1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Những giai thoại..."trời ơi" trong lịch sử

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi vaputin, 13/07/2012.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    Giai thoại về Lê Văn Tám

    GS Phan Huy Lê: Trả lại sự thật hình tượng Lê Văn Tám

    14/10/2009 10:02:08
    [​IMG] - "Theo quan điểm của tôi, mọi biểu tượng hay tượng đài lịch sử chỉ có sức sống bền bỉ trong lịch sử và trong lòng dân khi được xây dựng trên cơ sở khoa học khách quan, chân thực" - GS Phan Huy Lê nhấn mạnh sau khi giải thích về hình tượng nhân vật Lê Văn Tám.

    GS Trần Huy Liệu căn dặn chúng tôi phải nói lại
    [​IMG]
    "Lời dặn của GS Trần Huy Liệu là đến lúc đất nước yên ổn, cần phải nói lên sự thật về câu chuyện Lê Văn Tám" - GS Phan Huy Lê. Bấy giờ là vào đầu những năm 60 của thế kỷ trước, tôi có nhiều dịp làm việc với GS Trần Huy Liệu trong công trình khoa học do GS chủ trì và tôi được mời tham gia. Lúc đó, GS Trần Huy Liệu là Phó chủ nhiệm Ủy ban Khoa học xã hội, kiêm Viện trưởng Viện sử học. Ngoài những buổi họp ban biên soạn ở cơ quan, tôi có một số buổi làm việc với GS tại nhà riêng.

    Ngoài công việc biên soạn công trình, GS thường trao đổi một cách thân tình những vấn đề thời sự sử học trong và ngoài nước, kể lại một số chuyện trong đời hoạt động cách mạng của mình. Trong những năm 1954 - 1956, khi tôi đang học ở trường Đại học Sư phạm/văn khoa Hà Nội, GS Trần Huy Liệu có đến giảng một số bài về cách mạng Việt Nam.

    Về câu chuyện Lê Văn Tám, tôi xin được tóm lược một cách đầy đủ lời kể và lời dặn của GS Trần Huy Liệu mà tôi đã lĩnh hội như sau: Nhân vụ kho xăng của địch ở Thị Nghè bị đốt cháy vào khoảng tháng 10 - 1945 và được loan tin rộng rãi trên báo chí trong nước và đài phát thanh của Pháp, đài BBC của Anh; nhưng không biết ai là người tổ chức và trực tiếp đốt kho xăng nên tôi (GS Trần Huy Liệu) đã "dựng" lên câu chuyện thiếu niên Lê Văn Tám tẩm xăng vào người rồi xông vào đốt kho xăng địch cách đấy mấy chục mét.

    GS Trần Huy Liệu còn cho biết là sau khi ta phát tin này thì đài BBC đưa tin ngay, và hôm sau bình luận: Một cậu bé tẩm xăng vào người rồi tự đốt cháy thì sẽ gục ngay tại chỗ, hay nhiều lắm là chỉ lảo đảo được mấy bước, không thể chạy được mấy chục mét đến kho xăng. GS đã tự trách là vì thiếu cân nhắc về khoa học nên có chỗ chưa hợp lý. Đây là ý kiến của GS Trần Huy Liệu mà sau này tôi có trao đổi với vài bác sĩ để xác nhận thêm.

    Tôi nhấn mạnh là GS Trần Huy Liệu không hề “hư cấu” sự kiện kho xăng địch ở Thị Nghè bị đốt cháy mà trên cơ sở sự kiện có thật đó, chỉ “dựng lên”, theo cách nói của GS, chuyện thiếu niên Lê Văn Tám tẩm xăng đốt cháy kho xăng địch.

    GS giải thích là thời Nam Bộ kháng chiến, có bao nhiêu tấm gương hy sinh vì Tổ quốc, nhưng “dựng” chuyện thiếu niên Lê Văn Tám là nghĩ đến biểu tượng cậu bé anh hùng làng Gióng (Phù Đổng Thiên Vương), còn việc đặt tên Lê Văn Tám là vì họ Lê Văn rất phổ biến ở nước ta và Tám là nghĩ đến Cách mạng tháng Tám.

    Lúc bấy giờ, GS Trần Huy Liệu đang giữ chức Bộ trưởng Bộ Thông tin tuyên truyền trong Chính phủ lâm thời, nên GS nói rõ là muốn tạo dựng nên một biểu tượng anh hùng để tuyên truyền, cổ vũ tinh thần chiến đấu của quân dân ta.
    Cũng xin lưu ý là GS Trần Huy Liệu giữ chức Bộ trưởng Bộ Thông tin tuyên truyền trong Chính phủ lâm thời từ ngày 28 - 8 - 1945 đến ngày 1 - 1 - 1946, rồi Bộ trưởng Bộ Tuyên truyền cổ động trong Chính phủ liên hiệp lâm thời từ ngày 1 - 1 - 1946 cho đến khi thành lập Chính phủ liên hiệp kháng chiến tại kỳ họp Quốc hội ngày 2 - 3 - 1946, nghĩa là trong thời gian xảy ra sự kiện Kho xăng Thị Nghè bị đốt cháy, chứ không phải trong thời gian “1946 - 1948?” sau sự kiện trên.

    Điều căn dặn của GS Trần Huy Liệu là: Sau này khi đất nước yên ổn, các anh là nhà sử học, nên nói lại giùm tôi, lỡ khi đó tôi không còn nữa. Trong câu chuyện, GS còn tiên lượng là biết đâu sau này có người đi tìm tung tích nhân vật Lê Văn Tám hay có người lại tự nhận là hậu duệ của gia đình, họ hàng người anh hùng. Đây chính là điều lắng đọng sâu nhất trong tâm trí mà tôi coi là trách nhiệm đối với GS Trần Huy Liệu đã quá cố và đối với lịch sử.

    GS Trần Huy Liệu là một con người rất trung thực, không muốn để lại một sự ngộ nhận trong lịch sử do mình tạo nên trong một bối cảnh và yêu cầu bức xúc của cuộc kháng chiến và tôi lĩnh hội lời dặn của GS như một trách nhiệm phải thực hiện một cách nghiêm túc.

    Tôi kể lại câu chuyện này một cách trung thực với tất cả trách nhiệm và danh dự của một công dân, một nhà sử học.

    Ngày nay, từ đầu thế kỷ XXI nhìn lại, trong hoàn cảnh chiến tranh đã lùi xa vào quá khứ hơn 30 năm, đất nước đã giành lại độc lập, thống nhất, tôi xin đặt ra hai vấn đề sau đây để thế hệ chúng ta cùng bàn luận.

    - Xác minh rõ sự kiện Kho xăng địch bị đốt cháy trong tháng 10-1945.

    - Thái độ ứng xử đối với biểu tượng Lê Văn Tám.

    Vấn đề thứ nhất là cần cố gắng sưu tầm tư liệu đáng tin cậy để xác định rõ hơn sự kiện Kho xăng địch ở Thị Nghè bị đốt cháy trong tháng 10-1945:

    Tôi nói tư liệu đáng tin cậy trong trường hợp này không phải là các sách báo viết về sau này, mà là tư liệu gốc khai thác từ nhân chứng lịch sử hay những thông tin trực tiếp từ sự kiện thời bấy giờ và dĩ nhiên đều phải đối chiếu, xác minh một cách khoa học.

    Nhân chứng lịch sử:

    Tôi đã có dịp hỏi GS Trần Văn Giàu - lúc đó giữ chức Chủ tịch Ủy ban kháng chiến Nam bộ, thì GS khẳng định có sự kiện Kho xăng địch ở Thị Nghè bị đốt cháy và trong tình hình lúc đó là do ta đốt, nhưng không biết ai tổ chức và người nào thực hiện.

    Nhà cách mạng lão thành Dương Quang Đông trong hồi ký viết rằng, người đốt Kho đạn Thị Nghè ngày 1-1-1946 không phải là Lê Văn Tám mà là tổ đánh mìn của công nhân nhà máy đèn Chợ Quán (tạp chí Xưa & Nay số 154).

    Tư liệu báo chí:

    Tư liệu báo chí lúc bấy giờ thì tại Thư viện quốc gia Hà Nội lưu giữ được rất ít, các số báo lại không đủ. Bước đầu tôi mới tìm thấy thông tin liên quan với Kho xăng Thị Nghè bị đốt cháy trong báo Quyết chiến là “cơ quan ủng hộ chính quyền nhân dân”, tòa soạn đặt ở phố Nguyễn Tri Phương, Thuận Hóa; báo Cờ giải phóng là “cơ quan tuyên truyền cổ động trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương” và báo Thời mới do Nguyễn Văn Luận làm Chủ nhiệm; nhưng các số không liên tục, không đủ.

    Báo Quyết chiến số ngày thứ sáu, ?- 10 - 1945 đưa tin dưới tít lớn Một chiến sĩ ta tẩm dầu vào mình đốt cháy kho dầu Simon Piétri với nội dung như sau: “Một gương hi sinh vô cùng dũng cảm. Một chiến sĩ ta tẩm dầu vào mình tự làm mồi lửa đã đốt được kho dầu Simon Piétri, lửa cháy luôn hai đêm hai ngày.

    Đài Sài Gòn trong buổi truyền thanh tối 17 - 10 công nhận rằng kho dầu này đã hoàn toàn bị thiêu ra tro, sự thiệt hại đến mấy chục triệu đồng”.

    Ngày phát hành số báo, in ngày “thứ sáu”, số ngày không rõ và có người viết thêm bút mực con số 7, tiếp theo là tháng “10 - 45”. Theo lịch năm 1945, trong tháng 10 có 3 ngày thứ sáu là ngày 12, 19 và 26. Trong bản tin có nhắc đến buổi phát thanh của Đài Sài Gòn ngày 17, vậy ngày thứ sáu của tờ báo phải sau ngày đó và có thể xác định là ngày 19 - 10 - 1945.

    Báo Thời mới số 6 ngày 28 - 10 - 1945, nhân lễ khai mạc Ngày Cứu quốc do Tổng hội sinh viên cứu quốc tổ chức, đăng bài Những chuyện cảm động của dân ta trong cuộc kháng chiến ở Nam Bộ, có đoạn kể lại câu chuyện đốt kho xăng ở Sài Gòn theo lời kể của một người từ Nam Bộ ra Hà Nội ngày 21-10-1945 như sau: “Một người bạn tôi ở Nam Bộ vừa ra đây hôm hai mươi mốt kể cho tôi nghe nhiều điều tai nghe mắt thấy ở Nam Bộ để chứng cho cái tinh thần kháng chiến anh dũng đó. Thứ nhất là chuyện anh dân quân tẩm dầu vào người, đốt cháy kho ét-săng và cao su sống ở Sài Gòn.

    Có người nói rằng nhà chiến sĩ tuẫn quốc này tự nguyện xin mặc áo bông giầy tẩm xăng rồi lấy lửa tự châm mình như một cây đinh liệu, xông vào kho cao su sống kia. Không phải thế. Làm thế thì cố nhiên giặc Pháp ngăn lại ngay từ khi chưa tới cửa kho.

    Thực ra thì nhà chiến sĩ của chúng ta phải dùng mưu nhiều lắm. Trước khi vào, anh em mọi Pleiku của chúng ta đã phải lừa lúc giặc Pháp canh phòng không cẩn thận, trèo lên những cái cây to ở xung quanh kho cao su, bắn tên độc vào những người gác ở bốn bề. Nhà chiến sĩ, nhằm chính lúc cơ hội thuận tiện đã đến, tẩm dầu vào người, đeo súng liên thanh, bò qua tường vào trong kho cao su tìm bắn những người Pháp. Chúng bâu lại như đàn ruồi.

    Chiến sĩ Việt Nam biết không thể làm hơn được nữa, bắn lia lịa vào những thùng ét-săng ở hai bên, ét-săng tràn ra cả nhà. Chiến sĩ ta châm một mồi riêm vào người, nhảy lên đám thùng rỗng, chửi rủa giặc Pháp tàn tệ.

    Trong lúc đó, cả mình mẩy anh bừng bừng lên. Anh vẫn chửi rủa giặc Pháp cho đến khi gục nằm xuống như một đấng thiên thần hiện ra rồi mờ đi trong giấc mơ dữ dội. Những người đứng xa ngoài ba mươi cây số còn trông thấy ngọn lửa đám cháy này và trong hai ba ngày đêm liền, giặc Pháp và phái bộ Anh không thể nào rập tắt”.

    Báo Cờ giải phóng số ra ngày 25-10-1945, đưa lên trang đầu hình ảnh một người đang bốc cháy xông về phía trước kèm theo lời “Tinh thần anh dũng của đồng bào Nam Bộ muôn năm”.

    Báo Cờ giải phóng ngày 5-11-1945, trong mục Mặc niệm: "trích đăng một vài tấm gương xung phong anh dũng đã được nêu lên trên mặt báo chí miền Nam”, có đoạn đưa tin: “Trước kho đạn Thị Nghè có rất đông lính Anh, Ấn, Pháp gác nghiêm ngặt, khó bề đến gần phóng hỏa.

    Một em thiếu sinh 16 tuổi, nhất định không nói tên họ, làng, tình nguyện ra lấy thân mình làm mồi dẫn hỏa. Em quấn vải quanh mình, tẩm dầu xăng, sau lưng đeo một cái mồi, đứng im đốt mồi lửa, miệng tung hô “Việt Nam vạn tuế”, chân chạy đâm sầm vào kho đạn. Lính Anh đứng trong bắn ra như mưa. Một lần trúng đạn, em ngã nhào xuống, nhưng rồi ngồi dậy chạy luồn vào.

    Lính Anh khiếp đảm bỏ chạy ra ngoài. Một tiếng nổ. Em thiếu sinh tiêu tán cùng với kho đạn Thị Nghè của giặc”
    .
    Dưới bản tin có ghi chú “Kèn gọi lính, ngày 8 - 10 - 1945”. Như vậy báo đưa tin theo tin của báo Kèn gọi lính ngày 8 - 10 - 1945 và theo đó, kho đạn bị đốt cháy phải trước ngày 8 - 10 - 1945, ít ra là ngày 7-10-1945.

    Trên đây là một số thông tin lấy từ báo chí ở thời điểm gần nhất với sự kiện liên quan đến chuyện Lê Văn Tám. Tôi hi vọng là những người quan tâm đến chuyện này có thể tìm kiếm và thu thập thêm thông tin báo chí mà tôi chưa được tiếp cận.
    Còn sự kiện quân ta phá nổ kho đạn của địch ở Sài Gòn ngày 8-4-1946 mà Đại tướng Võ Nguyên Giáp nói đến trong hồi ký "Những năm tháng không thể nào quên" thuộc giai đoạn sau, không liên quan đến chuyện Lê Văn Tám.

    Trong những báo trên, thông tin sớm nhất là "Kèn gọi lính" do báo Cờ giải phóng trích đăng ngày 5-11-1945. Rất tiếc là tôi không tìm thấy báo Kèn gọi lính mà căn cứ theo đoạn trích của Cờ giải phóng. Theo thông tin này thì “một em thiếu nhi 16 tuổi” đốt kho đạn Thị Nghè trước ngày 8-10-1945, chứ không phải kho xăng Thị Nghè.

