1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Những giai thoại..."trời ơi" trong lịch sử

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi vaputin, 13/07/2012.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    Giai thoại về Sứ thần Giang Văn Minh


    Về năm mất của các cụ thì cụ Giang Văn Minh và cụ Thân Khuê mất năm 1638 còn cụ Nguyễn Duy Hiểu mất năm 1639. Như vậy, có thể là sau khi triều cống xong và cầu phong thất bại, ngay sau Tết âm lịch hay đợi hết mùa xuân trời ấm lên, các cụ lên đường về nước thì bị tấn công trên đường đi trong đó hai cụ hy sinh còn cụ Hiểu bị thương nặng. Cả phái đoàn ngừng lại để chôn cất và chữa trị vết thương cho cụ Hiểu. Sau thời gian chữa trị cụ Hiểu không qua nổi và mất vào ngày 2 tháng 6 Kỷ Mão (1639). Cụ Hiểu còn kịp làm sớ gửi về khi thấy mình khó lòng qua khỏi.

    Nhiều bài viết cho rằng việc thảm sát sứ thần Giang Văn Minh xẩy ra vào ngày 2 tháng 6 Kỷ Mão (1639), lấy từ ngày giỗ của cụ Hiểu, tức là hai cụ chết cùng lúc. Điều này là mâu thuẫn với nhiều tài liệu khác trong đó có Đại Việt sử ký vì sử ghi rõ là mùa thu (không rõ tháng mấy) năm 1639, cụ Nguyễn Duy Thì lên ải Nam Quan đón sứ đoàn trở về. Thời đó sứ đoàn không cách nào đi từ Yên Kinh về Nam quan trong vòng ba bốn tháng. Như vậy ta có thể suy đoán địa điểm xảy ra vụ tấn công sứ bộ ở đâu đó khoảng nữa đoạn đường từ Yên Kinh về Thăng Long. Sau khi cụ Hiểu mất người ta mang thi hài cụ về cũng mất 3-4 tháng mới đến Mục Nam Quan. Từ Nam Quan về Thăng Long thì mất khoảng 6 ngày.

    Không có tài liệu nào ghi rõ các cụ có mang hài cốt của hai cụ Giang Văn Minh và cụ Thân Khuê về không, nhưng có lẽ có. Phải chăng việc ra đời của Quán Sứ cũng nói lên hoàn cảnh của cụ Giang Văn Minh chết trên đường đi nên không được mang về nhà mai táng theo tục kiêng cử xưa nay?
  2. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    Giai thoại về Sứ thần Giang Văn Minh

    Nhà thờ Họ Giang


    [​IMG]

    Giang Tộc Từ Đường


    [​IMG] [​IMG]
    [​IMG][​IMG][​IMG]
    [​IMG]Bàn thờ tổ tiên
  3. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    Giai thoại về Sứ thần Giang Văn Minh


