1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Asean, Trung Quốc, Biển Đông và Việt Nam

Chủ đề trong 'Giáo dục quốc phòng' bởi MMichelHung, 27/06/2010.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. hanhgl

    hanhgl Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    08/02/2010
    Bài viết:
    1.771
    Đã được thích:
    941
    Vào TPP để thiết lập tư duy mới, vị thế làm ăn mới chính nhân quân tử, thắng thua rõ ràng. Bà con phải cố gắng làm tốt lên theo chuẩn do thái nhé, thua một được mười, các nước phát triển đều phải thế cả. Sẽ đến ngày hàng hóa việt tất thẩy đều được bảo vệ bằng kỹ thuật, bằng pháp lý, bằng lòng tin thị trường minh bạch...chứ không như bây giờ hàng hóa một nắng hai sương của người dân cứ nối đuôi nhau đến hữu nghị quan bán buôn bằng nước bọt ngóng vào niềm tin ở lòng từ bi hỷ xả của lái buôn bốn tốt...
    tridunghtvc thích bài này.
  2. tridunghtvc

    tridunghtvc Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    26/10/2013
    Bài viết:
    961
    Đã được thích:
    454
    Mấy tên thân tàu - lợi ích nhóm đang đả phá > để nhập hàng lậu - hàng bẩn kiếm chác .... :mad::P
  3. hanhgl

    hanhgl Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    08/02/2010
    Bài viết:
    1.771
    Đã được thích:
    941
    Sức mạnh của TQ là đây:
    Tẩy chay Hoa Vĩ và Trung Hưng, Mỹ “dằn mặt” Trung Quốc
    http://petrotimes.vn/news/vn/quoc-te/tay-chay-hoa-vi-va-trung-hung-my-dan-mat-trung-quoc.html

    Sự thật về mô hình phát triển của Trung Quốc
    Trong khi dư luận quần chúng, cùng các kênh thông tin và truyền thông ở phương Tây lại không ngớt lời ca ngợi những cái hay, cái giỏi của đất nước này về mọi mặt thì hai tác giả Pierre Cohen và Luc Richard xuất thân là nhà báo và nhà văn đã từng sống ở Trung Quốc và biết tiếng quan thoại, hiểu biết rộng về kinh tế, với cặp mắt quan sát sắc sảo của mình, họ đã đi vào từng ngóc ngách của đời sống xã hội Trung Quốc để tìm hiểu một thực tế vô cùng tế nhị và phức tạp để viết một cuốn «La Chine sera-t-elle notre cauchemar?» (Ed. Mille et Une Nuit – Paris 2005, tái bản 5-2008) đầy ắp thông tin và dày công phân tích nhằm chỉ ra những khuyết tật trong mô hình phát triển hiện nay của Trung Quốc.

    Người ta có thể nghĩ rằng, trước hết hai tác giả này muốn nói lên một sự thật, một thực tế, mà trong nhiều năm ở phương Tây, báo chí, cùng các cơ quan truyền thông và một số người có chức quyền vẫn cố tình che giấu, hoặc tô hồng, vì dẫu sao, người ta cũng cần cái thị trường khổng lồ này trong một nền kinh tế toàn cầu hoá.
    Cũng có thể, do một bản năng tự nhiên, hay một tinh thần dân tộc chủ nghĩa nào đó, các tác giả muốn vạch ra những yếu kém của mô hình phát triển kinh tế và xã hội của Trung Quốc, để cảnh báo các xã hội phương Tây.

    Cũng có thể, họ còn có một tầm nhìn rộng hơn nữa, một tầm nhìn có tính chất chiến lược, ở qui mô toàn cầu.

    Nhưng cũng có thể, đó chỉ là do một sự thôi thúc nội tâm có tính chất đạo lý, vì sự thật, vì hạnh phúc của con người, và tương lai chung của cả loài người?

    Tác phẩm được viết như một thiên phóng sự, một nhân chứng. Nó không chỉ nêu lên những hoàn cảnh cụ thể, có thật, nói lên những điều mà những con số thống kê không thể nói lên hết được, mà còn truyền được tới người đọc một dòng suy nghĩ, một nỗi lo âu, một lời cảnh báo.

    1/ Nạn thất nghiệp ở thành thị

    Từ những năm 90 của thế kỷ trước, với những bước đầu của quá trình toàn cầu hoá, hàng loạt các xí nghiệp quốc doanh TQ bị dẹp bỏ, nhường chỗ cho các xí nghiệp tư nhân. Hàng triệu công nhân bị sa thải. Năm 1998, chỉ riêng trong khâu dệt may, có 660.000 người bị rơi vào hoàn cảnh này; trong lãnh vực dầu khí, 1 triệu người. Các nhà máy cũ nhường chỗ cho các nhà máy mới do nước ngoài đầu tư xây dựng. Công nhân quá 35 tuổi không được nhận vào xưởng làm việc nữa. Một ngày công không phải là 8, 9 giờ, mà là 11, 12 giờ. Công nhân bị sa thải được gọi là xiagang(« hạ cương»,từ được tạo ra để làm nhẹ bớt cái ý bị đuổi việc – cươngđây là cương vị).

    Chủ trương dẹp bỏ các xí nghiệp quốc doanh thực ra đã bắt đầu được thực hiện ngay từ những năm 80 và do chính quyền địa phương chịu trách nhiệm quản lý. Sự kiện này diễn ra cùng một lúc với việc Đặng Tiểu Bình cho thực hiện chính sách phân quyền về các địa phương. Cũng là một công đôi việc, tránh cho Trung ương khỏi mang tiếng! Nhưng cũng từ đó, nạn tham nhũng lan tràn về các địa phương.

    Theo một cuộc điều tra gần đây của Nhà nước, thu nhập bình quân của những người giàu có nhất ở thành thị, lớn hơn gấp 12 lần thu nhập của những người nghèo; 10% nhà có của ở thành thị, chiếm 45% tổng số tài sản, trong khi 10% những người nghèo nhất chỉ chiếm có 1,4% số tài sản này.

    Ở các thành phố lớn vùng đông-bắc, nạn thất nghiệp chiếm từ 20 % tới 30% dân số. Ở Phong Đô, một thành phố mới được xây dựng lại một cách rất hoành tráng ở bờ nam sông Dương Tử, gần đập thuỷ điện Tam Hiệp, tỷ lệ này lên tới 60, 70%, vì trên thực tế, đây là một thành phố chết, hoàn toàn thiếu vắng mọi hoạt động kinh tế.

    50 năm sau «Bước nhảy vọt» (1958) - một sai lầm về đường lối công nghiệp hoá, đã khiến hàng mấy chục triệu nông dân bị chết oan (nạn đói những năm 1959-1961) - các nhà lãnh đạo địa phương Trung Quốc vẫn còn nghĩ rằng, chỉ cần hô hào, động viên bằng lời nói, là có ngay những người hăng hái đầu tư.

