1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Tàu ngầm Kilo-636MV và sức mạnh của Hải quân Việt Nam

Chủ đề trong 'Giáo dục quốc phòng' bởi Triumf, 17/03/2011.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. SKVN

    SKVN Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    19/06/2012
    Bài viết:
    3.522
    Đã được thích:
    2.884
  2. suhomang

    suhomang Thành viên gắn bó với ttvnol.com Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    07/05/2012
    Bài viết:
    15.659
    Đã được thích:
    1.839
    Thắng 3 năm nay về rồi :) hai tháng nữa thôi bác ạ
    karate_hnMalogs thích bài này.
  3. quaden2012

    quaden2012 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    24/08/2012
    Bài viết:
    461
    Đã được thích:
    181
    Thanks bạn, cùng chia sẽ niềm vui chung. Cũng trông mong em nó lâu rồi, từ ngày biết VN mình đặt hàng của Nga 06 em. Bây giờ đợi em tiếp theo HQ-183 về nữa là có đôi, có bạn rồi cùng sóng đôi cưỡi sóng biển Đông ...
    huyphuc_ttvnol thích bài này.
  4. huyphuc_ttvnol

    huyphuc_ttvnol Thành viên gắn bó với ttvnol.com Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    30/05/2012
    Bài viết:
    1.490
    Đã được thích:
    1.047

    Thoải đi bạn ạ.

    Tầu ngầm có hệ thống cân bằng bằng trao đổi nước giữa các khoang dằn. CHí ít là hệ thống bơm chữ I, trao đổi nước giữa hai khoang dằn trước sau, để cân bằng cái vạch của bạn. Hệ thống đủ hơn chữ X dùng cho các tầu ngầm 2 thân trở lên, điều chỉnh nghiêng trái phải.

    Khi di chuyển, tầu ngầm điều khiển cân bằng bằng các cánh lái như máy bay. Cái đuôi để đổi hướng, và cái "cánh phụ" để điều khiển nâng sâu nông.

    Khi đứng yên các tầu Nga-Đức-Anh điều khiển bằng các cánh quạt bơm lái được hướng, như mình đã dẫn của 671 và Lada 677. Vì vậy chúng vẫn thăng bằng được khi đứng yên. Nhờ vậy, các tầu này nổi lên mặt nước rất nhẹ nhàng. Chúng đứng yên, thò kính tiềm vọng lên, nghía nghiêng thật là clear, rồi thò tiếp ăng ten radio thụ động lên để dò tín hiệu radar . Ngay cả khi hòa bình thì thò kính tiềm vọng lên trước cũng là điều lệnh, để tránh va, va với tầu khác và va với các vật thể như chính cái bến cảng.

    Còn các tầu Mỹ-Pháp rất ăn bớt bố láo. Như chúng ta đã quan sát, chúng phải di chuyển nhanh khi nổi lên, hoặc nổi lên lệch-không dám chọc kính tiềm vọng qua băng. Khi nổi, âm thanh phát ra rất mạnh, cùng một vận tốc thì âm thanh khi nổi tạo ra-tương ứng với sức cản 2-4 lần khi đi ngầm, ở dải tốc độ tầu ngầm. Chính vì thế các bạn thấy các tầu ngầm hạt nhân bao giờ cũng có tốc độ đi nổi thấp hơn, mặc dù vẫn máy đó. Và cũng chính vì thế các tầu ngầm cần luyện chiêu nổi lên khi đứng yên thật là nhẹ.

    Đặc biệt âm thanh phản xạ phía dưới mặt biển sẽ ôm sát mặt biển khi lặn nông. Khi lặn sâu thì âm thanh phản xạ bên dưới mặt biển đi zích zắc xuống đáy bị hấp thụ nhiều hơn. Nguy hiểm nhất trong đó là hạ âm. Với bước sóng hơn 25 mét (dưới 50 Hz) và đặc biệt là các sóng 100 mét trở lên (10 Hz trở xuống), thì sóng này coi mặt biển luôn là nhẵn thín. Vì thế, chúng phản xạ đi rất xa mà không hao. Phản xạ kiểu này âm thanh không tán ra 3 chiều, mà chỉ tán ra 2 chiều, không giảm theo bình phương bán kính mà chỉ giảm tỷ lệ thuận với bán kính, âm thanh tạo thành "lớp màng" có cường độ cao dưới sát mặt biển, càng nông thì cái "màng âm thanh" càng mỏng và đặc. Những tầu ngầm đùa nghịch trên mặt nước như tầu ngầm Mỹ sẽ bị phát hiện từ xa hàng ngàn km.

    Yên tâm, tầu 636 Varshavianka của ta không đến nỗi phải chuyển động nhanh mới trồi lên cân bằng. Nó đứng yên trong lòng biển như một hố đen cơ mà.



    Chúng ta xem lại cái Video tầu ngầm Anh. Nó yếu, không dám chọc kính tiềm vọng qua băng, nhưng nó cũng quay kính ngõ nghiêng trước khi dền hẳn lên. Trong thời gian quay kính đó, tầu cân bằng bằng các cánh quạt lái hướng lực đẩy. Khi không vướng băng thì tầu sẽ không cần đội cái tháp lên khỏi mặt nước.


