1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Tàu ngầm Kilo-636MV và sức mạnh của Hải quân Việt Nam

Chủ đề trong 'Giáo dục quốc phòng' bởi Triumf, 17/03/2011.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. alo_cho_anh

    alo_cho_anh Thành viên gắn bó với ttvnol.com Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    08/02/2011
    Bài viết:
    354
    Đã được thích:
    268
    Nghiệm thu kỹ thuật của tàu ngầm thì nhiều tiêu chí lắm nhưng mình chỉ nói yếu tố " hố đen" của nó nghĩa là tảng hình không có tiêng ôn ý. Cái này cứ nghiệm thu thực tế không nên quá tin cậy vào catalo của nó. Theo mình nên để thằng nhật hay mẽo nó nghiệm thu hộ cho, cứ để nó rải vài cái phao sona rồi cho tàu đánh võng lượn qua lượn lại không phát hiện đc là okie
  2. Jenna1987

    Jenna1987 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    25/05/2012
    Bài viết:
    936
    Đã được thích:
    1.889
    Rước nó lên bàn thờ nhà em nghiệm thu đi. Ông cụ em đóng bàn thờ chả thấy nghiệm thu gì cả,
    gakocanhhuyphuc_ttvnol thích bài này.
  3. duyvu1920

    duyvu1920 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    26/02/2012
    Bài viết:
    6.469
    Đã được thích:
    2.971
    nếu lỡ có sứt mẻ thì sao bác nhỉ :D
  4. alo_cho_anh

    alo_cho_anh Thành viên gắn bó với ttvnol.com Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    08/02/2011
    Bài viết:
    354
    Đã được thích:
    268
    Nhưng nói cho cùng về đến việt là quá tốt rồi, mở đầu một năm mới thuận lợi. It nhiều cũng doạ ma doạ quỷ anh khựa bẩn, tạo động lực tinh thần cho anh em hải quân
  5. huyphuc_ttvnol

    huyphuc_ttvnol Thành viên gắn bó với ttvnol.com Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    30/05/2012
    Bài viết:
    1.490
    Đã được thích:
    1.047
    Nhân chuyện này, chúng ta lại bàn về tầu ngầm của ta.

    HQ-182 không phải chiếc tầu ngầm đầu tiên của chúng ta. Điều đó thì nhiều người biết. Kể cả các chó dại buôn loại cám mèo Việt Nam định mua 641 (mã tên NATO Foxtrot).
    http://taophunghoiquan.blogspot.com/2012/08/ham-oi-tau-ngam-viet-nam.html

    Những loại chó dại nhảm nhí đó cũng thường buôn cái cám 636 Kilo, "tàu ngầm Kilo". Lại dạy cho các chó dại rằng. Kilo là mã tên NATO cuảt 877 Paltus. Đọc tên tầu ngầm phải đọc tên mẹ đẻ, và dù có đọc mã tên NATO cũng phải đọc cho nó đùng. Các tầu ngầm Việt Nam là Chương trình 636 Varshavianka. Varshavianka là thủ đô nước Ba Lan nói kiểu Nga, là tên một bài hát.


    Những tầu ngầm của Việt Nam trước đây.
    http://tuoitre.vn/Pages/Printview.aspx?ArticleID=358793
    Đây là các tầu ngàm Bắc Triều Tiên sản xuất, cỡ nhỏ.


    Cũng không phải đoàn M96 và những tầu ngầm của nó là đơn vị và tầu đầu tiên của ta. Đoàn M96 được thành lập năm 1996, năm 1997 đoàn được trang bị tầu ngầm. Đây là các tầu ngầm của Bắc Triều Tiên, nhỏ, đơn giản, thiên về chở đặc nhiệm.

    Ở đây, có một số bạn cũng biết. Đơn vị tầu ngầm đầu tiên của ta được thành lập từ kháng chiến chống Mỹ, từ khung đó lập lên đoàn M96. Đó là những chiếc tầu ngầm cổ lỗ bé tẹo của Liên Xô hồi ww2, loài Ma-Lức-Ca tức là bé con Малютка.
    http://town.ural.ru/ship/ship/mvi.php3

    Căn cứ của tầu ngầm ngày đó là Tiên Yên. Nói cho chính xác, thì quân cảng Mũi Chùa là quân cảng tuyệt mật gần Tiên Yên. Quân cảng Mũi Chùa có bến tầu được ngụy trang kỹ, kho hàng là hầm ngầm khét sâu vào múi. Nhưng các tầu ngầm không ở đó, mà ở trong cảng ngầm ngoài đảo, vốn là hang ngầm được khét rộng thành các cảng cho loại tầu ngầm bé tí tẹo tèo teo 200 tấn, bên trên phủ rừng cây. Vì căn cứ bố trí như vậy nên đơn vị tầu ngầm rất bí mật.

    Các tầu ngầm được lệnh ẩn nấp rất kỹ. Tầu chỉ nổi lên mặt nước ở ngoài trời vào ban đêm. Các tầu đó rất cổ nên giá trị đánh đấm của chúng là số không. Chúng ta chỉ dùng để huấn luyện, chủ yếu là các khâu âm thanh, và tính đến khả năng chở đặc công-biệt kích. Sau này đoàn M96 là đoàn đặc công.

    2 tầu ngầm của đoàn M96
    [​IMG]
    [​IMG]


    ==================






    Đặc tính của tầu ngầm.
    Chúng ta vẫn thường bàn rằng, tầu ngầm không phải là ******. Tổ Quốc không phải công cụ thủ dâm để các chó dại in bản đồ ra, trần truồng đè lên, phụt dịch thủ dâm vào đó.