    Điều nghịch lý, là một đất nước có nhiều người thất nghiệp nhất, lại là nơi có nhiều khách nước ngoài đầu tư nhất, và cũng là nơi mà các doanh nghiệp phương Tây chịu di dời cơ sở sản xuất của họ đến nhất. Lý do đơn giản, là vì ở đây họ tìm được nhân công rẻ nhất [Tiền công lao động của một người thợ máy Trung Quốc (0,6USD/giờ) rẻ gấp 23 lần tiền công của một người thợ máy Pháp (17USD), và gấp 40 lần một người thợ Đức (24USD)] !

    Vấn đề thất nghiệp được tóm gọn lại trong một phương trình đơn giản: năm 2004, số người thất nghiệp là 14 triệu, thêm vào đó là 10 triệu người từ nông thôn đổ ra thành thị kiếm sống hàng năm (Năm 2005, con số này lên đến 13 triệu người). Để đáp ứng nhu cầu, phải cung cấp 24 triệu công ăn việc làm cho những người này, điều mà cho đến nay các giới hữu trách mới chỉ bảo đảm được có một phần ba mà thôi.

    Điều nghịch lý, là một đất nước có nhiều người thất nghiệp nhất, lại là nơi có nhiều khách nước ngoài đầu tư nhất, và cũng là nơi mà các doanh nghiệp phương tây chịu di dời cơ sở sản xuất của họ đến nhất. Lý do đơn giản, là vì ở đây họ tìm được nhân công rẻ nhất [Tiền công lao động của một người thợ máy Trung Quốc (0,6U SD/giờ) rẻ gấp 23 lần tiền công của một người thợ máy Pháp (17USD), và gấp 40 lần một người thợ Đức (24USD)] !

    2/ Nạn thất nghiệp ở nông thôn (mingong = «dân công» , từ mới để chỉ những người thất nghiệp từ nông thôn đổ lên thành thị kiếm sống, và thường tụ tập ở các chợ lao động («chợ người»), hay ngay trên hè phố - từ này khác với từ dân công trong tiếng Việt, được dùng trong thời kỳ chiến tranh ở Việt Nam) :

    Hiện nay, Trung Quốc có dân số trên 1,3 tỷ người, mà hai phần ba là nông dân, tức là số nông dân có tới 900 triệu người, trong số đó 600 triệu sống bằng nghề trồng trọt, trên những mảnh ruộng nhỏ li ti.

    Năm 1978, Trung Quốc phát động phong trào hiện đại hoá nông thôn, bãi bỏ chính sách tập thể hoá. Người nông dân được phát ruộng, phát đất để trồng trọt, được đem nông phẩm ra chợ bán tự do. Ngay từ năm 1980, đời sống của người nông dân có những bước biến chuyển. Nhưng đến khoảng năm 1990, không thấy người ta bàn bạc, đả động gì đến nông thôn nữa, mà chỉ chú trọng đến sự phát triển của các đô thị, của các mặt hàng công nghiệp xuất khẩu, và đương nhiên là đến quá trình toàn cầu hoá.

    Năm 2004, người ta được thống kê cho biết rằng số dân nghèo đến mức tối đa (tính theo tiêu chuẩn: dưới 75USD/người/năm), lần đầu tiên đã tăng lên sau 25 năm, và đa số những người này là nông dân.

    Một vài thí dụ cho thấy sự nghèo khổ tột cùng của họ. Một cậu học sinh trung học ở một huyện lị kia, vì không có tiền để trả tiền học, đã lao mình xuống gầm xe lửa tự tử. Trước đó một hôm, ông đốc trường đã không cho phép cậu thi lên lớp, và bảo rằng : « Không có tiền, không được học ».

    Vào mùa xuân năm 2005, đã nổ ra những vụ tranh giành đất đai giữa nông dân và các quan chức địa phương, cũng như đã có những cuộc biểu tình của nông dân chống việc các nhà hữu trách đã để cho các chất thải công nghiệp làm ô nhiễm môi trường của mình.

    Như vậy, là sau một thời gian ngắn ngủi, làm ăn bắt đầu khấm khá trở lại vào những năm 80, tình hình nông thôn lại một lần nữa xuống cấp : thuế má ngày càng nhiều, chi phí sản xuất tăng, học phí cho con cái tăng, các dịch vụ y tế thiếu thốn, môi trường bị ô nhiễm, nạn thất nghiệp tràn lan.

    Nếu kể cả những dịch vụ mà người dân đô thị còn được hưởng thêm, thì thu nhập của người dân đô thị bằng sáu lần thu nhập của người dân nông thôn. Khoảng hơn 10% nông dân sống với non 625 nhân dân tệ mỗi năm (62Euro/năm). Mức sống này còn kém hơn cả mức sống bần cùng nhất, theo tiêu chuẩn quốc tế. 11% dân số Trung Quốc thiếu ăn, trong số đó đa số là nông dân.

    Hố sâu giữa đô thị và nông thôn ngày càng lớn. Nếu kể cả những dịch vụ mà người dân đô thị còn được hưởng thêm, thì thu nhập của người dân đô thị bằng sáu lần thu nhập của người dân nông thôn. Khoảng hơn 10% nông dân sống với non 625 nhân dân tệ mỗi năm (62Euro/năm). Mức sống này còn kém hơn cả mức sống bần cùng nhất, theo tiêu chuẩn quốc tế. 11% dân số Trung Quốc thiếu ăn, trong số đó đa số là nông dân.

    Nếu tính theo tiêu chuẩn đầu người, mỗi nông dân phải có được 0,66 ha đất nông nghiệp mới có thể làm ăn sinh sống được ở nông thôn. Con tính đơn giản này cho thấy nông thôn Trung Quốc thừa 170 triệu người. Thừa người ở nông thôn, thì người ta chỉ còn cách kéo nhau lên thành thị làm dân công.

    Dân công không phải là một người vừa là nông dân, vừa là công nhân. Họ không là gì cụ thể cả. Họ không phải là nông dân, mà cũng không phải là công nhân. Họ làm công nhật, không có hợp đồng, không có bảo hiểm xã hội, hôm trước hôm sau có thể bị đuổi, mà không kêu ca được với ai. Họ bị cấm không được phép làm một số nghề (danh sách các nghề bị cấm năm 1996, tại Bắc Kinh, là 15 nghề, đến năm 2000 con số này lên tới hơn 100) . Một ngày lao động của họ có khi là 10, 12 tiếng , có khi là 15 tiếng. Họ không có quyền hưởng luật lao động. Mộtdân công muốn có được một chỗ làm việc, phải « mua » các giấy tờ, thủ tục hành chính, với giá 640 nhân dân tệ, bằng 2 tháng lương. Chế độ « hộ khẩu » được áp dụng chặt chẽ đối với họ.

    Mặc dầu vậy, với giá nhân công rẻ mạt, họ đã « được » khai thác có hiệu quả trong các ngành công nghệ xuất khẩu, nơi mà TQ phá kỷ lục về giá thành sản phẩm.

