1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Cuộc chiến biên giới phía Bắc 1979 và bình luận

Chủ đề trong 'Giáo dục quốc phòng' bởi cu-bo, 14/02/2014.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. congtubl

    congtubl Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    30/11/2006
    Bài viết:
    5.086
    Đã được thích:
    2.555
    Chổ đó giáp mỏng nên khi bắn vào chuồng gà, đạn nổ, xuyên lõm vào bên trong, thì con thiếc giám ấy ko bị gục mới lạ.
    Tiếp tục bài viếc Mod quangcan bên quansu.vn

    A. Lực lượng CAVT/ Công an vũ trang (Biên phòng hiện nay) tại thời điểm trước và gần 17/2/1979:

    Em nhận định chém hoặc đơn vị của bác đại tá kia tại thời điểm có thể là phân đội hoặc đội công tác CAVT/ BP xuống địa bàn thôi. Cả đồn có ngần đấy súng với mấy chục con người thì có mà điên (trích nguồn thông tin : "Một Đại tá Biên phòng-Cựu binh 1979 kể: Không thể ngờ là nó đánh mình, cả Đồn Công an Vũ trang chỉ có 2 khẩu AK và 5 khẩu K50 cũ, bắn xa... 25 mét. Anh em thay nhau bắn, cầm cự 30 phút thì hết nhẵn đạn. Phải cõng thương binh-tử sĩ rút trong uất ức...") Đến ngay cả các lâm, nông trường đều được phát súng để chuẩn bị rồi cơ mà. Kinh nghiệm này cũng là thực tế từ chiến tranh BGTN đấy anh Hải ạ. Khi Pốt tràn sang, dân không nói, biết bao nhiêu TNXP, tự vệ các nông lâm trường tay không tấc sắt. Thế mới có giai thoại bác Tư quyết phá kho phát súng. Còn về chuyện chuẩn bị cho BGPB em xin nêu cụ thể một số điểm chính dưới đâu để có thể đánh bật câu nói "chơi" của vị đại tá nọ. [​IMG]

    1. Qua tổng kết, chỉ riêng trong hai năm 1977-1978 đã có tổng cộng 1500 vụ lấn chiếm biên giới, khiêu khích vũ trang, làm ta bị thương 307 người, 14 người bị phía Trung Quốc bắt cóc. Nếu số vụ lấn chiếm lãnh thổ, khiêu khích vũ trang do phía TQ gây ra năm 1975 là 234 vụ thì đến hết năm 1978 tăng lên 2175 vụ, gấp 10 lần.

    2. Về lực lượng: Tháng 4/1978, trung đoàn 12 CAVT – một trong số ít các trung đoàn biên phòng cơ động của Bộ được điều động lên tuyến biên giới phía bắc để tăng cường công tác phòng thủ. Trung đoàn này được chính thức thành lập tháng 2/1978 trên cơ sở tiểu đoàn 12 CAVT. Tháng 8/1978, Trung đoàn 16 CAVT được thành lập và tháng 9/1978 Bộ điều lên tăng cường cho tuyến biên giới Tây Bắc.

    3. Về công tác chuẩn bị và sẵn sàng chiến đấu:
    Tháng 1/1978, Bộ ra mệnh lệnh chiến đấu số 05 cho toàn bộ các đơn vị trên tuyến biên giới Việt Trung, yêu cầu chủ động đối phó với mọi tình huống, sẵn sàng chiến đấu, bảo vệ tài sản và tính mạng của nhân dân, chủ động phòng ngừa đánh địch bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ,…. Ngày 31/1/1978, Cục tham mưu phổ biến kế hoạch bố phòng chiến đấu…. Quý 1/1978, BTL mở hội nghị chuyên đề về công tác bảo vệ, sẵn sàng chiến đấu trên toàn tuyến biên giới phía Bắc.
    Ngày 5/7/1978, thi hành Nghị quyết 33 của của Hội nghị công an, BTL ra chỉ thị 35 và chỉ rõ dự kiến có hai khả năng xảy ra:
    - một là, đối phương liều lĩnh gây chiến
    - hai là, đối phương tiếp tay cho bọn ********* Pôn Pốt, bằng cách gây bạo loạn, tạo phỉ ở nhiều nơi trên toàn tuyến biên giới.
    Trong đó, một trong những nhiệm vụ quan trọng, cấp thiết của CAVT là “khi chiến tranh xảy ra, CAVT là lực lượng đầu tiên nổ sung, trực tiếp chiến đấu ngăn chặn, kiềm chế địch triển khai, báo động cho nhân dân sơ tán và phối hợp cùng quân đội tác chiến. Kiên cường phòng thủ giữ vững đồn, tác chiến trên tuyến biên phòng cơ động, linh hoạt nhằm diệt gián điệp, thám báo, trấn áp bọn ********* và phỉ”.

    Ngoài ra, tháng 6/1978, BCT ra quyết định số 21 thành lập BCH QS thống nhất trên các địa bàn thuộc tuyến biên giới phía Bắc nhằm đảm bảo tính thống nhất, sẵn sàng và chủ động trong mọi tình huống, đảm bảo tất cả các LLVT đều có sự chỉ huy chung.

    4. Báo động chiến đấu:
    Ngày 27/12/1978, BTL ra mệnh lệnh báo động chiến đấu cấp 2. Hì hì, báo động chiến đấu cấp 2 thì các bác biết rồi, đâu phải chuyện chơi nhể. Một số mệnh lệnh cụ thể như sau:
    - “1. Tất cả các đơn vị thuộc lực lượng CAVT phải nghiêm chỉnh chấp hành mệnh lệnh báo động sẵn sàng chiến đấu cấp 2, theo đúng quy định số 46 ngày 20/8/1978 của Bộ.

    2. BCH các tỉnh phải ra lệnh cho các Đồn biên phòng, các trung đoàn, đơn vị cơ động khẩn trương triển khai sẵn sàng chiến đấu theo phương án tác chiến bảo vệ biên giới. Các cơ quan chỉ huy phải thường trực chặt chẽ.

    3. Trung đoàn 12 và 16 phải chuẩn bị sẵn sàng cơ động theo lệnh của Bộ.

    4. Tạm đình chỉ phép năm, phép tranh thủ cho đến khi có mệnh lệnh mới,…..”


    Nếu bác nào còn nhớ thì sẽ thấy, ngày 10/2/1979, phía Trung Quốc đánh trước điểm cao 400 thuộc phần đất của ta trên hướng Lạng Sơn. Đây là đòn đánh, phép thử cần thiết thăm dò phản ứng của phía Việt Nam – đồng thời chuẩn bị bàn đạp trước trên những hướng quan trọng, ngoài ra đây còn là điểm cao chiến lược tại khu vực gần cửa khẩu biên giới. Thế cho nên, ngày 13/2/1979, ta đã vào cấp 1 sẵn sàng chiến đấu. Bốn ngày sau, ngày 17/2/1979, chiến tranh biên giới phía bắc mới bắt đầu ạ.

    Tất cả những điều em ghi trên cho thấy, ta không hề bị động, có kế hoạch và chuẩn bị kỹ càng về phương thức, huấn luyện và chỉ đạo thống nhất trong chiến tranh BGPB. Bác nào kinh qua đánh nhau sẽ hiểu cần chuẩn bị những gì cho chiến tranh, nhể, [​IMG].

    B. Về phía Quân đội:
    Có lẽ, trong đầu nhiều người, không chỉ những người trẻ tuổi, đều cho rằng, sau 30/4/1975, đất nước ta hoàn toàn giải phóng, Yên Bình lắm nhỉ, [​IMG]. Có lẽ có rất rất nhiều người nghĩ, Tổ quốc sạch bóng thù, còn gì nữa mà làm, đánh đấm chi cho mệt, giải tán quân đội cho nhanh. [​IMG]. Xin nêu một vài điểm đáng chú ý nhất trong giai đoạn từ 4/1975 đến trước khi xảy ra chiến tranh biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc.

    1. Quân lực:
    - Ta ưu tiên giảm bớt số quân thường trực, đặc biệt là đối với những quân nhân đã phục vụ lâu năm và có nguyện vọng về quê cũng như lính sinh viên được giải quyết chế độ về đi học lại. Giải tán một số đoàn tương đương cấp quân đoàn hoặc sư đoàn như Đoàn 232; một loạt tổ chức đã hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình được giải thể như: Bộ Tư lệnh Miền, B1, B2, B3, B4, B5, tổ chức hai bên và bốn bên về thi hành Hiệp định Pa-ri. Thôi dự nhiệm 9 trung đoàn, 6 tiểu đoàn cao xạ và một số đơn vị bộ binh, công binh của các quân khu phía Bắc. Toàn bộ lực lượng giao liên của Đoàn 559 được điều về Cục Vận tải để tổ chức tuyến giao liên mới, tổ chức hệ thống kiểm soát quân sự trên các tuyến giao thông Bắc - Nam. Bộ phận Hành quân từ Cục Tác chiến được chuyên sang Cục Quân lực để trực tiếp chỉ đạo bảo đảm chuyển thương, đưa đón cán bộ, chiến sĩ đi lại tuyến Bắc - Nam. Các quân khu ở phía Nam bước đầu được chấn chỉnh; trong đó có một số bộ chỉ huy quân sự tỉnh, thành phố, ban chỉ huy quân sự huyện được thành lập và hợp nhất cho phù hợp với đơn vị hành chính mới. Chuyển một loạt các đoàn, đơn vị cấp F sang làm kinh tế, bố trí phân bổ trên cả nước, vừa làm khung thường trực sẵn sàng cơ động chiến đấu vừa lao động sản xuất nhằm làm giảm bớt chi phí quốc phòng. Qua việc chấn chỉnh tổ chức xây dựng lực lượng: ta giảm từ 1 triệu 23 vạn quân thời chiến (5,2% dân số miền Bắc) giảm xuống còn 2,7% so với dân số cả nước trong thời bình. Từ năm 1976 đến năm 1980 chỉ giữ 80-83 vạn quân, trong đó có 50-53 vạn quân chiến đấu, 10 vạn quân xây dựng kinh tế (nghị quyết của Quân ủy Trung ương đưa lên hơn 25 vạn). Sau đó tuỳ tình hình, sẽ xác định tổng quân số thích hợp.