    Bia nhà thờ họ Giang do cụ Giang Văn Hiển lập năm 1849

    NHÀ THỜ HỌ GIANG

    Đời vua Thiệu Trị nhà Nguyễn, mùa xuân năm Ất Tỵ (1845), nhà thờ họ Giang được xây dựng với tên gọi: "Giang tộc từ đường".
    Họ Giang có gia phả, một họ có tên tuổi ở làng, đến nay đã có hơn mười đời.
    Cụ Thuỷ tổ, quan võ đời Lê, chức Thần Võ Vệ uý, hiệu Đức Biền. Cụ là người xây dựng nền móng họ Giang ta.
    Cụ Thám hoa, Văn Chung quận công; cụ Hiến sát cương trực, đã góp nhiều công nhiều đức từ nhỏ đến lớn vun đắp dòng họ vẻ vang tốt đẹp.
    Họ Giang trước vẫn có thờ cúng, nhưng chia làm chi phái để thờ. Do đó có hạn chế về hiểu biết; chỉ biết các đời gần, mà không biết các đời xa, chỉ biết huyết thống nhỏ, mà không hiểu biết về huyết thống lớn. Bởi lẽ đó cần hợp lại xây nhà thờ, cùng chung nơi thờ cúng tổ tiên của họ.
    Trong sách thánh hiền: Trình Tử và Chu Tử thường nói: "Tiết vu lễ, đích vu tình" (Mọi việc lễ bái, cốt có tình người). Bởi lẽ đó mà họ Giang xây dựng lên nhà thờ như vậy.
    Ba gian nhà trên làm bái đường (nơi thờ cúng tổ tiên), năm gian nhà dưới là nhà để bia, đồ thờ, vật dụng, nơi mà ngày giỗ tổ cả họ đến tập trung để cúng lễ. Nhà xây tường gạch vững chắc. Mọi chi phí trong việc xây dựng nhà thờ, người trong họ góp công sức tiền của, kể cả đất đai hương hoả của Ất nhị chi và Ất tứ chi cũng hiến góp để xây dựng từ đường.
    Cụ Vệ uý là Thuỷ tổ của họ, cụ Thám hoa - quan trạng đầu tiên của họ, cụ Hiến sát ở hàng cháu đều được thờ cúng ở từ đường, bởi lẽ cụ Thám hoa có tiếng tăm đi sứ là như vậy, cụ Hiến sát nếu có tách ra cũng là chi trưởng vậy. Do đó phải có nhà thờ chung để thờ cúng tiên tổ của họ.
    Các thế hệ nối tiếp về sau phải căn cứ thứ bậc mà theo. Từ một, hai đời (tả chiêu, hữu mục) đến trăm đời về sau vẫn nghĩ đến dòng họ, vẫn có nhà thờ chung để thờ cúng tổ tiên.
    Than ôi! Một gốc không thể cắt bỏ cành nào được. Cùng một dòng họ, các thế hệ có khác nhau, nhưng cùng thờ cúng chung một tổ tiên.
    Ta không thể chia ra, mà coi xem gần hay xa, thân hay sơ, mà phải biết cùng nhau đến nhà thờ để cúng bái tổ tiên.
    Thờ cúng tổ tiên, điều đó phải cùng nhau biết tôn kính. Họ ta từ xưa đã có quy ước, khuôn phép, lấy đó ghi chép mà theo, làm cho họ Giang vẻ vang, cho người đời biết đến.
    Minh viết (Gia phả ghi chép rõ ràng):
    Mười đời về trước, và mãi đến trăm đời về sau đều biết.
    Mừng thay! Mừng thay! Đây là từ đường họ Giang, đây là văn bia ghi chép.
    Triều Nguyễn, Tự Đức năm thứ hai, tháng giêng, năm Kỷ Dậu (1849).
    Cháu đời thứ 10 của họ Giang
    Đỗ giải nguyên khoa Giáp Ngọ - Đô sát viện, Kinh kỳ đạo trưởng, giám sát ngự sử.
    Giang Văn Hiển phụng bái.
    (Giang Văn Khuê dịch ra quốc ngữ.)
    [​IMG][​IMG][​IMG]
    [​IMG] [​IMG]
  4. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    Giai thoại về Sứ thần Giang Văn Minh

