trang 263 và 264, Huy Ðức đã chọc vào đúng “ổ kiến lửa” ở Hà Nội, xin trích:
    “Theo ông Hoàng Tùng, về sau chính Hồ Chí Minh đã phải than: ‘Mình nói để mình đánh Pháp xong đã rồi sẽ cải cách ruộng đất theo cách của Việt Nam, nhưng mà (họ) cứ ép cho bằng được. Biết bao trí thức địa chủ đã theo *********, đóng góp tiền bạc từ những ngày khó khăn, giờ đây bị ‘hai ông anh lớn’ (Nga và Trung Cộng) phải chấn chỉnh lại, không địa chủ, người có gốc ‘Tây’ đứng trong tổ chức. Giữa thập niên 50, 'địa chủ không kháng chiến' thì đã 'dinh tê'. Cải cách đấu tố, theo ông Hoàng Tùng ‘coi như đánh vào lực lượng mình.’ Ông Hoàng Tùng còn kể lể thêm: 'Khi ấy tôi thường họp Bộ Chính Trị nên cũng biết một số việc, trong đó có việc thí điểm cải cách (ruộng đất) chọn bắn bà Nguyễn Thị Năm. Bà Năm nổi tiếng ở Hà Nội với tên gọi là Cát Hanh Long. Bà có con trai là cán bộ *********, một người là cán bộ cấp bậc trung đoàn trưởng làm việc ở Cục Chính Trị của Văn Tiến Dũng. Từ năm 1945 đến 1953, bà Năm tham gia công tác ở Hội Phụ Nữ. Trong 'tuần lễ vàng', gia đình bà hiến 100 lượng vàng. Vẫn theo ông Hoàng Tùng ‘các anh Trường Chinh, Phạm Văn Ðồng, Hoàng Quốc Việt, Lê Ðức Thọ thường ăn cơm ở nhà bà và được bà Năm coi như con. Họp Bộ Chính Trị ‘Bác’ nói: ‘Tôi đồng ý người có tội thì phải xử, nhưng tôi cho là không phải đạo khi phát súng đầu tiên lại nổ vào người đàn bà và người ấy lại giúp đỡ cho cách mạng.’ Nhưng sau đó cố vấn Trung Quốc Lã Quí Ba đề nghị mãi, ông Hồ nói: ‘Thôi tôi theo đa số chứ tôi vẫn cho là không phải.’ Ông Hoàng Tùng nói: ‘Hồ Chí Minh bị nó (Trung Cộng) coi là hữu khuynh. Khi ấy mà kháng cự thì nó cắt viện trợ.’ Ðể có viện trợ, theo ông Hoàng Tùng ‘Mỗi ngày đội cải cách thường phải tìm cho ra một người đến bắn thị uy, nói là để cho nông dân phấn khởi. Tôi đi xem bắn một vụ, tôi thương quá, anh ấy chỉ có 7.5 mẫu ruộng.' Chính Hồ Chí Minh và các ủy viên Bộ Chính Trị đều biết các đội đã dùng nhục hình để qui sai địa chủ, nhưng việc chấn chỉnh chỉ dừng lại ở những lời răn dạy.”
    Vào tháng 10 năm 1956, Bộ Chính Trị thừa nhận:
    “Do tư tưởng chỉ đạo tả khuynh, tác phong đại khái, quan liêu, độc đoán trấn áp, cho nên việc đánh địch càng đi tới càng mất phương hướng, đánh tràn lan, đánh vào địch, đánh cả vào hàng ngũ của ta, qui bức nhục hình phổ biến. Coi tổ chức của đảng, coi tổ chức cũ của chính quyền và của quần chúng là do địch lũng đoạn nên đã khủng bố tàn khốc những người nông dân vô tội, đả kích mù quáng vào đảng viên và cán bộ cốt cán của đảng, chính quyền và đoàn thể quần chúng. Hàng vạn đảng viên tốt bị thanh trừng, hàng nghìn bị bắt, một số đảng viên có nhiều công lao bị xử oan, phải chịu những nhục hình rất tàn khốc dã man, dùng quần chúng để vạch tội đảng viên cũ... sai lầm nghiêm trọng và vô nguyên tắc vi phạm những quyền tự do cá nhân của công dân. Trong số 8,829 đảng viên bị xử trí ở Tả Ngạn thì 7,000 thuộc thành phần nông dân lao động và các thành phần lao động khác.”
    Cải cách ruộng đất là một đống bùn trộn lẫn với máu của nhiều nông dân hiền lành, những người đã đóng góp xương máu để bảo vệ cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Ấy vậy mà chỉ vì Bắc Kinh và Mạc Tư Khoa đòi hỏi mà từ Hồ Chí Minh cho đến những tay chân thân cận nhất của ông đành lòng nhắm mắt ra lệnh tắm máu họ bằng một cuộc tàn sát dã man nhất trong lịch sử của cuộc đấu tranh giai cấp mà ********************** chủ trương. Huy Ðức cho công bố những điểm gây ngạc nhiên được ông Hoàng Tùng tiết lộ trong cuộc phỏng vấn dài dành cho tác giả, xin trích (trang 264):