    Đối với khối quân khu, tiếp tục được chấn chỉnh. Từ 11 quân khu và 2 bộ tư lệnh thành phố trực thuộc Bộ trong chiến tranh, nay rút gọn lại thành 6 quân khu (1, 3, 4, 5, 7, 9) và Bộ Tư lệnh Thủ đô. Quân khu 1 thành lập tháng 5 năm 1976 trên cơ sở sáp nhập Quân khu Việt Bắc và Quân khu Tây Bắc; hơn hai năm sau (tháng 6 năm 1978) lại được tách ra thành quân khu 1 và Quân khu 2. Quân khu 3 tái lập (tháng 5 năm 1976) trên cơ sở hợp nhất Quân khu Tả ngạn và Quân khu Hữu Ngạn. Quân khu 4 và quân khu Trị Thiên hợp nhất thành Quân khu 4 (tháng 2 năm 1976). Tháng 7 năm 1976, Quân khu 5 được tổ chức lại trên cơ sở sáp nhập Quân khu 5 cũ với Quân khu 6 và Mặt trận Tây Nguyên. Quân khu 7 gồm Thành phố Hồ Chí Minh và Đông nam Bộ. Quân khu 9 gồm Quân khu 8 và Quân khu 9 cũ hợp nhất. Các binh đoàn chủ lực, các binh chung được kiện toàn tổ chức gọn mạnh, hiện đại phù hợp với tình hình mới và điều chỉnh lại vị trí đóng quân. Quân chủng Hải quân được củng cố, phát triển nhằm đủ sức bảo vệ biển đảo và thềm lục địa. Quân chủng Phòng không - Không quân được tách ra thành hai quân chủng và có bước phát triển mới. Lực lượng xây dựng kinh tế trực thuộc Bộ Quốc phòng gồm có 1 tổng cục, các binh đoàn được kiện toàn nhưng mới đạt 40% quân số so với dự kiến.

    Về bố trí lại binh lực, ta dần dần điều chỉnh công tác bố phòng trên cả nước, các đơn vị các cấp từ Quân đoàn trở xuống rút dần từ Nam ra Bắc, đặc biệt là việc Bộ quyết định đưa ngay lập tức sư đoàn 3 Sao Vàng/ F3 ra hướng Lạng Sơn và F316/ sư đoàn 316 về Tây Bắc (sẽ nói kỹ về việc tại sao ở phần dưới) trong đầu năm 1976.

    2. Những điểm nhấn đáng chú ý:
    - Về công tác quân quản: được giao cho Quân đoàn 4 và Quân khu 7, 9 là chủ yếu.
    Một bộ phận khá lớn ngụy quân, ngụy quyền (đặc biệt là lực lượng đầu sỏ) lẩn tránh, không chịu trình diện và đi cải tạo, không nộp vũ khí. Tính đến ngày 30 tháng 9 năm 1975, đã có khoảng 938.650 sĩ quan binh lính ngụy ra trình diện chính quyền, chiếm 92% tổng số quân ngụy (tính đến ngày 29-4-1975). Như vậy, còn khoảng 7,8 vạn quân ngụy chưa chịu ra đăng ký, trình diện; trong đó có những tên sĩ quan cao cấp. Tỷ lệ cảnh sát đặc biệt ngụy ra trình diện còn thấp hơn; trong tổng số 120.376 tên, mới đăng ký được 60.229. Phần lớn bọn cảnh sát đặc vụ bỏ trốn. Các phần tử *********, thù địch đã tiến hành những hoạt động chống đối vũ trang: ám hại, bắn lén, gài mìn, ném lựu đạn; hoặc tổ chức những lực lượng nhất định tập kích, đánh phá các trụ sở, cơ quan. Có bọn đang tập hợp lực lượng, hình thành "mật khu" để chống lại ta. Từ ngày 30 tháng 4 đến này 1 tháng 7, chúng đã gây ra 537 vụ, làm thương vong trên 1.000 người. Quý 3 năm 1975, trong tổng số 2.720 vụ gây rối trật tự chống đối cách mạng, có 30% là chống đối vũ trang. Riêng với lực lượng vũ trang, địch đã gây ra 153 vụ ám hại. Kẻ địch ráo riết tiến hành chiến tranh tâm lý, phản tuyên truyền, tung tin xuyên tạc nhằm kích động tàn quân ngụy nổi dậy chống lại cách mạng; gây hoài nghi dao động trong quần chúng, chia rẽ nội bộ cách mạng bằng nhiều hình thức: rải truyền đơn, viết khẩu hiệu *********, treo cờ ngụy; cho tay chân đi tung tin, rỉ tai. Đặc biệt nguy hiểm là một số những phần tử gián điệp, mật vụ, bọn cốt cán ********* trong ngụy quân, ngụy quyền, trong các đảng phái ********* đang tìm cách trà trộn vào các tổ chức cách mạng, tìm vị trí hợp pháp trong các ngành công tác để ẩn thân, chờ thời. Hoạt động móc nối với các cơ sở cũ, cài cắm tay chân mới, đang được gián điệp Mỹ và tay sai tiếp tục tiến hành. Đặc biệt là đập tan âm mưu bạo loạn của bọn ********* ngầm trong dịp Tết Mậu Ngọ (1978).

    - Truy quét FULRO, tàn quân ngụy và các bọn phản cách mạng khác có vũ trang, là một nhiệm vụ cấp bách khẩn trương. Riêng đối với FULRO, ta chỉ đạo các lực lượng vũ trang kịp thời cùng với địa phương, giải quyết một cách kiên trì, cơ bản, toàn diện (bằng mọi biện pháp, trong đó đặc biệt coi trọng công tác dân vận phát động quần chúng), xây dựng cơ sở, phối hợp với các lực lượng quân - dân - chính - Đảng theo một kế hoạch thống nhất, có sự chỉ đạo tập trung của các cấp ủy địa phương, gắn liền với chính sách dân tộc và xây dựng miền núi Tây Nguyên. Việc điều động lực lượng truy quét FULRO đã làm tan rã và bắt 2/3 lực lượng của chúng (6 trung đoàn, 18 tiểu đoàn với tổng số 11.000 tên).

    - Giúp bạn Lào:
    Đầu tháng 3- 1976, ta rút hết quân tình nguyện Việt Nam về nước. Song cuối năm 1976, trước tình hình an ninh chính trị nước bạn chưa được ổn định, nhất là ở Sa Va Na Khét/Xavanekhet và Viên Chăn, bạn lại yêu cầu ta đưa quân tình nguyện trở lại Lào. Sau khi hai Bộ Tổng Tham mưu gặp nhau tại Viên Chăn (1-1977 và 4-1977), ta triển khai thực hiện, làm kế hoạch bố trí lực lượng cụ thể trên một số địa bàn trọng yếu như Viên Chăn, đường 9, Khổng Xê Đôn, đương 7, đường 13, ....hỗ trợ bạn ổn định tình hình. Quân khu 4 và Quân đoàn 2 là nòng cốt, phải tổ chức lực lượng, đoàn công tác sang Lào chi viện.

    - Tình hình biên giới Tây Nam:
    Tập đoàn Pôn Pốt - Yêng Xa-ry có âm mưu chống ta từ lâu, chúng chỉ hữu nghị ngoài mặt nhằm lợi dụng sự giúp đỡ của ta. Ngay sau thắng lợi chống Mỹ và Lon-non, ngày 17-4-1975, tại Hội nghị trung ương Khơ Me (ngày 20-5-1975), chúng xác định: "Việt Nam là kẻ thù số 1, kẻ thù truyền kiếp". Trong nước, chúng đấu tố hành hạ tàn bạo giới trí thức, bắt dân lao động khổ sai, đói rách, thanh trừng đán áp khốc liệt những người phản kháng, thủ tiêu các cán bộ Khơ Me được đào tạo ở Việt Nam, kể cả những người thân thiện với Việt Nam. Trong mấy năm cầm quyền, chúng đã giết hại gần 3 triệu người, gây tâm lý sợ hãi khủng khiếp trong nhân dân Cam-pu-chia. Cùng với thực hiện chế độ diệt chủng trong nước do sự kích động, xúi dục của nước ngoài, ngay ngày 3-5-1975 chúng đổ bộ lên Phú Quốc, ngày 10-5-1975 đánh chiếm đảo Thổ Châu của ta. Khó khăn lớn của ta là vẫn coi họ là các nước bạn xã hội chủ nghĩa nên chưa xác định rõ kẻ thù, thiếu chuẩn bị, nên sau ngày 30-4-1977 quân Pôn Pôt chủ động mở 3 cuộc tiến công lớn sang Việt Nam (Ngày 30-4-1977 địch dùng nhiều lực lượng cỡ sư đoàn, đánh 13/15 xã toàn tuyến tỉnh An Giang. Ta thương vong 700. Riêng ngày 25-7-1977, địch dùng 4 sư đoàn đánh sâu vào Việt Nam 19km, tàn sát 9.000 dân 3 xã huyện Tân Biên. Ngày 23-10-1977, địch lại đánh sang Việt Nam, để tự vệ ta dùng Quân đoàn 4 (thiếu) và Sư đoàn 10 Quân đoàn 3 đánh sang đường số 1 - Khu vực Sa Mát, địch đánh giá ta yếu. Trong gần 2 năm 1977 - 1978 chúng tàn sát các xã biên giới của ta hơn 3 vạn người chết và mất tích, 40 vạn dân mất nhà cửa, hàng chục nghìn nhà thờ, trường học, chùa chiền bị đốt phá, hơn 1.000 trâu bò bị cướp, trên 3.000 nhà bị bỏ hoang, có vụ chúng giết 1.000 dân, mổ bụng, moi gan đốt phá rất dã man).