    Văn bia Vinh Quận Công

    VINH QUẬN CÔNG GIANG THÁM HOA, VĂN CHUNG TIÊN SINH HÀNH TRẠNG

    (Bài do Tiến sĩ Nguyễn Hữu Tạo viết về cụ Thám hoa)
    Ông họ Giang, huý Văn Minh, tự Quốc Hoa, thuỵ Văn Chung, là người làng Mông Phụ, huyện Phúc Lộc, tỉnh Sơn Tây.
    Cụ Thuỷ tổ, hiệu Đức Biền quan võ, chức Thần Võ Vệ uý đời tiền Lê. Cụ tổ đời thứ hai hiệu Giới Ông, Ấm tú Lâm cục. Cụ tổ đời thứ ba, hiệu Nhuận Phổ nho sinh trung thức. Lúc đầu văn phái họ Giang là như vậy.
    Tương truyền rằng: Ông sinh vào giờ Tuất, ngày Nhâm ngọ, mồng sáu tháng chính năm Quý dậu (1573) niên hiệu Gia Thái năm thứ nhất đời Lê Thế Tông (1573 - 1599).
    Lúc còn trẻ ông cùng tiến sĩ họ Phùng ở quận Kim Bí, tiến sĩ họ Lã ở Cam Đà cùng chung suy nghĩ khác người, lấy sự nghiệp lớn làm trọng.
    Thời vua Lê Thần Tông (1619 - 1663), niên hiệu Vĩnh Tộ thứ mười, năm Mậu Thân (1628) ông đỗ đầu thi Hội và thi Đình. Ông làm bài hay vào bậc nhất, và đỗ nhất giáp tiến sĩ đệ tam danh (Thám hoa) và đỗ hợp cách (Theo quy chế của nhà vua năm đó triều đình chỉ lấy Thám hoa).
    Vẫn ở thời vua Lê Thần Tông, niên hiệu Đức Long năm thứ ba (1631), vua phong tước, chức Thái bộc tự Khanh, phúc lộc bá. Tháng chín năm Đức Long giúp vua Lê, chúa Trịnh. Ông cùng với con thứ của chúa Trịnh là Trịnh Tộ, trấn giữ Nghệ An, chấp hành mọi quân lệnh, hành cấm ở trong phủ Tây vậy.
    Mùa đông năm Dương Hoà (1637), đời Lê Thần Tông, ông là sứ giả chính thức của Việt nam với nhà Minh ở Trung hoa.
    Vua nhà Minh ra vế đối "Đồng trụ chí kim đài dĩ lục" (có nghĩa là Cột đồng đến nay vẫn rêu xanh. Ngụ ý nhắc đến thời kỳ Trung hoa xâm chiếm và cai trị nước ta).
    Ông liền đối lại: "Đằng giang tự cổ huyết do hồng (có nghĩa là: Sông Bạch đằng từ xưa máu quân thù còn loang đỏ. Ý nhắc lại chiến thắng của Ngô Quyền năm 938 và của tướng Trần Hưng Đạo năm 1288 trên sông Bạch Đằng đã đánh bại quân phía Bắc - tức quân Nam Hán và quân Nguyên).
    Vua nhà Minh rất tức giận và nói: "Tại sao nước Nam lại có người dám nói như vậy". Sau đó sai quân mổ bụng xem gan mật ông lớn đến chừng nào, rồi cho ướp thủy ngân và nhân sâm vào thi hài ông và trả về nước ta.
    Thi hài ông về đến Thăng Long, vua Lê Thần Tông và chúa Trịnh đến tận nơi than rằng: "Sứ bất nhục quân mệnh khả vi thiên cổ anh hùng" (đại ý là: Sứ thần không làm nhục mệnh vua giao, thật xứng đáng là bậc anh hùng muôn thuở).
    Trong lễ an táng, điếu văn của nhà vua có câu: "Thục bất hữu sinh, sinh như công dã, sinh ư khoa giáp, kỳ sinh dã vinh" (có nghĩa là Ai mà chẳng sống, sống như ông vậy, sống đỗ đạt khoa giáp, thật là đáng sống).
    "Thục bất hữu tữ, tử như công dã, tử ư quốc sự, kỳ tử do sinh" (có nghĩa là: Ai mà chẳng chết, chết như ông vậy, chết vì việc nước, thì cái chết như sống mãi).
    Ông lại được tặng phong Công bỗ tả thị lang, Vinh quận công.
    Ông mất vào năm thứ hai khi đi sứ nhà Minh (1638). Ngày giỗ của ông: Mồng hai tháng sáu. Mộ táng tại chùa Đông, hợp táng với phu nhân Đỗ Thị, hiệu Từ Huệ, thuỵ Mỹ Hành.
    Ông sinh được hai con trai và bảy con gái. Con trưởng Giang Văn Trạch, giữ chức Quang tiến thần lộc đại phu, Mậu lâm lang hình bộ, Khâm hình tư lang trung, Khâm sai điện tiền đô điểm ty lục sự, thuỵ Tế phủ tiên sinh.
    Con thứ huý Giang Văn Tôn, giữ chức Quang tiến thần lộc đại phu, Mậu lâm lang, Công bộ công trình, Tư lang chung, Khâm sai hành Nghệ an sứ, Đệ hình hiến sát sứ, thuỵ Cương trực tiên sinh. Ông là người hiếu nghĩa nhất mực, truyền đến nay đã hơn hai trăm tám mươi năm.
    Chi Ất còn có ông Giang Văn Hiển, tự Ấm Khanh, cháu bảy đời của cụ Thám hoa, đỗ giải nguyên ở khoa thi Giáp ngọ, giữ chức Kinh kỳ đạo trưởng, Giám sát ngự sử.
    Về phần mộ, nếu chẳng còn biết rõ, điều đó khó cho việc khảo sát sau này.
    Mùa xuân năm Kỷ dậu, Tự Đức năm thứ hai (1849), tướng công Giang Văn Thanh với ông Ấm Khanh cùng với môn nghị soạn gia phả họ Giang, theo trích lục sử của đời Lê biên soạn, để biết được các bậc tiền nhân của Họ từ thuở ban đầu có công giúp vua giữ nước, làm cho đời sau biết được và ghi nhớ. Dù làm một lần, hai lần có lâu hơn nữa cũng phải viết cho được, không để mất và thiếu sót, đời sau mới biết và ghi nhớ như khắc vào bia đá vậy.
    Tự Đức năm thứ hai, tháng Giêng, năm Kỷ dậu (1849).
    Giáp thìn khoa, tiến sĩ nhạc đình Nguyễn Hữu Tạo hiệu Thành bái soạn. ​