    Báo Quyết Chiến ngày 19? - 10 - 1945 lại đưa tin “kho dầu Simon Piétri” bị “một chiến sĩ ta” đốt cháy vào trước ngày 17 - 10 - 1945. Kho đạn ở Sở thú và kho xăng ở Thị Nghè là hai địa điểm gần nhau. Như vậy theo những thông tin gần thời điểm xảy ra sự kiện thì vẫn còn phải tìm thêm cứ liệu để xác định là kho đạn hay kho xăng và thời điểm là ngày nào, chắc hẳn trước ngày 17 - 10 - 1945.

    Rồi người thực hiện là “em thiếu nhi 16 tuổi” (Kèn gọi lính) hay “một chiến sĩ ta” (Quyết chiến) hay “anh dân quân tẩm dầu vào người” (Thời mới). Việc tẩm xăng vào người, lúc đó cũng đã gây ra sự bàn luận.
    Thời mới đã bác bỏ chuyện người chiến sĩ tẩm dầu vào người xông vào kho xăng vì “không phải thế, làm thế thì cố nhiên giặc Pháp ngăn lại ngay từ khi chưa tới cửa kho” và cho rằng người chiến sĩ phải “dùng mưu nhiều lắm” để lẻn vào gần kho xăng rồi mới “tẩm dầu vào người”, dùng súng bắn thủng các thùng xăng và châm diêm vào người, nhảy vào đám thùng xăng. Không biết tác giả dựa trên căn cứ nào nhưng về khách quan, cách trình bày này hợp lý hơn.

    Với những thông tin đã tập hợp, tuy chưa đủ và còn một số khía cạnh chưa xác minh được (kho xăng hay kho đạn, thời điểm, người đốt) nhưng sự kiện kho xăng (hay đạn) của địch ở Thị Nghè (hay gần Thị Nghè) bị ta đốt cháy là có thật.

    Ngay lúc đó, trên báo chí đã xuất hiện những thông tin khác nhau về người đốt và cách đốt kho xăng, tuy nhiên có điểm chung là gắn với hình ảnh một chiến sĩ tẩm xăng đốt cháy kho xăng địch và không có tên Lê Văn Tám hay tính danh của người chiến sĩ đã hi sinh.

    Điểm lại những tư liệu đã thu thập được thì càng thấy rõ, trên cơ sở sự kiện có thật và cả dư luận về hình ảnh người chiến sĩ tẩm xăng thời đó, GS Trần Huy Liệu tạo dựng nên biểu tượng “ngọn đuốc sống” gắn với tên tuổi thiếu niên Lê Văn Tám.

    Vấn đề thứ hai là cách ứng xử đối với biểu tượng “ngọn đuốc sống Lê Văn Tám”:

    Trong bàn luận, cũng có người nghĩ rằng, “ngọn đuốc sống Lê Văn Tám” đã đi vào lòng dân rồi, các nhà sử học không cần xác minh nhân vật đó có thật hay không, làm ảnh hưởng tới một “biểu tượng”, một “tượng đài” yêu nước. Tôi quan niệm hoàn toàn khác.

    Đối với sử học, tôn trọng sự thật, tìm ra sự thật, xác minh sự thật là một nguyên tắc cao cả thuộc về phẩm chất và chức năng của nhà sử học. Dĩ nhiên, với trách nhiệm công dân, có những sự thật trong một bối cảnh cụ thể nào đó liên quan đến bí mật quốc gia hay ảnh hưởng đến lợi ích sống còn của dân tộc, nhà sử học chưa được công bố.
    Về nguyên lý, mọi kết quả nghiên cứu sử học càng khách quan và trung thực, càng có tác dụng tích cực xây dựng nhận thức lịch sử đúng đắn và không có gì mâu thuẫn với các biểu tượng lịch sử, các tượng đài yêu nước có giá trị được nhân dân tôn vinh.

    Ngay đối với những biểu tượng mang tính huyền thoại, truyền thuyết như Lạc Long Quân - Âu Cơ, Con Rồng-Cháu Tiên, Phù Đổng Thiên Vương, nỏ thần An Dương Vương, vua Lê trả Gươm thần ở hồ Hoàn Kiếm..., kết quả nghiên cứu khoa học chỉ góp phần làm sáng tỏ cơ sở khoa học, cốt lõi lịch sử của biểu tượng.
    Ví dụ những phát hiện khảo cổ học về đồ sắt trong văn hóa Đông Sơn, kho mũi tên đồng ở Cổ Loa và gần đây, hệ thống lò đúc mũi tên đồng ngay trong thành Nội của thành Cổ Loa, giúp chúng ta hiểu sâu sắc hơn cốt lõi lịch sử của hình ảnh ngựa sắt của Thánh Gióng, vai trò của nỏ thần của An Dương Vương. Chuyện vua Lê trả Gươm thần ở hồ Hoàn Kiếm vẫn nguyên giá trị thiêng liêng, không hề bị ảnh hưởng bởi việc nghiên cứu giống rùa và tuổi thọ của rùa Hồ Gươm...

    Biểu tượng “ngọn đuốc sống Lê Văn Tám” thực sự đã được quảng bá rộng rãi, đi sâu vào tâm thức của nhân dân, tiêu biểu cho tinh thần hi sinh anh dũng, ý chí xả thân vì nước của quân dân ta trong buổi đầu của Nam kỳ kháng chiến. Một số đường phố, trường học, công viên hiện nay đã mang tên Lê Văn Tám. Lời dặn của GS Trần Huy Liệu là đến lúc đất nước yên ổn, cần phải nói lên sự thật về câu chuyện Lê Văn Tám.

    Đó không phải là tên của nhân vật lịch sử có thật, nhưng phản ánh một sự kiện lịch sử có thật, một tinh thần hi sinh vì Tổ quốc có thật. Đó là một biểu tượng đã đi vào lịch sử mang tính phổ biến và thiêng liêng. Trả lại nguồn gốc thật của biểu tượng này là để tạo lập một nền tảng nhận thức khoa học, khách quan về quá trình hình thành biểu tượng Lê Văn Tám.

    Tôi nghĩ rằng tất cả các đường phố, trường học, công viên... mang tên Lê Văn Tám vẫn để nguyên, vẫn được tôn trọng như một biểu tượng với nội dung giải thích đúng sự thật và ngăn chặn mọi ý đồ dựng lên lý lịch Lê Văn Tám như một nhân vật có thật rồi có người lại nhận là hậu duệ của nhân vật này.

    Đến đây, tôi đã làm tròn trách nhiệm đối với lời dặn của cố GS Trần Huy Liệu, kèm thêm một số đề xuất để xử lý câu chuyện Lê Văn Tám. Tôi hoàn toàn không coi đấy là việc làm trái với phẩm chất trung thực hay lương tâm của nhà sử học, cũng không ảnh hưởng đến uy tín của GS Trần Huy Liệu và càng không làm đổ một biểu tượng hay tượng đài yêu nước. Tôi nhấn mạnh, theo quan điểm của tôi, mọi biểu tượng hay tượng đài lịch sử chỉ có sức sống bền bỉ trong lịch sử và trong lòng dân khi được xây dựng trên cơ sở khoa học khách quan, chân thực.
    * Title do Tòa soạn đặt lại

    • GS Phan Huy Lê (Bài đăng trên Tạp chí Xưa&Nay số ra tháng 10 năm 2009)
  2. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    Giai thoại về Lê Văn Tám

    Tranh luận về Văn Tám tiếp tục

    Nguyễn Hùng
    bbcvietnamese.com

    Giáo sư Phan Huy nói những địa danh mang tên Văn Tám nên để nguyên


    Cuộc tranh luận về nhân vật anh hùng thiếu niên Văn Tám có thật hay hư cấu đã lại nóng lên trong thời gian gần đây với các bài viết chỉ trích giáo sư Phan Huy , người nói rằng đây là nhân vật hư cấu và bài phản bác lại của chính vị giáo sư này.

    Tranh luận xoay quanh câu chuyện thiếu niên Văn Tám tẩm xăng vào người rồi chạy mấy chục mét tới đốt kho xăng của đối phương hồi năm 1945.

    Trong bài viết mới nhất đăng trên tạp chí Xưa và Nay số ra tháng 10, giáo sư sử học Phan Huy nhắc lại chuyện ông đã được Giáo sư Trần Huy Liệu, Viện trưởng Viện sử học và cũng là Bộ trưởng Tuyên truyền hồi thập niên 40 kể cho nghe nhân vật Văn Tám là do ông Liệu ''dựng'' lên để ''cổ vũ tinh thần chiến đấu'' của người Việt.
    Ông Phan Huy cũng nói giáo sư Liệu kể lại rằng sau khi Việt Nam đưa tin này thì đài BBC cũng đưa tin và sau đó bình luận một cậu bé tẩm xăng vào người đốt thì không thể chạy được mấy chục mét đến kho xăng và ông ''đã tự trách là vì thiếu cân nhắc về khoa học nên có chỗ chưa hợp lý''.
    Ông viết rằng chuyện cháy kho xăng là có thật nhưng ai đốt cháy thì còn chưa rõ và nhân vật Văn Tám chỉ là một hình tượng được dựng lên.

    Vị giáo sư sử học cũng trích lời ông Trần Huy Liệu nói với ông và hai người khác trong một cuộc gặp: ''Sau này khi đất nước yên ổn, các anh là nhà sử học, nên nói lại giùm tôi, lỡ khi đó tôi không còn nữa.''

    Tư liệu
    Trên thực tế, giáo sư Phan Huy đã khẳng định nhân vật Văn Tám là hư cấu từ cách đây vài năm nhưng trong vài tuần gần đây một cựu bác sỹ quân y và nay là nhà văn đang sống ở thành phố Hồ Chí Minh, ông Nguyễn Văn Thịnh đã có bài phản bác kịch liệt.

    Nói chuyện với BBC hôm 16/10, ông Thịnh nói bài viết mới của giáo sư cũng không thuyết phục được ông.
    ''Cái giải thích của anh Phan Huy là một cái phủi tay. Năm năm, sáu năm trời rồi anh ấy không có một lời đính chính (cho phát biểu về chuyện nhân vật Văn Tám không có thật) bây giờ bài của tôi đăng lên anh ấy mới có bài này.''
    Nói về tuyên bố của giáo sư hồi năm 2005 và cuộc trả lời phỏng vấn khi đó với báo Người Việt ở California, ông Thịnh nói:
    Văn Tám không phải là hư danh đâu mà chúng tôi cũng sẽ chứng minh là có thật.
    Nguyễn Văn Thịnh


    ''Bản tin lần trước nói rất chung chung, chỉ nói một cái là chuyện đó là chuyện hoàn toàn không có thực, phủ nhận cả sự nghiệp, công trạng và con người."
    ''Đấy là cái xúc phạm rất lớn mà những vị chiến sĩ từng chiến đấu ở Sài Gòn, tôi đã gặp những anh năm nay 80-85 rồi, anh ấy rất là công phẫn và cung cấp tư liệu cho tôi viết."
    '' Văn Tám không phải là hư danh đâu mà chúng tôi cũng sẽ chứng minh là có thật,'' ông Thịnh nói.
    Nhưng khi được BBC hỏi liệu ông đã có đầy đủ tư liệu để chứng minh rằng nhân vật Văn Tám có thật hay không, ông nói:
    ''Dĩ nhiên bây giờ một người chết đã rất lâu rồi bây giờ gọi là tư liệu hoàn toàn chính xác thì không ai dám nói nhưng mà có những cơ sở, những tư liệu, những người nói rằng Văn Tám là có thật."
    ''Chúng tôi đã từng đi qua chiến tranh thì ngay những người bạn mình đã chết mình cũng không hiểu nổi cơ mà.''

    Đuốc sống
    Trong khi đó, giáo sư Phan Huy viết trong bài mới nhất:
    ''Tôi kể lại câu chuyện này một cách trung thực với tất cả trách nhiệm và danh dự của một công dân, một nhà sử học.''
    Ông cũng trích dẫn các nhân chứng và báo chí hồi những năm 1945 đưa tin về vụ cháy kho xăng, có báo đưa tin kho đạn với những thông tin khác nhau về người gây ra các vụ cháy/nổ.
    Trả lại nguồn gốc thật của biểu tượng này là để tạo lập một nền tảng nhận thức khoa học, khách quan về quá trình hình thành biểu tượng Văn Tám.
    Giáo sư Phan Huy


    Giáo sư viết: ''Điểm lại những tư liệu đã thu thập được thì càng thấy rõ, trên cơ sở sự kiện có thật và cả dư luận về hình ảnh người chiến sĩ tẩm xăng thời đó, GS Trần Huy Liệu tạo dựng nên biểu tượng 'ngọn đuốc sống' gắn với tên tuổi thiếu niên Văn Tám.''
    Giáo sư cũng nói ông không đồng tình với quan điểm cho rằng ''ngọn đuốc sống Văn Tám'' đã đi vào lòng dân rồi và các nhà sử học ''không cần xác minh nhân vật đó có thật hay không, làm ảnh hưởng tới 'biểu tượng', một 'tượng đài' yêu nước.''
    ''Theo quan điểm của tôi, mọi biểu tượng hay tượng đài lịch sử chỉ có sức sống bền bỉ trong lịch sử và trong lòng dân khi được xây dựng trên cơ sở khoa học khách quan, chân thực.''
    Ông nói cho dù Văn Tám không phải là một tên thật nhưng ''phản ánh một sự kiện lịch sử có thật, một tinh thần hi sinh vì Tổ quốc có thật."
    ''Đó là biểu tượng đã đi vào lịch sử mang tính phổ biến và thiêng liêng. Trả lại nguồn gốc thật của biểu tượng này là để tạo lập một nền tảng nhận thức khoa học, khách quan về quá trình hình thành biểu tượng Văn Tám,'' giáo sư viết.
    ''Tôi nghĩ rằng tất cả các đường phố, trường học, công viên... mang tên Văn Tám vẫn để nguyên, vẫn được tôn trọng như một biểu tượng với nội dung giải thích đúng sự thật.''
  3. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    Giai thoại về Lê Văn Tám

    Lê Văn Tám có thật hay là nhân vật hư cấu?

    Lê Văn Tám! Anh là ai?

    Nguyễn Văn Thịnh


    Dư luận từ râm ran đến ngày càng rộ lên về chuyện tấm gương hy sinh anh hùng của một thiếu niên ở Sài gòn trong những ngày đầu Nam bộ kháng chiến mà trong tâm trí của nhiều thế hệ người Việt Nam, hơn nửa thế kỷ qua vẫn coi như ngọn đuốc sống sáng ngời tinh thần yêu nước.