    Tầu ngầm là thứ vũ khí có sức đối kháng rất yếu. Bởi vì nó không mang được súng và radar. Một cái tầu ngầm nếu như bị phát hiện thì hầu như không có khả năng đánh lại máy bay, nên dễ dàng bị các máy bay rẻ tiền đánh đắm. Vì không có súng nên tầu ngầm rất yếu đuối so với các hạm tầu nổi.

    Thế mạnh của tầu ngầm là bí mật. Chiến thuật hay dùng là cắn trộm ỉa bậy, phục kích bắn lôi và rải mìn.

    Các 636 Varshavianka rất khác các tầu ngầm như Borei hay Yasen. Borei là tầu mang đạn chiến lược, đây là một thế mạnh của tầu ngầm, nó lẩn trốn rất bí mật, rất khó tiêu diệt nó như các căn cứ cố định trên bờ. Để đi theo cá tầu chở đạn chiến lược đợi tín hiệu chiến tranh, thì phải dùng tầu có máy hạt nhân, đó là nhiệm vụ của Yasen. Còn 636 không liên quan đến các đạn chiến lược, mà là vũ khí thông thường, nó dùng để đánh các tầu nổi tầu ngầm của địch.

    Chúng ta vẫn bàn rằng, thủy tổ của 636 Varshavianka là các tầu ngầm hạt nhân 705-Lira. Ba lớp tầu 705 Lira, 877 Paltus và 636 Varshavianka đều là các tầu có 6 ống lôi trước, 18 đạn trên băng thay nhanh, và choáng nước 2300 / 3100 tấn.

    Nếu nói cho chính xác. Thì các Lira-705 là 197x, chúng được khởi công 196x và bắt đầu phục vụ trong khoảng 1971-1981. Các 877 Paltus là các tầu 198x, 636 Varshavianka 199x. 877 là 636 là tầu ngầm thông thường, chúng không chạy máy nhiệt khi lặn nên rất êm.

    Nếu như xếp thế hệ. Các 636 Varshavianka thuộc thế hệ tầu ngầm thứ 4.

    Thế hệ tầu ngầm đầu tiên là các tầu ngầm ww1-ww2. Các tầu ngầm này chưa chiến đấu bằng âm thanh, mà chiến đấu bằng kính tiềm vọng bắn ngư lôi không điều khiển và pháo. Trên boong tầu có súng pháo chiến đấu. Ví dụ như các Ma-lức-ca nói trên, hay các tầu ngầm Nga Hoàng Bars БАРС . Các tầu này chiến đấu lúc nổi nên vỏ tạo hình của chúng có hình tầu nổi để ổn định trên mặt nước. Chúng chưa có chân vịt chuyên cho tầu ngầm mà vẫn dùng chân vịt thường.

    Thế hệ tầu ngầm thứ 2 là các tầu ngầm 194x-195x. Đây là các tầu ngầm đã chiến đấu bằng âm thanh. Nhưng các tầu ngầm này nghe trực tiếp bằng tai người, chỉ dùng dải âm tai người nghe thấy. Ví dụ các thế hệ này như lớp 615 Quebec dưới đây, 611 (mã NATo Zulu), 613 (NATO Whiskey), 617 (chỉ có 1 chiếc S-99, là 613 thử nghiệm máy AIP H2O2). Chúng có vỏ tạo hình và chân vịt tầu nổi như trên, nhưng có thêm sonar. Sonar ban đầu có các ăng ten đặt trong một khoang bọc cao su căng lên khung thép, khoang ngập nước.

    Thế hệ tầu ngầm thứ 3 là các tầu ngầm 196x. Đặc điểm đánh dấu chúng là có chân vịt chuyên dụng cho tầu ngầm và tròn đều, bọc cao su dầy. Các tầu ngầm này đã có sử lý âm thanh , nhưng bằng thiết bị tương tự. Các âm thanh được ghi trên bằng từ, nhân tần số và hiện lên màn hình, nến soi được hạ âm, cũng như soi được các xoáy nước. Phần lớn năng lượng của máy đẩy được chuyển thành các hạ âm và xoáy nước. Hạ âm có bước sóng lớn hơn 25 mét, nên nó coi mặt biển là nhẵn thín như gương, không như âm thanh nghe thấy có bước sóng nhỏ coi mặt biển là gồ ghề. Vì thế, hạ âm tuyền xa hàng ngàn km khi phản xạ ôm theo mặt biển.

    Chính vì khả năng ghe tăng vọt nên các tầu ngầm được chú ý giảm âm. Chân vịt chuyên dụng cho tầu ngầm xuất hiện, tách khỏi các chân vịt tầu nổi. Chân vịt tầu ngầm có nhiều cánh, các cánh hẹp và cong giảm xoáy nước, chân vịt khum hình nơm úp cá để xoáy không "xòe" ra bởi ly tâm, tạp âm thanh mạnh. Các chân vịt tầu ngầm có đường kính lớn hơn, quay chậm hơn, cánh mỏng hơn. Ví dụ về các tầu ngầm thế hệ thứ 3 chủ yếu là hạt nhân, như các 705 Lira, 670 và 671... tầu thông thường có Project 641B Som.

    Cũng ở thế hệ 3, hạt nhân được áp dụng ồ ạt, giúp tầu có khả năng lặn lâu dài. Lọại tầu ngầm ít ăn nhiên liệu nhất trên thế giới là Lira 705 dùng lò có tỷ số tái sinh cao, đủ nhiên liệu 40 năm. Đây là ước mơ của ngành điện lực thế giới, hiện đang bị thế giới chó dại cạnh tranh. Lira có chu kỳ thay đảo sau này là 8 năm, tuy nhiên liệu nó ít hao, nhưng mòn mỏi, nên thay để đảm bảo an toàn.