    Dân công là những người bị đánh thuế nhiều nhất và cũng là những người bị khinh rẻ nhất ở các đô thị. Một cặp vợ chồng dân công, lương tháng mỗi người khoảng 800 nhân dân tệ (80Eu ro), phải trả mỗi tam cá nguyệt 400 nhân dân tệ (40Euro) cho trường học của đứa con, nhiều hơn cả những người dân thành phố cư ngụ tại chỗ.

    Dân công là những người bị đánh thuế nhiều nhất và cũng là những người bị khinh rẻ nhất ở các đô thị. Một cặp vợ chồng dân công, lương tháng mỗi người khoảng 800nhân dân tệ (80Euro), phải trả mỗi tam cá nguyệt 400 nhân dân tệ (40Euro) cho trường học của đứa con, nhiều hơn cả những người dân thành phố cư ngụ tại chỗ.

    Nhà nước TQ dự kiến, trong vòng 20 năm, giảm số nông dân xuống chỉ còn 30% số người lao động của cả nước. Dự kiến này xem ra không thực tế lắm, vì nếu như vậy thì phải chấp nhận hàng năm sẽ có tới 26 triệu nông dân kéo nhau lên thành thị sinh sống, trong khi lúc này chỉ có từ 10 đến 13 triệu. Dẫu sao, dòng thác dân công – mà người ta ước lượng khoảng từ 150 đến 200 triệu - vẫn sẽ đổ vào các thành thị, và giá nhân công nhờ đó sẽ giữ được ngày một rẻ.

    Không những nông thôn thiếu đất trồng trọt, mà diện tích đất nông nghiệp ngày càng bị thu hẹp lại bởi những xí nghiệp, nhà máy, được di dời về đây. Trung Quốc trở thành một trong những quốc gia ô nhiễm nhất thế giới. 190 triệu nông dân sống trong một môi trường không lành mạnh, nước sông, nước hồ phần lớn đều bị ô nhiễm.

    3/ Số phận của những người nữ dân công

    Ở Trung Quốc, những nơi phải sắp xếp, tổ chức lại các xí nghiệp quốc doanh bị dẹp bỏ, phụ nữ là những người đầu tiên bị sa thải hoặc di chuyển. Trong các ngành kỹ nghệ, điều kiện làm việc của những người nữ dân công còn tồi tệ hơn là của nam dân công nhiều. Không lấy gì làm lạ, là sau một thời gian, một số không nhỏ các nữ dân công đã phải bỏ đi làm gái điếm.

    Hiện tượng mãi dâm của các cô gái từ nông thôn lên thành thị , từ hơn 20 năm nay, đã trở nên một hiện tượng bình thường dưới mắt mọi người. Phần lớn các cô này đều đã trải qua một thời kỳ làm dân công. Quan hệ ******** đã trở thành hàng hoá trao đổi, hoàn toàn phù hợp với tâm thức coi đồng tiền là quyền lực tối cao, coi cuộc đời là tiêu xài, hưởng thụ, con người là hoàn toàn vô trách nhiệm đối với xã hội.

    Nhiều người - trong đó có những khách du lịch rất nhiệt tình và hồ hởi – khi được viếng thăm các thành phố Trung Quốc, theo các tuyến « tua », cứ ngỡ rằng những biến đổi về mặt xã hội ở những nơi này cũng là những biến đổi chung cho cả đất nước Trung Hoa. Thật ra, không phải thế. Đó chỉ là cái mặt tiền.

    Cuộc sống ở đô thị có thay đổi thật, người phụ nữ có được nhiều điều kiện thuận lợi hơn để học hành và làm việc, nhưng Trung Quốc chủ yếu vẫn là một nước nông nghiệp. Ở những vùng trung tâm, như Hồ Nam, An Huy, v.v., nông thôn vẫn không mấy thay đổi. Vẫn những cuộc hôn nhân sắp đặt sẵn, cô dâu về nhà chồng rồi, liền bị cắt đứt liên hệ với gia đình nhà mình. Vẫn những vụ buôn bán phụ nữ, trẻ em giữa vùng này và vùng khác. Vẫn cái truyền thống « trọng con trai, khinh con gái ». Chính sách giới hạn « một con » của Nhà nước, khiến cho các cặp vợ chồng phải chọn lựa. Trên 7 triệu trường hợp phá thai mỗi năm, 70% là thai con gái. Vai trò của người mẹ, người vợ, trong nhiều gia đình nông dân đôi khi chỉ dừng lại ở vai trò của người hầu, người ở. Từ những năm 80, sau khi chế độ hợp tác xã bị dẹp bỏ, trở lại phương thức canh tác kiểu gia đình, vai trò của người phụ nữ lại càng bị chèn ép. Bắt đầu từ năm 1990, sự xuống cấp của các khâu giáo dục và y tế ở nông thôn càng làm cho họ bị thiệt thòi. Do sự phân biệt chọn lựa vì quyền lợi kinh tế giữa con trai và con gái, tỷ lệ thất học về phía nữ là 23% năm 1997 (49% năm 1982) ; về phía nam là 9% (21% năm 1982).

    Chính sách kinh tế của Nhà nước đối với nông thôn, cộng với các hủ tục còn tồn tại ở đây đối với người phụ nữ, khiến cho họ lâm vào một hoàn cảnh tuyệt vọng. Hiện nay, tỷ lệ tự tử của phụ nữ Trung Hoa thuộc vào hàng cao nhất thế giới.

    Chính sách kinh tế của Nhà nước đối với nông thôn, cộng với các hủ tục còn tồn tại ở đây đối với người phụ nữ, khiến cho họ lâm vào một hoàn cảnh tuyệt vọng. Hiện nay, tỷ lệ tự tử của phụ nữ Trung Hoa thuộc vào hàng cao nhất thế giới.

    4/ Giáo dục bị « hy sinh » cho kinh tế

    Ở thời đại ngày nay, biết đọc, biết viết không đủ, còn phải biết đôi chút khái niệm khoa học kỹ thuật, phải biết sinh ngữ, để có thể tiếp thu được những công nghệ nhập từ nước ngoài, v.v. Trên thực tế, nhà nước Trung Quốc đã không thực sự quan tâm đến vấn đề này. Năm 2003, ngân quỹ dành cho giáo dục chỉ chiếm có 3,8% tổng sản lượng công nghiệp.

    Ngay từ 1999, tại một Hội nghị của Bộ Giáo dục, một chủ trương đă được đề ra, là khuyến khích các gia đình tăng thêm ngân quỹ cho việc giáo dục con cái. Ý đồ là đi đến việc tư lập hoá các trường học. Ở các vùng nông thôn nghèo, các khoản chi phí cho việc học của con cái đối với các bậc cha mẹ lại càng lớn. Cũng bởi vì chỉ có 23% ngân sách giáo dục của nhà nước dành cho nông thôn, nơi có 2/3 dân số của cả nước, cho nên gánh nặng về mặt tài chính đổ cả lên đầu các bậc cha mẹ, mà đại bộ phận là nông dân nghèo khổ.