    “Ông Hoàng Tùng, ngay từ đầu cuộc nói chuyện đã gọi các ‘đồng chí Trung Quốc’ là NÓ, (nói) tiếp: ‘Không chỉ có địa chủ bị bắn, nhà thờ, nhà chùa đều bị nó phá sạch. Ðền thờ An Dương Vương thì nó dùng làm nơi để phân bón. Ông Trường Chinh thì mặc cảm vì nhà cũng có 7 mẫu ruộng, do ông chủ yếu làm nghề viết báo nên cho người ta cấy rẽ lấy tô, rất dễ bị 'quy' (cáo buộc, gán tội). Ông Hoàng Quốc Việt thì không sâu sắc, ông Hồ Viết Thắng thì hăng hái quá. Bố ông Trần Quốc Hương, một ông thầu khoán, dành dụm mua được 20 mẫu ruộng, cũng bị đội (cải cách) đem ra đấu. Khi ông Hương nghe được tin chạy về tới nơi thì bố ông đã chết. Ông Hương than: Thôi, ruộng đất thì không tiếc gì, nhưng không thể chịu được cảnh con đấu cha, vợ đấu chồng. Các mạng thì cũng phải có đạo đức chứ ! Bố ông Nguyễn Khắc Viện là Nguyễn Khắc Niêm từng đỗ Ðệ Nhị Giáp Tiến Sĩ. Tây đưa lên hàng thượng thư (bộ trưởng). Thời kháng chiến, Hồ Chí Minh cũng có gởi thư vận động ông Niêm. Khi có cải cách ruộng đất, bị bị ‘đội’ bắt, ông Nguyễn Khắc Niêm đã tự tử chết. Mình (đảng Cộng sản) không hiểu thâm ý Trung Quốc là muốn sửa ta. Ðầu tiên là họ sửa quân đội nên lập ra chức chính ủy. Chính ủy là người (ảnh hưởng) bao trùm lên Tư lệnh, ý họ muốn nhắm vào ông Võ Nguyên Giáp, một vị tướng xuất thân từ giới trí thức và mới chỉ tham gia đảng Cộng sản năm 1940. Trung Quốc cho rằng ông Giáp xuất thân không phải công nông mà nắm quân đội là không ổn. Có người, mà tôi (Hoàng Tùng) ngờ là Lý Ban, người phó của Văn Tiến Dũng đưa cho cố vấn Trung Quốc một danh sách những cán bộ xuất thân không phải công nông định để gạt ra khỏi quân đội. Ông Giáp đưa danh sách đó cho ông Hồ. Bác (lời ông Tùng) bảo đốt ngay, thay bằng ấy người thì quân đội không còn cán bộ.”
    Tóm lại, trong chính sách đấu tố ruộng đất, có tới gần 72% phú nông bị “quy” sai là địa chủ. Cho nên, theo ông Hoàng Tùng, “Pháp Mỹ chỉ chịu một phần. Chính cải cách ruộng đất, và việc đánh thuế công thương nghiệp, cải tạo tư sản là nguyên nhân chính khiến hơn một triệu người miền Bắc đã phải di cư vào Nam.” Nhưng hậu quả quan trọng trong chính sách nhuốm máu nông dân nói trên không phải là chuyện di cư hay không di cư mà quan trọng chính là: trong phong trào được gọi là cải cách ruộng đất mà sao có quá nhiều máu đổ và người chết như vậy? Hồ Chí Minh là người như thế nào khi ông ta biết rằng việc bắn bà Cát Hanh Long, một ân nhân của cách mạng là sai mà ông ta không vẫn cứ cúi đầu trước cố vấn Trung Cộng và tập đoàn đồ tể dưới quyền ông?
    Hiển nhiên, “Bên Thắng Cuộc” mới chỉ đưa ra một phần, tuy là khá quan trọng liên quan đến chiến dịch tắm máu nông dân miền Bắc, nhưng vẫn còn cần phải mở lại những trang kế tiếp về phía những hậu duệ của những nạn nhân trong cuộc đấu tố ruộng đất từ 1950 cho đến hết năm 1956. Khi các cuộc nghiên cứu này có đầy đủ tiếng nói ôn tồn mang tính cương quyết của sử học, bản cáo trạng đối với ông Hồ và tập đoàn của ông mới được kể như tạm hoàn tất. Tôi tin rằng, một bản cáo trạng có nghiên cứu, không mang lời lẽ cuồng nộ, lên án nặng nề, nhưng vô tư và công bằng sẽ hữu hiệu trong việc đánh đổ “thần tượng Hồ Chí Minh” nơi những người Việt Nam còn tin vào ông ta hơn là chỉ đả đảo, đạp mặt và giẫm lên cờ đỏ sao vàng một cách an toàn và dễ dãi ở Hoa Kỳ.
    Tuy muộn nhưng đã đến lúc người quốc gia chống Cộng hiện nay ở hải ngoại nên thay đổi sách lược đấu tranh và cần các cuộc nghiên cứu mang tính khoa học và sử học về cả bên thắng cuộc và bên thua cuộc thay vì chỉ trang bị cho mình biểu ngữ, loa điện, vỗ ngực xưng tên và la hét những khẩu hiệu trên đường phố đã bắt đầu bị dư luận hoài nghi.