    Điện tử tự động cũng được áp dụng ồ ạt trên các tầu ngầm thế hệ 3. Ví dụ, Liên Xô và Mỹ bắn lên các vệ tinh định vị thế hệ đầu tiên, ở Biển Đen đạt 3km, và lưới vệ tinh thông tin Liên Xô phủ sóng ăng ten vô hướng toàn cầu, các đạn tự hành, từ đạn tên lửa đường đạn, đạn có cánh diệt hạm, ngư lôi lái dây và ngư lôi bám âm thanh....

    Một tiến bộ của tầu ngầm thế hệ 3 là thép không nhiễm từ. Liên Xô sử dụng titan trên các tầu ngầm đắt tiền và thép không nhiễm từ trên các tầu rẻ tiền.

    Cũng từ tầu ngầm thế hệ 3, Đức quay trở lại đóng tầu ngầm, nhưng chỉ là tầu ngầm thông thường. Đó là lớp Type 201 năm 1962. Tuy nhiên, Type 201 không thành công. Các tầu ngầm nhỏ này sử dụng thép không nhiễm từ, nhưng gia công không đạt, vật liệu mỏi nhanh chóng. Các tầu được hoán cải thành Type 205.

    Tổ tiên của 636 và 877 là Lira705, 705 là thuộc thế hệ 3, thế hệ tầu ngầm hạt nhân thứ 2. Còn 626 Varshavianka và 877 Paltus là thế hệ tầu ngầm thứ 4.

    Các tầu ngầm thế hệ 4. 877 Paltus và 636 Varshavianka . Đây là các tầu ngầm ra đời trong thời kỹ thuật số phổ biến. 198x-199x . Các máy nghe âm thanh tự động phân tích, phân loại, định vị mục tiêu. Các máy tính thu âm thanh trên toàn dải, bao gồm cả âm thanh nghe thấy và hạ âm, cả các xoáy nước. Máy tính so âm thanh với các mẫu, từ đó xác định loại, vị trí hướng tầm, độ sâu, tư thế vận động của mục tiêu. Trước đây, người ta có thể hấp thụ các âm thanh tần số cao bằng làm máy móc êm và bọc cao su. Nhưng đến thời số thì hạ âm rất khó che chắn. Chính vì thế, các tầu ngầm chiến thuật bỏ máy hạt nhân, vốn là máy nhiệt luôn chạy trong lòng biển.

    Các tầu ngầm thế hệ 5. Là các Lada. Hiện nay chỉ có Nga có. Các tầu ngầm này có tiến bộ chủ chốt là sonar áp điện cao su. Các sonar này không cần đặt trong khoang ngập nước, mà dán luôn vào vỏ cao su ngoài của tầu. Ưu thế là diện tích nghe âm tăng lên ở tất cả các hướng và tàng hình. Trước đây sonar không được bọc cao su quá dầy khó tàng hình. Các tầu ngầm thế hệ 5 có những ắc quy rất khỏe, như pin h2-o2. Chúng có trữ năng lớn và bơm được như bơm xăng bơm dầu, nên có tính chất vừa như pin-ắc quy, vừa như máy phát. Vì cấu hình sonar và động lực này nên các Lada thu nhỏ lại được, trước đây Paltus và Varshavianka phải to để chứa sonar to và ắc quy chì nhiều.

    Các Yasen 885 và Lada 677 là thế hệ tầu ngầm thứ 5. Còn các 636 Varshavianka và 877 Paltus là thế hệ 4.

    Sự phân loại trên chỉ áp dụng cho Xô-Mỹ. Các nước lởm đời như Pháp không chấp. Ví dụ, từ năm 1964 đến 1975, họ đóng các tầu lớp Daphne-class, vẫn là dáng tầu nổi, chân vịt tầu nổi, cùng thời gian nhưng không thể sánh ngang hàng với các tầu thế hệ 3 như 670 hay 671. Ngay đến các tầu Augosta 197x-198x cho đến nay, vẫn chưa thậ cóp mũi tròn, vẫn là mũi dẹt của tầu thủy.

    Tuy nhiên. Có một số người chỉ chia ra 3 thế hệ. Các tầu chỉ có kính tiềm vọng cổ, các tầu nghe trực tiếp bằng tai người, và các tầu có điện tử sử lý âm thanh. Như thế 636 Varshavianka là thế hệ thứ 3. Tuy nhiên, cách chia đó không cho thấy sự phân hóa từ 705 Lira đến 636. Cách chia này áp dụng ở Mỹ nhiều vì Mỹ ngừng phát triển từ thế hệ 3.

    Sonar của 671, tầu ngầm thế hệ 3. Các tinh thể áp điện bố trí thành hình trụ (2d) và cầu (3d), đặt bên trong một khoang ngập nước. Vỏ ngoài khoang là vỏ tạo hình mỏng bằng commposite. Các sonar của tầu ngầm thế hệ 4 tương tự nhưng là cầu 3d. Vỏ sonar không được phủ cao su tàng hình.
    [​IMG]


    Sorna của tầu ngầm thế hệ 5 (lada). Do có các cao su áp điện, tàng hình. Và các miếng cao su được dán theo vỏ tạo hình ngoài, nên diện tích nghe lớn, không tốn thể tích bên trong. Tầu dễ dàng bố trí các sonar phụ để tắng khả năng đo hướng hạ âm.
    [​IMG]



    Trong số các tiến bộ được áp dụng để giảm ồn, thì có thể kể đến tròn đều, cấu tạo chân vịt, cao su dầy, máy êm.