    Chỉ có 23% ngân sách giáo dục của Nhà nước dành cho nông thôn, nơi có 2/3 dân số của cả nước, cho nên gánh nặng về mặt tài chính đổ cả lên đầu các bậc cha mẹ, mà đại bộ phận là nông dân nghèo khổ.

    Trong một công trình nghiên cứu về gia đình người nông dân, Isabelle Attané, thuộc Trung tâm nghiên cứu dân số, viết : « Trong một hệ thống giáo dục nhằm đáp ứng nhu cầu kinh tế nhiều hơn là nhu cầu xã hội, thì những người dân nghèo khổ nhất, những người không được hưởng thụ những thành quả của sự phát triển, phải trả giá đắt nhất ».

    Chính sách của Nhà nước về giáo dục như vậy đã ảnh hưởng trực tiếp đến khoảng cách về trình độ văn hoá ngày càng xa giữa thành thị và nông thôn (mức sống ở thành thị hiện nay cao gấp 6 lần mức sống ở nông thôn), cũng như giữa con trai và con gái (nạn thất học chiếm 6,6% giới trẻ ở nông thôn, trong đó có 3,6% là con trai, 10% là con gái).

    Điều đáng lo ngại nhất, là giáo dục vốn được coi là một công cụ có khả năng đưa tầng lớp nông dân thoát khỏi nạn nghèo đói, thì nay lại không tới được với họ nữa. Theo Philippe Cohen và Luc Richard, họ vẫn chỉ là một kho dự trữ nhân công rẻ tiền- một yếu tố quan trọng hàng đầu trong việc tạo ra những sản phẩm mới, rẻ, dễ cạnh tranh, dễ kiếm lời trên thị trường toàn cầu hoá.

    5/ Khó khăn trong việc áp dụng luật pháp

    Điều mà các nhà lãnh đạo TQ phải lo thực hiện trước tiên, là làm sao áp dụng được luật pháp, nói chung, trên đất nước mình ! Trong mọi lãnh vực, từ kinh tế, lao động, đến môi trường, có luật pháp là một chuyện (mặc dầu đôi khi luật pháp cũng còn rất mù mờ), nhưng áp dụng nó lại là một chuyện khác.

    Chỉ cần lấy một thí dụ : công nghệ làm hàng lậu quy mô quốc tế, chẳng hạn. Người ta cho rằng hiện tượng này chỉ có thể xảy ra với sự tham gia trực tiếp hay gián tiếp của những quan chức địa phương mà thôi.

    Các luật lao động thông thường cũng không áp dụng được giữa chủ và thợ, vì luôn luôn có sự can thiệp của chính quyền địa phương bênh vực quyền lợi của ngườI chủ, kẻ có tiền. Lương lậu của thợ thuyền, đặc biệt là của những người dân công, luôn luôn bị trả chậm.

    Nhìn chung, ít nhất một nửa số nhân công làm việc trong các xí nghiệp ở quy mô quốc gia, không được hưởng luật pháp. Tại sao lại có tình trạng như vậy ? Đơn giản chỉ vì, nếu tất cả các xí nghiệp áp dụng luật lao động, thì Trung Quốc sẽ mất đi con chủ bài (nhân công rẻ) để cạnh tranh trên thị trường.

    Trong lãnh vực môi trường cũng vậy. Sự áp dụng khe khắt các luật lệ về môi trường sẽ động chạm đến các quyền lợi kinh tế. Do đó, luật pháp trong lãnh vực này cũng được để lỏng lẻo, và tuỳ ở các cơ quan hữu trách địa phương có muốn áp dụng hay không. Trường hợp ô nhiễm ở sông Hoài, vùng Hồ Nam, An Huy, là một thí dụ điển hình. Năm 1994, chính quyền Trung ương hạ lệnh làm sạch con sông này, vì cả một vùng dân cư gồm 160 triệu dân bị ô nhiễm. Trên giấy tờ, hàng nghìn xưởng máy bị đóng cửa, di chuyển, hoặc cải tạo theo đúng các tiêu chuẩn, quy phạm. 60 tỉ nhân dân tệ đã được chi ra cho công việc này, nhưng cho đến nay con sông Hoài vẫn bị ô nhiễm hơn bao giờ hết. Đối với chính quyền, thì vấn đề như vậy là đã giải quyết xong rồi : sổ tiền 60 tỉ nhân dân tệ (6 tỉ Euro) đã được chi ra, và vấn đề đã được xoá sổ.

    ***

    Tác phẩm của Philippe Cohen và Luc Richard còn đề cập đến nhiều vấn đề khác nữa, liên quan đến tác hại của mô hình phát triển của Trung Quốc lên nền kinh tế toàn cầu. Song vì giới hạn của bài viết, chúng tôi đã chỉ tập trung trình bày những nhân chứng và nhận xét của các tác giả trên những vấn đề mà chúng tôi cho là liên quan trực tiếp đến Việt Nam, để chúng ta cùng suy nghĩ.


    Nguồn internet
    hoalongtrang thích bài này.
  4. khucthuydu208

    khucthuydu208 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    28/04/2011
    Bài viết:
    60
    Đã được thích:
    9
    hoalongtrang thích bài này.
  5. khucthuydu208

    khucthuydu208 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    28/04/2011
    Bài viết:
    60
    Đã được thích:
    9
    Hôm nay báo quốc doanh có cho đăng bài này, kiểu này chắc không bao lâu nữa Quảng Đông,Quảng Tây, Phúc Kiến sẻ trở về với đất mẹ
    http://www.thanhnien.com.vn/pages/20140105/nuoi-chi-gianh-lai-hoang-sa.aspx
    Nuôi chí giành lại Hoàng Sa
    06/01/2014 06:30
    (TNO) Lịch sử Việt Nam cho thấy dù có 1.000 năm Bắc thuộc, đến cuối cùng ông cha ta cũng khôi phục lại được độc lập cho Việt Nam. Nhưng những điều đó thành hiện thực là do những nỗ lực đấu tranh không mệt mỏi, ngọn lửa ý chí được nuôi dưỡng và được truyền qua các thế hệ.


    [​IMG]
    Đào giếng tại Hoàng Sa năm 1938 trong thời gian chính quyền bảo hộ Pháp tại Đông Dương
    thực thi chủ quyền trên quần đảo này - Ảnh: Tư liệu

    Chuyên đề: 40 năm hải chiến Hoàng Sa>> Hải chiến Hoàng Sa - 40 năm nhìn lại - Kỳ 2: Hành quân giữ đảo
    >> Hải chiến Hoàng Sa - 40 năm nhìn lại - Kỳ 1: Trung Quốc nuốt dần Hoàng Sa
    >> Tiến sĩ Nguyễn Nhã: Cần vinh danh những người hy sinh khi bảo vệ Hoàng Sa

    Mất đi Hoàng Sa vào năm 1974 (cũng như mất Gạc Ma vào năm 1988), và cùng với đó chúng ta đã mất đi vị trí chiến lược bảo vệ đất nước từ biển, mất đi những người con của dân tộc đã hy sinh trong những trận hải chiến đó, là nỗi đau lớn cho Việt Nam. Đó là bài học về một phần cái giá phải trả khi Việt Nam bị chia cắt, ở trong thế yếu bị các cường quốc lớn chi phối, kinh tế yếu kém, không có sự quan tâm và chuẩn bị đúng mức để bảo vệ được đảo.