    [​IMG] [​IMG]
    [​IMG] [​IMG] [​IMG]
    [​IMG]
  5. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    Giai thoại về Sứ thần Giang Văn Minh


    Mộ cụ Giang Văn Minh

    Bốn chữ "Thiên Cổ Anh Hùng"

    [​IMG]
  6. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    Giai thoại về Sứ thần Giang Văn Minh


    Trong “Việt sử giai thoại” do NXB Giáo Dục ấn hành, nhà sử học Nguyễn Khắc Thuần viết:

    Sứ thần Giang Văn Minh - bản lĩnh người Việt ở phương Bắc


    Vua nhà Minh hôm ấy rất bất bình. Vào ngày khánh thọ nhà vua, các sứ giả các nước đến cống lễ thiên triều, đều mũ áo chỉnh tề, đem phẩm vật đến mừng đúng theo phép tắc. Chỉ mỗi sứ thần Việt Nam là không thấy đâu cả. Vua nổi giận, cho thị vệ đến nơi công quán, đòi sứ giả đến hỏi nguyên do.
    Bọn lính đến nơi thấy sứ thần Việt Nam đang nằm trên giường, ôm mặt khóc nức nở. Đem lệnh tuyên triệu ra bắt buộc, ông mới gắng gượng thất thểu đi theo chúng và triều kiến nhà vua. Trả lời câu hỏi và cũng là lời trách cứ vì tội vô lễ, sứ thần Đại Việt quỳ xuống tâu trình:

    - Chúng tôi tự biết việc dự lễ khánh thọ là hệ trọng, vắng mặt thật là điều trọng tội, kính xin thánh hoàng lượng thứ cho. Nguyên do chỉ vì hôm nay lại đúng vào ngày giỗ tổ của thần. Thần được nhận trọng trách đi sứ xa quê hương lâu ngày, gia đình ở quê thì neo đơn, đến ngày giỗ tổ mà không thắp được cây hương tưởng niệm thì thấy xót xa trong dạ. Vì vậy mà không thể nào tham dự được cuộc vui.
    Nói xong, ông lại khóc ầm lên. Vua Minh bỗng bật cười:

    - Tưởng làm sao chứ như thế thì việc gì phải khóc. Cũng đáng khen cho nhà ngươi biết giữ hiếu kính với tổ tiên. Nhưng nếu là giỗ cha, giỗ mẹ thì còn có thể được, chứ ông tổ xa xôi như vậy thì có gì đáng phải băn khoăn cho lắm. Người khuất, chuyện xa đã đến mấy đời, thì cũng có thể “miễn nghị”.