    Như đã nói trên, 636 Varshavianka có chân vịt chuyên dụng của tầu ngầm. Tuy nhiên, từ tầu ngầm thế hệ 3 đến nay thì chân vịt đã tiến bộ thêm một bước mới. Ngày nay, nhờ các máy gia công tự động, nên người ta xẻ được các rãnh đồng tâm trên mặt chân vịt, giảm xoáy xòe ra bởi ly tâm-gây ra nước trượt trên mặt chân vịt=ồn vào hao sức... 636 sử dụng chân vịt tiên tiến này.

    Tuy nhiên, các chân vịt ngoài sẽ tạo các xoáy nước, tồn tại sau khi tầu đi qua nhiều giờ . Các xoáy này rất dễ phát hiện từ tầu ngầm hạt nhân thế hệ 3, và các sensor này được đặt trên mũi ngư lôi để ngư lôi bám theo mục tiêu một cách chắc chắn từ 40-50 hải lý. Để giảm điều này, người ta đặt chân vịt trong vỏ kín có lưới dập xoáy, gọn là các bơm phun pumjet. Các bơm phun pumpjet được lắp trên các tầu ngầm hạt nhân 941 Akula (Mã NATO Typhoon)Borei 955, đều là các tầu chở đạn chiến lược. Tuy nhiên, ben các tầu tấn công thì 877V đã dùng pụmet nhưng sau không phát triển. Kể cả Yasen cũng không dùng. Có nhiều lý do, chủ yếu là nó dễ trục trặc do lưới cá (877-636) và rít âm thanh cao tần ở tốc độ cao (955)

    Đó là các giới hạn chân vịt của 636 Varshavianka.


    Có thể quan sát chân vịt tầu thủy thường trên tầu ngầm lởm (tầu Pháp)
    [​IMG]

    Và so với chân vịt chuyên dụng của tầu ngầm
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]

    Các chân vịt hiện đại có gờ đồng tâm để nước không trượt theo hướng bán kính. Tầu ngầm Trung Quốc. Từ thế hệ tầu ngầm thứ 3, thì chân vịt tầu ngầm khác với chân vịt tầu nổi, chúng có nhiều cánh, cánh cong, khum hình nơm, đướng kính lớn. Sau đến thời kỹ thuật số có những máy gia công tự động khổ lớn, chân vịt có những gờ đồng tâm để ngăn nước trượt theo hướng bán kinh hao sức.
    [​IMG]


    Chân vịt đóng kin pumpjet dể dập xoáy nước sau tầu, 877V. Tuy nhiên sau đó các tầu tấn công 636 và 885 đều không dùng. Các máy khỏe như 885 Yasen thì các vách chống xoáy gây rít. Còn các tầu yếu như 877-636 thì dễ bị mắc lưới cá kẹt chân vịt.
    [​IMG]



    Tầu nhỏ và tròn đều.
    Chúng ta có thể so các 705-877-636 3100 tấn và các Virginia 7-8 ngàn tấn.

    Có thể so các tầu tròn đều như 670 (trên cùng), 705 (giữa) và cái tầu Pháp cùng thời vẫn dáng tầu nổi
    http://www.netmarine.net/bat/smarins/minerve/caracter.htm

    670
    [​IMG]

    705
    [​IMG]

    705
    [​IMG]

    Cái tầu ngầm ngầm Pháp nói trên
    [​IMG]




    Máy êm.
    Từ thế hệ 4, thì tầu ngầm được thay đổi rất nhiều để êm. Các tầu ngầm điện vốn đã êm, nhưng các 877 và 636 áp dụng những kỹ thuật để giảm tối đa tiếng ồn. Máy các tầu này không có bánh răng, motor gắn đồng tốc đồng trục với chân vịt, trục motor nối với trục chân vịt qua đệm giảm chấn (như bánh sau xe máy). Các bánh răng buộc phải dơ, vì thế chúng va vào nhau gây ồn. Việc làm motor đồng tốc với chân vịt làm kích thước các motor to lớn cồng kềnh. Các tầu của nội địa Nga còn có các đệm từ trường không tiếp xúc bi bạc.

    Ai cũng có thể hiểu, tiếng ồn sinh ra ở bi bạc ổ đỡ của trục đẩy và motor. Như vậy, khi dùng đệm giảm chấn, thì tiếng ồn đó không truyền ra chân vịt và truyền vào nước.

    Vỏ cao su.
    Tầu ngầm Nga có vỏ cao su dầy hàng tấc, như xem ảnh, các tầu cũ chờ giảm xạ bong tróc nên dễ dàng ước lượng được độ dầy. Lớp vỏ cao su kiểu Mỹ dán lên vỏ tầu chỉ dầy 2 phân. Còn vỏ tầu Nga dán cao su lên các palel rồi đem bọc. Đây là các tầu Barrakuda 945, chiều ngang thân 12-14 mét, qua đó ta thấy lớp cao su ở phần thân tầu dầy đến 1-2 tấc.

    Lớp cao su này gây rất nhiều phiền toái khi bảo dưỡng, chúng bị hà bám, nên các tầu ngầm phải thường xuyên lên ụ nổi cạo hà và thay thé cao su bị hà ăn thủng. Đó là lý do Mỹ không thực hiện được vỏ cao su dầy.