    Cuộc chiến về ý chí và trí tuệ

    Thực tế cho thấy, khi quần đảo đã bị Trung Quốc chiếm đóng, việc đòi lại Hoàng Sa đúng là một sự nghiệp lâu dài và khó khăn, đòi hỏi người Việt phải giữ vững được ý chí và chuẩn bị chu đáo. Người Do Thái sau 2.000 năm mất nước đã trở lại được mảnh đất quê hương mình. Làm được điều đó, trước tiên là vì họ không để ý chí mai một. Câu nói "Sang năm về Jerusalem" đã trở thành lời cầu nguyện trước mỗi bữa ăn, lời chào từ biệt giữa những người Do Thái mất nước từ đời này sang đời khác. Argentina chưa từng từ bỏ tuyên bố chủ quyền đối với quần đảo Falkland dù gần 200 năm đã trôi qua và hiện quần đảo đang nằm trong tay người Anh. Lịch sử Việt Nam cũng cho thấy dù có 1.000 năm Bắc thuộc, đến cuối cùng ông cha ta cũng khôi phục lại được độc lập cho Việt Nam. Nhưng những điều đó thành hiện thực là do những nỗ lực đấu tranh không mệt mỏi, ngọn lửa ý chí được nuôi dưỡng và được truyền qua các thế hệ.



    [​IMG]
    Lễ khao lề thế lính ở Lý Sơn, Quảng Ngãi, một trong những hoạt động dân gian chứng tỏ
    Việt Nam đã làm chủ Hoàng Sa từ hàng trăm năm trước - Ảnh: Đỗ Hùng

    Bởi vậy cho dù đó là công cuộc lâu dài, chúng ta không giây phút nào được trễ nải hay có suy nghĩ rằng hãy gác lại để thế hệ sau làm tiếp. Luật quốc tế hiện đại đòi hỏi danh nghĩa chủ quyền cần phải được duy trì liên tục. Chỉ cần có những hành động hay tuyên bố biểu lộ sự thiếu quan tâm đối với chủ quyền Hoàng Sa, Việt Nam sẽ bị mất đảo vĩnh viễn một cách hợp pháp. Trách nhiệm của mỗi thế hệ là bảo vệ toàn vẹn và làm mạnh hơn lập luận pháp lý của Việt Nam, giảm nhẹ gánh nặng cho con cháu của mình.

    Và danh dự của chúng ta, trách nhiệm với tiền nhân và hậu thế không cho phép chúng ta tiếp tục để mất hẳn Hoàng Sa.

    Là một người đã tham gia vào lãnh vực nghiên cứu biển Đông hai năm nay, tôi cho rằng có những việc sau cần phải làm:

    1. Giữ lửa trong giới trẻ, duy trì ý chí đòi lại Hoàng Sa

    Như trên đã nói, để chuẩn bị cho công cuộc đòi lại Hoàng Sa lâu dài và khó khăn này, điều trước tiên là cần phải duy trì ngọn lửa ý chí, nhất là cho giới trẻ. Để làm được điều đó, việc đưa Hoàng Sa, lịch sử về Hoàng Sa và sự kiện Trung Quốc cưỡng chiếm Hoàng Sa vào sách giáo khoa, thường xuyên nhắc đến Hoàng Sa trong các ấn phẩm, tổ chức các hoạt động kỷ niệm cụ thể là cần thiết nhưng chưa đủ. Còn cần phải khơi dạy cho giới trẻ tình yêu biển, hiểu được tầm quan trọng của biển, đảo với sự tồn tại và phát triển của đất nước. Đồng thời cũng cần trang bị cho họ ý thức và những kỹ năng của một công dân, nâng cao tinh thần tự trọng, tự giác, tự lập và tự cường. Có được những phẩm chất này, tự họ sẽ có ý thức duy trì ngọn lửa ý chí trong mình cũng như nung nấu suy nghĩ làm sao có thể đòi lại được Hoàng Sa.

    Việt Nam cũng đừng quên giới trẻ ở hải ngoại. Họ ở vị trí rất tốt để có thể đưa quan điểm, tiếng nói của Việt Nam tới thế giới, giúp dư luận thế giới hiểu về Việt Nam hơn.

    Đồng thời, cũng cần phải tạo thêm nhiều điều kiện cho trí thức Việt kiều được đóng góp nhiều hơn cho công cuộc bảo vệ chủ quyền. Thực tế tôi đã được thấy nhiều người trong số họ đã có những đóng góp rất cụ thể, hữu ích vào cuộc tranh biện đấu tranh cho Việt Nam trên những diễn đàn hàng đầu thế giới, góp phần ngăn chặn âm mưu tuyên truyền tinh vi của Trung Quốc. Ví dụ như tiến sĩ Dương Danh Huy ở Anh với những bài viết được đăng trên các tạp chí, diễn đàn của giới chuyên gia thế giới, hay Giáo sư Phạm Quang Tuấn ở Úc với những nỗ lực tiên phong bền bỉ trong hoạt động xóa đường lưỡi bò trên các ấn phẩm khoa học quốc tế.

    Để duy trì được ngọn lửa ý chí, thế hệ sau cũng cần phải được đảm bảo rằng thế hệ đi trước đã làm tròn trách nhiệm của mình trong sự nghiệp đòi lại Hoàng Sa lâu dài và khó khăn này. Trong những cuộc thương thuyết, đàm phán tương lai về khai thác chung và phân định biển nói chung, và khu vực ngoài cửa vịnh Bắc Bộ tới Hoàng Sa nói riêng, các nhà thương thuyết cần phải chuẩn bị kỹ lưỡng để không nói gì, không đưa ra thỏa thuận gì có thể ảnh hưởng đến hồ sơ pháp lý của Việt Nam. Mọi giải pháp về chính trị cần phải dựa trên cơ sở là lẽ công bằng và luật quốc tế.

    Nội dung các cuộc đàm phán cũng cần được công bố công khai để người Việt nói chung và thế hệ trẻ nói riêng biết được diễn tiến thực sự, những khó khăn, thử thách của Việt Nam khi phải đối mặt với Trung Quốc lớn và mạnh hơn mình, cũng như rút ra được những bài học cho tương lai.