    Một cái tầu ngầm Nga đang thử nghiệm động tác nổi lên khẩn cấp. Đây là động tác giả định khi các tầu ngầm hạt nhân mất đột ngột công suất, mất điện công suất. Tầu không còn tốc độ dài và điện chạy các cánh quạt lái hướng lực đẩy, không còn điều khiển cân bằng. Thủy thủ dùng các van cơ xả khí nén đẩy nước dằn ra, tầu nổi lên trong trạng thái không điều khiển. Nó không ồn ào và quá mất thăng bằng như đám chó điên Mỹ.



    Còn cũng xem lại tầu Mỹ. Phá ra cười các đồng chí phải dọn băng đè kính tiềm vọng và lấy cưa băng mở cửa tầu. Các đồng chí bộ đội Mỹ đang chứng minh Mỹ nhường Liên Xô và Nga độc chiếm Bắc Cực. Ở đó, mỗi một đạn tầu ngầm giá trị bằng 3-5 lần đạn khác, nói cách khác, Bắc Băng Dương là chiến trường chính của tầu ngầm hạt nhân.




    Các đồng chí Mỹ xóc lọ bằng video này. Mỗi lần như thế này, tiếng vọng hạ âm ôm sát đáy biển thành một lớp mỏng và đặc , vang sa hàng ngàn km. Các đồng chí phải lấy tốc độ để có lực lái hướng, vì các cánh quạt lái không đủ hướng, nên nếu đứng yên thì tầu không cân bằng.





    Đây là tác phẩm xóc lọ của các đồng chí Mỹ. 10 January 2001, the Ehime Maru bị đâm chìm cách bờ biển 17km, chết 9, vì bị một tầu ngầm hạt nhân trồi lên bằng cách của chó điên. Cách cách chó điên này được đàn chó dại la liếm thế nào thì nhiều rồi. Chiếc tầu đâm phải tầu cá là USS Greeneville (SSN-772) , Los Angeles-class .
    [​IMG]



    http://tv.vtc.vn/598-467780/quoc-te/video-tau-ngam-my-pho-dien-kha-nang-noi-khan-cap.htm







    ===========================================
    Đây là sơ hình một 636 Nga
    Chúng ta xem hai cái chóp nón ở phía trước tháp
    [​IMG]


    Chúng ta thấy, bộ tháp gồm có
    2 kính tiềm vọng. 1 kính tiềm vọng tín hiệu, một kính tiềm vọng quan sát. Kính tiềm vọng quan sát rất to khỏe để còn chọc qua băng.
    Một ăng ten râu, một ăng ten chảo-kiêm radar. Cái ăng ten chảo chụp trong cái chuông là cái khúc to nhất giữa tháp. Cái chảo này vừa kiêm chức radar, vừa là cái liên lạc băng thông cao đến 150 MHz với vệ tinh.
    hai cái nhọn nhon phía trước tháp là ăng ten bước sóng dm phân cực xoắn giao tiếp với vệ tinh, đây là đặc trưng của hệ thống nhắn tin-định vị từ thời Liên Xô. Hệ thống định vị này rất khó gây nhiễu vì nó dùng phân cực xoắn, cường độ phát xạ mạnh đổi lấy xung thưa, không như các GPS ngày nay. Vì thế các mạng định vị cổ tuy có độ chính xác chỉ bằng 1/40 ngày nay nhưng vẫn được Nga duy trì.

    Nhắn tin cái này là tiền thân của các mạng điện thoại vệ tinh ngày nay. Tín hiệu định vị cũng là một tin nhắn dặc biệt của mạng này. Như chúng ta đã nói chuyện, Liên Xô và Nga có rất nhiều mạng nhắn tin như thế. Khác với các ăng ten chảo có băng thông cao, các mạng nhắn tin này dùng ăng ten vô hướng như điện thoại di động, băng thông thấp hơn, nhưng không cần biết vị trí của tầu và chỉnh hướng (quay) ăng ten theo cả bộ tọa độ tầu-vị trí vệ tinh-thời gian thực=quá khoai.



    Với 636 Varshavianka nhà Vịt và Tầu, thì mình cũng ko biết có dùng được mạng định vị này không. Còn chức năng tin nhắn thì đương nhiên Gấu nó cấm của phần quân sự, chỉ cho tham gia các mạng kêu cứu, hay như Gonets=mạng... báo dự trữ thuốc của hệ thống ứng phó thảm họa ^!^.




    CHúng ta xem lại. Liên Xô đã xây dựng các mạng lưới nhắn tin quỹ đạo rất sớm. Chúng trở thành các mạng điện thoại vệ tinh, khi Mỹ bắn bừa vệ tinh lên các quỹ đạo đó thời số hóa đã mạnh, dẫn đến vụ va vệ tinh. Sau đó thì các công ty Mỹ phải thuê Nga bắn lên và theo dõi. Một là Mỹ bừa bãi bắn lên quỹ đạo người khác đã xí-và ngu thay là có nhiều vệ tinh chết. Hai là NASA không có phương tiện radar lớn theo dõi quỹ đạo như Liên Xô và Nga.