    Lúc đầu, ta còn lúng túng nhưng để bảo vệ lãnh thổ và tính mạng của nhân dân, thi hành lệnh của Bộ, ta điều gấp các sư đoàn của Quân khu 9, Quân khu 7 ra phòng thủ biên giới. Điều hai quân đoàn 3, 4 lên bảo vệ vùng biên giới trọng điểm của tinh Tây Ninh (Quân đoàn 4 ở Bến Cầu, Quân đoàn 3 ở Sa Mát). Ra lệnh cho Quân đoàn 2 vào trạng thái sẵn sàng cơ động trong khi đang diễn tập phòng thủ ở ngoài Bắc.

    Để thoát khỏi thế bị động, từ 5-12-1977 đến 5-1-1978, theo chi thị của Bộ, ta lên kế hoạch dùng 8 sư đoàn phản công sang các đường số 7, số 1, số 2, truy kích sâu vào đất Cam-pu-chia 30km, đánh thiệt hại 5 sư đoàn địch, làm thất bại kế hoạch chiếm thị xã Tây Ninh của chúng. Ngày 30-4-1978, sợ ta đánh sâu, địch đưa chiến tranh ra công khai. Trong nội địa, ta đập tan âm mưu bạo loạn của bọn ********* ngầm trong dịp Tết Mậu Ngọ (1978). Sau khi ta rút quân về biên giới, địch lại tiếp tục lấn chiếm nhiều nơi. Chúng tập trung 13-17 sư đoàn ra biên giới với Việt Nam, lấy Tây Ninh, An Giang, Kiên Giang làm mục tiêu phải chiếm để làm bàn đạp tiến công vào Sài Gòn. Trong 2 tháng (1 và 2-1978 có 903) vụ bắn pháo 130mm (do nước ngoài cung cấp) sang Việt Nam kết hợp gây chiến tranh du kích trên toàn tuyến biên giới Việt Nam - Cam-pu-chia. Như vậy, sau một thời gian dài (1975-1977) ta buộc phải đánh trả địch ở biên giới với mức độ kìm chế. Nhưng tình hình ngày càng xấu đi, nhiều đề nghị thương lượng do ta chủ động đưa ra đều không có kết quả, kể cả cuộc gặp cấp cao ở Phnôm Pênh cho đến cuộc gặp cấp cao ở Bắc Kinh. Pôn Pốt đơn phương cắt đứt ngoại giao, tình hình đã rơi vào chỗ bế tắc. Dã tâm của kẻ thù đã lộ rõ. Đầu năm 1978, ta đã kết luận: "Chừng nào tập đoàn ********* Cam-pu-chia hiện nay chưa bị nhân dân Cam-pu-chia đánh đổ, thì vấn đề biên giới Việt Nam - Cam-pu-chia chưa được giải quyết..."Tháng 6-1978, Bộ Chính trị Trung ương Đảng xác định rõ kẻ thù trong thời kỳ mới và quyết định: “Bảo đảm giành thắng lợi ở hướng Tây Nam càng sớm càng tốt, vững chắc ở hướng Bắc và trên các hướng khác; chú trọng xây dựng tốt tuyến phòng thủ biên giới Tây Nam và đồng thời phía Bắc, tăng cường củng cố lực lượng chiến đấu tại chỗ" (Số 23 VP/QU-A: Kết luận Của Thường vụ Quân ủy Trung ương tại Hội nghị quân chính, 27-6-1978).

    Tổng quan về bối cảnh lịch sử giai đoạn này ta có thể thấy, Hòa Bình nhưng đất nước luôn trong trạng thái thù trong giặc ngoài, chi phí quốc phòng sau nhiều năm chiến tranh ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế tự cung tự cấp ở Miền Bắc và hoàn toàn phụ thuộc vào viện trợ của Mỹ và đồng minh ở Miền Nam. Ta liên tục phải điều động binh lực giúp bạn, xây dựng các đoàn/ tổ công tác vùng biên nhằm đảm bảo an ninh trật tự. Thế trận quốc phòng liên tục bị đảo lộn do các nguyên nhân khách quan.

    3. Thế trận biên giới phía Bắc:
    Tổng hợp các điều kiện chính trị - kinh tế - xã hội và tình hình thế giới không cho phép ta có thể cù dây cù dưa hoặc chỉ trấn áp với Pôn Pốt như trong giai đoạn 1977 - 1978. Cần kiên quyết đập nát bè lũ *********, nhanh chóng xốc tới dùng đòn hủy diệt để phá hủy ách áp bức bóc lột - đưa nhân dân Campuchia thoát khỏi kiếp nô lệ. Ta tập trung 18 sư đoàn của 3 quân đoàn 2, 3, 4 và 3 quân khu (9, 7, 5); 600 xe tăng thiết giáp; 137 máy bay các loại; 160 tàu thuyền chiến đấu - vận tải; 7.000 ô tô với tổng số 25 vạn quân với chủ trương Sử dụng hết sức mạnh, tiến công bất ngờ, thần tốc mãnh liệt kết hợp với ngọn cờ cách mạng Cam-pu-chia, bao vây tiêu diệt khối chủ lực địch, nhanh chóng thọc sâu tiêu diệt cơ quan đầu não địch ở Phnôm Pênh, chiếm cảng Kông Pông Som, các sân bay lớn, ngăn chặn sự can thiệp của quân đội nước ngoài bằng đường biển, đường không, thực hiện đánh nhanh, giải quyết êm, diệt gọn.." để đập nát 19/ 23 sư đoàn (kể cả các sư đoàn bị đánh tan trong các chiến dịch trước được củng cố lại) dọc biên giới, sử dụng lực lượng đột phá mạnh khi toàn bộ phía sau lưng địch trống rỗng.

    Trong khi đó, công tác trấn áp Fullro, tàn quân VNCH, giúp bạn Lào, đối phá với sự quấy nhiễu ở cấp độ nhỏ tại biên giới phía Bắc vẫn diễn ra song song.

    Tuy vậy, từ cục diện này mở ra một điểm tối: "ta rỗng tại hậu phương khi tăng cường tối đa binh lực cho các hướng, đặc biệt là tại Miền Bắc khi Quân đoàn 2 vào Nam. Tại biên giới phía Bắc, ta chỉ có 2 sư đoàn mạnh ở hai hướng quan trọng và Quân đoàn 1 là lực lượng mạnh là thê đội 2, dự bị chiến lược".

    ..Tuy vậy, từ cục diện này mở ra một điểm tối: "ta rỗng tại hậu phương khi tăng cường tối đa binh lực cho các hướng, đặc biệt là tại Miền Bắc khi Quân đoàn 2 vào Nam. Tại biên giới phía Bắc, ta chỉ có 2 sư đoàn mạnh ở hai hướng quan trọng và Quân đoàn 1 là lực lượng mạnh là thê đội 2, dự bị chiến lược"....