    2. Đẩy mạnh các hoạt động nghiên cứu chuyên nghiệp để hoàn thiện hồ sơ pháp lý và khả năng tranh biện của Việt Nam

    Một giải pháp cụ thể để đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu chuyên nghiệp là đưa lãnh vực này trở thành một bộ môn cụ thể trong các trường đại học. Việt Nam cần có đội ngũ chuyên gia được đào tạo bài bản để có thể tranh luận trong tòa quốc tế, trong môi trường học thuật cũng như trên truyền thông quốc tế nhằm tranh thủ dư luận thế giới. Nơi không thể thiếu được để phát triển đội ngũ này chính là trong các trường đại học. Chỉ phụ thuộc vào Học viện Ngoại giao hay một, hai cơ sở đào tạo khác để tạo nguồn là không đủ. Việt Nam cần có sự đa dạng về các kênh đào tạo cũng như môi trường đào tạo cả trong và ngoài nước để có thể khai thác hết tiềm năng và phát triển đội ngũ chuyên gia.

    Sinh viên phải được trang bị những kiến thức và kỹ năng cần thiết để phân tích các sự kiện và đề xuất các giải pháp. Một số chuyên đề sinh viên có thể thực hiện như tìm hiểu các án lệ về chủ quyền lãnh thổ, các án lệ về phân định biển và đối chiếu với thực tế của Việt Nam; giá trị pháp lý của những sự kiện lịch sử diễn ra xung quanh quần đảo Hoàng Sa. Hiện tại dường như Việt Nam mới chỉ nhấn mạnh vào các bằng chứng thực thi chủ quyền dưới thời nhà Nguyễn. Điều này là cần thiết nhưng không đủ. Trong phán quyết năm 2008 về tranh chấp cụm đảo Pedra Branca giữa Malaysia và Singapore, Tòa án Công lý Quốc tế cho rằng ban đầu Malaysia có chủ quyền đối với đảo Pedra Branca. Nhưng sau đó chủ quyền này đã mất vào tay Singapore do phía Malaysia đã không làm đủ để duy trì chủ quyền trong giai đoạn sau này. Tương tự, để tranh thủ sự ủng hộ của dư luận thế giới, Việt Nam sẽ phải tranh biện trên diễn đàn quốc tế vấn đề duy trì chủ quyền hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa sau năm 1954. Mà vấn đề này dường như chưa được nghiên cứu đúng mức. Mở rộng các diễn đàn tranh luận học thuật cũng như tạo điều kiện cho các nhà nghiên cứu đi sâu về những vấn đề còn tồn tại này là điều cần thiết.

    Bên cạnh nghiên cứu nhà nước, cần phải khuyến khích, tạo điều kiện cho các nhà nghiên cứu độc lập, và các tổ chức phi chính phủ hoạt động trong lãnh vực nghiên cứu biển Đông. Mô hình các tổ chức nghiên cứu độc lập, phi chính phủ đã xuất hiện trên thế giới từ trăm năm nay. Sự phối hợp giữa nghiên cứu của nhà nước và nghiên cứu độc lập sẽ giúp vấn đề được mổ xẻ từ nhiều góc nhìn khác nhau, và điều này sẽ giúp cho Việt Nam xây dựng được những lý lẽ hoàn thiện nhất để phản bác lại những biện ngôn tinh vi của Trung Quốc, cũng như xây dựng được nhiều phương án khác nhau để chuẩn bị cho những tình thế khác nhau có thể xảy ra. Ngoài ra, các tổ chức nghiên cứu độc lập là mô hình phù hợp nhất để khai thác được những ưu thế của ngoại giao nhân dân, ngoại giao nhưng không sử dụng danh nghĩa chính phủ.

    3. Ngay từ bây giờ, Việt Nam cần có những hành động tích cực hơn để đưa sự thật về Hoàng Sa tới thế giới

    Bộ Ngoại giao Việt Nam nên mở một website gồm nhiều thứ tiếng ghi lại tường tận và đầy đủ lịch sử của Hoàng Sa, cơ sở pháp lý của Việt Nam, cũng như những diễn tiến xung quanh tranh chấp Hoàng Sa.

    Việt Nam cần công khai thách Trung Quốc đưa tranh chấp Hoàng Sa ra Tòa án quốc tế. Hành động này sẽ gây sự chú ý của thế giới tới một tranh chấp vốn dĩ là vấn đề chỉ của Việt Nam và Trung Quốc, đồng thời qua đó để thế giới thấy lẽ phải thuộc về Việt Nam.

    Trong việc truyền thông để thế giới hiểu về vấn đề Hoàng Sa, mỗi cá nhân người Việt đều có thể tham gia bằng cách tự viết bài gửi cho các tạp chí, diễn đàn quốc tế để đưa những thông tin chứng minh Hoàng Sa thực sự là của Việt Nam, và hành động cưỡng chiếm Hoàng Sa bằng vũ lực của Trung Quốc là hoàn toàn bất hợp pháp.

    Trong thời đại của thông tin và toàn cầu hóa, có rất nhiều học giả quốc tế, các “think tank” hàng đầu thế giới, các văn phòng hay các quan chức chính phủ của các nước tham gia vào các mạng xã hội như twitter và facebook để lan tỏa và tiếp nhận thông tin. Việt Nam có thể tận dụng những phương tiện này để tiếp cận với thế giới, đưa thông tin tới thế giới. Trên thực tế, nhiều nghiên cứu sinh Trung Quốc đã tận dụng rất tốt những công cụ này. Đối với người Việt, theo người viết được biết, hiện cũng đã có những nỗ lực tạo ra và duy trì kênh tổng hợp thông tin biển Đông tiếng Anh trên mạng xã hội, và đã góp phần thiết thực đưa thông tin tới giới chuyên gia quốc tế. Nên ý tưởng này hoàn toàn khả thi.

    Năm 1940, chỉ trong một trận đánh chớp nhoáng, Đức đã loại bỏ tới 70% quân đội Đồng minh. Nước Anh trở nên đơn độc và có nguy cơ bị đại bại trước thế tấn công như chẻ tre của Đức. Trong giờ phút tuyệt vọng của nước Anh, tưởng như thất bại cầm chắc trong tay, Winston Churchill vẫn cương quyết không đầu hàng. Ông có câu nói bất hủ: "Chúng ta sẽ bảo vệ hòn đảo của chúng ta, dù với bất kỳ giá nào, chúng ta sẽ chiến đấu trên bãi biển, chúng ta sẽ chiến đấu tại nơi đổ bộ, chúng ta sẽ chiến đấu trên đồng ruộng và trên đường phố, chúng ta sẽ chiến đấu trong vùng đồi núi; chúng ta sẽ không bao giờ đầu hàng". Ý chí và quyết tâm phi thường cùng với lòng can đảm tuyệt vời của ông đã cổ vũ tinh thần của quân đội Anh, giúp cho nước Anh có thể kết thúc chiến tranh thế giới thứ II trong thế hiên ngang.

    Ngày nay, cuộc chiến của chúng ta để đòi lại Hoàng Sa chính là cuộc chiến về ý chí và trí tuệ. Mỗi người Việt Nam sẽ không bao giờ đầu hàng và không bao giờ chấp nhận từ bỏ Hoàng Sa vào tay Trung Quốc.