    Gonets, mạng nhắn tin dân sự phục vụ y tế. Có thể nhìn thấy các ăng ten phân cực xoắn bước sóng dm tương ứng của tầu ngầm đây. 636 Nga 2 tay 2 súng dân-quân sự.
    [​IMG]


    Parus, mạng nhắn tin-định vị 197x, quân sự. Chức năng định vị được thực hiện trong một số tin nhắn riêng. Có thể quan sát cái ăng ten hình chóp của tầu ngầm.
    [​IMG]


    Cổ lỗ 196x thì định vị chỉ có ăng ten râu. Shiklon
    [​IMG]


    Zaliv, 197x, hệ thống định vị độ chính xác cao kiêm nhắn tin quân sự, chuyên cho tầu chở đạn chiến lược. Các đạn chiến lược hiện đại chỉ dùng dẫn đường quán tính không thể bị nhiễu. Chính vì thế, tầu ngầm corect lại vị trí mỗi khi thò ăng ten lên. Tầu ngầm khi lặn theo dẫn đường quán tính. Khi bắn, tầu mẹ báo cho đạn con vị trí bắn, đạn con chiếu theo đó dùng dẫn đường quán tính của nó.
    [​IMG]


    Ở vùng cực, ăng ten có hướng (chảo) không dùng được địa tĩnh, mà dùng Molniya. Liên Xô dùng quỹ đạo này trước địa tĩnh. Nhưng chỉ đến các Molniya hiện đại mới dùng X (Ku) băng thông cao, các tầu ngầm 196x chỉ có đường nhắn tin.
    [​IMG]


    Meridian hiện đại, bao gồm chức năng của Molniya và Parus cho vùng cực.
    [​IMG]




    Kupon. Điạ tĩnh. Các vệ tinh thông tin nhà nước cũng dùng cái này. Chúng có ăng ten mảng pha, lái hướng chùm nhanh như radar, dùng kỹ thuật phân chia thời gian để liên lạc băng thông cao.
    [​IMG]





    Phân cực xoắn là cái gì ? https://sites.google.com/site/angte...-block-downconverter-lnb#TOC-Ph-n-c-c-xo-n-RL
    À đó là phân cực quay, sau mỗi chu kỳ thì hướng phân cực quay 360 độ. Phân cực xoắn có hai chiều là R và R, quay ngược và xuôi kim đồng hồ. Ví dụ
    [​IMG]

    Phân cực xoắn có thể được thu bằng các converter, nó chuyển phân cực xoắn thành phân cực thẳng Linear Polarization bình thường khi thu, và ngược lại khi phát. Việc hoán chuyển này đơn giản bằng một miếng điện môi đặt trong một cái ống tube. Hay là ống có các lỗ chốt... Cách này thuận tiện, nhưng không sạch.

    Các ăng ten chóp nón như trên thì rất sạch, tùy theo chiều xoắn của cái nón mà chỉ thu-phát được một phân cực xoắn L-R. Vì vậy tầu ngầm có hai cái nón, một trái một phải . Phân cực xoắn hầu như không có trong thiên nhiên, nên nếu lọc sạch hai phân cực xoắn L và R thì nguồn sáng chủ động của ta sẽ sáng rực lên, rất dễ thu. Nó như là cả bầu trời đen đặc chỉ có đúng một vì sao, còn phân cực thẳng thì như là đèn pha dưới ánh mặt trời, có quá nhiều nguồn gây nhiễu.

    Nguyên lý của hệ thống nhắn tin-định vị Liên Xô cũ là thế này. Nó kết hợp cả vô và có hướng. Ban đầu thì vô hướng được dùng để định vị như ngày nay. Nhưng ngày đó đồng hồ thời gian thực còn lởm, nên độ chính xác không cao. Tuy nhiên, sau khi đã có vị trí sơ bộ thì nó lắc ăng ten như lắc chảo để lấy hướng, từ hướng chính xác tính ra vị trí. Tầu ngầm thường thì không cần lắc mà chỉ cần vô hướng. Khi sử dụng ăng ten có hướng với định vị thì khẳng định được chắc chắn nhất và cũng chống nhiễu tốt nhất. Khi bị nhiễu quá mạnh, thì không còn vô hướng, tầu sẽ lắc chảo để tìm vệ tinh và chỉ dựa vào có hướng.
    Last edited by a moderator: 05/01/2014
    usadok, LarvaNH, lanpurge13 người khác thích bài này.
  5. huyphuc_ttvnol

    huyphuc_ttvnol Thành viên gắn bó với ttvnol.com Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    30/05/2012
    Bài viết:
    1.490
    Đã được thích:
    1.047
    Chúng ta có thể quan sát các thiết bị trên tháp qua ảnh các tầu ngầm.

    636 Varshavianka só phần điện tử không phải là quá tân kỳ. Tầu dùng sonar tinh thể áp điện có ăng ten hình trụ, đặt trong khoang ngập nước dưới mũi, bên trong một vỏ tạo hình rất mỏng bằng vật liệu phức hợp-đồng đều về tỷ khối và rất mỏng. Khoang này và đầu thu phát hình trụ tạo thành một cái chảo có kim thu là ăng ten, cộng thâm ăng ten phụ phía sau xác nhận độ lệnh thời gian thu, dùng để tăng khả năng định hướng 2d với các tín hiệu hạ âm có bước sóng rất dài. Cấu tạo ăng ten này rất ít thay đổi từ thời các 671, những chi tiết của chúng là các áp điện và máy tính thì đương nhiên từ đó đến nay quá khác nhau.