    Như vậy, về chiến lược và thế trận bố phòng ta gặp nhiều khó khăn khi quyết định tập trung binh lực giải quyết dứt điểm chiến trường biên giới Tây Nam. Trong khi đó, tình hình tại Lào vẫn vô cùng căng thẳng, sức ép không hề kém cạnh. Từ biên giới Thái Lan, phỉ Lào và các thế lực ********* tỏa khắp nước Lào, luôn trong tình trạng "ngàn cân treo sợi tóc" đối với chính quyền non trẻ. Chúng ta hẳn không thể quên những vụ bạo loạn/ nổi loạn trong năm 1976 - 1978 nhất là vào dịp Tết cổ truyền của lực lượng "Phù Cạt Phên Cang" hoặc những kế hoạch phong tỏa, vây chính quyền, chặt đứt và phục kích các giao lộ quan trọng. Ngày 7 tháng 12 năm 1978, chúng thành lập ban chỉ huy ở Trung Lào; ngày 20 tháng 12 thành lập ban chỉ huy ở Hạ Lào. Chúng ra sức khôi phục cơ sở đã bị tan vỡ, dụ dỗ lôi kéo thanh niên nhẹ dạ cả tin sang Thái Lan để lập các đơn vị tập trung, đưa các toán biệt kích thám báo từ Thái Lan về tiếp tục hoạt động khủng bố, đẩy mạnh hoạt động chiến tranh tâm lý, gián điệp, chia rẽ nội bộ, chia rẽ tình đoàn kết giữa Lào và Việt Nam. Ta và bạn Lào đã phối hợp bắt, diệt một số tên đầu sỏ ********* người Việt như: Lê Quốc Tuý, Võ Đại Tôn, Nguyễn Văn Hạnh... Để chỉ huy thống nhất các lực lượng tại Lào, ta thống nhất đầu mối về Binh đoàn 678 (gồm F324/ sư đoàn 324, F968/ sư đoàn 968, Lữ đoàn 176 , F337, F338, trung đoàn pháo binh,....- có đơn vị đóng quân trực tiếp trên đất bạn, có đơn vị ở sát biên giới hoặc trên địa bàn QK 4, tùy từng thời điểm/ giai đoạn mà sang bạn ). - Hì hì, chỗ này em viết rồi sẽ có bác thắc mắc cho coi, [​IMG]

    Vậy mà, tình thế ngày càng cuộn trào dâng sóng, tháng 3/1979, ta phải mở/ thành lập thêm BTL mặt trận 379 tại Bắc Lào. Đ/c Nguyễn Ân, TMT Binh đoàn 678 kiêm Tư lệnh mặt trận - đ/c Bùi Huy Bổng, trưởng đoàn chuyên gia QS tại Bắc Lào làm Phó Tư lệnh về chính trị,.... Có bác nào biết tại sao ta phải mở mặt trận này không ạ?

    Đến đây, lại nhớ đến câu nói kinh điển của Lê Nin: "giành được chính quyền... dễ - giữ được chính quyền... khó", [​IMG]. Đất nước thống nhất, non sông thu về một mối có được vài năm lẻ, vậy mà lại trập trùng sóng dữ.

    Vậy, ta đã chuẩn bị những gì cho biên giới phía bắc trong hoàn cảnh và diễn biến phức tạp như vậy.

    ...Vậy, ta đã chuẩn bị những gì cho biên giới phía bắc trong hoàn cảnh và diễn biến phức tạp như vậy.

    Kháng chiến chống Pháp rồi đánh Mỹ, ta hiểu quá rõ về cái giá phải trả cho chiến tranh, hao người tốn của, cái giá của Hòa Bình rất rất đắt. Làm thế nào để đất nước tránh được chiến tranh, để phục hồi kinh tế, để..... là câu hỏi hóc búa cho biết bao con người giai đoạn đó. Thế mà, "Kẻ thù buộc ta ôm cây súng" - không còn cách nào khác, cuộc chiến tranh bắt buộc sẽ sớm bắt đầu.

    Suốt trong giai đoạn 1977 - 1978, Trung Quốc liên tục quấy nhiễu biên cương phía bắc, gây ra hàng loạt các vụ xung đột vũ trang nhỏ lẻ, gây nguy cơ thổi bùng cuộc chiến sớm. Âm mưu và ý đồ nham hiểm khi lôi kéo, xúi giục các dân tộc thiểu số phía bắc đứng lên thành lập các Khu tự trị, Vùng tự do riêng.

    Để tránh "lưỡng đầu thọ địch" và nguy cơ mũi vu hồi từ Lào, bằng mọi cách ta phải tránh xung đột sớm, giải quyết từng thằng một. Khi ta tung các sư đoàn thiện chiến đánh sâu vào đất Cambodia trong năm 1978 nhằm chuyển chiến tranh sang đất địch, phá hủy hàng loạt các kho tàng/ khí tài quân sự, đập nát của sư đoàn chủ lực của Pôn Pốt, dằn mặt và bẻ gẫy tham vọng của kẻ thù thì cũng là lúc hoạt động phá hoại biên giới tăng lên đáng kể. Đây cũng là phép thử tốt cho chiến dịch đầu năm 1979.

    Để tránh những luận điệu và tuyên bố, phía Việt Nam tăng cường các hoạt động quân sự gần biên giới, "tiểu bá" gây chiến trước, ta chủ trương đưa các đơn vị mạnh ở tuyến hai, tập trung củng cố lực lượng địa phương và CAVT/ biên phòng trên tuyến một.

    Để tăng cường khả năng bảo vệ Tổ quốc, ngày 3 tháng 11 năm 1978, Hiệp ước hữu nghị và hợp tác giữa nước Cộng hòa xế hội chủ nghĩa Việt Nam và Liên bang Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô Viết được ký kết. Theo đó, bạn sẽ viện trợ cho ta về vũ khí, trang bị kỹ thuật, cử các đoàn chuyên gia quân sự sang giúp ta huấn luyện và xây dựng quân đội.

    Để tăng cường khả năng phòng thủ, ta tiến hành hàng loạt các biện pháp chính:
    - một là, tổ chức cho Quân đoàn 1 diễn tập (mật danh ĐK-78) vào ngày 9 tháng 8 năm 1978 với nội dung: “Quân đoàn tiến công địch đổ bộ đường không, bảo vệ các địa bàn trọng yếu được phân công ở vùng trung du và đồng bằng phía tây Hà Nội". Lực lượng tham gia diễn tập gồm: Các sư đoàn bộ binh 308, 312, 320B; Lữ đoàn công binh 299, Lữ đoàn tăng - thiết giáp 202, Lữ đoàn pháo binh 45, Lữ đoàn phòng không 241 và Trung đoàn thông tin 140. Từ ngày 25 tháng 9 đến ngày 7 tháng 10 năm 1978, tổ chức diễn tập (mật danh ĐK-4) cơ quan chỉ huy 1 bên 2 cấp có một phần thực binh với đề mục: “Quân đoàn tiến công địch đổ bộ đường không, tổ chức chiến đấu bảo vệ các địa bàn trọng yếu”, nhằm kiểm tra và hoàn chỉnh phương án tác chiến đánh địch đổ bộ đường không theo phương án tác chiến thực tế của các cấp từ Quân đoàn trở xuống ở địa bàn thủ đô Hà Nội và các khu vực phụ cận. Riêng trong tháng 6 năm 1978, Quân đoàn 1 đã cử hơn 100 cán bộ từ cấp trung đội đến cấp trung đoàn, sư đoàn để tăng cường cán bộ cho các quân đoàn vừa thành lập và các đơn vị đang làm nhiệm vụ phòng thủ trên biên giới phía Bắc; thêm 6.500 chiến sĩ đã trải qua huấn luyện được lệnh lên đường bổ sung cho các Quân khu 5, 7, 9, Quân đoàn 3 và Quân đoàn 4. Đặc biệt là ngay từ đợt tháng 1/1979, Quân đoàn 1 đã bước vào cấp 1, sẵn sàng cơ động chiến đấu, trực chiến 24/24; một số phân đội trinh sát của D701 trinh sát Quân đoàn và trinh sát các sư đoàn trực thuộc đã lên cắm chốt tại biên giới phía bắc (Trinh sát F308 ở Đình Lập, Lạng Sơn; F320B tại thị xã Lào Cai và ga Tam Lung).

    - hai là, hiệp đồng kế hoạch chi viện từ hậu phương chiến lược: các tỉnh phía sau chi viện lên phía trước. Ta đưa 8 vạn lao động ở đồng bằng sông Hồng lên các tỉnh biên giới, xây dựng dân quân tự vệ làm nòng cốt, tổ chức các khu vực sản xuất tại chỗ trên những địa bàn xung yếu kết hợp kinh tế với quốc phòng. Rút kinh nghiệm từ biên giới Tây Nam, ta đã tổ chức huấn luyện và trang bị vũ khí ngay từ đầu. Ta chỉ đạo khẩn trương xây dựng các công trình phòng ngự (công sự, hầm hào, vật cản, hệ thống đài quan sát - trinh sát... chủ yếu bằng gỗ đất) hình thành các điểm tựa trung đội, đại đội, cụm điểm tựa tiểu đoàn; khu vực phòng ngự trung đoàn và sư đoàn kết hợp với các chốt, các cụm bản - căn cứ liên hoàn của bộ đội địa phương và dân quân trên tuyến 1 và tuyến 2 (Về vật cản: Quân khu 1 rào được 217km/679km, có 27km kẽm gai, 5,6 triệu chông sắt/ 47.8 triệu chông, 3.468 mìn chống bộ binh, 433 mìn chống tăng. Quân khu 2 rào 180km/780km có 19km kẽm gai, 3.000 mìn chống bộ binh, 433 mìn chống tăng).

    - ba là, hoàn chỉnh về cơ cấu tổ chức và biên chế lực lượng.
    * Từ ngày 1/7/1978, Thiết lập sở chỉ huy các cấp của Quân khu 1, Quân khu 2 sau khi tách riêng (cũ là 1 quân khu) và bắt đầu chỉ huy các lực lượng thuộc quyền. Cơ quan chỉ huy cấp quân khu được tăng cường. Tổ chức bộ chỉ huy quân sự thống nhất ở từng tỉnh và ban chỉ huy thống nhất ở cấp huyện, trong đó có bí thư Huyện ủy và chủ tịch uỷ ban nhân dân huyện. Tăng cường ngay các học viên sỹ quan các trường chuẩn bị ra trường lên thẳng biên giới phía bắc để thực hành công tác chỉ huy, tham mưu hỗ trợ khi cần. Việc này đã phát huy hết sức hiệu quả khi xảy ra chiến tranh.