    Vị sứ giả Việt Nam lau nước mắt, ngẩng đầu lên, giọng trầm và kiên quyết:

    - Muôn tâu, lời dạy của thánh hoàng thật là quý báu. Chính thần cũng đã nghĩ như vậy, mà vẫn không an tâm, vì thần vẫn thấy trong đời, lắm chuyện xa xôi mà không được “miễn nghị”. Chẳng hạn như việc thiên triều bắt nước Nam của thần phải cống nạp người vàng để trả nợ Liễu Thăng chết cách đây hàng mấy trăm năm. Mãi đến bây giờ cũng chưa miễn nghị. Nay được lời thánh hoàng ban dạy, thần cũng xin gác lại ngày giỗ tổ để cùng vui với buổi khánh tiết này. Cúi xin thánh hoàng từ đây “miễn nghị” cho cái nợ Liễu Thăng, cho tình giao hảo hai nước khỏi bị những chuyện xa xôi kia làm bận bịu...

    Vua Minh ngớ người ra! Lý lẽ của sứ thần thật mềm mỏng, ôn hòa mà chặt chẽ, kín không khe hở. Vua đành gật đầu, cho bãi bỏ lệ cống người vàng. Tuy vậy, phải đến triều nhà Thanh, vua Quang Trung mới bắt chúng chấm dứt vĩnh viễn cái lệ này.

    Vị sứ thần ấy tên là Giang Văn Minh ở làng Mông Phụ, Đường Lâm, trước đây thuộc tỉnh Sơn Tây, nay thuộc thị xã Sơn Tây - tỉnh Hà Tây. Ông đỗ Thám hoa năm 1628. Cuộc đi sứ hồi đó vào năm 1637. Câu chuyện vẫn còn tiếp tục. Những ngày ở lại kinh đô nhà Minh, Giang Văn Minh vẫn cứ tỏ thái độ cứng cỏi, đôi lúc cũng ngông cuồng. Có lần sau những ngày mưa gió ẩm ướt, trời nắng to, thiên hạ ai cũng đi dạo chơi, ngắm cảnh, sưởi ấm, riêng ông lại nằm nhà, ra sân, phanh bụng để... phơi nắng! Bọn quan chức Tàu hỏi tại sao, thì ông nói:

    - Lâu nay học hành, sách vở thiên hạ có bao nhiêu, đều thu cả vào trong bụng này. Bên nước Nam, thời tiết hanh khô, chứ bên Trung Quốc thì ẩm ướt quá. Hôm nay được trời nắng to phải phơi bụng ra cho chữ trong ấy khỏi mốc!

    Câu trả lời nghịch ngợm, hóm hỉnh thôi. Nhưng bọn quan lại hiểu ra là ông có ý khinh bỉ, ngạo đời. Cái nước An Nam nhỏ bé thế mà có người lại dám ngông nghênh xấc xược! Chúng tâu lại với vua Minh, nhà vua cũng tự ái, cứ muốn nhắc lại cho sứ giả biết rằng xưa kia nước Nam đã có thời gian nội thuộc thiên triều lâu dài. Bởi vậy nhân một dịp thử tài ứng đối, nhà vua đã ra cho Giang Văn Minh một vế đối như sau:


    Cột đồng nay rêu đã bám xanh!
    (Đồng trụ chí kim đài dĩ lục)

    ý muốn nhắc chuyện Mã Viện chôn cột đồng để khoe khoang chiến công xâm lược. Cột đồng còn đó thì chiến công thiên triều còn lưu lại bây giờ.
    Giang Văn Minh thấy họ chỉ thích thú với tội ác mà quên đi bao nhiêu nhục nhã từ xưa, nên cứng cỏi đáp lại:


    Sông Đằng từ lâu máu vẫn đỏ!
    (Đằng giang tự cổ huyết do hồng!)