    Càng dầy, thì lớp vỏ cao su càng hấp thụ âm thanh tần số thấp, các hạ âm, xoáy nước. Đặc biệt lớp cao su này hấp thụ các âm thanh từ sonar chủ động của địch chiếu đến. Để hấp thụ tốt, lớp cao su này gồm nhiều lớp đan răng lược như vợt bóng bàn, bên ngoài là các cao su nhẹ tỷ khối gần như nước để giảm phản xạ, dần vào trong là các "râu" đan vào nhau của các lớp tỷ khối dầy hơn hấp thụ âm thanh.

    Một điều đặc biệt của lớp cao su vỏ là chúng hấp thụ xoáy nước, làm giảm lực cản. Điều này đã được biết đến khi nghiên cưu da cá heo. Chúng ta có thể so sánh. Virginia chạy hết tốc độ 25 knot công suất 30 ngàn kw. Lira 705 chạy hết tốc độ 41 knot 30 ngàn kw. 636 chạy hết tốc độ 20 knot 6000 kw. Như vậy. Nếu như Lira 705 chạy 25 knot thì công suất của nó chỉ khoảng 10 ngàn kw, bằng 1/3 so với Virginia. Con khi chạy 20 knot, thì Lira có công suất khoảng 8 ngàn kw, Virginia 20 ngàn kw, còn 636 Varshavianka nhà ta chỉ có 6 ngàn kw. Đó là kết hợp của cả ba: tầu thuôn dài tròn đều và nhỏ, vỏ cao su hấp thụ xoáy nước, chân vịt đường kính lớn khum hình nơm cá.

    Lớp vỏ cao su dầy như dưới đây

    [​IMG]


    Chúng ta cũng đã bàn nhiều về AIP, Air-independent propulsion, sự đẩy độc lập với khí quyển. Đây là khái niệm nhăng nhít nhồi chó dại. Các tầu ngầm đều nỗ lực duy trì máy động lực khi thiếu không khí, như thế các ắc quy bản thân nó đã là AIP. Trước đây, người ta dùng các chất oxi hóa, như WW2 Hellmuth Walter người Đức dùng H2O2 (peroxit hydro), lớp Chương trình 615 Liên Xô (mã tên NATO Quebec) dùng oxi lỏng . Sau khi có hạt nhân thì đương nhiên AIP hạt nhân là loại AIP tốt hơn cả. Sự thật là, ngày nay Nga-Đức đã có trong tay những loại ắc quy nhỏ gọn, trữ năng lớn, bơm được như xăng dầu... Các nước khác không có điều đó, thì đưa ra khải niệm AIP ******. Các AIP hiện nay là Kockums Thụy Điển và MESMA của Pháp đều mang tính ******, ví như MESMA đắt 1 triệu USD / 1 kw, nặng 1 tấn / 1 kw. Một cái tầu ngầm như Soryu 4 ngàn tấn có công suất AIP 200 kw, bằng chưa đến một phần ba Project 615 Quebec 500 tấn. Vấn đề của trò lừa đảo đó là, Nga-Đức bỏ máy nhiệt hạt nhân đi để dùng ắc quy, còn các AIP phi hạt nhân đang nói ở đây lắp máy nhiệt chạy ngầm cho ồn.

    Như vậy, so sánh với lớp 615 195x có máy 900 HP trên tầu 500 tấn, thì các máy 300 HP lắp trên tầu 4 ngàn tất quá nhục nhã. Tất cả những cái đó là ****** các chó dại chế tạo ra.

    Vấn đề mấu chốt là. Hiện nay chỉ có Nga-Đức sản xuất được pin H2-O2, nên các chó dại Pháp-Nhật phải làm hàng giả như vậy. Pin H2-O2 được phát triển liên tục ở Liên Xô cũ, ban đầu là pin Ni-H2 lắp trên vệ tinh Molniya 1964, ngày nay Norilsk-Nikel của Nga tích trữ và độc quyền các nguyên liệu hiếm mà rẻ để làm pin này. Ngoài ta, còn nhiều phương án pin nữa cũng đang được phát triển cho khả năng trữ rất lớn như pin Na-S.

    636 Varshavianka có thể đổi ắc quy chì truyền thống sang pin H2-O2, tuy rằng việc bố trí các bình chứa H2 và O2 không được thoải mái. Tuy nhiên, điều đó chắc chắn không diễn ra ở ta, mà diễn ra với các 877 Ấn Độ và 636 Trung Quốc. Bởi vì việc vận hành bằng H2 rất tốn kém. Tuy nhiên, chúng ta hoàn toàn có quyền tự hào không phải là ****** so với các tầu ngầm xung quanh.

    Nếu như so sánh, thì từ nay đến 2020, bên Singapore mới thay thế lớp tầu ngầm mới Type 219 SG. Tuy rằng Type 219 SG được phát triển từ Type 214, nhưng vẫn đề là sự nông cạn của quân đội Sing có mấy ngàn người, chưa bao giờ tham chiến, nên ncais tầu ngầm đó bị quái thai hóa không còn là một vũ khí. Còn lại, Đông Nam Á có tầu ngầm tồi hơn và ****** nhiều.



    Chúng ta có thể so sánh 636 Varshavianka với các nước khác.
    So với tầu ngầm Mỹ. Mỹ sau khi thực hiện tầu ngầm thế hệ 3 đã không phát triển tiếp. Do đó, các tiến bộ sau đấy Mỹ hoàn toàn không có, trong đó có các tầu ngầm chạy điện, sự quay lại tầu ngầm điện và phát triển tầu ngầm điện có pin bơm được như máy phát. Như vậy, Mỹ hoàn toàn không có tầu ngầm điện. Báo haj Đài Loan chỉ có 2 con Chiến Long do Hà Lan đóng, nhưng đến nay không có vũ khí, vì Hà Lan sợ không bán nữa.