    * Từ tháng 10/1978, sáu sư đoàn của Tổng cục Xây dựng kinh tế được điều lên làm đường số 6 và các tuyến đường ngang, bảo đảm cơ động về chiến lược và chiến dịch.

    * Sau khi cân nhắc, BTTM quyết định điều động F3/ sư đoàn 3 Sao Vàng và F316/ sư đoàn 316 ra Bắc ngay trong năm 1976, đặt ở hai hướng quan trọng nhất. F3 về Hà Bắc, F316 về Yên Bái. Tháng 7/1978, F3 được lệnh về Quân khu 1 làm nhiệm vụ phòng thủ ở đông-nam tỉnh Cao Lạng, một địa bàn trọng yếu của quân khu và của Bộ. F316 cũng dâng lên Lào Cai. Ngoài ra, thực hiện chỉ đạo của Bộ, F3 và F316 điều động hàng trăm sỹ quan các cấp về BCH QS các tỉnh, huyện để làm nòng cốt huấn luyện và xây dựng LLVT địa phương; bố trí các LLVT này vào ngay đội hình tác chiến cấp trung đoàn và tiểu đoàn. Bắt tay ngay vào việc xây dựng dải trận địa phòng ngự thê đội 1/ tuyến 1 (F3 xây dựng với chiều dài 60km) và thê đội 2/ tuyến 2.
  2. congtubl

    congtubl Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    30/11/2006
    Bài viết:
    5.086
    Đã được thích:
    2.555
    Dài quá, chia ra từng đoạn cho các bác đọc cho đở nhàm chán.

    Tiếp:
    Chỗ này có một ý nhỏ, câu hỏi em đặt ra từ bài viết trước, tại sao Bộ lại chọn F3 và F316?

    Lớp hậu sinh con cháu xin có đôi lời lượm lặt như sau:


    Đây đều là những sư đoàn mạnh và rất có truyền thống trong lịch sử KCCM. Nhưng điều đó vẫn là chưa đủ và cũng "bình thường" như bao sư đoàn khác trong lịch sử QDND VN mà thôi. Hẳn Bộ cũng có cái lý của mình và ta sẽ xem nó được thể hiện ra sao?

    1. F316/ sư đoàn 316/ Đoàn Bông Lau/ Sư đoàn Thổ: là F có truyền thống từ thời KCCP, được hiểu nôm na là tuyển quân phần lớn ở các tỉnh Tây Bắc là chính, ưu điểm tác chiến tuyệt đối tại chiến trường rừng núi; quen thuộc địa bàn Thượng Lào và Tây Bắc. Dân gian có khi quen gọi là "lính sơn cước". Đánh rất lỳ và dũng cảm. Tuyệt đối trung thành. Hơn nữa, từ trong năm 1974, khi từ Lào về Nghệ An, F316 đã có hơn 1 năm bổ sung, củng cố và huấn luyện chiến thuật. Nhuần nhuyễn nhiều cách đánh, sở trưởng mạnh, sư đoàn được tin tưởng tung vào chiến dịch Buôn Ma Thuột, đi suốt chiều dài chiến dịch Hồ Chí Minh (công phá Đồng Dù, Trảng Bàng) => tác chiến địa bàn nào cũng được (rừng núi, đô thị, đồng bằng), chiến trường nào cũng xong, chiến thuật nào cũng tốt, khá toàn diện phải không ạ!

    Đưa F316 về Quân khu 1, về với Tây Bắc khác nào cá về với nước; dùng chính những người lính là con em các dân tộc Tây Bắc trưởng thành trong chiến đấu, trong gian khổ làm nòng cốt xây dựng và bảo vệ chính quê hương, tấc đất biên cương thì không gì hơn thế.

    Có thể kể đến chiến công của D2 E174/ trung đoàn Cao Bắc Lạng trong tháng 2/1979 tại khu vực nhà thờ thị xã Sa Pa và Cầu Đôi thuộc Lào Cai. Đây chính là bài học thực tiễn trong những ngày tháng quần thảo với lính VNCH tại Bầu Nâu, Trà Võ.

    Hoặc C10 D6 E148 trong nửa ngày đã cấu trúc xong trận địa phòng ngự tại cao điểm S08, một điểm cao chiến thuật có giá trị phòng ngự tích cực, có giá trị chiến lược tạo thế cho toàn trung đoàn và sư đoàn vào trận. Đây chính là bài học vận dụng kinh nghiệm phòng thủ dãy điểm cao án ngữ xung quanh Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng, Lào.

    2. F3 Sao Vàng là đơn vị ra đời tại chiến trường khu 5 trong KCCM. Các trung đoàn đều có sở trưởng khác nhau, E12/ đoàn Tây Sơn nổi tiếng với đánh cắt giao thông, luồn sâu tạo thế chiến dịch, có kinh nghiệm tác chiến tại các huyện miền núi phía tây tỉnh Bình Định. E141/ đoàn Hoài Ân có kinh nghiệm phòng thủ tác chiến bên dòng sông Kim Sơn trong năm 1972. E2/ đoàn An Lão: trung đoàn chủ công, tác chiến giỏi trong mọi địa hình, nổi tiếng kiên cường trong tiến công. Đặc biệt là trong KCCM, BCH F3 được đánh giá cao bởi sự linh hoạt, nhận định đánh giá tình hình sớm và chủ động ra quyết sách kịp thời trong thời gian ngắn nhằm thay đổi hình thức tác chiến hoặc chiến thuật cho phù hợp với hoàn cảnh thực tế; không ỷ lại và trông chờ vào chỉ đạo của trên. Có thể kể đến việc thay đổi ngay thế trận và hướng tiến công như vũ bão khi Cầu Bông (Vũng Tàu) bị đánh sập tháng 4/1975 hoặc dừng ngay mũi tiến công đột kích từ bắc Bình Định ra nam Quảng Ngãi trong năm 1972, sau khi tiêu diệt căn cứ Đệ Đức để chuyển về phòng thủ giữ vững phòng tuyến Hoài Ân, Bình Định. Hay là tổ chức tiến công khi giải phóng Ninh Thuận, BCH F cùng lúc sử dụng nhiều phương án chiến thuật: mũi chính diện, thọc sâu của trung đoàn 2; mũi đánh ngang sườn của trung đoàn 25, 12 và mũi vu hồi của trung đoàn 141 ở hướng đông đã khiến cho bọn địch bị bao vây ở cả bốn phía, không còn đường để rút chạy.

    Từ những kinh nghiệm quý báu đó đã được vận dụng trong thế trận biên giới phía bắc một cách nhuần nhuyễn:
    - Quân bành trướng Trung Quốc chọn đêm ngày 16, rạng sáng ngày 17/2/1979, trong hoàn cảnh sương mù che khuất tiến hành áp sát biên giới; phong tỏa/ cắt đứt thông tin; bất ngờ tiến công với đòn hủy diệt pháo binh và các mũi thọc sâu, vu hồi có xe tăng yểm trợ hòng phá nát thế trận phòng ngự của ta; nhanh chóng hình thành xé lẻ hoặc cất vó các sư đoàn chủ lực và tiến nhanh xuống vùng trung du - đồng bằng. Tưởng vậy mà đâu có dễ, [​IMG]. Tất cả các trận địa phòng ngự tuyến 1 của ta đều kiên cường phòng ngự. Các đại đội/ tiểu đoàn không có sự chỉ huy thống nhất, không liên lạc được với nhau để phối hợp tác chiến, không còn đài quan sát nhưng đều chủ động chặn địch (ví dụ cả E12 thì chỉ có trận địa C41 là im tiếng súng). Thế trận phòng ngự tại Đồi 9, Đồi 10, Quy Thuận trong chiến dịch phòng thủ Hoài Ân 1972 đã diễn ra ở dãy điểm cao 339, 423, đồi Thâm Mô/ đồi Phạm Ngọc Yểng (vòng tròn xanh) khi chốt giữ con đường độc đạo từ biên giới xuống tạo thành ngã ba chiến lược đường 1A và 1B.