    Phạm Thanh Vân *
    tridunghtvc thích bài này.
  6. cu-bo

    cu-bo Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    03/05/2012
    Bài viết:
    388
    Đã được thích:
    322
    Tất đất,biển đảo của Việt Nam luôn là của Việt Nam,ngàn đời không thay đổi.Riêng những hòn đảo chưa về với đất mẹ,với chúng ta,những người con đất Việt lúc nào cũng muốn đòi lại.Đời này chưa lấy được thì đời con,đời cháu chúng ta,quyết sẽ lấy lại.
    Riêng những bác quá mơ mọng về những nước lớn giúp ta đòi lại chủ quyền biển đảo,ko có chuyện đó đâu nhá!
    Những vũ khí chúng ta đang trang bị như tàu ngầm,tên lửa...v.v.. chỉ đủ bảo vệ và răng đe tên hàng xóm tham lam mà thôi.
    Nếu chúng ta muốn lấy lại những gì đã mất thì:
    -Kinh tế thật phát triển.Ông bà hay nói"dân giàu thì nước mới mạnh" cơ mà
    -Phải biết phát triển,ứng dụng KHKT....
    -XH phải ổn định...
    .....................
    -Quan trọng nhất là đừng bi quan về người Việt và cũng đừng "nâng bi""@#$%" bọn khác
    thế nhé.....
    tridunghtvc thích bài này.
  7. tridunghtvc

    tridunghtvc Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    26/10/2013
    Bài viết:
    961
    Đã được thích:
    454
    Từ từ chứng kiến kinh tế khựa rớt thảm trong những quý tới . Tẩy chay hàng khựa là góp phần làm khựa sụp đổ cho VN được yên ổn ...
  8. khucthuydu208

    khucthuydu208 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    28/04/2011
    Bài viết:
    60
    Đã được thích:
    9
  9. hanhgl

    hanhgl Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    08/02/2010
    Bài viết:
    1.771
    Đã được thích:
    941
    Trung Quốc: Sau cơn bão tài chính là khủng hoảng kinh tế?

    Trung Quốc hiện đang hứng chịu một cuộc khủng hoảng tín dụng nghiêm trọng. Vay ngân hàng hầu như là không thể khi niềm tin vào khả năng thanh toán bị xói mòn, dòng tiền của doanh nghiệp chủ yếu dùng trả nợ, tăng trưởng chậm lại và bắt đầu làn sóng phá sản.


    Dưới đây là bài viết của Bert Dohmen, người sáng lập và là Chủ tịch của quỹ nghiên cứu Dohmen Capital Research, đăng tải trên Tạp chí Forbes ngày 5/8, bình luận về những vấn đề mà kinh tế Trung Quốc đang gặp phải.

    [​IMG]

    Tổng lượng tín dụng trong hệ thống tài chính Trung Quốc đã ở mức cao nhất từ trước tới nay, nợ tăng gấp 8 lần trong 10 năm.

    Sau khủng hoảng tín dụng sẽ là khủng hoảng kinh tế - đây vốn là những gì đã xảy ra với thế giới khi cuộc khủng hoảng toàn cầu nổ ra vào năm 2007. Tôi đã cảnh báo nguy cơ này trong một cuốn sách của tôi “Prelude to Meltdown” (2007).

    Tuy nhiên, lời cảnh báo này đã bị thế giới lãng quên và hầu hết mọi người bây giờ cũng sẽ có thể lờ đi những nhìn nhận của tôi bây giờ. Sự phủ quyết là một đặc tính phản kháng máy móc của con người, nhưng điều đó không phải lúc nào cũng tốt.

    Trong hai năm trở lại đây, tăng trưởng xuất khẩu của Trung Quốc suy giảm mạnh do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng trầm trọng tại Châu Âu.

    Bây giờ, Trung Quốc lại phải đối mặt với các gói kích thích kinh tế khủng của Nhật Bản. Đồng Yên đang giảm giá trị tối đa nhằm làm cho hàng hóa của Nhật Bản rẻ hơn tương đối so với hàng hóa toàn cầu. Thêm vào đó, với chất lượng tốt hơn, hàng của Nhật Bản đang đạt được sự cạnh tranh về giá với hàng hóa Trung Quốc.


    Hệ quả tồi tệ không mong muốn đang bắt đầu lộ diện. Vào tháng 6 vừa rồi, xuất nhập khẩu của Trung Quốc đều suy giảm, đây là điều chưa từng xảy ra kể từ tháng 10/2009, thời điểm giữa cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu.

    Sụt giảm 3,1% trong xuất khẩu khiến các nhà phân tích bị sốc, do trước đó họ đã kỳ vọng rằng xuất khẩu Trung Quốc phải tăng trưởng tới 3,7%. Tuy vậy, Trung Quốc vẫn báo cáo rằng mức tăng trưởng GDP của họ là 7,5%. Ai tin vào con số này thì rất có thể tin vào truyền thuyết Thỏ Phục Sinh. Tôi dự đoán rằng sự sụt giảm tăng trưởng xuất khẩu sẽ khoét sâu thêm suy thoái. Chỉ khi sự có sự hồi phục mạnh mẽ từ phía Tây Âu và Mỹ thì mới ngăn chặn đường đà suy giảm này. !!!!!

    Thường thường, để cạnh tranh với hàng hóa Nhật Bản thì Trung Quốc thường theo sau Nhật và làm suy yếu đồng Nhân dân tệ. Trong thập niên 90, Trung Quốc đã làm như vậy một lần, giảm 50% giá trị tiền tệ. Tuy nhiên phương pháp này sẽ không thể triển khai trong hoàn cảnh hiện tại. Lý do là phá giá nội tệ sẽ tạo ra hiện tượng tháo chạy ngoại tệ, làm trầm trọng thêm khủng hoảng tín dụng.

    Do đó Trung Quốc đang rơi vào tình thế tiến thoái lưỡng nan. Một mặt, nếu không phá giá nội tệ sẽ làm tồi tệ thêm tình hình suy thoái tài chính khu vực tư nhân. Mặt khác, phá giá nội tệ sẽ khiến một lượng ngoại tệ lớn sẽ chảy ra khỏi Trung Quốc, tạo khó khăn rất lớn cho Ngân Hàng Trung ương Trung Quốc.

    Nợ chiếm 220% GDP

    Điều tồi tệ nhất do rủi ro của môi trường kinh doanh và thất thoát ngoại hối. Cơ quan giám sát thị trường chứng khoán đã cảnh báo về sự chảy ngược của dòng ngoại hối trên trang bìa của tờ China Securities Journal. Suy giảm dự trữ ngoại tệ sẽ sinh ra rất nhiều hệ quả không lường trước.