    http://www.nguoi-viet.com/absolutenm2/templates/viewarticlesNVO.aspx?articleid=162199&zoneid=425


    [​IMG]

    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [/FONT]
  7. kotus

    kotus Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    09/10/2004
    Bài viết:
    1.841
    Đã được thích:
    3.199
    Bao giờ mới hết những thằng ngu đem cảnh phim tâm lý chiến ra bốc phét vậy? Cá nhân tao cũng rất muốn xem thêm ảnh thời cải cách ruộng đất, nhưng nói chung toàn gặp ảnh đểu.
  8. dongthap10

    dongthap10 Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    20/07/2006
    Bài viết:
    155
    Đã được thích:
    22
    Lý do là hết hầu ở các Chi bộ cơ sở Đảng trong đó đều có các T/p : gián điệp, cường hào, địa chủ, ác bá, Quốc Dân Đảng trà trộn nên chúng lợi dụng chủ trương để trục lợi, phá hoại, giết hại những người có Công Cách Mạng chưa xác minh rõ, chúng kết nạp vào tổ chức các đối tượng xấu kết thành bè phái.

    My Collections

    [​IMG]
    Tháng 7/1955
  9. Thai_Thu_Hoi_Quoc

    Thai_Thu_Hoi_Quoc Thành viên rất tích cực Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    07/05/2013
    Bài viết:
    437
    Đã được thích:
    43
    Pháo binh VN ở Điện Biên Phủ 1954 mạnh cỡ nào?



    (Kienthuc.net.vn) - Một trong những yếu tố then chốt làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ 1954 lẫy lừng phải kể tới sự góp công lớn từ bộ đội pháo binh.

    Ta có bao nhiêu pháo ở Điện Biên Phủ 1954?


    Trong chiến dịch Điện Biên Phủ 1954, quân đội ta lần đầu lực lượng pháo lớn, hiện đại hơn so với các chiến dịch Tây Bắc 1947, Biên giới 1950.


    Tham gia chiến dịch có Đại đoàn Công pháo 351 biên chế 5 trung đoàn, tiểu đoàn gồm:


    - Trung đoàn pháo binh 45 biên chế 2 tiểu đoàn với 24 lựu pháo M101 105mm (tầm bắn khoảng 11km). Loại pháo này được Mỹ viện trợ cho quân Tưởng Giới Thạch trong nội chiến Trung Quốc. Sau này, Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc đã thu giữ lại và viện trợ cho ta cùng hàng chục nghìn viên đạn.