    Hay trong hoàn cảnh như vậy, F3 nhanh chóng tổng hợp, nắm bắt tình hình; chủ động nhận định: "đâu là hướng tiến công vu hồi thọc sâu hết sức nguy hiểm, đâu là hướng tiến công chính diện của địch và ngay trong đêm 17/2 đã đề ra quyết sách hợp lý, xây dựng/ điều chỉnh lại thế trận phòng ngự thích hợp. Đặc biệt là ngay trong sáng ngày 18 tháng 2, sư đoàn mở trận phản kích đầu tiên với quy mô trung đoàn thiếu vào cánh quân vu hồi của địch ở Tam Lung. Một trong những mục tiêu chủ yếu của trận tiến công là phải chiếm lại các điểm cao Chậu Cảnh, đồi Địa Chất, Bản Phân, Phai Môn, cao điểm 611, 409 (vòng tròn nâu) những vị trí quan trọng tại Tam Lung vừa bị địch chiếm. Hoặc quyết định đêm 22/2 trước cửa ngõ Lạng Sơn có khác gì "đêm trắng" quyết định kéo quân tiến ra nam quảng ngãi về phòng ngự Hoài Ân:

    Trích dẫn
    ...Vấn đề trung tâm được đưa ra thảo luận là nên đưa trung đoàn 12 lập trận địa mới hay tiếp tục tổ chức đánh chiếm lại các trận địa vừa bị mất trên hướng chủ yếu ở Đồng Đăng? Có ý kiến cần tập trung toàn bộ lực lượng khôi phục lại các điểm cao Thâm Mô, Pháo Đài, 339 bởi giá trị chiến dịch của nó có tính chất quyết định đối với việc bảo vệ Lạng Sơn. Mất khu vực cửa ngõ này, mũi vu hồi của địch ở Tam Lung có điều kiện tiến về Lạng Sơn nhanh hơn vì nó sẽ không còn bị đe dọa từ phía sau lưng nữa. Có ý kiến nếu tập trung sức của sư đoàn để phản kích thì sẽ khôi phục lại được trận địa vì ở Thâm Mô và điểm cao 339 ta vẫn còn giữ được một phần đất để làm bàn đạp, nhưng sự tiêu hao sinh lực sẽ lớn. Thêm nữa, địch vẫn liên tiếp tăng quân và đang dồn lực lượng vào hướng chủ yếu. Diệt hết lớp này lớp khác lại tràn đến thay thế. Trong khi ấy lực lượng ta có hạn, nhất là trung đoàn 12 phải tính đến từng người. Do đó, không thể đánh theo lối “đá bóng” như vậy mãi được....

    Các vị trí địa danh có liên quan, bác nào muốn hiểu thêm về một giai đoạn lịch sử thì có thể đọc ở đây.
    - vòng tròn xanh lơ: các điểm cao, vị trí hành lang là nơi tranh chấp phía sau : Song Áng, Pá Biêng, Con Khoang, Pá Chai, Khôn Làng, Đồng Uất, Chọc Võ, điểm cao 607, 303

    - vòng tròn đen: cao điểm 800, vị trí đặt đài quan sát của F3 bị địch chiếm lúc 14h ngày 27/2 khi luồn qua sau lưng vị trí phòng thủ của tiểu đoàn 1.

    - vòng tròn đỏ: Hữu Nghị Quan, thị xã Đồng Đăng, cao điểm 386, Thâm Kéo, cột mốc biên giới M16

    [​IMG]

    Phải nói rằng còn rất nhiều điểm hay chưa kể hết, phân tích hết được. Nhưng những ví dụ trên đã chỉ rõ, quyết định sáng suốt của Bộ trong chiến lược quân sự tại thời điểm, theo thế và lực của ta tại thời điểm đó. F3 và F316 đã hoàn thành sứ mạng lịch sử, cùng quân dân địa phương chặn đứng thế tiến công như thác lũ của địch. Trước đòn tấn công bất ngờ, áp đảo hủy diệt và số lượng gấp hàng chục lần mà F3, F316 và các sư đoàn khác đã đứng vững; tạo điều kiện về thời gian và không gian cho Bộ điều chỉnh lực lượng - nhất là phá vỡ âm mưu tiến xuống vùng đồng bằng theo hướng Lạng Sơn (nhanh và ngắn nhất).

    Ta hiểu rằng, mọi sự so sánh đều khập khiễng và tại từng thời điểm lịch sử thì cục diện và thế lực của mỗi bên đều khác nhau. Thế nhưng hãy thử đặt một giả thiết trong trường hợp F3 không cản nổi thế địch, thị xã Lạng Sơn nhanh chóng vỡ và quân Trung Quốc nhanh chóng càn lướt theo đường 1. Lúc này, liệu QUTW còn cương quyết: "không được tung Quân đoàn 1, lực lượng dự bị chiến lược, thê đội 2 vào ngay trận chiến để giải quyết một số khó khăn tại các hướng trọng điểm". Hoặc địch chiếm được một tỉnh BGPB, kêu gọi và tổ chức xây dựng Khu tự trị/ Vùng tự do. Hiệu ứng đô mi nô kéo theo sẽ làm tan vỡ chiến lược phòng thủ tại Quân khu 3 và thế cục trên cả bán đảo Đông Dương khi ta đang cùng các LLVT nước bạn Lào, Cambodia truy quét tàn quân, phỉ và các thế lực *********. Nhất là khi ta đã nhận định: "3 tình huống chiến lược mà chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch có thể tiến hành đối với nước ta, đó là: kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt, kiểu chiến tranh có giới hạn và chiến tranh xâm lược quy mô lớn."
    VN_999, linhsnow13, JICKLE10 người khác thích bài này.
  3. congtubl

    congtubl Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    30/11/2006
    Bài viết:
    5.086
    Đã được thích:
    2.555
    Yểm trợ lại đội bạn sau khi đã nhận được hỏa lực chi viện:[​IMG]. Chú thích các địa danh như sau (sai chỗ nào các bác chỉ giáo cho nhá, vì bản to không thể thể hiện hết được [​IMG]):
    - Ma Ly Pho/ Mali pho; Pa Nậm Cúm/ Pa Namcum; Pa Tần/ Pa Tan; Huổi Luông/ Hoi Lung; Hoàng Thểm/ Khoang Then; Khao Chải/ Thau Chai; Nậm Cáy/ Nam Cay; Mo Sy Cao/Mô Sy Câu; Riêng Mu San/ Mù San thì gồm đỉnh A là cao điểm 1562 và đỉnh B là cao điểm 1592;

    [​IMG]

    Hồi tiếp sẽ hấp dẩn:
    - ta có bị bất ngờ hay không? hiểu bất ngờ như thế nào?
    - và tại sao ta không lao lên đánh, nhất là điều QĐ2, Q Đ3 ra sớm hơn để choảng thật lực cho nó khiếp?
    http://www.vnmilitaryhistory.net/index.php/topic,26721.260.html
    Connuocviet, cu-bo, nguyentnut3 người khác thích bài này.
  4. meo-u

    meo-u Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    29/04/2011
    Bài viết:
    4.710
    Đã được thích:
    4.111
    Không phải. Đạn B41 có luồng xuyên chỉ 20 cm. Quá khoảng cách đó luồng xuyên tòe ra. Giáp hộp kiểu Irak đê La thành chặn tốt đạn lõm.

    Cái hình bác Sivi...nik gửi thì thanh chuồng gà bị gẫy. Quả đạn lao vào nổ, tất nhiên quả đạn bị hư hại một phần nhưng cũng đủ xuyên qua xe thiết giáp.
  5. kuyomuko

    kuyomuko Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    21/04/2011
    Bài viết:
    20.002
    Đã được thích:
    29.092
    Chuồng gà chỉ gia tăng khả năng sống sót chứ nó đâu phải đũa thần.
  6. Gnuhlehcimm

    Gnuhlehcimm Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    23/11/2012
    Bài viết:
    1.468
    Đã được thích:
    96
    của dân tộc Việt Nam

    Nước Việt Nam là một. Dân tộc Việt Nam là một. Sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý đó không bao giờ thay đổi. Tính thống nhất của cộng đồng quốc gia - dân tộc Việt Nam đã hình thành từ lâu và trở thành bản tính của dân tộc.
    http://danoanlentieng.blogspot.cz/2014/01/tinhthong-nhat-cua-dan-toc-viet-nam-at.html#.Uwf7Opas_Xr

    Hoa đất

    Thống nhất bên cạnh chống giặc ngoại xâm, với thiên nhiên khắc nghiệt mà rộng lượng còn là yêu cầu cấp thiết đấu tranh với âm mưu phá hoại, chia rẽ dân tộc của các thế lực thù địch. Thống nhất không chỉ thể hiện ở mục tiêu toàn vẹn lãnh thổ, mà còn được thể hiện qua tư tưởng, hành động, ý chí. Lịch sử đã chứng minh rằng, trong thời điểm nào, bất kỳ thế lực nào phá hoại lại sự “thống nhất” ấy đều phải chịu những hậu quả nặng nề, bị lịch sử phủ định. Điểm qua một vài sự kiện:


    [​IMG]
    1. Loạn 12 sứ quân đưa đất nước rơi vào cảnh cát cứ, hỗn loạn. Mười hai sứ quân bị Đinh Bộ Lĩnh tiêu diệt. Nước nhà thống nhất đã xuất hiện ngay từ chiến thắng của Ngô Quyền, nay trở lại thống nhất sau vài mươi năm phân liệt. Được như vậy, một phần hẳn là do tài trí của Tiên Hoàng, phần chính do lòng dân muốn thống nhất, không chịu chia cắt. Đây là thắng lợi của xu hướng thống nhất quốc gia, của tinh thần dân tộc và ý chí độc lập trong nhân dân.
    [​IMG]

    2. Trịnh - Nguyễn phân tranh là thời kỳ phân chia giữa chế độ “vua Lê chúa Trịnh” ở phía Bắc sông Gianh (sử gọi là Đàng Ngoài) và chúa Nguyễn cai trị ở miền Nam (Đàng Trong), mở đầu khi Trịnh Tráng đem quân đánh Nguyễn Phúc Nguyên năm 1627 và kết thúc vào cuối thế kỷ 18 khi nhà Tây Sơn dẹp cả chúa Nguyễn lẫn chúa Trịnh. Nước Việt Nam bị chia cách hơn 100 năm. Nguyễn – Trịnh phân tranh làm yếu đất nước, làm khổ nhân dân. Cả nguyễn lẫn Trịnh bị Tây Sơn tiêu diệt chính vì cái tội làm phân tranh trước hết. Nước nhà trở lại thống nhất, sức mạnh tinh thần và vật chất dồi dào, nên ba mươi vạn quân Mãn Thanh tháo chạy mà không dám quay đầu.