    Theo cơ quan này, “Trung Quốc sẽ phải đối mặt với nguy cơ thất thoát ngoại tệ quy mô lớn nếu tồn tại một lối thoát từ sự mạnh lên của đồng USD và chính sách định lượng nới lỏng”. Tờ báo còn đề cập tới chính sách định lượng nơi lỏng của Cục dự trữ liên bang Mỹ. Ở đây chúng ta thấy rằng các chính sách của FED có ảnh hưởng rất lớn tới tài chính thế giới.

    Thất thoát quỹ đầu tư của Trung Quốc vào đầu tháng 6 đã chạm mức cao nhất kế tử đầu năm 2008. Tổng lượng tín dụng trong hệ thống tài chính Trung Quốc đã ở mức cao nhất từ trước tới nay. Thế giới chưa từng chứng kiến mức nợ leo cao như vậy. Nợ đã tăng gấp 8 lần trong vòng 10 năm, bây giờ chiếm 220% GDP.

    Theo Chính phủ Trung Quốc, các doanh nghiệp sẽ phải trả 1.000 tỷ USD lãi suất trong năm này. Điều đó khiến cho dòng tiền doanh nghiệp sẽ được dùng chủ yếu là trả nợ, chứ không được dùng cho tăng trưởng.


    Khi tăng trưởng kinh tế chậm lại, phá sản trên diện rộng sẽ bắt đầu. Và điều tồi tệ đó đang xảy ra. Công ty đóng tàu lớn nhất Trung Quốc đang rơi vào rắc rồi tài chính nghiêm trọng. Công ty này không thể vay tiền, và hiển nhiên là công ty này bán cổ phần. Nhưng ai sẽ mua chúng?

    Một số công ty đóng tàu lớn của Trung Quốc và một số những công ty lớn khác vay một lượng tiền lớn để hoạt động từ “hệ thống ngân hàng ngầm” (quỹ tín dụng phi ngân hàng) với mục đích tăng lợi nhuận. Nhưng bây giờ những khoản vay bị thắt chặt, như vậy dòng tiền hoạt động cũng không còn.

    Những chuyên gia kinh tế phương Tây đang chắc chắn rằng chính quyền Trung Quốc có thể giải quyết mọi vấn đề, bao gồm cả việc giải quyết 10.000 tỷ USD trong hệ thống ngân hàng ngầm. Chưa có một tiền lệ nào trong lịch sử chứng minh được một nền kinh tế chỉ huy có thể ngăn chặn sự sụp đổ của “kim tự tháp nợ” (debt pyramid).

    Bích Diệp

    Theo Forbes

    Rõ ràng Do thái tây lông đã dành phân khúc lao động bán rẻ tài nguyên (nhân lực giá thấp, tận thu nguyên liệu khoáng sản bằng mọi giá...) cho các nước đang phát triển mà chủ yếu là công xưởng vĩ đại TQ. Giá trị lao động xã hội cũng như phần gia tăng giá trị sử dụng đã dồn về các nước phát triển, chủ yếu là G7...rất không may các triết gia do thái đã biết cách hưởng lợi và phát triển sức mạnh tri thức nhân loại từ chính sự tự nguyện nai lưng làm thuê và bán rẻ của nả ông bà để lại từ các nước tự hào mình là công xưởng thế giới. Hơn bao giờ hết, lợi ích của tri thức do thái đã và đang hưởng thành quả qua những phát minh giải phóng lao động đã được tuồn sang những công xưởng khổng lồ để tạo ra những nguồn năng lượng hữu ích tiếp thêm sức mạnh cho tri thức của mình...vòng quay man rợ này cứ tiếp diễn ngay cả khi do thái tây lông bị bội thực do hưởng thụ quá mức sức khỏe có sút giảm. Cơ cấu chấp hành trong dây chuyền sản xuất tại các công xưởng như thường lệ lại phải chờ những lệnh thực thi từ những HT điều khiển thông qua những con chíp và thuật toán do thái quyết định.
    :D:D:D
    tridunghtvc thích bài này.
  10. tridunghtvc

    tridunghtvc Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    26/10/2013
    Bài viết:
    961
    Đã được thích:
    454
    Khựa mã mãi vẫn là đẳng cấp " bẩn " :rolleyes::mad:
    =============================
    Trung Quốc: phát hiện virút H7N9 ở nhiều chợ gia cầm
    06/01/2014 14:32 (GMT + 7)


    TTO - Trung tâm Kiểm soát và phòng chống dịch bệnh tỉnh Quảng Đông vừa phát hiện mẫu không khí, nước và thịt ngỗng trong các khu chợ gia cầm ở thành phố Chu Hải và Quảng Châu có chứa virút cúm H7N9, dấu hiệu cho thấy virút cúm này đang lan rộng ở Trung Quốc.
    [​IMG]
    Vịt nuôi ở một nông trại tại Thâm Quyến - Ảnh: Xinhua

    Tân Hoa xã cho biết tại Quảng Châu, kết quả xét nghiệm hai mẫu thịt ngỗng và một mẫu nước thải của hai tiệm bán thịt vịt ở chợ Tăng Thành dương tính với virút H7N9. Trong khi đó ở Chu Hải, mẫu không khí thu được tại chợ bán gà vịt Nam Triều cũng có chứa virút này.

    “Mẫu nước dương tính với virút H7N9 thì thật nguy hiểm vì điều đó có nghĩa là toàn bộ chim chóc và gia cầm ở khu bán gia cầm này có khả năng đều dương tính với virút cúm H7N9. Thời gian chúng tồn tại ở trong khu vực này càng lâu thì nguy cơ lây nhiễm càng cao” - phó giám đốc Trung tâm Kiểm soát và phòng chống dịch bệnh Quảng Châu Dương Chí Thông cho biết.

    Chính quyền Quảng Châu đang cho điều tra nguồn gốc của số gia cầm nhập vào chợ và đóng cửa khu chợ trên ba ngày để khử trùng. Khoảng 17 người làm việc ở 19 quầy bán thịt gia cầm tươi được theo dõi chặt chẽ các triệu chứng liên quan đến cúm gia cầm.

    Cùng lúc Sở Y tế TP Chu Hải yêu cầu phòng nông lâm nghiệp các địa phương trực thuộc tăng cường quản lý, kiểm tra và khử trùng hằng ngày những khu chợ bán gia cầm sống ở đây. Các chợ này cũng tạm ngưng kinh doanh trong vài ngày.

    Trước đó, Thượng Hải cũng đã xác nhận một ca nhiễm H7N9 là một cụ ông 86 tuổi đang được theo dõi điều trị tại bệnh viện của thành phố này sau khi xuất hiện những triệu chứng cúm vào ngày 4-1.

    Tính từ tháng 8-2013 đến nay, tỉnh Quảng Đông có sáu ca nhiễm H7N9, song đây là lần đầu tiên Quảng Châu ghi nhận virút H7N9 xuất hiện. Trên toàn Trung Quốc có khoảng 147 người nhiễm virút H7N9 từ tháng 3-2013 đến nay, trong đó có 48 người tử vong.

    MỸ LOAN

Chia sẻ trang này