    Ưu thế của tầu là ăng ten sonar rất lớn. Hiện nay, chỉ có Lada 677 và các tầu hạt nhân vốn rất ít công bố của Nga là dùng lớp radar sau, sử dụng cao su áp điện. Mỹ thì đụt, Đức vẫn như 636 và bé hơn. Các tầu ngầm hạt nhân Tây Anh-Pháp-Mỹ sử dụng ăng ten sonar hình cầu để tăng khả năng phân giải 3 d. Một số tầu như Astute Anh Quốc dùng 2 cầu, một cầu thu và một cầu phát. Tuy nhiên, các tầu ngầm có chiều sâu rất không đáng kể so với khoảng cách, nên tăng quá phân giải 3d làm yêu tín hiệu vô ích. Các tầu này quá yếu với dải hạ âm, càng tần số thấp-càng phát hiện được tầu ngầm ở xa bằng phản xạ ôm sát dưới mặt biển, thì Mỹ-Anh-Pháp càng yếu.




    636 Varshavianka Việt Nam so với 199x đương nhiên là có phần số phát triển hơn nhiều. Tháy đổi lớn nhất về kinh tiềm vọng là mạng máy tính chứa các phầm mềm sử lý ảnh dùng chung ống kính toàn cảnh. Đây là hệ thống đối kháng quang-điện tử có trên các tầu-xe đời mới.

    Tầu có kính tiềm vọng như của Lada 677. Kính tiềm vọng chính mang 2 camera, một là dải nhìn thấy và một là dải hồng ngoại. Các cam này là tiền bộ lớn nhất của 636 Varshavianka. Các cam quân sự khác nhiều so với dân sự, ngoài việc mầu tốt, thì chúng có phương thức truyền tín hiệu và lắc thấu kính, để có thời gian thực, tầm số refresh phải chăng không đến nỗi 50 hình / giây, bù lại có độ phân giải rất lớn, có ảnh toàn cảnh update liên tục, và ưu tiên độ phân giải ở focus. CHúng ta có thể tưởng tượng cam đó dặt trước một gương quay, có tác dụng như là đặt cam đó lên một cái mâm quay, nếu như luôn đưa toàn cảnh với tần số refresh như thường thì băng thông quá tải, nên cần có mạch điện chi tiết để thay đổi lại phương thức truyền. Từ cái mâm quay đó, tín hiệu qua máy tính, sẽ chia ra các tín hiệu khác nhau, ví như cảnh giới chỉ cần tần số refrest 4 ảnh / giây, nhưng là ảnh toàn cảnh. Nhưng lại ví như, ngắm bắn hay theo dõi cần độ phân giải rất cao và tần số refresh cao.

    Các tín hiệu khác nhau đó được truyền đến một mạng máy tính bao gồm các phần mềm có chức năng khác nhau. Ví dụ cảnh giới nhìn hình cảnh giới, còn xạ thủ nhìn hình ngắm bắn, trinh sát chuyên ngành thì dùng phần mềm riêng... Ngoài chức năng ổn định phần cứng, như lắc cam theo sóng nước, thì ảnh cũng được sử lý nghiêng xoắn... theo con quay hồi chuyển. Những cấu tạo đó được gọi là hệ thống đối kháng quang-điện của các tầu-xe mới, kể cả là xe tăng. Bằng ăng ten chảo băng thông lớn, tầu liên lạc với vệ tinh và quan sát tên địch dưới đường chân trời, có thể xin ảnh của vệ tinh trinh sát độ phân giải lớn, thậm chí là xin chế độ theo dõi liên tục bằng vệ tinh.

    Như chúng ta đã nói chuyện. Tầu ngầm dùng đạn bay rất yếu, kể cả là đạn đường đạn và đạn có cánh. Đạn đường đạn chiến lược thì không bàn ở đây. Bởi vì, khi lặn tầu ngầm không có radar, khi nổi thỉ radar và đối không cũng rất yếu. Vì vậy, nếu như nấp dưới đường chân trời quan sát được mục tiêu, thì tầu sẽ bắn đạn có cánh như Kalibr, lên cao đạn sẽ tự dùng radar của nó đo mục tiêu. Còn nếu không, thì tầu phải nương nhờ tín hiệu của các máy bay và tầu nổi đồng đội, tầu ngầm chỉ như cái bệ phóng di động.


    Cấu tạo kính tiềm vọng này là thừa kế của Lada 677. Lada chậm phát triển lại nhiều năm vì thiếu tiền update đồ số thời ốm đói.


    Vì không có ảnh của 636 nên chúng ta xem các thiết bị trên tháp rất giống của Lada 677. 636 nhà ta khác nhiều nhất 636 nhà Tầu Khựa là cái này.

    Cao nhất là kính tiềm vọng đơn giản có gắn tín hiệu hàng hải, sau đó là kính tiềm vọng quan sát . Có hai kính tiềm vọng quan sát (trắng và vàng). Chú ý kính tiềm vọng rất cứng rắn và có chóp nhọn để xuyên qua băng.

    Hai cái cục đen đen hơi chóp trước sau là ăng ten vô hướng thụ động/chủ động các dải tần khác. Các thiết bị này dùng để phát hiện các tín hiệu liên lạc và radar , cũng như dùng để liên lạc. Nhưng chức năng của chính của chúng là PMU, hệ thống định vị. Bao gồm Glonass và các GPS đời mới, nhưng ôm đồm thêm ăng ten xoắn bước sóng dm để định vị-nhắn tin với mạng cổ.
    [​IMG]







    Ảnh dưới, cao nhất là cái chảo (chảo hoặc mặt mảng pha), đặt trong một cái vỏ radome hình chuông. Ăng ten này đa năng, kiêm chức của radar và liên lạc băng thông cao với vệ tinh, như địa tĩnh hoặc Moniya, và cũng là thiết bị định vị có hướng, cũng là thiết bị thụ động có hướng dò radar địch. Khi tín hiệu định vị vô hướng bị gây nhiễu hay có dấu hiệu bị làm giả, thì các ăng ten có hướng mà quan trọng nhất là chảo bên trong cái chuông này sẽ ngoáy, tìm kiếm các vệ tinh, ban đầu sẽ sơ bộ dùng hướng để định vị sơ sơ, sau đó phép định vị được chính xác hóa bằng đo khoảng cách đến các vệ tinh.