    Người ta càng lưu tâm nhiều hơn vì tin ấy chính thức tung ra từ mấy người trong giới sử đã có thương hiệu qúa quen thuộc với nhiều người. Trước hết là ông Phan Huy Lê nói tại cuộc gặp mặt các nhà làm phim ở Hà Nội đầu năm 2005, lại có tạp chí Xưa và nay của ông Dương Trung Quốc đăng hồi ký của nhà hoạt động cách mạng lão thành ở miền Nam là ông Dương Quang Đông xác nhận điều đó. Sự kết hợp nhịp nhàng giữa báo nói, báo viết về một sự kiện thiếu tính chân xác của lịch sử đang thành một chấn động dây truyền trong lòng người lẽ ra không đáng có!

    Theo ông Lê, đấy là điều ông cần phải nói ra, trước hết là trách nhiệm của người làm sử có lương tâm, sau là trả món nợ với anh Trần Huy Liệu – bậc thầy của ông đồng thời là nhà cách mạng lão thành kiêm sử gia đáng kính.

    Dựa vào tin thu trên mạng, tóm lược như sau: Lúc đang làm Bộ trưởng Thông tin tuyên truyền (thời điểm 1946-1948?), ông Trần Huy Liệu đã viết về một nhân vật thiếu nhi Lê Văn Tám tự tẩm xăng vào người và chạy vào đốt kho xăng của giặc Pháp ở Thị Nghè. Ông Lê nói: Lúc sáng tác ra câu chuyện Lê Văn Tám, anh Liệu có nói với tôi rằng: Bây giờ vì nhiệm vụ tuyên truyền nên tôi viết tài liệu này, sau này khi đất nước yên ổn, các anh là nhà sử học nên nói lại giùm tôi, lỡ khi đó tôi không còn nữa. Lúc đó ông Trần Huy Liệu đã là một nhà hoạt động xã hội lớn thì sao có thể thổ lộ gan vàng với cậu bé Lê mươi mười lăm tuổi?!

    Nhà văn Phan Vũ thì kể rằng ông không biết chuyện đốt kho xăng có thật không nhưng theo yêu cầu của công tác tuyên truyền, ông dựng phim truyền hình (?) vào dịp Cách mạng tháng Tám nên lấy tên Tám đặt cho nhân vật là hợp với tập quán của người Nam bộ. Tình tiết này không hợp lý vì mãi tới năm 1973, Hà Nội mới có truyền hình, tuy nhiên cho tới nay chưa từng dựng một phim nào về Lê Văn Tám.

    Được biết thời điểm ông Phan Vũ viết vở kịch Lửa cháy lên rồi với nhân vật trung tâm là thiếu nhi Lê Văn Tám vào khoảng 1953-1954 ở chiến khu Nam bộ và đã diễn cho bà con vùng kháng chiến xem trước khi tập kết ra Bắc. Suốt mấy năm sau, vở kịch được công diễn trên nhiều sân khấu các thành phố lớn và học đường ở miền Bắc mới giải phóng, góp phần nhen lên trong lòng lớp thiếu niên lúc ấy ngọn lửa của lòng yêu nước. Sau đó không thấy vở kịch công diễn nữa, vì sao thì không rõ nhưng hình ảnh ngọn đuốc sống đã in đậm trong lòng nhiều người, nhất là khi cuộc chiến đấu chống Mỹ xâm lược càng vào những thời điểm gay go quyết liệt, tấm gương của những dũng sỹ diệt Mỹ ở miền Nam sáng lên cùng với hình ảnh của ngọn đuốc sống Lê Văn Tám như một dòng chảy tự nhiên từ cậu bé Gióng sọ dừa đến Trần Quốc Toản Phá cường địch báo hoàng ân

    Nhiều người lớn tuổi kể rằng trong kháng chiến chống Pháp, ở vùng tự do phía Bắc, có viết chuyện nhiều thiếu niên nêu những tấm gương hy sinh dũng cảm, trong đó có chú bé đốt kho xăng ở Sài Gòn. Chuyện do ai viết ra thì không nhớ và cái tên Lê Văn Tám xuất hiện từ lúc nào, do ai khởi xướng cũng không không mấy ai để ý. Vậy có tư liệu lưu trữ lại không?

    Trên báo Cựu chiến binh TP.HCM số 269 ngày 20/10/2008, có nêu ý kiến trao đổi của Đại tá, hội viên Hội Cựu chiến binh quận X Võ Thanh Khiết như sau:

    Kho xăng dầu Thị Nghè thực ra là một trạm trung chuyển của hãng dầu Shell để xuất hàng cho các khách hàng mua sỉ không lớn lắm, thường đến nhận hàng bằng xe tải hay ghe thuyền. Nó nằm trên bờ tây rạch Văn Thánh, ngay sát đầu cầu trên đường Ngô Tất Tố ngày nay, cách chợ Thị Nghè vài trăm thước, nên thường được gọi là Kho xăng dầu Thị Nghè. Thực hiện chủ trương tiêu thổ kháng chiến, ngày 17/10/1945, Lê Văn Tám được giao nhiệm vụ đột nhập vào kho này, dùng chai xăng đốt phá, bị xăng bắt cháy vào người thành ngọn đuốc sống và anh dũng hy sinh. Gương anh dũng hy sinh trong khi làm nhiệm vụ của Tám đã động viên chúng tôi rất nhiều trong chiến đấu lúc bấy giờ. Đó là chuyện có thật 100%, không phải hư cấu như người ta nói.

    Còn Kho đạn Sở thú, thường gọi như vậy do nó nằm trên đường Docteur Angier (nay là đường Nguyễn Bỉnh Khiêm, ngang với Bảo tàng lịch sử thành phố trong khuôn viên Thảo cầm viên) là một kho đạn quy mô không lớn, nghe nói nó thuộc Trung đoàn thuộc địa số 11 (11è Ric) trước kia, nó cách Kho xăng dầu Thị Nghè hơn 500 mét, bị một đơn vị vũ trang của ta đánh nổ đêm 8/4/1946 nhằm triệt phá tiềm lực chiến tranh của giặc.
    Cả hai sự kiện lịch sử trên diễn ra cách nhau về thời gian, không gian và khác biệt nhau cả về tính chất hồi đầu Nam bộ kháng chiến, được báo chí kháng chiến và báo chí nội thành Sài Gòn lúc ấy phản ánh khá đầy đủ, có thể sưu tra để phản ảnh lịch sử đúng sự thật vốn có của nó.

    Vậy là sự kiện mà ông Dương Quang Đông nêu ra mới chỉ đúng nửa phần sự thật vì đó là trận đánh Kho đạn Thị Nghè với sự hy sinh của các chiến sỹ Kakim, Kỷ và Ny, coi như là có thật. Còn đánh cháy Kho xăng Thị Nghè lại là một sự thật khác nhưng người chiến sỹ cảm tử ấy là ai?

    Vậy ngọn đuốc sống là hoàn toàn không có thật hay chỉ cái tên là không thật? Đặt cho cùng một nhân vật cái tên Tám – Lê Văn Tám có là sự trùng hợp ngẫu nhiên giữa nhà sử học, nhà văn và dư luận ở những thời gian và không gian khác nhau không? Ai có thể làm rõ ra chuyện này?

    Chúng tôi trực tiếp gặp Đại tá Võ Thanh Khiết vào dịp Quốc khánh năm nay (2009) và lược nhanh vài nét trong buổi chuyện trò thân tình vui vẻ.

    - Người viết: Xin ông cho biết sơ luợc trích ngang về qúa trình tham gia kháng chiến.
    - Đại tá VTK: Tôi sinh năm 1929, quê ở xã Tân Bửu, Trung Huyện, tỉnh Chợ Lớn (nay thuộc địa bàn huyện Bình Chánh và Bến Lức). Năm 1940 tôi lên học ở Sài Gòn. Sau ngày Nhật đảo chánh Pháp 9/3/1046, tôi về quê, tham gia Thanh niên tiền phong. Ngày 24/8/1945, tham gia cướp chính quyền ở tòa Bố tỉnh Chợ Lớn. Sau đó làm liên lạc cho báo Kèn gọi lính của ta. Sau ngày 23/9, Ủy ban kháng chiến Sài gòn rút ra đóng tại xã tôi thì tôi làm liên lạc cho Ủy ban, thường xuyên ra vào thành phố lấy tin tức. Lúc đó vùng Thị Nghè còn là ngoại đô, là nơi tranh giành quyết liệt giữa ta và địch, có cả lính Vệ quốc đoàn Nam tiến cùng chiến đấu với các lực lượng võ trang của địa phương. Khoảng cuối tháng 10 năm đó, khi quân của Le Clerk tăng viện cho mặt trận Sài gòn thì quân ta rút khỏi Thị Nghè. Năm 1947, tôi vào du kích Hạ Trung Huyện, rồi lên tiểu đoàn 308 Nguyễn An Ninh do anh Huỳnh Văn Một chỉ huy, liên tục chiến đấu ở vùng Chợ Lớn cho đến năm 1950…

    - Người viết: Lúc đó ông có biết chuyện cháy Kho xăng Thị Nghè không?
    - Đại tá VTK: Thời gian đó cơ quan Ủy ban còn đóng sát nách Sài Gòn, tôi ra vào nội đô thường xuyên sao không biết. Tôi nói rõ để anh biết. Khi tôi là học sinh trường Pétrus Ký, điểm chính hiện nay thì quân Nhật biến thành trại lính của nó rồi. Trường tôi chuyển về học tại trường Trưng Vương ngày nay, sát ngay Sở thú, kế bên là Thị Nghè. Đám học sinh nội trú chúng tôi thường ra đó chơi, đá banh rồi nhảy xuống tắm ở cái hồ kế đó, nước trong và mát lắm. Bởi thế vùng này tôi rành lắm.

    - Người viết: Vậy Kho xăng Thị Nghè và Kho đạn Sở Thú là hai căn cứ khác nhau?
    - Đại tá VTK: Đúng! Khác nhau về địa điểm và cả về tầm cỡ. Thực ra gọi là Trạm xăng Thị Nghè thì đúng hơn vì nó chỉ là một Đại lý bán sỷ xăng dầu của tư nhân thì làm chi có lính bố phòng. Nó nằm kề bên bờ con rạch gần chợ, thuyền ghe hoặc xe ô tô đều ra vô được. Tôi còn nhớ rõ đó là một căn nhà thấp, nền đất, không rộng lắm, mái tôn xập xệ, vách là những tấm gỗ mảnh đóng thưa, trong nhà chứa nhiều thùng phuy, tới nơi sặc hơi dầu. Chung quanh có một lớp rào kẽm gai sơ sài, có ai đột nhập vào cũng không khó khăn gì. Còn Kho đạn Sở Thú là một doanh trại, toàn lính lê dương canh gác, lại gần Tổng hành dinh của tướng Le Clerk nên được bố phòng cẩn mật.
    - Người viết: Cả hai trận đánh ông đều biết?

    - Đại tá VTK: Đạn nổ điếc tai, lửa khói ngất trời thì cả thành phố ai mà không biết. Hôm sau đồn rầm lên những tin truyền khẩu rồi mới là trên báo chí. Do đơn vị nào đánh thì không biết nhưng thiệt hại của nó và tâm lý địch, ta thì biết. Dù không chính xác nhưng báo chí của nó đã nêu lên một phần sự thật.

    - Người viết: Lúc đó ông đã biết người đánh trạm xăng là ai? tên gì và do đơn vị nào tổ chức chưa?
    - Đại tá VTK: Theo tôi thì trận đánh Kho đạn ngày 18/4/1946 phải có tổ chức chu đáo và có nhiều người phối hợp mới tiến hành được. Các anh chịu khó tìm xem. Trong hồi ký Những năm tháng không thể nào quên của Đại tướng Võ Nguyên Giáp do nhà văn Hữu Mai chấp bút có nói đến trận đánh này. Còn cháy Trạm xăng Thị Nghè tháng 10 năm trước thì dù tổ chức hay cá nhân nào có ý đồ đều dễ thực hiện, nhất là lúc đó phong trào tiêu thổ kháng chiến đang cao. Dù chỉ là một trạm chứa nhưng vài chục tới trăm phuy xăng dầu 200 lít cùng cháy rần rần thì cả thành phố đều biết, gây sự phấn chấn trong lòng người lúc đó đang căm thù quân xâm lược. Trận nào báo chí nó cũng chỉ nói là bị ********* đánh. Nhưng vụ cháy trạm xăng, qua tin tức nội bộ nói là do một em bé tên Tám đốt. Em Tám chứ không nêu đủ họ danh Lê Văn Tám như sau này đâu.

    - Người viết: Ông có nghe những thông tin trái chiều về ngọn đuốc sống hay không?
    - Đại tá VTK: Tôi có nghe và cảm thấy buồn. Ông Trần Huy Liệu là một sỹ phu tâm huyết, người mà trước sau tôi vẫn rất kính trọng. Tôi chỉ nói được rằng vụ cháy trạm xăng Thị Nghè là có thật, tôi là một chứng nhân! Còn tiến hành thế nào thì làm sao biết được. Vùng này lúc đó phức tạp, cả ta và tây đều không làm chủ được, tập trung rất nhiều trẻ em lang thang cơ nhỡ và có tinh thần đánh tây hăng lắm. Mà vũ khí chỉ cần một que diêm hay cái hộp quẹt thôi. Khi lửa phật lên, xăng phụt ra bắt cháy, ai cũng phải có phản xạ vọt chạy thoát ra. Gọi là ngọn đuốc sống cũng không có gì là qúa. Có thể nào ông Trần Huy Liệu hư cấu ra một chuyện trùng với sự thật đã xảy ra trước đó cả năm trời, ở cách xa ông hàng ngàn kilômét?! Còn cái tên Tám xuất hiện từ đâu, muốn làm rõ ra cũng không là điều dễ. Hãy coi như một cái tên lịch sử.

    Trong cuộc sống, nhất là trong hoàn cảnh chiến tranh ác liệt, nhiều sự kiện bi hùng khó được minh xác cả về hành tung và nhân vật. Khắp thế giới này ở đâu cũng thế, nó thường bị phủ lên màu huyễn hoặc tùy thuộc sự kiện ấy lớn hay là nhỏ cùng với bối cảnh xảy ra. Nhất là khi nó được diễn tả bằng những hình tượng văn học thì tùy theo tư duy trừu tượng của người nghệ sỹ sáng tạo nên những nhân vật hoặc phi lý thì chết yểu, hoặc hợp với yêu cầu chính đáng của lịch sử nhân vật sẽ thành thần tượng bất tử trong sinh hoạt tinh thần của một cộng đồng. Tại sao người Việt tin Phù Đổng Thiên Vương là có thật dù ai cũng hiểu nó pha nhiều huyền thoại? Tại sao người Trung Hoa tin ông Quan Vân Trường đức độ, tài ba, uy vũ cả lúc sống đến khi đã chết? Tại sao ở thế kỳ XV, khi nước Pháp không còn được là cái bóng của chính mình, người ta lại tin cô thôn nữ thất học Jeanne d’Arc, lúc 12 tuổi đã nhận được thiên khải của Chúa truyền cho sứ mệnh thống lãnh quân đội Pháp đánh bại quân xâm chiếm Anh? Tại sao người nữ chiến binh dũng cảm ấy lúc 18 tuổi cầm quân đã qua mặt bao nhiêu thống lĩnh, được coi như người làm nên chiến thắng cho nước Pháp trong cuộc chiến tranh 100 năm với người Anh? Năm 19 tuổi, cô bị bắt. Từ bị coi như kẻ dị giáo, bị thiêu trên giàn hỏa, rồi lại được giải oan, coi như một tín đồ tử vì đạo, được ban phúc lành, rồi được Giáo hoàng phong thánh, là niềm tự hào của nước Pháp và được các văn nhân nghệ sỹ tài danh như Shakespeare, Voltaire, Schiller, Verdi, Tchaikovsky, Twain, Shaw… lấy làm hình tượng sáng tác tôn vinh.