    Chúng ta có thể so thế này. Các tầu ngầm hiện đại nhất của Mỹ là Ohio chở đạn chiến lược và Virginia tấn công. Mỹ không hề có tầu ngầm chạy điện. Đương nhiên, các tầu hạt nhân có máy luôn phải chạy trong lòng biển, nên thực tế vào thời nay chúng không thể đánh đấm các tầu nổi vũ trang có thiết bị chống ngầm. Như đã nói trên,m máy đẩy hạt nhân ngày nay chỉ dùng cho tầu chở đạn chiến lược, chúng có thể lang thang trên biển nhà. Và chỉ có các tần tấn công máy hạt nhân mới đi theo các tầu chở đạn chiến lược được.

    Ngược lại, các 636 Varshavianka hoàn toàn không có âm thanh gì khi bỏ neo ở đáy biển phục kích, hấp thụ các tiếng vọng kể cả là hạ âm. Khi đó, dù đến sát nó, những các con mồi vãn không hề hay biết đang bị rình. Tầu có thể phục kích bắn ngư lôi. Hay tyhar những thủy lôi tự hành đến lơ lửng trên đường địch đi qua. Hoặc thả mìn neo đáy rồi chuồn.

    nếu như so sánh độ ồn. Vậy thì chúng ta đã so, từ thế hệ tầu ngầm thứ 3, đặc biệt thời âm thanh số, thì người ta nghe được toàn thể các âm thanh tầu phát ra. Như thế, phần lớn công suất máy đã được chuyển hóa thành chuyển động nước, mà chủ yếu là hạ âm và xoáy nước. Trước đây chỉ nghe được âm thanh tần số nghe thấy, nên có thể che âm này được. Nhưng từ khi nghe được hạ âm và xoáy nước thì tiếng ồn của tầu chỉ còn tỷ lệ thuận với công suất. Các hạ âm phản xạ ôm sát mặt biển, coi mặt biển nhẵn như gương, ít hao khi phản xạ, nên phát hiện ra tầu ngầm từ xa hàng ngàn km. Để khắc phục điều này, cần tăng độ sâu và giảm công suất. Các 636 Varshavianka sâu 300 mét, tuy là tầu ắc quy, vẫn vượt xa hạt nhân Mỹ lợn 240.

    Như trên đã so. Khi chạy 20 knot thì công suất máy của 636 là 600, còn Virginia là 20-25 ngàn kw.Công suất xoáy nước và hạ âm của Virginia gấp 4 lần 636 Varshavianka khi di chuyển. Tại sao? thì chúng ta đã nói trên, 636 nhỏ hơn, bọc cao su rất dầy như da cá heo, dập các xoáy nước tốn năng lượng, và có cái chân vịt hiện đại đại được gia công bằng máy cắt gọt số khổ lớn.

    Chúng ta đã so, hình dáng kích thước 636 Varshavianka gần như 705 Lira. 705 Lira có công suất máy chính bằng Virginia 30 mw. Nhưng khi chạy hết cỡ máy, 705 đi 41, còn Virginia đi 25. Vậy nên nếu như cùng đi tốc độ 25, thì 705 chỉ cần công suất 10 mw, bằng một phần ba Virginia lúc đó. 636 chỉ có máy 6 ngàn đi hết cỡ được 20, lợi hơn 705 Lira đi 20 sẽ cần khoảng 8mw.

    Nếu nói cho chi tiết, thì Virginia có chân vịt đóng kín bơm phun pumpjet, như thế nó dập được các xoáy nước sau tầu. Nhưng điều đó không phải là hay ho vì 877 đã dùng thử rồi bỏ.

    Nếu như so chi tiết, thì khi chạy 20 knot, Virginia phát ra các chấn động tổng cộng 20-25 mw, còn 636 Varshavianka của ta chỉ vẻn vẹn 6mw, bằng 1/4. Nhung hạ âm của ta dễ phản xạ xống đáy biển để hấp thụ hơn, vì ta lặn sâu hơn. Còn lợi nhất là ta nằm im re, không phát tiếng động, không phản xạ âm thanh kể cả là hạ âm, ta soi xem Virginia đi đâu, ta ị một bãi trước mũi Virginia.

    NHư vậy, quá lợn nếu so các tầu ngầm hiện đại với các kỹ thuật tầu ngầm siêu cổ lỗ của Mỹ. NHục nhã, tầu ngầm hạt nhân mà không lặn sâu bằng tầu ắc quy.


    So với các tầu ngầm Đức.
    Theo truyền thống, tầu ngầm Đức có tỷ số nước dằn thấp. Các nước châu Âu có vỏ tầu khác với Nga, nên không tận dụng được các khoang chứa khí nén. Nước dằn được đẩy ra cho tầu nổi lên bằng khí nén.

    Tỷ số khí nén của tầu Nga khoảng 1/4. CHúng ta có thể ví dụ 636 Varshavianka 2300/3200. Còn ví như type 214 là 1.690 / 1.860 . Như vậy, so với các tầu ngầm Đức, thì thể tích nước dằn tầu Nga rất lớn, tầu nổi nhiều lên trên mặt nước.

    Để khắc phục điều đó, các tầu châu Âu của Đức-Pháp-Anh đều làm sàn boong cao. Tuy nhiên, tiều đó lại làm tầu không tròn đều, phát âm thanh. Dưới sàn boong là khoang nằm ngoài vỏ chịu áp, khi nổi nó rỗng.