    [​IMG]



    KRM-66 (КРМ-66) là radar;

    Parus-98KP là kính tiềm vọng đơn giản, tàng hình, có gắn tín hiệu liên lạc quang-laser và đèn hàng hải; Parus-98KP mềm yếu, không chọc được băng, nhưng tàng hình với radar. Một số tầu ngầm gắn luôn ăng ten râu của vô tuyến vào đó. Nhưng chúng ta thấy, Lada 677 có ăng ten râu riêng.

    Các anh quân sử hồi này cặn bã hơn lợn.

    Parus-98KP là kính tiềm vọng mỏng mảnh không xuyên được băng và không thể thò ra khi tầu di chuyển với vận tốc khá, dùng để tàng hình khi quan sát ở "độ sâu kính tiềm vọng"-tức tháp tầu nằm dưới mặt nước chỉ thò kính lên, và cũng có đèn led-lazer để liên lạc hàng hải bằng đèn với đồng đội rất bí mật.
    Đám lợn bên quân sử có câu này Tàu ngầm - Chiến hạm của Liên Xô và Nga (phần 2) " ống nhòm ngầm (tiềm vọng) chỉ huy dạng không xuyên (thấm) “Parus-98KP” với các kênh vô tuyến và quang học (ban ngày và cấp độ thấp) với độ khuyếch". Ai về nhắn lại các bạn cũ là bớt hôi thối mùi lợn đi chút.

    bên cạnh Parus-98KP là ăng ten râu. Ăng ten râu vô hướng dùng để liên lạc bước sóng chục mét. Bước sóng này phản xạ tầng điện ly=ôm theo mặt cong quả đất, được dùng để liên lạc xa với băng thông vừa phải. Các điều biến đời mới có thể cho băng thông bước sóng này hàng mega, nhưng để an toàn các tầu ngầm chỉ dùng để gửi báo cáo qua những xung rất ngắn với băng thông cỡ k.

    Parus-98UP ( Парус-98УП ) là kính tiềm vọng quan sát, gồm hai kính trắng-vàng, rất to khỏe để chọc băng. Gals là thiết bị định vị và liên lạc với vệ tinh.
    [​IMG]

    Parus-98KP-E attack periscope ocular box. Parus-98UP-E versatile periscope telescoping mast. (E của Lada, 636 không E)


    trên là kính tiềm vọng dưới là radar
    [​IMG]

    kính tiềm vọng số của 636 Varshavianka, biểu tượng của mạng máy tính có các phần mềm sử lý ảnh khác nhau dùng chung ống kính
    [​IMG]



    Sơ đồ cái tháp Lada 677. входной шлюз là cửa ra vào có khóa chịu áp; KRM-66 (КРМ-66) là radar; перископ = periscope là kính tiềm vọng
    [​IMG]




    Ở đây các bạn ấy nhầm, перископ Парус-98КП (kính tiềm vọng Parus-98KP) của các bạn ấy chỉ vào cột cờ
    "Апассионата"=Apassionata, là ăng ten định vị. Nó bao gồm ăng ten GPS đời mới, ăng ten chóp nón của hệ thống định vị-nhắn tin đời cổ. CHức năng dẫn đường quán tính khi đi ngầm của Lada 677 là sai số 5 mét trong 2 ngày, 636 Varshavianka của Vịt được hưởng cái này.
    http://topwar.ru/print:page,1,21520-dizel-elektricheskaya-podvodnaya-lodka-lada.html
    [​IMG]
    Lần cập nhật cuối: 05/01/2014
    LarvaNH, suhomang, bubibubi0110 người khác thích bài này.
  6. gaume1

    gaume1 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    14/01/2011
    Bài viết:
    1.153
    Đã được thích:
    366
    Huy Phúc viết như thế có phải dễ đọc hơn không? Many thanks!
  7. GDTLA04

    GDTLA04 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    17/12/2009
    Bài viết:
    1.259
    Đã được thích:
    22
    Cho e hỏi chút, bác Huy Phúc chắc chuyên môn công tác là bên mảng kỹ thuật quân sự hay sao mà kiến thức uyên bác vậy? :)
  8. tuananhkttt

    tuananhkttt Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    07/03/2011
    Bài viết:
    31
    Đã được thích:
    33
    Bán mắm tép, cá kho, lươn om chuối , thịt chó ...thi thoảng có đan lát . Chuyên môn chính là bếp trưởng . Quân sự chém gió cho vui thôi
    hk111333 thích bài này.
  9. divenoi_xalam