    Thực tế suốt mấy mươi năm chiến đấu kiên cường giải phóng non sông, đồng bào và chiến sỹ ta đã nêu những tấm gương hy sinh chịu đựng để giữ lòng sắt son trung kiên với nước không bút mực nào tả hết, những tấm gương anh hùng dũng cảm không tiếc thân mình cho thắng lợi cuối cùng cũng không sao kể hết ra. Hạnh phúc thay cho nhà văn có nhân vật của mình được hóa thân thành con người thật giữa đời và sống mãi trong lòng nhân dân. Chú bé nào được mang danh Lê Văn Tám tượng trưng cho tuổi trẻ Việt Nam anh hùng chẳng khác gì chú bé Gavơrốt của kinh thành Paris mà hôm nay tới đó, người ta vẫn tưởng như có bóng chú thấp thoáng trên những ngã phố, quảng trường. Những con người như thế đã làm đẹp cho lịch sử dù không làm nên lịch sử nhưng họ xứng đáng bước vào trang sách những em thơ.

    Ngọn đuốc sống là hìmh tương nghệ thuật mà sự rung cảm xuất thần của nhà văn đã dựng nên và cũng không ngờ nó còn sáng mãi. Sự việc chỉ có một người hành động mà đã không còn. Ai biết được chú bé ấy có một mái nhà ở đâu đó hay chú là đứa trẻ lang thang lấy góc chợ, lề đường làm nhà, lúc đánh giày, lúc bán lạc rang? Người mẹ kia có thể là má Tư, dì Tám thương tình đứa trẻ bơ vơ và chú ngả vào lòng? Đời người lính chiến có khi sống chết ngoài quy luật. Đã không là bản báo công thành tích để tuyên dương công trạng thì sao lại đòi phải có thân nhân hay đơn vị đứng ra xác nhận và cần biết chú đúng 10, 12, 15 hay 17 tuổi làm chi? Có ai vô cảm vô tâm tới mức đi đo đếm quãng đường bé em chạy khi trên mình đầy lửa chính xác là bao nhiêu mét? Ai đã từng được nhìn tấm hình nổi tiếng bé gái Phúc trần truồng vì phỏng lửa bom của giặc Mỹ vào năm 1972, chỉ có thể nhạt nhòa nước mắt thương tâm chớ ai còn lòng nào hỏi con đường em đã chạy được bao xa? Mà vị sử gia hàng đầu của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam còn đủ lòng bình thản đi tìm bác sỹ tham vấn xem khi lửa xăng đang bốc cháy trên người một chú bé 10 tuổi, liệu khả năng sẽ chạy được bao xa?! Để làm gì?! Tôi rất cảm phục ý kiến của một cư dân mạng luhanhhoangviet: Thật ra thì trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ của nhân dân ta, những hành động anh hùng nhiều lắm, có điều là họ hy sinh vì đất nước nhưng tên tuổi thì không được ai biết đến. Có thể trong số họ không có ai tên là Lê Văn Tám nhưng những việc họ đã làm cũng không kém đâu. Dù Lê Văn Tám là một nhân vật tưởng tượng thì tôn vinh anh cũng là thể hiện lòng nhớ ơn tới những người đã hy sinh vì đất nước, chẳng có gì là sai cả!

    Trong cuộc trả lời phỏng vấn qua điện thoại sau đó của nhật báo Người Việt, phóng viên hỏi : Ông Trần Huy Liệu nói ra với ông (PHL) điều đó vào lúc nào? Ông Lê trả lời: Ông Trần Huy Liệu nói với tôi rất nhiều lần câu chuyện này vào những năm cùa thập kỷ 1960, vài năm trước khi ông Liệu mất, có cả mấy người cùng biết hiện nay đang còn sống. Khác như ông nói ở phần trên! Lúc này ông Lê mới tốt nghiệp Đại học – Khoa Sử, được giữ lại làm cán bộ giảng tại Trường Đại học, ông Trần Huy Liệu làm Viện trưởng Viện Sử học Việt Nam. Thầy trò lúc phiếm có thể nói với nhau những chuyện trái của nghề viết lách mà trò coi như di ngôn, cần phải thanh minh cho người thầy tiết tháo. Trái lại, những tư tưởng chính kiến sáng rỡ của thầy lưu rành rành trong sách, được nhiều người trân trọng coi như di huấn thì trò lại xé toạc đi! Ông làm đầu trò kích xúi người ta dựng dậy thây ma của những kẻ bán nước hại dân trong khi ông thâm trầm khôn khéo xô đổ những tượng đài yêu nước! Hẳn ông biết giữa triều, vua Lê Thánh Tông từng mắng nhiếc mấy sử quan ăn ở hai lòng:… Các ngươi bảo nước ta là hàng phiên bang đời xưa, thế là người theo đạo chết, mang lòng không vua. Các ngươi nay thờ chủ này mai thờ chủ khác chỉ vì lợi lộc, sao trong lòng không tự xấu hổ mà chết ư?

    Muốn trung thực phải trung thành trước đã.
    Nói hết ra sự thật để làm xao xuyến lòng người, chưa hẳn là người có lương tâm.


    Thành phố Hồ Chí Minh ngày 5 tháng 9 năm 2009

    Bản gửi Phongdiep.net
  4. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    Giai thoại về Lê Văn Tám

    VẪN CHUYỆN LÊ VĂN TÁM



    VẪN CHUYỆN LÊ VĂN TÁM.
    Nguyễn Văn Thịnh

    Câu chuyện tấm gương hy sinh của thiếu niên Lê Văn Tám tại Sài Gòn vào những ngày đầu nhân dân Nam Bộ kháng chiến chống xâm lược Pháp trong hoàn cảnh cực kỳ gian khó, bị xuyên tạc, gây công phẫn trong dư luận, đặc biệt với các chiến sỹ chiến đấu ngay tại mặt trận Sài Gòn – Chợ Lớn – Gia Định trong thời gian đó.

    Đã có bài trên tuần báo Văn nghệ TP HCM số 79 ngày 10/9 và số 82 ngày 01/10/2009. Tưởng chuyện qua rồi, song lại có bài phản hồi của ông Phan Huy Lê “Về câu chuyện Lê Văn Tám” trên tạp chí XƯA và NAY số 340 tháng 9 năm 2009. Chúng tôi thấy cần nói rõ thêm để bạn đọc xem xét.

    Tôi xin trích dẫn nguồn tin thu từ trên mạng:
    Giáo sư Phan Huy Lê.
    KHÔI NGUYÊN/NV.
    HÀ NỘI:

    Tại cuộc họp mặt của Hãng phim truyền hình Việt Nam vào cuối tháng 2/2005 tại Hà Nội, GS Phan Huy Lê là một trong hai nhà sử học (ông Dương Trung Quốc) được mời dự, đã tiết lộ: Nhân vật lịch sử anh hùng Lê Văn Tám là hoàn toàn không có thật !

    Trong phần phát biểu về tính chân thực lịch sử, GS Phan Huy Lê nhớ lại: “Tôi còn một món nợ với anh Trần Huy Liệu mà đến nay chưa trả được. Đó là lúc anh Liệu làm Bộ trưởng Thông tin – cổ động, anh Trần Huy Liệu tự viết về nhân vật Lê Văn Tám – một thiếu nhi tự tẩm xăng vào người và chạy vào đốt kho xăng giặc Pháp ở Thị Nghè”.

    GS Phan Huy Lê nói thêm về lời nhắn gửi của ông Trần Huy Liệu: “Lúc sáng tác ra câu chuyện Lê Văn Tám (Thời điểm 1945 – NV), anh Liệu nói với tôi rằng: Bây giờ vì nhiệm vụ tuyên truyền nên tôi viết tài liệu này. Sau này khi đất nước yên ổn, các anh là nhà sử học nên nói lại giùm tôi, lỡ khi đó tôi không còn nữa”.

    Tại cuộc họp, GS Phan Huy Lê cũng đề cập đến chi tiết phi lý trong câu chuyện ngọn đuốc sống Lê Văn Tám: “Cậu bé Lê Văn Tám sau khi tẩm xăng vào người và tự châm lửa đốt, vẫn còn khả năng chạy từ ngoài vào kho xăng với quãng đường 50 mét. Tôi đã hỏi một số bác sỹ và họ cho rằng với sức nóng của lửa xăng, một em bé không thể chạy được xa như vậy”.

    Đây là lần đầu tiên “câu chuyện không có thật” này được chính thức công nhận từ một người có trách nhiệm cao nhất của giới sử học tại Việt Nam hiện nay – Giáo sư Phan Huy Lê!

    Trong cuộc trả lời phỏng vấn qua điện thoại của nhật báo Người Việt hôm thứ sáu ngày 10/3/2005, GS Phan Huy Lê xác nhận việc ông công bố sự thật về nhân vật Lê Văn Tám và nói: “Là nhà sử học, chúng tôi phải giữ một thái độ trung thực và phải tiếp cận với sự việc càng rõ ràng càng tốt và vì thế, tôi đã công bố lời nhắn nhủ của anh Trần Huy Liệu”. Khi được hỏi GS Trần Huy Liệu nói điều ấy với ông vào thời gian nào? GS Phan Huy Lê trả lời: “Lúc ấy ông Trần Huy Liệu đang làm Viện trưởng Viện Sử học Việt Nam. Ông nói câu chuyện này với tôi rất nhiều lần (!) vào những năm thập kỷ 1960, vài năm trước khi ông Liệu mất (1969 – NV). Ông (THL) nói có cả hai đồng nghiệp của tôi (PHL) cùng biết và hiện nay họ đều còn sống. Theo lời ông Trần Huy Liệu, việc tuyên truyền hình ảnh nhân vật Lê Văn Tám như một anh hùng có thật là nhằm động viên tinh thần chiến đấu của quân dân trong những năm đánh Mỹ “. (Chuyện xảy ra tháng 10/1945, năm đầu nhân dân ta đánh Pháp. Thời đánh Mỹ thì ta càng có nhiều tấm gương hy sinh của đồng bào và chiến sỹ ở mọi lứa tuổi trên cả nước – NV).

    Ông Lê còn nói thêm : “Câu chuyện Lê Văn Tám đã được giới sử học mang ra bàn luận trong nhiều năm qua nhưng vẫn chưa có công bố nào cụ thể và chính thức trên các phưông tiện truyền thông nhà nước… Riêng về bản thân tôi, là một nhà sử học, tôi đã và đang viết bài để công bố sự thật về nhân vật này (?) một cách chi tiết và thấu đáo nhất là dưới góc nhìn của lịch sử và tôi dự định trong thời gian sớm nhất”.

    Phóng viên hỏi tại sao không công bố sớm hơn sự kiện này? GS Phan Huy Lê trả lời: “Trong năm nay (2005 – NV), Nhà nước đang chuẩn bị rất nhiều ngày lễ lớn, trong đó có ngày 30 tháng 4 (30 ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng và thống nhất đất nước – NV). Tôi muốn công bố bài viết của mình trong một điều kiện bình thản hôn và không muốn việc của mình bị cuốn vào các sự kiện lớn khác. Tôi đang chờ đợi một dịp thuận lợi và nhất định tôi sẽ làm”.

    Từ đó đến nay, hôn bốn năm rồi, câu chuyện râm ran và lan rộng ra cả nước làm xôn xao dư luận mà ông không một lời cải chính và vẫn chưa có “điều kiện bình thản” để “công bố bài viết của mình” sao? Tới khi có sự phản ứng chính đáng của những người trong cuộc trên công luận, ông nhanh chóng phủi tay bằng những lập luận loanh quanh, mô hồ, rối rắm với những lý lẽ tưởng là khôn khéo, trái ngược hẳn với thông tin năm trước?

    Việc làm của ông, trước hết là sự xúc phạm tới lịch sử đầy máu và nước mắt của Đảng bộ và nhân dân một thành phố lớn phương Nam suốt 30 năm luôn đứng trên tuyến đầu chống giặc ngoại xâm. Sau là nó làm người ta thờ ơ tới cả một truyền thống anh dũng kiên cường với bao nhiêu tấm gương âm thầm hay tiêu biểu của biết bao đồng bào chiến sỹ ta trong đấu tranh cho hòa bình thống nhất đất nước hôm nay. Là người đứng đầu một chuyên ngành quan trọng lại là người thầy được nhận danh hiệu cao qúy, có nhiều lứa học trò ở khắp mọi nơi trên đất nước, chẳng lẽ ông không nhận ra điều đó?

    Lần này, viện dẫn lời dặn của GS Trần Huy Liệu mà ông đã lĩnh hội như sau: “Nhân vụ kho xăng địch ở Thị Nghè bị đốt cháy vào khoảng tháng 10/1945 và loan tin rộng rãi trên báo chí trong nước và đài phát thanh của Pháp, đài BBC của Anh, nhưng không biết ai là người tổ chức và trực tiếp đốt kho xăng nên tôi (GS.THL) đã dựng lên câu chuyện thiếu niên Lê Văn Tám tẩm xăng vào người rồi xông vào đốt kho xăng địch cách đấy mấy chục mét…”. Ông đã chuyển đổi ý khác hẳn như điều ông đã nói từ mấy năm về trước là “anh Trần Huy Liệu tự viết (bịa!) về nhân vật Lê Văn Tám” và đưa lạc hướngdư luận loanh quanh truy tìm ngày xảy ra sự kiện! Dù sao thì câu chuyện đốt kho xăng và sự hy sinh của một chiến sỹ lúc đó gây xúc động lòng người lớn lắm. Đài, báo của cả ta lẫn địch đều thông tin sôi nổi. Vậy GS Trần Huy Liệu viết bài dưới thể loại nào? GS Trần là nhân vật quan trọng thời bấy giờ, lẽ dĩ nhiên bài của vị Bộ trưởng Thông tin không thể đăng tải trên những bản tin, báo thông thường.