    [​IMG]
    Pháo M101 105mm được Trung đoàn 45 sử dụng chiến đấu trong chiến dịch Điện Biên Phủ. ​
    Ảnh: Văn Biên
    - Trung đoàn pháo binh 675 biên chế 2 tiểu đoàn với 20 khẩu sơn pháo 75mm kiểu 41 (tầm bắn 7km) do Nhật Bản sản xuất. Số pháo này có thể ta thu được từ tay quân Nhật năm 1945 hoặc được Trung Quốc viện trợ.


    - Trung đoàn pháo binh 237 biên chế 3 tiểu đoàn với 54 súng cối M1937 82mm, 12 pháo phản lực phóng loạt H6 và số lượng nhỏ súng không giật ĐKZ 75mm. Trong đó, loại pháo phản lực H-6 do Trung Quốc sản xuất viện trợ cho ta được đưa vào sử dụng trong những ngày cuối chiến dịch.


    - Tiểu đoàn 83 trang bị 20 súng cối M1938 120mm (đạt tầm bắn 6km) do Liên Xô sản xuất.


    - Trung đoàn cao xạ 367 biên chế 2 tiểu đoàn trang bị 24 khẩu pháo cao xạ M1939 37mm do Liên Xô sản xuất.

    [​IMG]
    Khẩu sơn pháo 75mm của Đại đội 755 (Trung đoàn pháo 675) tham gia chiến đấu từ ngày 24/3-7/5/1954 phá hủy 5 pháo 105mm, 1 kho đạn của quân Pháp. ​
    Ảnh: Văn Biên
    Xét chung về số lượng pháo, ta và Pháp không thua kém nhau là bao, thậm chí ta còn có phần nhỉnh hơn. Quân Pháp tại Điện Biên Phủ trang bị 24 khẩu 105mm, 4 khẩu M114 155mm, 20 khẩu cối 120mm.


    Nhưng quân Pháp còn trang bị các loại vũ khí hạng nặng khác như xe tăng, máy bay ném bom, vũ khí binh lính cũng đồng bộ và mạnh hơn ta về nhiều mặt. Chũng cũng liên tục được lực lượng không vận thả dù hàng (lương thực, vũ khí) trong suốt chiến dịch.


    Nhìn chung, sức mạnh hỏa lực của quân Pháp vượt trội hơn ta về mọi mặt. Tuy nhiên, mạnh hơn, hiện đại hơn không có nghĩa là sẽ giành chiến thắng, người Việt Nam đã chứng minh điều đó.


    Kỳ tích kéo pháo vào, kéo pháo ra

    Nơi diễn ra trận quyết chiến cuối cùng là khu vực địa hình hiểm trở, nhiều núi sâu, đèo cao. Việc đưa pháo vào trận địa là điều hết sức khó khăn đối với bộ đội ta, ngay cả việc dùng phương tiện cơ giới kéo pháo cũng không phải dễ. Nhưng với ý chí và tinh thần con dân đất Việt, chúng ta đã lập nên kỳ tích có “1-0-2” trong lịch sử chiến tranh thế giới.


    Bằng sức người là chính, bộ đội ta đã kéo những khẩu pháo nặng hơn 2 tấn qua núi cao, đèo dốc hiểm trở vào trận địa. Đây thực sự là điều mà người Pháp “không bao giờ có thể tin nổi”. Trước chiến dịch, họ luôn cho rằng quân đội ta không thể đưa pháo lớn cỡ 105mm vào mà chỉ có thể đưa vào loại sơn pháo 75mm.


    “…Đại đội tôi được giao kéo một khẩu pháo 105mm (nặng 2,26 tấn) từ km 62 trên đường Tuần Giáo, qua dãy rừng Nà Nham, vượt điểm cao Pha Sông, đến khu vực Bản Tấu với tổng chiều dài gần 15km. Đơn vị được trang bị 3 sợi dây tời, mỗi sợi dài 50m to bằng cổ tay. Khi kéo, dây tời được buộc vào càng pháo.