    divenoi_xalam Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    25/06/2012
    Bài viết:
    2.635
    Đã được thích:
    2.230
    Bác Phúc có thể trình bày cho mình biết hệ thống liên lạc của ngầm thế nào khi nó chìm dưới nước được không?
    Xem các phim nước ngoài (đặc biệt là anime:P ) Thấy họ thả phao truyền tin lên mặt biển khi tàu chạm đáy để thu tín hiệu,vậy kilo nhà ta có thiết bị này không ;)
  10. huyphuc_ttvnol

    huyphuc_ttvnol Thành viên gắn bó với ttvnol.com Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    30/05/2012
    Bài viết:
    1.490
    Đã được thích:
    1.047
    Nhắc lại cái này
    Ở đây các bạn ấy nhầm, перископ Парус-98КП (kính tiềm vọng Parus-98KP) của các bạn ấy chỉ vào cột cờ.
    "Апассионата"=Apassionata, là ăng ten định vị. Nó bao gồm ăng ten GPS đời mới, ăng ten chóp nón của hệ thống định vị-nhắn tin đời cổ. CHức năng dẫn đường quán tính khi đi ngầm của Lada 677 là sai số 5 mét trong 2 ngày, 636 Varshavianka của Vịt được hưởng cái này.
    http://topwar.ru/print:page,1,21520-dizel-elektricheskaya-podvodnaya-lodka-lada.html
    [​IMG]

    [​IMG]

    [​IMG]
    [​IMG]


    "Ở đây các bạn ấy nhầm, перископ Парус-98КП (kính tiềm vọng Parus-98KP) của các bạn ấy chỉ vào cột cờ"
    Nhiều người sẽ hỏi, cột cờ tầu ngầm có cái gì đâu mà phải dành riêng cho nó một kích ben. À, không kéo cờ trắng nhanh thì toi đời ^!^


    Thật ra, cột cờ cần giương lên nhanh kể cả khi sóng to gió lớn không trèo ra ngoài được. Tầu nổi lên trên biển đặc quyền kinh tế nhà người ta phải treo cờ, không nhanh họ bắn bỏ. Nhưng ở tầu ngầm thì chức năng cờ quốc kỳ chỉ là hình thức.

    Nó có thể đùng để treo cờ hiệu, từ thời chưa có radio, thì chính cờ hiệu mới là cái quan trọng của các cột cờ, chứ không phải là quốc kỳ cũng chẳng phải cờ trắng. Ở các quân đội truyền thống, thì hệ thống tín hiệu cờ vẫn phải tập, vì thế cần cái kích ben để thủy thủ thay cờ nhanh. Ban đêm thì cờ thay bằng đèn, nên cột cờ có thêm luôn đèn hiệu.

    Cần chú ý là, đây là cột cờ chính, trên tầu có nhiều cái lỗ để cắm các cờ khác nhau, Quốc Kỳ, cờ củ binh chủng hải quân, cờ hạm đội... Theo truyền thông châu ÂU, thì trước đây hải quân là đội quân riêng độc lập với quân đội, có cờ riêng.


    Cái cột cờ tầu ngầm có nhiều cái rắc rối. Ví dụ, trước đây nó hay kiêm chức một kính tiềm vọng, đèn pha tín hiệu, và ăng ten râu. Kính tiềm vọng và ăng ten râu để thu-phát tín hiệu đèn, cũng như để quan sát sơ sơ. Nhưng chúng ta đã thấy, Lada 677 chuyển quan sát tín hiệu qua kính tiềm vọng Parus-98KP của 636 Varshavianka., cột cờ còn lại rất nhỏ nhắn mỏng mảnh, và ăng ten râu cũng chuyển sang bên cạnh. Thậm chí, cột cờ hiện chỉ còn mỗi đèn hiệu, lúc cần mới nối cái cột cờ vào.


    Như vậy, ban đầu là cái cột cờ treo cờ hiệu, tầu nào được quyền treo cờ hiệu là "kỳ hạm", tức tầu chỉ huy. Nay cờ hiệu chỉ còn là bộ com lê diện đi đám.

    Sau đó là ôm đồm kính tiềm vọng đơn giản, đèn hiệu, ăng ten râu.... và một số thứ. Trong đó, nhắn tin-định vị bằng thu-phát vệ tinh-tầu được thực hiện bằng cả hai loại ăng ten râu và ăng ten chóp xoắn, thì cái cột cờ được dùng luôn làm ăng ten râu, và một trong số các chức năng của ăng ten râu đó là một phần của PMU = hệ thống định vị.

    Ví dụ 667A (tầu chở đạn chiến lược 196x). 1 ăng ten chảo . 2 và 5 ăng ten của hai loại hệ thống dẫn đường. 6-7-9-10 là 4 kính tiềm vọng. 8 là cái cột cờ kiêm ăng ten râu và cũng kiêm luôn chức năng định vị PMU bằng ăng ten râu. 11 là đèn pha. Các ăng ten có đủ loại: râu, 2 chóp xoắn 2 chiều, chấn tử vô hướng cho bước sóng dm (4), có cả chảo (1)... và đều phải kiêm chức: radar chủ động, radar thụ động, định vị, thông tin... trên loại sóng của ăng ten ấy. Cái tháp tầu ngầm rất chật chội.
    [​IMG]



    Rồi bây giờ chỉ là cái đèn hiệu. Tuy nhiên vẫn nhiều tầu như 671 chúng ta đã bàn, vẫn có kín tiềm vọng gắn với tín hiệu để để liên lạc đèn. Tất nhiên, ngày nay liên lạc đèn cũng đã đuợc số hóa.... nhưng vấn đề ngày nay là các lazer, mà sinh thời cụ 671 thì chưa có lazer.