    Sao ông Lê không đi xác thực bài của thầy mình? Ông lại dẫn chứng báo Kèn gọi lính ngày 8/10/1945 đưa tin: “Một thiếu niên 16 tuổi nhất định không nói tên, họ, làng, tình nguyện lấy thân mình làm mồi dẫn hoả. Em quấn vải quanh mình, tẩm dầu xăng, sau lưng đeo một cái mồi, đứng im đốt mồi lửa, miệng tung hô “Việt Nam vạn tuế”, chân chạy đâm xầm vào kho đạn”. Điều mà vị Bộ trưởng viết thì nhiều người đã viết ra rồi, GS Trần Huy Liệu cần gì phải dựng chuyện lên? Ông Lê còn dẫn lời GS Trần Huy Liệu: “Sau đó đài BBC bình luận là một cậu bé tẩm xăng vào người rồi tự đốt cháy thì gục ngay tại chỗ hay nhiều lắm chỉ lảo đảo được mấy bước, không thể chạy được mấy chục mét đến kho xăng. Giáo sư (THL) tự trách là vì thiếu cân nhắc và khoa học nên có chỗ chưa hợp lý”. Ông thầy Trần Huy Liệu đã nhận ra điều hớ rồi thì ông trò Phan Huy Lê còn cất công tìm đến các chuyên gia y tế nhằm xác nhận điều gì? và để làm gì?

    Muốn tỏ ra mình làm việc với thái độ nghiêm túc của nhà sử học, ông Lê sưu tra và dẫn chứng một số thông tin trên báo chí lúc bấy giờ. Nhưng việc làm ấy thừa, chỉ để đánh lừa dư luận! Một nhân chứng sống có đầy đủ trách nhiệm và uy tín lớn nhất còn lại đến ngày nay là GS Trần Văn Giàu – nguyên Chủ tịch UBKC Nam Bộ đã “khẳng định là có sự kiện kho xăng địch ở Thị Nghè bị đốt cháy và trong tình hình lúc đó là do ta đốt, nhưng không biết do ai tổ chức và người nào thực hiện”. Ông Lê từng trải qua hai cuộc chiến tranh chống Pháp và Mỹ, tuy không trực diện đối đầu với giặc nhưng chí ít ông cũng cảm nhận được bao nhiêu điều rối ren khi lâm vào sự chiến. Đành rằng không có tổ chức nào chặt chẽ khắt khe thậm chí là nghiệt ngã hơn ở những đơn vị chiến đấu. Nhưng chiến tranh nhân dân là cuộc chiến tranh của những người bị tước đoạt thì mỗi người dân là một chiến sỹ, chiến trường là bất cứ nơi nào có bóng quân thù. Một người cũng đánh. Một tên giặc cũng diệt. Mọi người chung vui với chiến công nhưng không ai đòi phải xác định từng chiến công thuộc về ai. Những người được tuyên dương công trạng chỉ là biểu tượng trong từng hoàn cảnh cụ thể. Công lao lớn nhất thuộc về những người anh hùng vô danh – Thực ra họ hữu danh nhưng hy sinh âm thầm lặng lẽ, không ai biết đến. Người anh hùng ẩn danh Lê Văn Tám trong trường hợp đó, được coi như chuyện thường tình. Ông Trần Huy Liệu là một nhà văn hóa lớn, đồng thời cũng là một chiến sỹ cách mạng kiên cường, từng vào sinh ra tử, coi cái chết nhẹ tựa lông hồng, chấp nhận da ngựa bọc thây thì ông cũng chẳng bận tâm “tiên lượng là biết đâu sau này có người đi tìm tung tích nhân vật Lê Văn Tám hay có người lại tự nhận là hậu duệ của gia đình, họ hàng người anh hùng”!

    Thời điểm những năm 1960, Mỹ đổ quân ào ạt vào miền Nam và mở rộng chiến tranh ra miền Bắc. Nội bộ ta không ít người hoang mang và phân hóa. Cuộc kháng chiến càng gay go quyết liệt. Là một trong số những người lãnh đạo cao nhất của Ủy ban Khoa học xã hội, Viện sỹ Trần Huy Liệu cũng không thể nào tiên đoán năm 1975 ta thắng lợi hoàn toàn để mà lo trối trăng những chuyện cỏn con trời ôi đất hỡi như thế !

    Ông không tin câu chuyện Lê Văn Tám là thật thì ai tin câu chuyện giữa ông Trần Huy Liệu với Phan Huy Lê là thật trong khi những tình tiết ông đưa ra đầy mâu thuẫn?

    Có cơ sở để tin tính danh Lê Văn Tám là thật! Một nhân chứng sống mà ý kiến của ông có tính thuyết phục là Đại tá Võ Thành Kiết – Hội CCB Quận X, tuổi tròn 80. Những ngày đầu kháng chiến ở Nam Bộ, ông là một thiếu niên, làm giao thông cho báo Kèn gọi lính – mà ông Lê có dẫn chứng ra. Đại tá nói ngay hôm sau có vụ cháy Kho xăng Thị Nghè, cả Sài Gòn đã biết. Tuy không là người trong cuộc nhưng được nghe nói người làm nên chiến công ấy là thiếu niên có tên Tám. Tập quán của người phưông Nam, tục danh ít khi dùng đến mà chỉ dựa vào là con thứ mấy của cha mẹ để giao tiếp với nhau, cũng có khi tên và thứ trùng hợp. Những chiến sỹ thiếu niên thời ấy trong đó có vị CCB, đã được học tập noi theo tấm gương cảm tử của bạn Tám. Một vị cán bộ lão thành, chuyên viên cao cấp Khoa học xã hội cho biết trong một tài liệu của Thành ủy TPHCM có nêu danh người tổ chức cho em Tám làm việc ấy là đồng chí Lê Văn Châu đã hy sinh ở mặt trận Sài Gòn năm 1947. Trong hồi ký Đứng lên đáp lời sông núi – tập II” (NXB Thanh niên – 1995) của Trần Khắc Minh (nguyên UVTƯ Đoàn TNCSVN) cho biết Lê Văn Tám là bạn trong đội thiếu niên ở Đa Kao với ông.

    Bạn đọc cần lưu ý là cuốn sách được viết ra 10 năm trước khi ông Phan Huy Lê phủ định nhân vật này! Trong hồi ký của các vị lãnh đạo kỳ cựu của thành phố Sài Gòn từ ngày cùng cả nước khởi nghĩa giành chính quyền 1945 như Nguyễn Văn Linh (Mười Cúc), Mai Chí Thọ (Năm Xuân)… đều nhắc tới gương hy sinh của liệt sỹ thiếu niên Lê Văn Tám với lòng xúc động, tự hào.

    Sự việc xảy ra đã hơn 60 năm, bao nhiêu lớp người đồng thời tại chỗ không ai phủ định, nay chỉ đựa vào câu chuyện phiếm giữa hai người ở mãi đâu thì ai tin được!

    Người có công tôn vinh để Lê Văn Tám thành ngọn đuốc sống nổi danh, lan rộng và thấm sâu vào lòng người là nhà văn Phan Vũ. Ông tuổi vượt ngưỡng bát tuần nhưng lái xe gắn máy mắt còn tinh, tay còn chắc, giọng nói vang và đầu óc còn tỉnh táo. Tóm tắt những điều nhà văn nói với người viết bài này:

    “Tôi người Hải Phòng, Vệ quốc quân Nam tiến. Những năm ở chiến trường Nam Bộ tôi có nghe chuyện một thiếu niên Sài Gòn dũng cảm xông vào đốt cháy một kho xăng. Chuyện chỉ có thế nhưng cái chết của em cứ lởn vởn trong tâm não tôi. Năm 1954, tập kết ra Bắc, niềm thương nỗi nhớ miền Nam làm cho hình ảnh em bé đốt kho xăng sống dậy, tôi dồn tâm sức viết vở kịch Lửa cháy lên rồi. Lúc đầu tôi đem vở kịch xuống dưới đất cảng Hải Phòng, diễn ở các trường học sinh miền Nam trước. Không ngờ vở kịch thành công lớn quá, vang dội tới cả Thủ đô, sôi động một thời. Các buổi diễn ở Nhà hát nhân dân, hàng ngàn chỗ ngồi hôm nào cũng đầy người. Từ trên cánh gà nhìn xuống, tôi thấy rất nhiều bàn tay nâng khăn lên chấm mắt ở những tiểu cảnh cảm động. Tôi sung sướng quá cũng trào ra nước mắt. Ông Thế Lữ khen và nhận tôi làm con nuôi để dạy thêm tay nghề. Vở kịch được đưa vào Phủ Chủ tịch diễn Bác Hồ xem. Tôi cùng đi trong đoàn. Bác hỏi tôi chuyện này có thật không? Tôi thưa thật rằng chỉ được nghe kể như thế rồi sáng tác ra. Bác khen và động viên tôi. Trong vở kịch này, tôi không để cho em Tám tự thiêu mình rồi chạy vào đốt kho xăng giặc. Tôi tạo tình huống cho em làm quen tới mức kết thân với một tên lính coi kho, để được ra vào thường xuyên trước sự mất cảnh giác của giặc. Cuối cùng thì… lửa cháy lên rồi và bé em không về nữa! Mọi người đều ngầm hiểu hồn xác em hoà trong ngọn lửa ngùn ngụt của kho xăng, thiêu trụi quân xâm lược. Em thành bất tử!

    Người chiến sỹ khi lao vào đồn giặc, ai biết được họ ngã xuống thế nào? Chỉ biết đồn giặc tan tành, xác giặc ngổn ngang và sự hy sinh của người lính thật xứng danh anh hùng dũng sỹ. Năm 1982, xưởng phim Nguyễn Đình Chiểu TPHCM dựng bô phim Ngọn lửa thành đồng dựa trên kịch bản của tôi do anh Lê Mộng Hoàng đạo diễn. Tổ chức Đoàn thanh niên có bàn với tôi xây dựng hồ sô truy phong anh hùng cho Lê Văn Tám nhưng tôi không biết gì hơn những điều tôi đã biết về con người ấy”. Người viết bài này tò mò hỏi nhà văn tại sao lấy tên Lê Văn Tám đặt cho nhân vật? Ông trả lời: “Tôi cũng không nhớ là sự ngẫu nhiên hay bởi một sự dẫn dắt nào? Giá như lúc đó có ai bảo đặt tên Lê Văn Bảy tôi cũng làm theo. Nhưng theo tôi thì cái tên không quan trọng mà hành động của nhân vật mới làm nên sự tích anh hùng”.

    Người viết thông báo chuyện có một vị chức sắc quả quyết rằng GS Trần Huy Liệu tự nhận đã viết bài về người thiếu niên anh hùng ấy và lấy danh Lê Văn Tám đặt cho nhân vật. Nhà văn Phan Vũ nói: “Chuyện ấy hôm nay nghe anh nói ra tôi mới biết. Ra Bắc, tôi có gặp ông Trần Huy Liệu mấy lần mà không nghe ông Trần nói ra điều ấy”.

    Hai người cùng viết về một nhân vật lịch sử lại ở thời gian cách nhau hàng chục năm, không gian rất xa nhau – một người ở Hà Nội, một người ở gần nôi xảy ra sự kiện, mà cùng chọn chung một danh xưng cho nhân vật đã là sự lạ? Một sự tình cờ đưa đẩy hai người viết ấy quen biết nhau mà không chia sẻ với nhau vài lời về nhân vật ấy, cái chết ấy, đặc biệt là sự trùng hợp tính danh ấy, càng lạ hơn!

    Quan Chánh sử họ Phan trước đây phủ định hoàn toàn sự việc. Phải chăng sau khi “tiếp cận với sự việc càng rõ ràng càng tốt” thì những “chi tiết” thông tin ông đưa ra đều lạc lõng và ông biện luận lúng túng quanh co chẳng “thấu đáo” ở điểm nào: “Lê Văn Tám không phải là tên nhân vật lịch sử có thật (đã chắc chưa?) nhưng phản ánh một sự kiện lịch sử có thật, một tinh thần hy sinh vì Tổ quốc có thật. Đó là một biểu tượng đã đi vào lịch sử mang tính phổ biến và thiêng liêng”. Vậy mà vị sử quan bảo “vẫn còn phải tìm thêm cứ liệu để xác định người thực hiện là “em thiếu niên 16 tuổi”, hay một “chiến sỹ ta” hay “anh dân quân”?”. Và ngài đòi: “Trả lại nguồn gốc thật của biểu tượng này là để tạo lập một nền tảng nhận thức khoa học, khách quan về quá trình hình thành biểu tượng Lê Văn Tám”?! Rồi ông hùng hồn thuyết giảng: “Đối với sử học, tôn trọng sự thật, tìm ra sự thật, xác minh sự thật là một nguyên tắc cao cả thuộc về phẩm chất và chức năng của nhà sử học… Mọi biểu tượng hay tượng đài lịch sử chỉ có sức sống bền bỉ trong lịch sử và trong lòng dân khi được xây dựng trên cơ sở khoa học khách quan, chân thực”! Mấy ai hiểu nổi ý của giáo sư?!

    Cứ cho Lê Văn Tám là một tính danh xã hội nhưng ám chỉ vào một người thì đó là chính danh của em. Cách chết của em mỗi người nghĩ theo sự hiểu và lòng mến yêu của mình nhưng rõ ràng là em chết thui trong lửa! Vậy hình ảnh ngọn đuốc sống vẫn xứng đáng với em, cũng như hình ảnh Thánh Gióng cưỡi ngựa sắt phun lửa, nhổ tre đằng ngà dẹp tan quân giặc. Dân tộc nào cũng có những hình tượng khác thường về người anh hùng có công đánh giặc giữ nước.

    Tóm lại, chuyện này việc thật, người thật, chỉ cách đánh giặc là không rõ và tính danh liệt sỹ còn nghi vấn. Đấy là chuyện muôn thuở trong thời buổi chiến tranh ở bất kỳ đâu. Cớ sao ông Phan Huy Lê bày chuyện ra, không nên, ông vo chuyện lại? Đánh trống lảng rồi đánh trống lấp, ông lên giọng dạy cách ứng xử với ngọn đuốc sống thế nào? Trừ ông, trong lòng người Việt Nam, ngọn đuốc sống Lê Văn Tám mãi mãi là biểu tượng của lòng yêu nước. Điều đáng bàn là nên ứng xử với sử gia Phan Huy Lê thế nào? Ông phân bua: “Tôi kể lại câu chuyện này một cách trung thực với tất cả trách nhiệm và danh dự của một công dân, một nhà sử học”.

    Trong bài, người viết đưa ra phần công bố của ông Lê hồi tháng 2/2005 và phần giải trình của ông hôm nay, có sự bất nhất hay vẫn trước sau một ý?

    Người đưa tin năm ấy thốt lên: “Điều đáng ngạc nhiên là sau khi giáo sư Phan Huy Lê tiết lộ sự thật về Lê Văn Tám, không một tờ báo hay một cơ quan truyền thông nào của Việt Nam đăng tin này!

    Điều mà ông Phan Huy Lê lấy làm thoả mãn là đã “làm tròn trách nhiệm với cố GS Trần Huy Liệu”.

    Người ta nghĩ gì khi biểu tượng ngọn lửa của tinh thần yêu nước đang sừng sững bỗng dưng bị chính những người làm sử hè nhau xô đổ ?!