    3. Với âm mưu chia rẽ dân tộc, Pháp chia Việt Nam thành các vùng với chế độ cai trị khác nhau. Ở Miền Nam (Nam Kỳ),Sau khi Đế quốc Nhật Bản đầu hàng phe Đồng Minh thì Pháp mở cuộc tái chiếm Nam Bộ. Họ chủ trương chia cắt miền Nam để đáp lại tuyên bố chủ quyền thống nhất với miền Nam của chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Theo âm mưu Pháp, Nguyễn Văn Thinh bày trò: lập chính phủ “Nam Kỳ tự trị” để chia cắt. Nam Kỳ tự trị sớm đưa Nguyễn Văn Thinh đến treo cổ bằng dây điện.

    [​IMG]
    4. Hiệp định Giơnevơ 1954 về Đông Dương được ký kết đã kết thúc cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp và can thiệp Mỹ đối với ba nước Việt Nam, Lào, Campuchia. Chính quyền Ngô Đình Diệm, với sự giúp đỡ và có sự chỉ đạo của Mỹ, ra sức phá hoại Hiệp định Giơnevơ, từ chối hiệp thương với Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hoà về việc tổ chức tổng tuyển cử tự do trong cả nước để thống nhất Việt Nam trong thời hạn hai năm theo điều khoản của Hiệp định.

    Đến hạn hai năm, tháng 7-1956, Diệm tuyên bố: “Sẽ không có hiệp thương tổng tuyển cử, vì chúng ta không ký Hiệp định Giơnevơ, bất cứ phương diện nào chúng ta cũng không bị ràng buộc bởi Hiệp định đó”. Bằng một loạt hành động trái với hiệp định, như bầy trò “trưng cầu dân ý” để phế truất Bảo Đại rồi suy tôn Ngô Đình Diệm làm Tổng thống (tháng 10-1955), tổ chức bầu cử riêng rẽ, lập quốc hội lập hiến (tháng 5 -1956), ban hành hiến pháp của cái gọi là “Việt Nam cộng hoà” (tháng 10-1956), Diệm đã trắng trợn từ chối và phá hoại việc thống nhất Việt Nam. Cuối cùng, Diệm bị giết chết trong tiếng nguyền rủa của toàn dân.

    [​IMG]
    Nhìn sang các quốc gia láng giềng: tình hình chia rẽ dân tộc, phân chia quyền lực của các Đảng đối lập tại Thái Lan đang gây ra cuộc khủng hoảng nghiêm trọng kéo dài, ảnh hưởng đến các mặt đời sống xã hội thời gian qua.



    Có thể nhận thấy rằng, ngay cả trong giai đoạn hiện nay, âm mưu chia rẽ dân tộc của các thế lực thù địch và phần tử xấu để phá vỡ tính “thống nhất” ấy luôn diễn ra thường xuyên, liên tục, thể hiện trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Một số phần tử trong nước núp bóng dưới danh nghĩa “yêu nước”, “bảo vệ dân oan”, “phong trào dân chủ”, “Mạng lưới Blogger”… ra sức tiếp tay cho các hoạt động chống phá từ bên ngoài, hình thành xã hội dân sự theo kiểu phương Tây, kích động người dân biểu tình, hình thành những trào lưu đối lập… nhằm thực hiện thực hóa mưu đồ chia rẽ, phá vỡ tính “thống nhất” ấy.

    Và liệu rằng: Số phận họ rồi sẽ ra sao?
    VN_999, JICKLE, usadok1 người khác thích bài này.
  7. yetkieu

    yetkieu Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    19/01/2013
    Bài viết:
    2.105
    Đã được thích:
    659
    Tren nay co nhieu Chi si qua yeu nuoc ... Rat muon cai cach mang... Giong nhu nhung gi dien ra o thai gay hay ucrai do bac ... That su khong biet tui no yeu nuoc cai kieu gi
    hanhgl thích bài này.
  8. nguyen_saigon

    nguyen_saigon Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    25/04/2004
    Bài viết:
    27
    Đã được thích:
    8
    Hãy nghiền ngẫm mỗi câu họ đã nói, từng lời thơ họ đã ngâm, từng ý nhạc họ đã hát…
    trước công chúng hoặc ở chốn riêng tư…
    để thấy được sự thật thể hiện trong đó…

    Vì nó đã nói lên tất cả, nó chính là SỰ THẬT!

    Nhà văn Nga Alexandre Soljenitsym nói:

    "Khi thấy thằng CS nói láo, ta phải đứng lên nói nó nói láo.
    Nếu ta không có can đảm nói nó nói láo, ta phải đứng lên ra đi, không ở lại nghe nó nói láo.
    Nếu ta không can đảm bỏ đi, mà phải ngồi lại nghe, ta sẽ không nói lại, những lời nó đã nói láo với người khác."

    Đức Dalai Lama lãnh tụ tinh thần Phật giáo Tây Tạng nói :

    "Cộng Sản là loài cỏ dại, mọc trên hoang tàn của chiến tranh; là loài trùng độc, sinh sôi, nẩy nở trên rác rưởi của cuộc đời."

    Bà Thủ tướng Đức Angela Merkel nói:

    "Cộng Sản đã làm cho người dân trở thành gian dối."

    Bí thư đảng CS Nam Tư Milovan Djilas nói :

    "20 tuổi mà không theo CS, là không có trái tim; 40 tuổi mà không từ bỏ CS là không có cái đầu."

    Cố Tổng thống Nga Boris Yeltsin nói :

    "CS không thể nào sửa chửa, mà cần phải đào thải nó."

    Cựu Tổng thống Nga Putin nói :
    "Kẻ nào tin những gì CS nói là không có cái đầu.
    Kẻ nào làm theo lời của CS, là không có trái tim."

    Cựu TBT /ĐCS Liên sô Gorbachev phát biểu tại trường đại học Columbia ngày12/3/2002:
    "ĐCS mà tôi phục vụ cả đời chỉ biết tuyên truyền, cán bộ đảng chỉ biết điêu ngoa giả dối, chúng tôi trong đó có tôi từng nói tư bản đang đi tới sự hủy diệt trong khi chúng ta đang phát triển tốt, lẽ dĩ nhiên đó chỉ là những lối tuyên truyền, trong khi đó quốc gia chúng tôi đang bị bỏ rơi ở đàng sau".
    -Ông cũng đã nhiều lần nói :
    "Tôi đã bỏ một nửa cuộc đời cho lý tưởng CS. Ngày hôm nay tôi phải đau buồn mà nói rằng: Đảng CS chỉ biết tuyên truyền và dối trá."

    Lenin: -"Một lời lừa dối mà nói đi nói lại mãi sẽ trở thành sự thật."

    Cố Tổng thống Mỹ Ronald Reagan nói :
    "Chấm dứt chiến tranh VN, không đơn thuần là chỉ rút quân về nhà là xong. Vì lẽ cái giá phải trả cho loại Hòa Bình đó, là những năm tăm tối mà những thế hệ kế tiếp của VN phải gánh chịu!"

    Cố Tổng thống VNCH Nguyễn văn Thiệu nói :
    " Đừng nghe những gì Cộng Sản nói, mà hãy nhìn kỹ những gì Cộng Sản làm."
    Mao Trạch Đông: "Trí thức không bằng cục phân!".

    Hồ Chí Minh : "Trí, Phú, Địa, Hào đào tận gốc trốc tận rễ"!
    “Tôi có thể sai, nhưng bác Lenin, báo Mao không bao giờ sai”
    TT Ngô Đình Diệm :
    " Kháng chiến có công, Cộng Sản có tội. Cộng Sản cướp công kháng chiến! "

    Ngô Đình Nhu trước khi bị thảm sát chẳng bao lâu đã tiên đoán: “Nếu như Cộng sản Miền Bắc thôn tính được Miền Nam, thì việc Trung Hoa thôn tính Việt Nam chỉ còn là vấn đề thời gian.”

    Lê Duẩn, trong một bài học tập nội bộ: “Ta đánh Mỹ là đánh cho Liên Xô, đánh cho Trung Quốc, cho các nước xã hội chủ nghĩa...”(Vũ Thư Hiên -Đêm Giữa Ban Ngày do Văn Nghệ xuất bản, năm 1997 trang 422).

    Trường Chinh – Đặng Xuân Khu(Cựu Tổng Bí Thư **********************) : "Đảng Cộng Sản cướp chính quyền bằng bạo lực thì Đảng Cộng Sản sẽ giữ chính quyền bằng bạo lực".

    Trung tá Trần Anh Kim(đảng viên, cựu sĩ quan quân đội nhân dân):
    "31 năm qua tôi và cả triệu binh sĩ khác đã bị lừa, đã nhận diện bản chất thối nát của chế độ này. Họ luôn luôn nói một đàng làm một nẻo, hoàn toàn mị dân. Do đó tôi phải đấu tranh cho quyền lợi của dân tộc trong đó có tôi, ĐCSVN đã phản bội lại dân tộc, phản bội lại nhân dân".