    Máu vẫn đỏ là vì máu loang ra từ những trận Ngô Quyền diệt Hoằng Thao, Lê Hoàn diệt Hầu Nhân Bảo, Trần Hưng Đạo diệt Thoát Hoan.

    Bị chạm nọc vì Giang Văn Minh ngang nhiên nhắc lại những trận thua đau của họ, vua Minh nổi cáu, bất chấp cả luật lệ bang giao, cho bắt giam, trám mắt, trám miệng và mổ bụng Giang Văn Minh xem sứ thần Việt Nam to gan đến thế nào. Cuộc sát hại hèn hạ này xảy ra vào năm 1639.
  7. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    Giai thoại về Sứ thần Giang Văn Minh

    Đọc các bài trên chúng ta thấy người ta đang đầu độc trẻ con như thế nào. Nếu việc trên có chứng cớ rõ ràng thì cũng không nên kích động hằn thù dân tộc. Chúng ta cần sống hòa bình hữu nghị với các nước láng giềng để xây dựng đất nước. Còn không có chứng cớ rõ ràng thì khác nào chúng ta đang dạy bọn trẻ con nói dối và vu khống.

    Về việc các cụ hy sinh trong lúc thi hành công vụ dù vì lý do nào thì đó là hy sinh vì đất nước, vì nhân dân, thật đáng để người đời sau trân trọng và tôn vinh.

  8. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    Giai thoại về Lê Văn Tám
    Theo Bách khoa toàn thư mở Wikipedia


    Lê Văn Tám là tên một thiếu niên anh hùng trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp của Việt Nam với chiến tích nổi bật là tự đốt mình để lao vào phá hủy một kho xăng của quân địch. Sau chiến tranh, hình ảnh Lê Văn Tám được coi là một biểu tượng anh hùng cách mạng, được nhắc tới cho đến tận ngày nay trong sách giáo khoa để các em thiếu nhi học tập tấm gương của một thiếu niên anh hùng dân tộc, đã xả thân vì nghiệp lớn giải phóng dân tộc[cần dẫn nguồn].
    Tên Lê Văn Tám được đặt tên cho nhiều trường học, công viên tại Việt Nam. Song có những ý kiến cho rằng: người chiến sĩ đã hy sinh khi đốt kho đạn Thị Nghè là có thật, nhưng tên gọi thì không ai biết chính xác, Lê Văn Tám chỉ là tên gọi được gán cho chiến sĩ đó.

    Câu chuyện

    Câu chuyện về Lê Văn Tám thường kể rằng có một cậu bé làm nghề bán đậu phộng rang, tuy nhỏ tuổi nhưng đã tham gia lực lượng kháng chiến chống Pháp. Sau khi thám thính kĩ, cậu bé tìm cách lọt vào được kho xăng của Pháp ở Thị Nghè. Cậu đã tẩm dầu lên mình và đốt, rồi nhảy vào một thùng xăng gần nhất. Cả kho xăng đã bị phá hủy và cậu bé cũng hy sinh theo.
    Câu chuyện này đã được tuyên truyền rộng rãi tại Việt Nam trong thời kỳ chiến tranh, với biểu tượng "ngọn đuốc sống Lê Văn Tám", nhằm cổ vũ tinh thần chiến đấu của nhân dân... Câu chuyện này cũng được đưa vào sách giáo khoa tiểu học ở Việt Nam. Tên của Lê Văn Tám đã được nhiều tỉnh thành đặt cho một số trường tiểu học, quỹ học bổng, tượng đài, công viên, rạp chiếu phim, đường phố hay các địa danh khác ở Việt Nam.
  9. MrKhuKhoam

    MrKhuKhoam Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    12/04/2011
    Bài viết:
    4.334
    Đã được thích:
    1.180
    Ngay đây là một ví dụ, tuy cũng lâu rồi nhưng cũng góp vui với lão Vá: Mạnh mồm và bốc đồng chỉ tổ mang thất bại cho quốc gia : Trường hợp Giang Văn Minh

  10. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    Giai thoại về Lê Văn Tám

    [​IMG]

    Tượng đàii LVT

    [​IMG]

    AMH

Chia sẻ trang này