    Lịch sử thời nào cũng có sự mù mờ vì nhiều lý do, nhân dân có thể rộng lòng với người viết sử. Những sử gia làm hoen lịch sử, nhân dân không tha thứ!
    TPHCM ngày 15 tháng 10 năm 2009


    bản tác giả gửi Phongdiep.net
  5. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    Vụ đốt kho đạn Sài Gòn 8/4/1946 và hình tượng “đuốc sống”
    Nguyễn-bá Dũng
    [​IMG]

    Hồi ký của nhà báo lão thành Nam Đình (Nguyễn Kỳ Nam) có những tư liệu liên quan đến vụ quân dân Nam Bộ đốt kho đạn Sài Gòn ngày 8/4/1946 nhưng dường như chưa được trích dẫn trong các cuộc tranh luận gần đây về hình tượng “Em bé đuốc sống Lê Văn Tám”.

    NXB Văn học vừa ra mắt tác phẩm “Nam Đình – Nhà văn, nhà báo kì đặc” với phần chính (437/786 trang) là trích hầu hết cuốn “Hồi ký 1925-1964” tập II “1945 - 1954” của Nguyễn Kỳ Nam (tức Nam Đình).

    Cuốn “Hồi ký” này đã được học giả, nhà văn hóa lớn, cụ Vương Hồng Sển đánh giá:

    “Tôi khuyên độc giả nên tìm đọc quyển “Hồi ký 1925-1964” tập II “1945 - 1954” của ký giả lão thành Nam Đình (Nguyễn Kỳ Nam), không bán, và dành riêng, do nhựt báo “Dân Chủ Mới” xuất bản năm Giáp Thìn (1964). Tôi nhìn nhận quyển “Hồi ký” ông Nguyễn Kỳ Nam này mới thật là tập sử liệu quí giá viết đúng phương pháp hồi ký vô tư và khách quan.”

    (“Hơn nửa đời hư”, Văn Nghệ, Cal., 1995, tr. 350 – phần in đậm là do người trích nhấn mạnh).


    Cuốn “Hồi ký” chứa nhiều tư liệu quí giá về Cách mạng Tháng Tám 1945 và cuộc kháng chiến chống Pháp tại Nam Bộ nhưng ít được trích dẫn trong các công trình lịch sử đương đại. Đọc “Hồi ký”, chúng tôi nhớ đến cuộc trao đổi gần đây về hình tượng “Em bé đuốc sống Lê Văn Tám” và nhận thấy có thể cuốn “Hồi ký” này chưa từng được trích dẫn trong quá trình trao đổi. Để giúp bạn đọc thêm tư liệu, chúng tôi xin trích dẫn phần nói về vụ quân dân Nam Bộ đốt kho đạn Sài Gòn ngày 8/4/1946 từ “Hồi ký 1925-1964” tập II “1945 - 1954” của Kỳ Nam, tr. 305-307, được in lại trong “Nam Đình – Nhà văn, nhà báo kì đặc” tr. 493-496:



    Đúng ngày kỳ hẹn – 20 tháng 3 năm 1946 – tại miếu Bà Cố, cách Biên-hòa mười cây số, hai bên hẹn gặp nhau.

    Nguyễn-Bình [Khu trưởng Khu 7, chỉ huy quân sự cao nhất của chính phủ Việt Nam DCCH tại Nam Bộ] cử Phạm-ngọc-Thuần, Lê-đình-Chi và hai người nữa đến gặp phái-đoàn Pháp.

    Đại-tá [Cédille, Ủy viên Cộng hòa Pháp tại Nam Đông Dương] đưa điều-kiện:
    “Bên Việt-Nam phải giải-giới Dân-quân; nạp khí-giới cho Pháp. Pháp sẽ cho những người kháng-chiến về hợp-tác với Pháp.”

    Điều-kiện hợp-tác như thế có nghĩa là đầu hàng không điều-kiện ! Hay là… bó tay nạp mình cho Pháp.

    Phái-đoàn Phạm-ngọc-Thuần không cần thảo-luận gì nữa, liền trở về căn-cứ.

    Pháp muốn biểu-dương lực-lượng hùng-hậu của mình, nên ngày sau, liền ra lịnh cho máy bay dội bom tan nát vùng Lạc-an [trung tâm Khu 7 Nam Bộ và chiến khu Đ sau này].

    Cố nhiên là nhà cửa, trâu bò, mùa-màng bị thiệt-hại nặng.

    Dân chúng khóc trước cảnh điêu-tàn, người chết, nhà cửa bị thiêu hủy dưới trận mưa đạn.

    Nguyễn-Bình thề sống chết với Pháp.

    Đốt kho đạn Saigon

    Để trả lời trận tấn-công nầy. Dân-quân kháng-chiến quyết gây thiệt-hại cho Pháp gấp mười lần mới nghe.

    Tổ-chức đốt kho đạn Saigon.

    Nếu thành-công vụ nầy, sẽ có 4 điều lợi:

    - Một là, ủng-hộ Hội-nghị Đà-lạt Việt – Pháp sẽ mở vào ngày 14 tháng 4 năm 1946.

    - Hai là, trả lời đề-nghị của Cédille.

    - Ba là, trả lời cho tướng Leclerc [Tổng chỉ huy quân đội Pháp ở Đông Dương] biết rằng: Nam-Bộ vẫn còn lực-lượng kháng-chiến, chớ không phải tan rã; như tướng Leclerc tuyên-bố đã bình-định xong.

    - Bốn, để đồng-bào khắp nơi biết lực-lượng kháng-chiến vẫn còn mạnh mẽ, nhứt là đồng bào về thành, để mưu sinh-kế.

    Nhưng làm sao đốt kho đạn ?

    Nguyễn-Bình có họa-đồ kho đạn Saigon rồi, nhưng làm sao tấn-công ?

    Lúc đó dân-quân ở ngoại-ô Saigon tuyên-truyền rằng: có 2 cảm-tử-quân mình làm cây đuốc. Rồi tự đốt đuốc, chạy vào kho đạn…

    Thật ra, việc phá-hủy kho đạn Saigon do một công-trình nghiên-cứu rất khoa-học của dân-quân tổ-chức lâu ngày. Hai cảm-tử-quân cùng với một sĩ-quan Nhựt đầu hàng dẫn đường.

    Sĩ-quan Nhựt này trước kia có ở kho đạn, nên biết rõ địa-thế kho đạn.

    Anh ta nói:

    - Pháp không giữ phía sau kho đạn tức là phía sông Thị-Nghè, có nghĩa là, họ để trống cửa hậu cho mình vào kho đạn rất dễ dàng. Tại đây, có 1 đường cống lớn, chun vào tận kho đạn. Một kho nổ tung, tức nhiên, bao nhiêu kho khác, sẽ cháy hết.

    Bộ tham-mưu kháng-chiến liền xúc-tiến công việc.

    Tối 8 tháng 4, viên sĩ quan Nhựt dắt 2 cảm-tử-quân ta, bọc theo mình những đồ nhạy lửa dây tim có thuốc súng, đốt cháy…, dẫn lửa vào hầm đạn.

    Ba người lội sang sông Thị-Nghè; sĩ-quan Nhật chun vào lỗ cống, dẫn đường cho hai cảm-tử-quân ta.

    Chất nhạy lửa đặt ngay hầm đạn, mối dây bắt lửa kéo trở ra miệng. Chừng lội trở ra, hai cảm-tử-quân cột một điếu thuốc ở đầu dây. Đốt điếu thuốc xong, cả ba lội qua sông Thị-Nghè, kiếm chỗ núp coi kết quả.

    Điếu thuốc cháy tới dây dẫn lửa, tức thì dây dẫn lửa đem lửa vào tận hầm để đạn.

    Tại đây, có sẵn chất nổ.

    Một hầm đạn cháy, nhiều hầm khác nổ tung.

    Sáng ngày 9 tháng 4, dân chúng Saigon nghe tiếng nổ liên tiếp, tưởng chừng kháng-chiến đã vào tận Saigon. Hai bên bắn nhau, nên mới gây tiếng súng long trời lở đất.

    Những người ở gần kho đạn hay trước, nên bỏ nhà chạy… tản-cư về miệt Saigon.

    Từ đây một đồn mười chẳng bao lâu cả Saigon đều hay tin kho đạn nổ.

    Pháp định giấu không muốn thế-giới biết ai đốt kho đạn

    Nhưng, tại sao… nổ ?

    Cédille định giấu dân-chúng, nên đưa tin cho ký-giả ngoại-quốc và thông-tấn-xã A.F.P rằng: có một chiếc cam-nhông vào kho đạn, nhảy lên một cục gạch, đạn trên xe vùng nổ… Nên những kho đạn gần đó bị vạ lây.

    Đạn nổ trọn ngày 9 tháng 4, rồi suốt cả đêm, suốt ngày 10, trọn đêm 10, suốt ngày 11 và trọn đêm 11; sáng 12, nổ lai-rai… đến tối lại mới dứt hẳn.

    Nguy hiểm nhứt là ngày 10. Có tin của nhà chức-trách cho hay: “phải tản-cư thật xa, vì những trái phá lớn mà nổ, thì những vùng ở gần kho đạn sẽ sập hết. Dân-chúng nên chú-ý”.

    Thông-cáo đăng trên các báo.

    Tiếng nổ liền liền; khói đen lên cao một vùng. Ai mà không sợ ?

    Nhiều gia-đình ngủ ở vườn bông, vườn sân Tao-Đàn những nơi công-cộng…

    Nhà cửa gần kho đạn đều sập một phần. Nhiều nhà thì “la phông” đổ, hoặc sập một hai mái hiên ở ngoài…

    Một tuần nhựt sau, mới biết bị dân-quân phá-hoại. Một vài báo xuất bản ngoài bưng lại đưa tin rằng:

    “Có hai cảm-tử-quân quấn vải vào mình, rồi tẩm xăng đốt lên chạy vào kho đạn… Lính gác cửa thấy vậy sợ quá không dám bắn. Hai người liều chết đốt 4 ngàn tấn đạn dược của Pháp ”.

    (Cách viết của bản gốc được giữ nguyên. Các chú thich trong [ ] là của người trích dẫn)

    Như phần trích dẫn, tư liệu này mô tả khá toàn diện một chiến công của quân dân Nam Bộ: Lý do và thời điểm của trận đánh, những người thực hiện trận đánh, hậu quả của vụ nổ được thông báo bởi nhà binh Pháp cũng như thông tin trong dân chúng và thông tin của các hãng truyền thông nước ngoài.

    Đối chiếu với các thông tin đã đưa ra khi tranh luận về “Em bé đuốc sống Lê Văn Tám”, còn nhiều câu hỏi sẽ tiếp tục cần giải đáp.
  6. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    Nhân ngày 17 tháng 10
    Về cây đuốc sống Lê Văn Tám
    Thứ năm, 16/10/2008, 23:56 (GMT+7)
    Trong bài “Một tháng đứng đầu sóng ngọn gió không thể nào quên” đăng trên Báo Sài Gòn Giải Phóng ngày 23-9-2008, tôi có viết:

    “Đêm 17-10, thiếu niên Lê Văn Tám được anh Lê Văn Châu tổ chức, đã tình nguyện bí mật đột nhập vào bên trong, mang theo diêm và xăng, đã đốt được kho đạn rất lớn của Pháp, gần cầu Thị Nghè. Khi rút lui bị dính xăng, bén lửa, đã cháy thành một cây đuốc sống, nêu tấm gương sáng ngời của thiếu niên Việt Nam xả thân vì nước”.

    Đọc bài báo đó, có người gọi điện thoại cho tôi biết rằng, họ đã đọc một số sách, được xuất bản trong dịp kỷ niệm 300 năm Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh thì chỉ có ghi một trận đánh vào kho đạn Thị Nghè vào ngày 8-4-1946. Trong trận này không thấy nêu “Cây đuốc Lê Văn Tám”. Có người đã gửi cho tôi một tài liệu được lấy trên mạng thông tin điện tử, trong đó giáo sư Phan Huy Lê đã tiết lộ: “Nhân vật lịch sử anh hùng Lê Văn Tám hoàn toàn không có thật”.

    Giáo sư Phan Huy Lê còn cho biết, tiết lộ ra chuyện này là để trả món nợ với ông Trần Huy Liệu. Sau Cách mạng Tháng 8-1945, ông Trần Huy Liệu đã tự viết về nhân vật Lê Văn Tám, một thiếu nhi tự tẩm xăng vào người và chạy vào đốt kho xăng giặc Pháp ở Thị Nghè. Ông Liệu đã nói với ông Lê rằng: “Sau này khi đất nước yên ổn, các anh là nhà sử học, các anh nên nói lại giùm tôi, lỡ khi đó tôi không còn nữa”. Những năm sau năm 1945, ông Liệu đã giữ chức Viện trưởng Viện Sử học Việt Nam và đã mất năm 1969. Giáo sư Lê cũng đề cập đến chi tiết phi lý trong chuyện này là: “Cậu bé Lê Văn Tám, sau khi tẩm xăng vào người và tự châm lửa đốt, vẫn còn khả năng chạy từ ngoài vào kho xăng với quãng đường 50 mét. Tôi đã hỏi một số bác sĩ và họ cho rằng với sức nóng của lửa xăng, một em bé không thể chạy xa như vậy”.

    Về phần tôi, khi viết về sự kiện “Cây đuốc sống Lê Văn Tám”, tôi đã tìm hiểu từ cuốn “Lịch sử Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định kháng chiến (1945 - 1975) của Nhà xuất bản thành phố Hồ Chí Minh, xuất bản năm 1994. Chỉ đạo nội dung cuốn sách này là Ban tổng kết chiến tranh của Thành ủy ********************** thành phố Hồ Chí Minh. Chủ biên là đồng chí Trần Hải Phụng (nhiều năm làm Tư lệnh các lực lượng vũ trang của Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định) và đồng chí Lưu Phương Thanh (phụ trách nghiên cứu lịch sử Đảng). Theo sách này thì đánh kho đạn Thị Nghè có hai lần. Lần thứ nhất vào ngày 17-10-1945 và lần thứ hai vào ngày 8-4-1946.

    Về trận thứ nhất, ở trang 63 của sách này có ghi:

    “Ngày 17-10-1945, tại mặt trận phía Bắc, quân ta phục kích ở cầu Tham Lương đánh lui đoàn xe của địch gồm 8 chiếc chở lính có xe thiết giáp yểm trợ, hành quân lên Hóc Môn, ta phá hủy 5 xe và diệt một số tên. 10 giờ, kho đạn Thị Nghè nổ dữ dội. Đây là kho chứa bom đạn từ bến tàu bốc lên, đặt tại khu đường Docteur Angier (nay là đường Nguyễn Bỉnh Khiêm) cạnh vườn thú, được bố trí hệ thống phòng thủ nghiêm ngặt, xung quanh kho có hào sâu, tường cao 2 mét, chăng kẽm gai và hệ thống tháp canh, có đèn quét ban đêm. Một đại đội Âu Phi thường xuyên tuần tra canh gác.