    Nếu như đem đọ. Type 209 nhỏ nhẹ hơn, ít âm thanh hơn và nhanh hơn, công suất 4,5 mw. 636 Varshavianka 6mw. Tuy nhiên, cái tai của 636 lại to gấp đôi. Vì thế, type 209 không có nhiều tiến bộ về âm thanh so với 636, do tai của 209 vẫn là tai tầu ngầm thế hệ 4, mạng các tinh thể áp điện rắn hình cầu.
    [​IMG]
    [​IMG]




    Về vấn đề này, thì các tầu Mỹ quá tệ, nó đã có tỷ số nước dằn thấp, mà lại tròn đều, không có sàn boong cao. Ví dụ, lớp tầu ngầm khỏe nhất của Mỹ là 8600 / 9138 tons, tỷ số nước dằn là 1/15. Chúng ta đã xem video của USS Connecticut SSN-22. Các đồng chí bộ đội Mỹ phải dọn băng đè lên kính tiềm vọng, cưa băng phủ trên cửa boong (trước tháp) mới mở cửa mà chui ra được.










    Chúng ta chưa có tầu ngầm hạt nhân, nhưng ở đây chúng ta bàn qua một chút.

    Bắc Băng Dương là địa bàn hoạt động tốt nhất của tầu chở đạn chiến lược. Các nước Mỹ, Nga đều có vùng đặc quyền kinh tế ở đó, tầu lạ vào phải báo, như thế thuận lợi cho các tầu chở đạn chiến lược lượn lờ "cậy gần chuồng". Từ đây bắn đi Âu Nga Trung Nhật Mỹ đều rất gần. Mỗi cái tầu chở đạn chiến lượng ở đây có sức răn đe bằng 3-5 tầu chỗ khác.

    Các tầu như Seawolf Class là các tầu theo đuổi các tầu chở đạn chiến lược.

    Như vậy, như Video trên, thì các tầu Mỹ không thể chiến đấu ở Bắc Băng Dương. Không thể có trường hợp cử người cưa băng ra cho tầu bắn. Như thế, các tầu Nga độc chiếm biển này. SỰ thật là: tầu ngầm Mỹ ****** đến độ không thể hoạt động được ở chiến trường chính.


    Nhưng, chúng ta đã nhìn một sự thật còn tởm hơn. Tầu ngầm chở đạn chiến lược của Mỹ không có đạn. Mỹ đã dừng các lò nấu triti vì quá tốn. Năm 1996 Mỹ chỉ còn 75 cân triti, sản xuất ra 225 cân nhưng đã phóng xạ hết. Chu kỳ bán rã của triti là 12 năm, như vậy nay Mỹ chỉ còn 27 kg triti. Con số này chỉ đủ cho vài chục đầu đạn.

    Mỹ vẫn dùng tầu ngầm chở đạn Ohio đã 30 năm tuổi. Các Ohio được thiết kế từ đầu 197x và phục vụ lần đầu năm 1981. Các Ohio chở đạn Trident II, chất đẩy rắn, 60 tấn. Sức đẩy của rắn tồi hơn chút nên chỉ ngang với R-29 40 tấn, và thua xa R-39 90 tấn. Các Ohio này chở được 8 đầu w88 cởi truồng. W88 gọn gàng hơn nhiều đầu đạn của Nga, vì đầu đạn của Nga né việc sử dụng triti.

    Liên Xô đã thử quả bom không có triti đầu tiên vào ngày 6-11-1955. Đó là quả bom RDS-27. RDS-27 có thiết kế đơn giản dễ thực hiện, nó là quả bom RDS-6S những không nhồi triti. RDS-6s là quả bom khinh khí "nổ sụp vào trong", nhồi deuteri và triti.

    RCD-6s có sức nổ 400kt , ngày 20-8-1953. Khi bỏ triti, sức nổ của RDS-27 còn 250 kt.

    Sau này, Liên Xô phát triển các bom mồi phân rã tinh vi để mồi bom deuteri-lithi6. Các bom không dùng triti nặng hơn, nhưng R-39 và R-36 là các đạn rất khỏe. Việc không chứa triti T3 làm các bom rẻ đi nhiều trăm lần, và có sức công phá không giới hạn. Liên Xô đã thử bom vua năm 1963, sức nổ 100mt rút xuống cho dễ thử 50mt.

    Như vậy, đầu đạn của Mỹ đek có, thì cần gì đạn và tầu ngầm. Và vì thế cũng cần gì phải đội băng lên.




    636 Varshavianka của chúng ta như vậy. Chúng là các tầu ngầm tốt bậc nhất thế giới, mặc dù không phải là hiện đại nhất, nhưng chúng thuộc nhóm tầu ngầm tốt nhất thế giới. Các 636 Varshavianka êm nhất quả đất, êm hơn nhiều tầu Đức cũ và ngang với tầu Đức đời mới nhất Type 209.

    Nếu so với tầu kiểu Mỹ thì quá hài. Tuy là tầu diện, nhưng tốc độ của 636 Varshavianka cũng như của Ohio Class. Ở tốc độ lặn 20, thì công suất của Ohio là 45 ngàn kw, còn của 636 Varshavianka nhà ta là 6 ngàn, gấp 7,5 lần nhau. Tức là Varshavianka phát hiện ra Ohio từ khoảng 7,5 lần Ohio nghe thấy Varshavianka.