    Tại sao lại bỏ các chức năng đó đi ? À, đó là sự phân cực. Nếu nói về sự phân cực thì nói dài một chút.

    Các phim phò thông tin của Anh-Pháp-Mỹ thường nói tầu ngầm Đức ww2 bị đại bại. ĐÓ là bố láo. Phần lớn các tầu ngầm Đức vẫn sống, bị đánh chìm bởi chính người Đức... bằng cớ là ANh Quốc mang vè được cả một biển tầu ngầm Đức, vẫn chiếm 2/3 số tầu Đức. 1/3 còn lại bao gồm tầu tự tay Đức đánh chìm và đồng minh đánh chìm không đáng kể. Ví như chỉ riêng Anh có chiến dịch Operation Deadlight với cả một đống to tướng các tầu chiến lợi phẩm. Dĩ nhiên các tầu Đức là thiên thần tiên nữ của quân Anh.

    Mình nói vấn đề ấy ở đây vì giai cấp chó dại lưu truyền rằng quân Anh có vũ khí chống ngầm siêu tốt. Thật ra, các vũ khí chống ngầm phần lớn là ****** cho đám chó điên hèn hạ thủ dâm đỡ sợ.

    Trong số các ****** ấy có radar phát hiện tầu ngầm. Dân nói tiếng Anh tuyệt đại đa số là lợn, mới có thể tin nổi người ta dễ dàng phát hiện ra một cái kính tiềm vọng hay ống thở bằng rada trên mặt nước biển vốn dẫn điện cực tốt. Nhất là khi dò bằng máy bay, các vật thể đó như là một đốm sáng chìm trong mặt trời. Các vật thể nhỏ trên mặt biển như các tầu cá chỉ có thể được soi radar một thời gian dài sau đó, khi đã sử lý tách được các gợn sóng cách nhau chỉ phần trăm triệu giây, 3 mét, để phân biệt được đỉnh cột ăng ten hay cột cờ tầu ngầm so với mặt nước chói lóa.

    Soi trên máy bay xuống thì khó hơn. Nhưng soi ngang mặt biển thì khá .... dễ với phân cực. Vì thế người ta sớm bỏ cái chức năng dẫn điện trên cột cờ, rất dễ bị soi từ 197x, và đặc biệt khi bắt đầu thời vi điện tử mạnh 198x.

    Ở trên đã đề cập đến phân cực xoắn. Để phát hiện ra các cột cờ tầu ngầm thì dễ hơn nhiều bằng phân cực thẳng linear. Rất dễ hiểu, nếu từ một radar sát mặt nước soi ngang mặt biển, phân cực theo hướng đứng sẽ phản xạ rất mạnh ngay cả trên nền mặt nước. Bởi vì, mặt nước ít phản xạ phân cực đứng (vertical). Phản xạ là do dòng điện bề mặt, mà mặt nước lại không có dòng bề mặt theo chiều đứng. Trong khi đó mặt nước phản xạ phân cực ngang (horizontal ) rất mạnh.

    Giả sử như một cái ăng ten râu có chiều ngang rất bé so với bước sóng 3cm. Ấy vậy thì, nó không tạo ra dòng điện bề mặt chạy ngang đủ khỏe. Như vậy, với phân cực ngang thì nó phản xạ rất yếu, và ngược lại với đứng. Như vậy, khi điều chỉnh chuyển phân cực đứng - ngang, thì radar sẽ thấy một điểm đặc trưng rất sáng chỉ ở phân cực đứng và nổi trội lên khỏi mặt nước vốn tối radar phân cực đứng. Như vậy, với một cái radar có 2 đầu thu phát để đảo phân cực, thì, cái ăng ten râu nó sáng rực lên trời. Để đơn giản, có ngay các bác phát phân cực xoắn, mặt nước sẽ chuyển đổi phân cực xoắn thành ngang khi phản xạ lại, còn anh râu thì chuyển thành đứng.

    Vào những năm 196x thì radar đã đủ sức thu những phản xạ nhỏ như cái cột ăng ten và cũng đã thuận tiện dùng băng sóng 3cm, lọc phân cực các kiểu. Vậy nên một radar của tầu chiến đã dễ phát hiện tầu ngầm bằng cái thò lên.


    Đay là 2 phân cực, bên dưới là phân cực ngang.
    Phân cực đứng bên trên, điện trường dao động theo chiều đứng. Nó sẽ chỉ phạn xạ nếu như vật phản xạ tạo được dòng bề mặt đứng. Mặt nước lại không đứng. Trong khi đó phân cực ngang bên dưới có điện trường dao động ngang-từ trường dao động đứng, dòng điện bề mặt chạy trên mặt nước thuận tiện.
    [​IMG]




    Vì vậy, lúc này các tầu ngầm Xô-Mỹ đều chống radar. Tầu Xô thì thò cái ăng ten thụ động lên soi xem có radar không, radar đó của thiết bị gì, có phải máy bay chống ngầm quét ngang không... Mỹ đàng điếm dùng băng ghi âm nhét vào máy phát, thả trôi xa tầu mới truyền tin và tự hủy-điều này là vô ích vì lúc này đã dùng hạ âm để phát hiện các tầu ngầm lặn nông ở tối thiểu xa hàng trăm km, nên khi thấy có sóng vô tuyến là bay đến thả phao.