    Đội viên cảm tử Lê Văn Tám mới 13 tuổi, được giao nhiệm vụ giả câu cá, cắt cỏ ở bến sông để quan sát. Đêm 17-10 (1945) Tám tự quyết định một mình đánh kho đạn, lừa bọn lính gác, lọt vào ẩn nấp bên trong với chai xăng và bao diêm. Buổi sáng, chờ lúc sơ hở, em tưới xăng vào khu vực chứa đạn và châm lửa. Lửa cháy loang, một tiếng nổ long trời, kéo theo hàng loạt tiếng nổ liên tiếp, làm rung chuyển cả thành phố. Lê Văn Tám bị dính xăng bắt lửa, tự biến mình thành cây đuốc sống, đã hy sinh anh dũng. Kho bị phá hủy hoàn toàn. Đài phát thanh phía bên kia đường bị sập một phần lớn. Đại đội Âu Phi bảo vệ bị tiêu diệt.

    Gương hy sinh của em bé “đuốc sống” trở thành một hình tượng tiêu biểu cho tinh thần yêu nước, chiến đấu quên mình của thiếu niên nhi đồng trong những ngày đầu chống Pháp”. Ngày 19-10-1945, Báo Cứu Quốc có bình luận: “Trận Thị Nghè ghi vào chiến sử Việt Nam”. Theo sách “Lịch sử Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định kháng chiến (1945 - 1975)”, ở trang 108, thì kho đạn này còn bị đánh lần 2 vào ngày 8-4-1946 và báo Tin Điễn ra ngày 9-4-1946 đưa tin: “Một tai nạn dữ dội... Kho đạn Sài Gòn (đường Docteur Angier, tả ngạn kênh Avalanche) phát nổ. Tai nạn có thể kéo dài đến nhiều ngày”.

    Sự kiện trận đánh ngày 17-10-1945 với “Cây đuốc sống Lê Văn Tám” còn được nêu cụ thể hơn trong tập II bộ sách “Mùa thu rồi ngày hăm ba” của Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Hà Nội năm 1996, ở trang 67:

    “Đêm ngày 17-10-1945, đội viên cảm tử Lê Văn Tám dũng cảm đốt kho đạn Thị Nghè (người tổ chức cho Lê Văn Tám thực hiện chiến công này là anh Lê Văn Châu đã hy sinh năm 1946 tại Ngã ba Cây Thị). Kho đạn bị phá hủy hoàn toàn.

    Đài phát thanh bên kia đường bị sập một phần lớn, đại đội Âu Phi bảo vệ bị tiêu diệt… (viết theo tư liệu của Ban Tuyên huấn Quận ủy Bình Thạnh)”.

    Với các tư liệu như đã nêu trên thì có thể khẳng định: Đánh kho đạn Thị Nghè có 2 lần vào ngày 17-10-1945 và ngày 8-4-1946; trận ngày 17-10-1945 với “Cây đuốc sống Lê Văn Tám” là có thực; Lê Văn Tám đã đốt kho đạn, không phải kho xăng; Lê Văn Tám không phải “tự tẩm xăng vào người và chạy vào đốt kho xăng” mà “đã lừa bọn lính gác, lọt vào ẩn nấp bên trong với chai xăng và bao diêm chờ lúc sơ hở, em tưới xăng vào khu vực chứa đạn và châm lửa. Lê Văn Tám bị dính xăng bắt lửa thành “cây đuốc sống”; người tổ chức, bày kế hoạch cho Lê Văn Tám làm là anh Lê Văn Châu, đã hy sinh trong trận đánh giặc Pháp ở Ngã ba Cây Thị năm 1946.

    Việc xác định rõ như trên, có ý nghĩa quan trọng vì ở nhiều nơi đã có công viên, trường học, tượng đài, đường phố mang tên Lê Văn Tám. Tại Đền tưởng niệm liệt sĩ ở Bến Dược, Củ Chi, “Cây đuốc sống Lê Văn Tám” đã được trân trọng tôn vinh.

    Với sự kiện “Cây đuốc sống Lê Văn Tám”, ngày 17-10 hàng năm đáng là ngày cho nhân dân ta, đặc biệt là cho tuổi trẻ nước ta tưởng niệm.

    TRẦN TRỌNG TÂN
  7. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    Giai thoại về Lê Văn Tám

    Kỷ niệm 63 năm ngày Nam bộ kháng chiến (23-9-1945 - 23-9-2008)
    Một tháng đứng đầu sóng ngọn gió không thể nào quên
    Thứ hai, 22/09/2008, 23:54 (GMT+7)
    Liền sau thắng lợi của cuộc tổng khởi nghĩa tháng 8 năm 1945, nhân dân thành phố ta đã phải đương đầu với một liên minh ********* quốc tế: quân của Chính phủ Anh dưới danh nghĩa lực lượng đồng minh; quân phát xít Nhật đã đầu hàng nhưng còn nguyên đội ngũ và được sử dụng để chống lại cách mạng; quân Pháp bị Nhật bắt làm tù binh nay được thả ra cùng với quân Pháp từ chính quốc đưa qua. Ngoài ra còn có các đảng phái ********* từng gắn chặt quyền lợi với thực dân Pháp và chạy theo Nhật trước đây, nay ngóc đầu dậy.

    Mưu đồ của Gracey, trưởng phái bộ quân Đồng minh khi vào Việt Nam là sử dụng bộ máy chính quyền do Nhật dựng lên rồi sau đó bàn giao cho thực dân Pháp để tiếp tục cai trị dân ta. Nhưng ngày 8-9-1945, phái bộ Anh, có một đại đội quân Pháp bám gót theo, khi đặt chân đến Sài Gòn thì chính quyền tay sai của Nhật đã bị lật đổ, mưu đồ không thực hiện được nên rất cay cú. Đối với chính quyền cách mạng chúng đã tìm cách liên tục gây rối.

    Đến đêm 22 rạng ngày 23-9-1945, thực dân Pháp dựa vào quân Anh đã nổ súng đánh chiếm Sài Gòn. Tính rằng chính quyền nhân dân ở Sài Gòn và các tỉnh Nam bộ còn trong trứng nước, chúng có thể đánh chiếm Sài Gòn và mở rộng đánh chiếm các tỉnh Nam bộ chỉ trong thời gian rất ngắn giống như cuộc xâm lược Việt Nam, 76 năm về trước. Nhưng đâu dè, một cuộc phản kích của quân dân thành phố rất quyết liệt đã nổ ra.

    Sau lời kêu gọi kháng chiến chiều ngày 23-9 của Ủy ban Kháng chiến Nam bộ do đồng chí Trần Văn Giàu soạn thảo, nhân dân thành phố đã lập tức tổng bãi công, bãi khóa, bãi thị, triệt phá các đường tiếp tế lương thực của địch, làm chướng ngại vật cản bước tiến của địch khắp nơi. Những người già yếu được tổ chức tản cư ra ngoài thành phố. Nhiều máy móc thiết bị được công nhân chuyển ra vùng Dĩ An, An Phú Đông... để lập các công binh xưởng, sản xuất vũ khí đánh địch. Nhiều đoàn quân “nốp với giáo, mang ngang vai” từ các vùng nông thôn tiếp giáp, tiến vào Sài Gòn tham gia chống giặc.

    Đồng thời UB Kháng chiến Nam bộ đã hình thành 4 phòng tuyến chặn địch: Phòng tuyến miền Đông do Nguyễn Đình Thâu chỉ huy; phòng tuyến Bắc Tây Bắc Sài Gòn do Nguyễn Văn Tư chỉ huy; phòng tuyến miền Tây do Trần Văn Giàu, sau đó là Nguyễn Lưu chỉ huy; phòng tuyến phía Nam do Nguyễn Văn Trân, sau đó là Dương Văn Dương chỉ huy.

    Hưởng ứng lời kêu gọi khẩn thiết của Đảng và Hồ Chủ tịch, mỗi tỉnh ở Bắc bộ và Trung bộ đã tổ chức từ một đến hai chi đội Nam tiến. Các chi đội đầu tiên đã đến chiến trường kịp thời, trong đó có chi đội đã tham gia chiến đấu rất kiên cường tại mặt trận cầu Bình Lợi. Trong tuần lễ đầu, nhiều quân địch bị thương vong, nhiều xí nghiệp, công sở lớn nhỏ, nhiều kho hàng, cơ sở các chợ, nhiều tàu xuồng, ô tô vận tải, cầu cống và nhiều cơ sở kinh tế đã bị phá hoại.

    Hãng thông tấn Anh Reuter sáng 30-9-1945 nhận xét: “…Có khoảng chừng 3.000 quân Anh, một số quân Pháp và 20.000 người Âu ở Sài Gòn hiện đang bị hàng ngàn ********* có khí giới đe dọa. Hiện thời quân đội Anh - Pháp phải chống trả với 7.000 lính Việt Nam có vũ khí và hàng vạn dân quân mang dao, gậy, mác nhất định tử chiến... Sau 7 ngày, tình thế càng nghiêm trọng hơn.

    Chúng tôi ở Sài Gòn lâm vào cảnh rất nguy ngập về lương thực, vì trên bộ, quân và dân Việt Nam phong tỏa, còn trên biển thì trước kia quân Nhật thả rất nhiều thủy lôi đến nỗi không một chiếc tàu nào của Đồng minh cập bến Sài Gòn được. Các kho gạo của quân đội Nhật trước đây đều bị người Việt Nam đốt phá, hết nơi này đến nơi khác. Đã hai lần, máy bay Đồng minh thả lương thực xuống. Càng ngày càng khó kiếm thức ăn và nước uống. Rất nhiều người khổ sở vì nạn khát, nếu không nhờ thỉnh thoảng có một trận mưa” (*).

    Chịu nhiều tổn thất và gặp rất nhiều khó khăn, Pháp phải nhờ Gracey dàn xếp một cuộc đàm phán với ta, hòng kéo dài thời gian để chờ viện binh. Ta cũng cần có dịp để tỏ rõ chính nghĩa của mình và cũng muốn có thời gian để củng cố lực lượng nên chấp nhận ngưng chiến một tuần lễ để đàm phán.

    Ngày 2-10, Cédille, đại diện phía Pháp gặp đoàn đại biểu của ta do bác sĩ Phạm Ngọc Thạch làm trưởng đoàn, có tướng Gracey của Anh cùng tham dự. Ta đã họp với đại diện của Pháp 3 lần, nhưng không có kết quả. Riêng phía ta, trong tuần lễ hưu chiến, đã loại trừ bọn phản loạn tính chuyện “lập chính phủ dân quốc lâm thời” để thương thuyết với Đồng minh. Ta đã rước được nhiều cán bộ từ Côn đảo về để tăng cường cho bộ máy kháng chiến trong đó có các đồng chí Tôn Đức Thắng, Lê Duẩn, Phạm Hùng.

    Hết hạn ngưng bắn, trên cả 4 phòng tuyến, quân dân ta tiếp tục đánh địch ở nhiều nơi, nổi lên là các trận ở các cầu trên đường ra vào thành phố.

    Đêm 17-10, thiếu niên Lê Văn Tám được anh Lê Văn Châu tổ chức, đã tình nguyện bí mật đột nhập vào bên trong mang theo diêm và xăng, đã đốt được kho đạn rất lớn của Pháp, gần cầu Thị Nghè. Khi rút lui bị dính xăng, bén lửa đã cháy thành một cây đuốc sống, nêu tấm gương sáng ngời của thiếu niên Việt Nam xả thân vì nước.

    Đến ngày 23-10, quân Pháp được tiếp viện đã lên đến 6.000 tên. Danh tướng Pháp Leclerc tổng chỉ huy, quyết tập trung sức, đã phá vỡ phòng tuyến phía Tây Sài Gòn, theo đường số 4 đánh chiếm Tân An, Mỹ Tho, Gò Công. Quân Anh đánh chiếm Biên Hòa, Thủ Dầu Một rồi giao lại cho Pháp. Từ đây, cuộc chống giặc Pháp của quân dân thành phố hòa nhập với cuộc kháng chiến Nam bộ và cuộc kháng chiến toàn quốc.

    Kỷ niệm ngày 23-9-1945, là ngày mà quân dân thành phố ta có vinh dự được bắn những phát súng đầu tiên vào kẻ thù xâm lược. Đó cũng là ngày mở đầu cho một tháng kiềm chân giặc tại thành phố, với kết quả mang lại là: Làm phá sản kế hoạch đánh mau thắng mau của giặc Pháp; các xã ngoại thành có thời gian để xây dựng lực lượng và bước đầu hình thành vành đai đỏ bao quanh Sài Gòn; các tỉnh ở Nam bộ và cực Nam Trung bộ có một tháng trời chuẩn bị kháng chiến; góp phần tạo thế cho các cuộc đàm phán của Chính phủ ta với Chính phủ Pháp.

    Tuy thời gian ngắn ngủi, chỉ một tháng, nhưng Đảng ta thu được kinh nghiệm vừa đánh vừa đàm, kinh nghiệm sáng tạo ra thế trận chiến tranh nhân dân chống giặc ở trung tâm đô thị, điều chưa từng có trong lịch sử trước đó của dân tộc ta.

    Từ 23-9 đến 23-10-1945 là “Tháng Sài Gòn kháng chiến”, tháng của đội xung kích trong “Mùa thu rồi ngày hăm ba”. Đó là một tháng mà quân dân thành phố ta đã đứng ở đầu sóng ngọn gió, quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh. Đó là một tháng không thể nào quên!

    (*) Báo Cứu Quốc số 57, ngày 3-10-1945.

    TRẦN TRỌNG TÂN

    Ông Trần Trọng Tân (sinh năm 1926) tại xã Cam Thành, huyện Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị, nguyên là Trưởng ban Tư tưởng-Văn hóa Trung ương của Việt Nam, Phó bí thư Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh.
  8. MrKhuKhoam

    MrKhuKhoam Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    12/04/2011
    Bài viết:
    4.334
    Đã được thích:
    1.180
    Hồi trước bác Đi Lạc có làm topic để "bóc trần mấy cái huyền thoại" Đúng là một huyền thoại nhưng xem ra bác ý chưa bóc được mà đã bỏ xứ đi mất tăm.[:D]
  9. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    Giai thoại về Lê Văn Tám

    [FONT=Verdana, Arial, Sans Serif]Giáo sư Phan Huy Lê: Nhân vật lịch sử “anh hùng Lê Văn Tám” hoàn toàn không có thật

    [/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Sans Serif]

    Sunday, March 20, 2005


    HÀ NỘI - Tại một cuộc họp của hãng phim truyền hình Việt Nam vào cuối tháng 2 năm 2005 tại Hà Nội, giáo sư Phan Huy Lê đã tiết lộ: “Nhân vật lịch sử ‘anh hùng Lê Văn Tám’ hoàn toàn không có thật!” Ông cũng khẳng định lại điều này trong cuộc phỏng vấn dành cho báo Người Việt.

    Cuộc họp tại Hà Nội, trong đó có mặt một số phóng viên báo chí, nhằm thông báo rằng trong năm 2005, hãng phim truyền hình Việt Nam (thuộc đài truyền hình VN) sẽ thực hiện chương trình sản xuất 100 tập phim hoạt hình nội dung lịch sử dân tộc Việt Nam. Giáo sư Phan Huy Lê, hiện là Chủ tịch Hội Khoa Học Lịch Sử Việt Nam, là một trong hai nhà sử học được mời dự cùng với nhà sử học Dương Trung Quốc.