    [​IMG]
    Bộ đội ta kéo pháo chuẩn bị cho chiến dịch Điện Biên Phủ.​
    Chỉ huy phân chia đơn vị thành 3 tốp, mỗi tốp khoảng 30 người, thay nhau kéo pháo suốt ngày đêm. Lúc kéo, hai tay nắm chặt dây tời, chân dạng ra thật chắc, khi người chỉ huy hô “Hai, ba nào!” thì tất cả gồng sức lên mà kéo và hễ bánh pháo nhích được tí nào thì hai đồng chí pháo thủ liền nhích thanh gỗ chèn lên theo, không cho pháo tụt trở lại. Ở những đoạn dốc đứng, chúng tôi phải buộc tời trên đỉnh dốc, ra sức quay tời quấn vào những gốc cây to, những người ở bên dưới thì cố hết sức đẩy lên từng tí một.


    Kéo pháo lên dốc đã khó, kéo xuống dốc lại càng khó hơn. Chúng tôi phải ghìm chặt đầu pháo và cho pháo lăn xuống từ từ. Khẩu pháo nặng hơn 2 tấn, chỉ cần sơ sẩy một chút, pháo sẽ kéo luôn cả người xuống vực. Trên đỉnh Pha Sông có chỗ dốc đến 70 độ, kéo pháo qua đây phải dùng đến 7 sợi dây tời để bộ đội đứng phía sau kéo lại và anh em thường gọi vui đó là “Dốc 7 tời”… Sau 7 ngày đêm, trung đoàn đã đưa được 4 khẩu pháo lớn lên các điểm cao khống chế”, Báo Đà Nẵng dẫn lời kể Đại tá Đỗ Thanh Hùng – chiến sĩ Trung đoàn 57 (Đại đoàn 304) tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ 1954.


    Sau đó, Bộ tư lệnh Chiến dịch thay đổi phương tâm tác chiến từ “đánh nhanh, thắng nhanh” sang “đánh chắc, tiến chắc”. Vì vậy, bộ đội ta một lần nữa buộc phải kéo pháo ra. Kéo vào đã khó, kéo ra khó gấp vạn lần do đường kéo phá đã bị lộ, địch bắn phá dữ dội. Tuy nhiên, bộ đội ta vẫn hoàn tất việc đưa pháo ra và bố trí lại trận địa sẵn sàng nổ súng.


    “Hỏa khí phân tán, hỏa lực tập trung”

    Trong chiến dịch, nhằm đối phó với lực lượng trinh sát tối tân của quân Pháp, bộ đội pháo binh Việt Nam đã đào hầm vào lòng núi để làm công sự cho pháo khi chiến đấu.


    Nóc hầm được ghép bằng các thân cây gỗ có đường kính từ 20cm trở lên rồi đổ đất đá lên trên, đảm bảo chống được sức công phá của bom, pháo địch. Bên ngoài trận địa được ngụy trang kỹ lưỡng, không để lộ một dấu vết. Do đó, khi các khẩu pháo đã yên vị trong công sự, nòng hướng vào cứ điểm của Pháp trong thung lũng mà các máy bay Pháp không hề hay biết.


    Thông thường các khẩu pháo được đặt theo từng cụm gồm vài khẩu đặt một chỗ thành một trận địa. Nhưng ở Điện Biên Phủ, quân ta đã đặt các khẩu pháo 105mm rải rác khắp các ngọn núi xung quanh thung lũng. Việc đặt pháo phân tán và làm hầm cho pháo nhằm hạn chế đến mức thấp nhất các thiệt hại có thể có khi bị địch phản pháo.


    Tuy pháo đặt phân tán nhưng pháo binh ta lại đo đạc các phần tử bắn rất cẩn thận cho từng khẩu để đảm bảo mỗi khi khai hỏa vào một mục tiêu, dù các khẩu pháo đặt ở vị trí khác nhau đều có thể bắn trúng mục tiêu đó. Lối đánh này được nêu thành phương châm “hỏa khí phân tán, hỏa lực tập trung”.


    Ngoài ra, bộ đội ta còn lập các trận địa pháo giả dùng gỗ thui đen làm giả pháo, ngếch nòng lên, khi trận địa thật phát hỏa thì bộ đội ta ném bộc phá tung lên không trung làm giả chớp lửa đầu nòng. Điều đó đánh lừa phương tiện trinh sát của quân Pháp, làm cho 80% đạn pháo của chúng tấn công nhầm vào trận địa giả.