    Vì thế, Vashavianka cắn chết Ohio là chuyện đương nhiên. 636 Varshavianka không thể bị phgats hiện nếu bỏ neo phục kích, làm phát hốt trọn một nhóm tác chiến tầu sân bay kiểu Mỹ.
    =================
    Last edited by a moderator: 02/01/2014
    LarvaNH, gakocanh, suhomang6 người khác thích bài này.
  6. DKSH

    DKSH Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    19/03/2011
    Bài viết:
    896
    Đã được thích:
    39
    Hic, đầu năm mà bác Huy Phúc làm cháu đau tim suýt chết!
    Chuyện này có thật hả bác? Dĩ nhiên là cháu biết bác đã sống ở Tiên Yên khá lâu, từ trước khi M96 ra đời. Và bác còn xơi kha khá trăn và cá ở đó thì phải (Tula Việt Bắc). Nhưng vấn đề là ai nói cho bác biết chuyện đó, và làm sao bác biết được nó là tàu ngầm Malyutka? Căn cứ tàu ngầm ở đảo Vạn Hoa sao ạ? Bác Hồ cũng đã từng đi tàu ra thăm đảo này ...
    Link bác đưa là tàu ngầm Malyutka Dòng VI, loại cũ nhất đóng trong giai đoạn 1932-1934. Có 30 chiếc như vậy và TQ cũng sử dụng các Malyutka để xây dựng binh chủng tàu ngầm của họ!!! Có lẽ nào họ viện trợ lại một số tàu ngầm cho VN?

    Thông số kĩ thuật tàu ngầm Malyutka dòng VI
    Lượng choán nước: 158 tấn khi nổi, 198 tấn khi lặn
    Dài: 37,5m
    Ngang: 3,1m
    Mớn nước: 2,6m
    Tốc độ: 24km/h khi nổi, 14km/h khi lặn
    Thủy thủ đoàn: 16-19 người
    Vũ khí: 1 pháo 45mm và 2 ống phóng ngư lôi 533mm
    suhomang, DrGoat, Nong_Dan_WTO1 người khác thích bài này.
  7. arkadin

    arkadin Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    22/06/2012
    Bài viết:
    531
    Đã được thích:
    503
    Báo Thanh Niên đăng, cũ ở đây là Kilo Hà Nội với HCM à các bác?
  8. halosun

    halosun Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    31/07/2006
    Bài viết:
    18.942
    Đã được thích:
    17.451
    như đọc bên topic lịch sử quân sự thì quân ta chính là mạnh thủy binh ấy, nhưng thủy binh đường sông thôi, biển thì trong lịch sử hầu như không có trận đánh nào lớn
    suhomang thích bài này.
  9. fromdesert

    fromdesert Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    30/12/2002
    Bài viết:
    639
    Đã được thích:
    306
    Đ thích trêu cái con Fuc Ròi ngu này nhưng nó thù dai, Thông tin nó đưa thì chỉ có một tí còn lại là một mớ hổ lốn của nó cóp nhặt lộn xộn chuyện này chuyện kia, loãng diễn đàn.
    "Ngày nay CPU nào chẳng có phần mềm." mày vẫn không phân biệt nổi. Khi CPU thực hiện những chức năng đơn giản và ít chỉ lệnh thì người ta tích hợp cho nó một con ROM hay EPROM(Người ta gọi là HDH nhúng hay thiết bị nhúng). Thường những vi xử lý trong tự động hóa thì dùng loại này. Còn các tất cả các CPU dùng cho máy tính để bản của intel hay AMD là không mềm. Mày thử kiểm tra thông số của tất cả các loại CPU của Intel và AMD cho máy tính xem có thông số nào nó ghi dung lượng ROM là bao nhiêu không mà đòi có HDH bên trong. còn RAM và CACHE là bộ nhớ tạm cần nguồn điện nuôi, khi mất điện là mất hết dữ liệu thì lấy mả ******* ra mà làm phần mềm à. HDH nó lưu ở mả ****** à. SORF nó lưu ở mả ****** à.
    "BUS" là một hệ thống truyền dữ liệu thì làm sao phải khởi động hả con ròi.
    "phần mềm khởi động CPU điện thoại phải đặt ngay bên trong CPU": Phần mềm khởi động CPU điện thoại người ta gọi là bootloader, được nạp vào FLASH là một con chíp nhớ tương tự như thẻ nhớ hay là ROM. Khi điện thoại bị lỗi phần này cũng như máy tính bị lỗi bios thì thường phải dùng thiết bị đặc biệt để nạp lại. Vì điều này nên nhà sản xuất thường khóa phần bộ nhớ này không cho can thiệp. HTC là hãng khóa bootloader tương đối kỹ và gần đây mới công bố cho phép người lập trình unlock boot để có thể can thiệp trực tiếp sâu vào hệ thống.
    Khi nào Fuc thấy thông tin con CPU nào có ROM thì Fuc mới được kết luật là con CPU đấy có SOFT gắn kèm nhé. Chứ RAM với CACHE là bộ nhớ tạm thời mất điện là nó mất hết không lưu được gì thì lấy mả bố Fuc Ròi ra mà chạy à.
    Fuc có dùng máy tính nào chip của bạn Tàu không hay Intel, AMD cũng là của tàu, gia đình Fuc co ai dùng máy tính nào mà có chíp khác với Intel hoặc AMD không.
    arrow2 thích bài này.
  10. SKVN

    SKVN Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    19/06/2012
    Bài viết:
    3.522
    Đã được thích:
    2.884
    Thì cứ nhè đầu thằng vận chuyển ra mà nã tiền bồi thường, xong đòi thằng bán sang bảo hành như hợp đồng thôi. Điều khoản có đủ hết mà :D

    Không liên quan lắm nhưng onl điện thoại, kéo qua bài tay HP mòn cả màn hình rồi.
    duyvu1920 thích bài này.

Chia sẻ trang này