    Trong phần phát biểu về tính chân thực của các nhân vật lịch sử, đột nhiên giáo sư Phan Huy Lê “nhớ lại”: “Tôi còn một món nợ với anh Trần Huy Liệu mà đến nay chưa trả được. Ðó là lúc anh Liệu làm bộ trưởng bộ tuyên truyền (sau cách mạng tháng Tám 1945, Trần Huy Liệu làm bộ trưởng bộ tuyên truyền và cổ động), anh Trần Huy Liệu tự viết về nhân vật Lê Văn Tám, một thiếu nhi tự tẩm xăng vào người và chạy vào đốt kho xăng giặc Pháp ở Thị Nghè”.

    Giáo sư Phan Huy Lê nói thêm về lời nhắn gửi của ông Trần Huy Liệu: “Lúc sáng tác ra câu chuyện Lê văn Tám, anh Liệu có nói với tôi rằng: “Bây giờ vì nhiệm vụ tuyên truyền nên tôi viết tài liệu này, sau này khi đất nước yên ổn, các anh là nhà sử học, các anh nên nói lại giùm tôi, lỡ khi đó tôi không còn nữa.”

    Trần Huy Liệu được xem là một trong những nhà sử học hàng đầu và nhiều quyền lực tại miền Bắc VN những năm sau 1945, ngang hàng với Tố Hữu. Ông Liệu giữ chức Viện Trưởng Viện Sử Học Việt Nam và mất năm 1969.

    Tại cuộc họp, giáo sư Phan Huy Lê cũng đề cập đến chi tiết phi lý trong câu chuyện ngọn đuốc sống Lê Văn Tám: “Cậu bé Lê Văn Tám sau khi tẩm xăng vào người và tự châm lửa đốt, vẫn còn khả năng chạy từ ngoài vào kho xăng với quãng đường 50 mét. Tôi đã hỏi một số bác sĩ, và họ cho rằng với sức nóng của lửa xăng, một em bé không thể chạy xa như vậy”.

    Ðiều đáng ngạc nhiên là sau khi giáo sư Phan Huy Lê tiết lộ sự thật về Lê Văn Tám, không một tờ báo hay một cơ quan truyền thông nào của VN đăng tin này.

    Câu chuyện về việc lật lại sự vô lý của nhân vật anh hùng Lê Văn Tám vài năm qua cũng đã được giới sử học mang ra bàn luận trong đó có bài viết của ông Dương Quang Ðông trên tạp chí Xưa & Nay (thuộc Hội khoa học lịch sử VN) số 154 (202)-XII- hồi năm 2003, và mới nhất là của tác giả Quang Hùng nhan đề “Nghĩ về hình tượng Lê Văn Tám” trên báo Thế Giới (Hà Nội) số 39 (154) ra ngày 27/9/2004, nhưng đây là lần đầu tiên câu chuyện “không có thật” này được chính thức công nhận từ một người có trách nhiệm cao nhất của giới sử học tại Việt Nam hiện nay, giáo sư Phan Huy Lê.

    Tưởng xin nhắc lại về nhân vật anh hùng Lê Văn Tám: Bất cứ ai đã từng là học trò tại miền Bắc VN những năm trước 1975 và cả Việt Nam sau 1975 đều biết về câu chuyện Lê Văn Tám, một thiếu niên hơn 10 tuổi, bán đậu phộng rang vì lòng yêu nước căm thù giặc Pháp đã tẩm xăng vào người làm “ngọn đuốc sống” đốt kho đạn giặc tại Thị Nghè thành phố Sài Gòn vào ngày 1 tháng 1 năm 1946.” Câu chuyện về người thiếu niên dũng cảm này đã đưa vào sách giáo khoa dành cho lớp 4 hoặc lớp 5. Câu chuyện này được truyền tụng tới mức rất nhiều tỉnh và thành phố của VN lấy tên Lê Văn Tám đặt cho các trường học, tượng đài, công viên, đường phố. Tại các trường học, tên Lê Văn Tám cũng được đặt cho các Chi Ðội, Liên Ðội thuộc tổ chức “Ðội Thiếu Niên Tiền Phong.”

    Trong một cuộc trả lời phỏng vấn qua điện thoại với báo Nhật báo Người Việt hôm Thứ Sáu (18 tháng 3 năm 2005), Giáo sư Phan Huy Lê đã xác nhận việc ông công bố sự thật về nhân vật Lê Văn Tám tại cuộc họp hồi cuối tháng 2 vừa qua.

    Giáo sư Phan Huy Lê cho biết: “Là những nhà sử học, chúng tôi phải giữ một thái độ trung thực và phải tiếp cận với sự việc càng rõ ràng càng tốt và vì thế tôi đã công bố “lời nhắn nhủ” của anh Trần Huy Liệu.”

    Người Việt: Thưa giáo sư, ông Trần Huy Liệu nói điều ấy với giáo sư vào thời gian nào?

    GS Phan Huy Lê: Lúc ấy ông Trần Huy Liệu đang là Viện trưởng Viện sử học VN. Ông nói câu chuyện này với tôi rất nhiều lần vào những năm của thập kỷ 1960, vài năm trước khi ông Liệu mất. Không chỉ nói với mình tôi, ông Liệu còn nói cả với những người đồng nghiệp của tôi là hai nhà sử học Nguyễn Ðình Thanh và Nguyễn Công Bình, hiện nay cả 2 người này vẫn còn sống. Theo lời ông Trần Huy Liệu, việc tuyên truyền hình ảnh nhân vật Lê Văn Tám như một anh hùng có thật là nhằm động viên tinh thần chiến đấu của quân dân trong những năm đánh Mỹ.

    Người Việt: Ðây có phải là lần đầu tiên giới sử học VN tuyên bố nhân vật lịch sử Lê Văn Tám là không có thật?

    GS Phan Huy Lê: Câu chuyện về Lê Văn Tám đã được giới sử học mang ra bàn luận trong nhiều năm qua, nhưng vẫn chưa có công bố nào cụ thể và chính thức trên các phương tiện truyền thông nhà nước. Tôi cũng đã được nghe về một cuộc bàn luận về nhân vật Lê Văn Tám trên đài BBC. Riêng về bản thân tôi, là một nhà sử học, tôi đã và đang viết bài để công bố sự thật về nhân vật này một cách chi tiết và thấu đáo nhất dưới góc nhìn của lịch sử và tôi dự định trong thời gian sớm nhất.

    Người Việt: Thưa giáo sư, tại sao lại không công bố sớm hơn sự kiện này?

    GS Phan Huy Lê: Bởi vì, trong năm nay, nhà nước đang chuẩn bị rất nhiều ngày lễ lớn, trong đó có ngày 30 tháng 4. Tôi muốn công bố bài viết của mình trong một điều kiện bình thản hơn và không muốn việc của mình bị cuốn vào các sự kiện lớn khác. Tôi đang chờ đợi một dịp thuận lợi và nhất định là tôi sẽ làm.

    Người Việt: Xin cảm ơn giáo sư.
    [/FONT]
  10. vaputin

    vaputin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/09/2008
    Bài viết:
    5.351
    Đã được thích:
    133
    Quang Hùng
    Nghĩ về hình tượng Lê Văn Tám

    Tạp chí Xưa & Nay số 154 (202) - XII - 2003, bài Đọc hồi ký Dương Quang Đông trọn đời tận trung với Đảng tận hiếu với dân của Nguyễn Quế Lâm, trang 9, có đoạn viết:

    "Vụ đốt kho đạn Thi Nghè ngày 1.1.1946 bao nhiêu năm nay quy về một huyền thoại Lê Văn Tám. Nhưng về phương diện khoa học, huyền thoại này không đứng vững được. Và chúng ta cứ chấp nhận như thế mà lưu truyền như là một hình tượng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Nay bác Năm Đông đưa ra một tư liệu khác. Tổ đánh mìn kho đạn Thị Nghè là công nhân nhà máy đèn Chợ Quán gồm có Ka Kim, Kỷ và Nỉ. Ka Kim là chỉ huy. Kỷ và Nỉ dùng thuyền nhỏ chở mìn chờ lúc con nước ròng đưa thuyền chở mìn và hai người chui qua ống cống thoát nước. Vì lính gác chặt chẽ nên hai anh tiến hành công việc đặt mìn rất chậm. Khi đặt xong đến giờ điểm hỏa thì con nước đã lớn, ống cống ngập lút không ra được. Giờ điểm hỏa phá tung kho đạn Thị Nghè cũng là giờ phút hy sinh của hai công nhân nhà máy điện Chợ Quán.”

    Tôi xin có một vài ý kiến nhỏ, rất mong được các bạn đọc góp thêm, để tìm đúng sự thật.

    Có nhiều bài báo, có cả sách viết về Lê Văn Tám. Rất nhiều tỉnh, thành phố trong cả nước có nào là tượng đài, công viên, đường phố mang tên Lê Văn Tám, trường học Lê Văn Tám...

    Tuy nhiên, nếu nghiêm túc về nguồn để tìm kiếm sự kiện lịch sử có thể sẽ nảy sinh những thắc mắc: liệu Lê Văn Tám có phải là người thật việc thật, từng lập nên chiến công oanh liệt? Xin nêu bốn điểm thắc mắc:


    Qua tên gọi Lê Văn Tám, với tập quán đặt tên của người miền Nam, có thể suy ra Tám có sáu anh chị ruột lớn hơn (không kể các em). Năm 1946, Tám khoảng 10 tuổi như vậy phỏng đoán các anh chị của Tám hơn 10 tuổi đến hơn 20 tuổi. Qua 1975, tức 30 năm sau, anh chị của Tám khoảng chừng từ 40 đến 50 tuổi. Ở lứa tuổi này, rất nhiều khả năng trong số sáu anh, chị của Tám có người vẫn còn sống (ngay cha mẹ của Tám cũng có thể còn sống với lứa tuổi từ 60-80). Trước 1975, có thể họ không dám nhận là anh chị của Tám, nhưng sau khi cách mạng thành công, tại sao không thấy ai đứng ra nhận vinh dự (và cả quyền lợi) cho gia đình? Nếu gia đình khiêm tốn không nhận công lao kháng chiến, các cơ quan chức năng cũng phải đi tìm. Ngành thương binh xã hội phải lập danh sách gia đình có công, ngành viết lịch sử phải tra cứu thân thế sự nghiệp.

    Chẳng lẽ tất cả sáu anh chị của Tám đều đã chết yểu ở độ tuổi từ 20 đến 30? Ngay cả trong trường hợp chuyện này xẩy ra, hẳn chú bác, cô dì của Lê Văn Tám thế nào cũng có người còn sống, vì Tám ở ngay vùng Thị Nghè chớ nào phải xa xôi, hẻo lánh gì?

    Để làm rõ hơn, đề nghị nên đăng thông báo trên truyền hình, phát thanh, báo chí, cả trung ương lẫn địa phương, tìm người thân của Lê Văn Tám.


    Chỉ nghe kể Lê Văn Tám là giao liên, nhưng không thấy nói cụ thể Tám là giao liên cho đơn vị nào. Phàm đã hoạt động cách mạng, thời chống Pháp cũng như chống Mỹ, dứt khoát phải hoạt động trực thuộc một đơn vị nào đó (như Thành đoàn, Công đoàn, Binh vận, Biệt động thành, Trinh sát vũ trang, Địch vận v.v.), không ai có thể một mình một cõi, tự tung tự tác, muốn hoạt động ra sao cũng được, dù là tự thiêu, phá hủy kho đạn của địch.

    Thực tiễn hoạt động cách mạng tại Sài Gòn cho thấy đến tình báo hoạt động cũng phải có tổ chức. Đơn vị của Tám không đứng ra báo công trường hợp người của đơn vị mình là thiếu sót lớn, không phải để hưởng tiếng thơm lây, mà là có tội che giấu thành tích của người làm nên lịch sử. Vậy đơn vị nào có chiến sĩ Tám, cần nhanh chóng làm các thủ tục này. Không lẽ cả đơn vị lớn nhỏ đều hy sinh hết? Nhiều trường hợp cả đơn vị hy sinh, vẫn có nhiều người biết do cuộc chiến tranh của chúng ta luôn được nhân dân nuôi dưỡng, bảo vệ giúp đỡ.


    Thông thường, theo nguyên tắc quân sự, kho đạn nào cũng được bảo vệ nghiêm ngặt. Đây là khu quân sự cấm người lạ mặt lai vãng, ngoài cổng luôn có lính gác "vũ trang đến tận răng". Trong kho lại có nhiều nhà kho, mỗi nhà kho đều có cánh cửa luôn khóa chặt, đạn được bỏ trong thùng. Chỉ khi có người đến lãnh đạn hoặc quan hệ công tác, trình giấy tờ hợp lệ và đầy đủ, lính gác mới mở cổng cho vào. Tiếp đó, phải có lệnh của trưởng kho, thủ kho mới mở khóa, giao đạn.

    Đằng này Lê Văn Tám chạy một hơi từ cổng đến tận nhà kho chẳng thấy lính tráng nào ngăn cản, cứ như xông vào chỗ không người, tất cả mọi cánh cổng, cánh cửa kho đều mở rộng như chờ đón sẵn!


    Giả sử Lê Văn Tám đã điều nghiên kỹ lưỡng, nắm được quy luật của địch, hoặc rơi vào trường hợp may mắn ngẫu nhiên, do lính gác cổng bị bất ngờ không kịp phản ứng và tất cả mọi tình huống đều thuận lợi cho Tám, thì một người bình thường tẩm xăng đốt mình cháy như cây đuốc sống cũng khó chạy bộ một quãng vài chục mét. Nhà kho, nhất là kho đạn, không phải nhà mặt tiền, chí ít cũng phải qua cổng gác rồi cách vài chục mét.

    Hình tượng Lê Văn Tám được đưa lên như thế nào? Người sáng tác hình tượng này là đạo diễn phim truyện Phan Vũ.

    Theo ông Phan Vũ kể, ông không hề viết rằng Lê Văn Tám là nhân vật có thực lập nên kỳ công "cây đuốc sống", mà chỉ viết một phim truyện. Nhưng do các nhà tuyên truyền thời ấy thấy cần xây dựng một tấm gương dũng cảm hy sinh cứu nước, bèn chộp luôn sáng tác của ông, hiện thực hóa như một nhân vật có thật. Lỡ phóng lao đành theo lao luôn. Tại sao nhân vật được đặt tên là Lê Văn Tám? Vẫn theo tác giả Phan Vũ, khi ấy nhân Cách mạng tháng Tám, ông đặt luôn nhân vật của mình tên Tám, vừa có ý nghĩa, vừa dễ nhớ, vừa dân dã lại rất Nam Bộ gần gũi.

    Thời chiến, có thể dùng mọi biện pháp, miễn hữu ích. Nay cũng cần trả lại sự thật cho các các sự kiện lịch sử.

    h--p://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=2960&rb=0302

Chia sẻ trang này