    [​IMG]
    "Ông vua" pháo binh Việt Nam 1954 đồng loạt khai hỏa dội bão lửa lên đầu quân Pháp ở Điện Biên Phủ.​
    Với những cách làm như thế, pháo binh Việt Nam đã đè bẹp được pháo binh Pháp ở Điện Biên Phủ với thiệt hại nhỏ nhất.


    Sau khi chuẩn bị kỹ càng, 17h ngày 13/3/1954, chiến dịch Điện Biên Phủ chính thức mở màn với việc 40 khẩu pháo 75mm và súng cối 120mm đồng loạt bắn cấp tập vào cứ điểm Him Lam. Trong trận pháo kích này ta đã bắn tới 2.000 quả đạn, kéo dài 2 tiếng. Đây là lần đầu tiên quân đội ta bắn nhiều đạn pháo đến như vậy.


    Sau Him Lam, các cứ điểm còn lại ở phân khu Bắc tiếp tục bị tấn công và chịu chung số phận. Lực lượng pháo binh Pháp cũng bắn trả mãnh liệt. Chỉ mới đến ngày 15/3, họ đã bắn trả lại hơn 10.000 quả đạn nhưng không gây được chút tổn thương nào cho các khẩu pháo của ta, ngược lại còn bị mất 2 khẩu 105mm và 1 khẩu 155mm.


    Pháo binh Việt Nam đã làm cho viên chỉ huy pháo binh Pháp Charles Piroth phải hoảng sợ tột độ và đã tự sát trong hầm của mình.


    Cuốn Tướng Navarre với Trận Điện Biên Phủ viết: “Trung tá Piroth đã dành trọn một đêm (13/3) quan sát hỏa lực dần dần bị đối phương phản pháo chính xác một cách kinh khủng vào trận địa pháo của ông, 2 khẩu pháo 105mm bị quét sạch cùng pháo thủ, một khẩu 155mm bị loại khỏi vòng chiến đấu”.


    Trung tá André Trancart, chỉ huy phân khu Bắc (bạn thân của Piroth) kể lại, khi đó Piroth đã khóc và nói: “Mình đã mất hết danh dự. Mình đã bảo đảm với Castries và tổng chỉ huy sẽ không để pháo binh địch giành vai trò quyết định, và bây giờ, ta sẽ thua trận. Mình đi thôi".


    Trong suốt nhiều ngày tiếp theo của chiến dịch, bộ đội pháo binh tiếp tục “sát cánh” với bộ binh tấn công các cứ điểm địch cho tới ngày chiến thắng (7/5/1954).


    Theo một số tài liệu, trong trận chiến ở Điện Biên Phủ, quân Pháp đã bắn hết hơn 110.000 đạn pháo cỡ 105mm trở lại. Trong khi đó, quân ta chỉ bắn hất khoảng 20.000 quả pháo 105mm. Một con số thấp hơn nhiều lần, nhưng hiệu quả đạt được lại rất cao.

    VN thắng Pháp thắng Mỹ toàn nhờ vào TQ [r32)]
  10. Minhtue

    Minhtue Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    22/10/2012
    Bài viết:
    565
    Đã được thích:
    181
    Chó con, đổi nick rồi hử, để chủ dạy chó biết sủa nhé, Việt thắng Mỹ nhờ Trung Cẩu - O.K, thế mà cái thằng Trung Cẩu vẫn còn đang bị Mỹ nó ị một bãi to tướng vào giữa mặt đó, cái đảo Đài Loan đó, Trung Cẩu có sử được đâu, thế nên Trung Cẩu muôn đời vẫn chỉ là Cẩu thui, la liếm - cắn trộm thì được chứ oanh nhau thực với Nhật - Mỹ - Nga - Việt trận nào té ra quần trận đó cún con nhỉ. Mà cún con có phải Trung Cẩu đâu mà cứ phải ôm phận làm chó mãi vậy, hay là con mẹ cún chót mang kiếp ch...ó nên giờ cún con cũng phải uốn mình đi theo. Hi hi yêu cái con Chihuahua này lắm.

Chia sẻ trang này