    Cũng vào lúc này, Liên Xô đã phát triển các radar thụ động. Nó là các máy do nguồn phát sóng của Đức hồi WW2 tiến lên. Nhưng lúc này, chỉ cần có sóng, là nhờ hệ thống định vị, các "tầu đánh cá" Liên Xô đã xác định được vị trí phát với độ chính xác vài chục km, đủ để thả phao, sau đó là bám theo mục tiêu.


    Thế là ăng ten râu được tách ra khỏi kính tiềm vọng, cột cờ, và đèn tín hiệu. Từ đây đèn tín hiệu liên lạc và một kính tiềm vọng quang học được tách ra thành một thiết bị. Cái đèn này cũng có khả năng chiếu sáng để quan sát. Như chúng ta đã thấy, cái tầu ngầm Anh Quốc nó quay kính xem khi nổi hẳn lên thì có va băng không, và ban đêm thì nó soi đèn.

    Đó là cái kính Parus-98KP. Nó là kính đơn giản, kính mỏng, kính mà các lợn quân sử nói là không xuyên (thấm).... Kính tiềm vọng và toàn bộ các thiết bị trên tháp đều không thấm nước. Ở đây, đó là đặc tính của cái kính yếu, nó có thể gẫy khi đâm xuyên băng hay tầu kéo nó rê dưới nước ở tốc độ cao.

    Liên lạc đèn-cờ là điều bắt buộc với thiết bị hàng hải, cũng như ăng ten râu với một tần số nhất định, cái đó là để di chuyển theo luật các nước và quốc tế, ai cũng biết rồi.

    Tại sao cái kính này lại yếu ?

    À, nó chống phản xạ radar.

    Nếu suy nghĩa kiểu Mỹ, thì phủ một lớp vỏ hấp thụ sóng radar lên mặt kính !!! vấn đề là nước biển dẫn điện rất tốt, và dòng điện chỉ có trên bề mặt. Thế thì, nước biển bao che cái lớp hấp thụ, sóng phản xạ từ dòng điện chạy trên nước biển.

    Vậy thì kính tiềm vọng không thể tàng hình được với radar ? À không, người ta cố gắng biến dòng điện bề mặt thành dòng điện chiều sâu, bằng vài cái lỗ, khe... các lỗ khe này ngấm nước biển và làm luôn bằng tấm dẫn điện= thép không gỉ. Nhưng vẫn có khe không khí để cách điện. Như thế buộc dòng điện đi theo bè sâu=hao năng lượng không phản xạ. Người ta chỉ cố làm điều đó theo chiều dọc.

    Bạn có thể hình dung ra đơn giản nhất, là một cái vỏ kính tiềm vọng được bao bởi "bản chải sắt", gồm các đinh xù ra không chạm vào nhau ở ngoài, nhưng trong nối chung vào một đế kim loại. Có thể làm bằng kim loại hay nhựa không sao, vì chúng được phủ nước biển dẫn điện. Nhưng nếu đề phòng chúng khô, thì nên làm bằng kim loại. Khi đó, dòng điện bề mặt biến mất, chỉ còn dòng điện chiều sâu, sóng radio bị hấp thụ hết kể cả khi ngấm nước biển.

    Vấn đề là cái áo lông bàn chải sắt ấy quá yếu, nên người ta cân đối kết cấu giữa chịu lực và phản xạ radar, cho ra cái KP yếu yếu. Trước tiên thò cái yếu yếu ấy ra xem có thằng nào rình mò không, rồi mới cởi tiếp quần áo.


    Người ta làm cái ống thụ của các kính tiềm vọng và ăng ten một cái ống vỏ, cái ống vỏ này hấp thụ sóng radar. Các kinh tiềm vọng và ăn ten đặt trong ống kích chính bằng thép không gỉ, ống kích đặt trong ống vỏ. Khi tầu nổ lên, thì ống vỏ dâng lên độ cao nhất định che chắn cho các ống kích kim loại được mài nhắn bóng. Như các hình trên. Đó là điều mà 877-636-677 khác với các 671, các 671 có ống kích cởi truồng.


    Vỏ kính đơn giản (trái) với các tấm ghép ngấm nước biển, tạo thành các gờ đứng theo chiều bán kính để dòng điện chuyển động sâu và ngăn cản dòng bề mặt, nó yếu đuối không đâm xuyên băng được. Kính bên phải là kính chính bọc thép. Parus-98e của Lada 677 gần giống Parus-98 của 636.
    [​IMG]


    Kích ben ***y ngày xưa, không có vỏ ngoài chắn radar
    [​IMG]

    và kích ben cởi trần mặc quần dài ngày nay
    [​IMG]




    Thụt kích ben trước, sau đó thụ hết các ống chắn radar vỏ
    [​IMG]




    Vấn đề là, ảnh cái quần bò dài ống trên là của Lada 677, và 636 của Nga, post lên cho sướng. Còn của An Nam và Tầu Khựa đều cởi truồng hết, trông máy móc rất gợi cảm. An Nam hơn Tầu Khựa cái cam số hóa, nhưng cái đấy thì đơn giản vì Tầu Khựa nó cũng tự đặt hàng cải lại. Cái chính là thay đổi cái tháp để lắp cái ống quần dài là thay đổi lớn quá.
    usadok, hk111333, LarvaNH10 người khác thích bài này.

Chia sẻ trang này