    Ông Trần Bạch Đằng (
    nhà văn, nhà báo):
    "Rốt cuộc đảng trở thành cái chế độ giành nhau để có địa vị, có quyền lợi chớ không phải vì lý tưởng nào cả….Rốt cuộc tài năng là thằng nào nịnh giỏi, thằng nào bợ đít hay, dạ dạ vâng vâng thì thằng đó là tài năng".

    Ông Nguyễn Hữu Thọ (
    cựu chủ tịch MTGPMN, cựu ************* CHXHCNVN) gởi cho con lúc lâm chung:
    "Bài học thất bại trong cuộc đời làm cách mạng của cha là chọn lầm lý tưởng CS và CNCS, nhưng điều đáng lên án nhất là tính cách phục tùng đến hèn nhát của cha là đối với những mệnh lệnh phi nhân, bất nghĩa của tập đoàn lãnh tụ độc tài chuyên chính đã mất hết tình tự dân tộc".

    Trung tướng Trần Độ (cựu UVBCT, chủ nhiệm UB/VHTW) viết trong cuốn nhật ký Rồng Rắn:
    "Đảng nói thì dân chủ, vì dân, nhưng làm thì chuyên chính phát xít…. Chế độ này bắt mọi người phải đảng trị, họ đã thành hình một xã hội lừa dối, lãnh đạo lừa dối, cán bộ lừa dối, làm ăn giả dối, giáo dục giả dối, bằng cấp giả dối, đến gia đình cũng giả dối".
    -Ông cũng đã từng nói: “Nếu nhà tù Pháp thời xưa mà giống nhà tù cộng sản bây giờ thì bọn tớ chết lâu rồi, làm gì còn có người vượt ngục”.

    Nhà văn Dương Thu Hương
    trong quyển “THIÊN ĐƯỜNG MÙ”:
    “. . . triều đình Cộng sản là triều đình duy nhất cho tới nay, dạy cho con gái con dâu vu khống bố hiếp dâm, dạy con trai chỉ vào mặt bố "đả đảo thằng bóc lột", dạy cho láng giềng tố cáo điêu chác, đâm chém, dày xéo mồ mả của nhau...
    Khi con người đã đủ can đảm vu khống, nhục mạ ngay bố mẹ đẻ của mình thì họ thừa sự nhẫn tâm để làm những điều ác gấp ngàn lần như thế với tha nhân."
    .... bà viết: "Chế độ lưu manh, nên cách hành xử cũng lưu manh".
    ...“ở lứa tuổi 60, ông Hồ quan hệ và có hai con với một phụ nữ kém ông chừng 40 tuổi.” Người phụ nữ này sau đó bị giết, và “xác bị vứt ra đường, giả làm một tai nạn giao thông.”
    Về cái chết của Hồ Chí Minh: Bà viết rằng ông “tự ý dứt bỏ dây nhợ để chết vào đúng ngày kỷ niệm 2 tháng 9.” Bà gọi đó là “một hành động kiên cường sau cùng chống lại đảng cộng sản.”

    Luật Sư Lê Thị Công Nhân :
    -"Nhà nước của họ không hoàn hảo, chúng tôi chống lại những điều không hoàn hảo đó, thì chúng tôi đúng. Như thế nào gọi là 'tuyên truyền chống phá nhà nước CHXHCN Việt Nam'?".
    -"Vào trong tù, có một điều nữa tôi giác ngộ thấm thía là cộng sản chẳng sợ gì cả, họ chỉ sợ những lời nói thật".
    -“Đối mặt với chính quyền cộng sản Việt Nam là đối mặt với những con quỷ vẫn còn sống giữa loài người, chứ không như chủ nghĩa phát-xít là những bóng ma của thế giới. Con quỷ cộng sản là đỉnh cao của dối trá, xảo quyệt, tàn ác và đê tiện tới tận cùng”.

    Luật Sư Nguyễn Văn Đài: Một đảng chân chính không bao giờ bảo vệ quyền lãnh đạo của mình bằng quân đội, cảnh sát và nhà tù. Một đảng chân chính không bao giờ duy trì quyền lãnh đạo của mình bằng việc cấm các đảng chính trị khác ra đời và hoạt động.
    Nguyễn Khải, nhà văn Cộng Sản, trong quyển ĐI TÌM CÁI TÔI ĐÃ MẤT :
    "Nói dối …lem lém, nói dối …lì lợm, nói …không biết xấu hổ, không biết …run sợ. . .
    …nhân dân thì biết người cầm quyền đang nói dối, nhìn vào thực tiễn là biết ngay họ đang nói dối.
    Nhưng hãy mặc họ với những lời lẽ dối trá của họ, còn mình là dân chả nên hỏi lại nói thế là thật hay không thật (!) …….." (Xem đoạn 18)

    Nhà văn Trần mạnh Hảo:
    -“Mới thấy anh em giày xéo lên bản hiến pháp nước CHXHCNVN hơn cả voi giày mả tổ. Anh em tự nhiên như ruồi xông vào nhà người ta, khám xét, lục lọi, lấy đồ đạc y hệt như cướp ngày mà không có mảnh giấy của tòa án hay viện kiểm sát nào cho phép! Anh em an ninh ta hóa cướp hồi nào vậy?”

    Linh mục Phan văn Lợi:
    - “Chế độ này có 5 thứ độc quyền mà người dân không thể chấp nhận:
    - Đó là độc quyền về tư tưởng (chủ nghĩa Mác-Lê là hệ tư tưởng chính thống)
    - Độc quyền về chính trị (đảng CS là tổ chức lãnh đạo duy nhất)
    - Độc quyền về thông tin (mọi phương tiện truyền thông đều là công cụ của nhà nước )
    - Độc quyền về giáo dục (các tôn giáo với tính cách tôn giáo không được góp phần vào việc đào tạo các thế hệ trẻ từ cấp 1 đến đại học )
    - Và cuối cùng độc quyền về pháp luật (không có Tam Quyền Phân Lập như tại các nước dân chủ văn minh: tư pháp, lập pháp, hành pháp đều nằm trong tay đảng cộng sản)"

    Cựu đại tá QĐND Phạm quế Dương:
    - “Chứ bây giờ anh độc đảng, nắm quyền ăn cắp, ăn cướp như điên, không có lực lượng nào nói cả. Anh là người cầm quyền, anh là người ăn cắp và cuối cùng anh là người tự xử anh, thì làm sao khắc phục được.”

    Luật sư Trần Lâm:

    -“Là một người đã bao nhiêu năm trong ngành này, tôi thấy không thể cải tiến được. Vì cái gốc của nó là toàn trị, bây giờ nếu cải tiến, đi theo dân chủ làm sao còn toàn trị được nữa? Chính ông Phạm văn Đồng khi bàn về việc làm luật đã nói một câu rằng:“Nếu làm luật thì còn quản lý sao được, còn lãnh đạo làm sao được?”Cả ôngĐỗ Mười cũng nói thế:“Muốn làm luật thì làm sao cai trị được?” Hai cụ gọi là “ghê gớm” mà đã nói hai câu như thế, thì rõ ràng nếu làm luật pháp công minh thì làm sao còn toàn trị được…"

    Linh mục Chân Tín:

    -“Phải hủy bỏ hiến pháp 1992 vì nó vô giá trị, không phản ảnh ý muốn của toàn dân. Nó chỉ do sự độc quyền của đảng CSVN nặn ra và được các dân biểu được đảng chỉ định chấp thuận làm theo chỉ thị của đảng.”

    Bác sĩ Phạm hồng Sơn:
    -“Xét trong bản hiến pháp hiện nay tại Việt nam, điều 4 HP chính là cản trở cơ bản để thiết chế một chính thể dân chủ có thể được tạo lập. Đề nghị bỏ điều 4 HP hoặc luật hóa điều 4 HP đã được nhiều người đề cập từ nhiều năm qua, trong đó có nhiều đảng viên cao cấp.”

    Nhà văn Nguyễn xuân Nghĩa:
    -“Dù ai có nói ngã nói nghiêng, dù ai có muốn bỏ điều 4 HP gì đó thì không có chuyện đó. Bỏ cái đó đồng nghĩa với chúng ta tuyên bố: tự sát.”
    “Điều 4 này do quốc hội (mà nhiều người gọi rất chính xác là đảng hội) đưa vào hiến pháp như chấp nhận một sự tham nhũng quyền lực của đảng CSVN khi đảng tự nhận đại diện cho nhân dân Việt nam, tự giành quyền lãnh đạo đất nước vĩnh viễn, độc đảng, độc tài.”

    Nhà thơ Bùi chí Vịnhnói về câu nói của ông Lê Doãn Hợp:
    - “Bởi vì chế độ này là chế độ độc đảng chính quyền cai trị cho nên báo chí chỉ là một công cụ tuyên truyền của chế độ mà thôi…"
    Nhà sử học Hà Văn Thịnh,người đang giảng dậy môn Lịch sử tại Đại học Khoa học Huế nói : "…lịch sử VN hiện đại, chỉ có 30% sự thật., 70% gian manh giả dối. Đó là điều rất đau lòng…Hay như Lê Văn Tám ấy, châm lửa rồi chạy. Làm sao mà chạy được, 5m là gục xuống liền. Hay Tô Vĩnh Diện lấy thân chèn pháo. Khẩu pháo nặng hàng tấn, nó đè cho dập nát, chèn thế nào được. Sự dối trá đó làm sinh viên không thích sử nữa. Thấy sử là bịp bợm, chán quá! Tôi đã viết trên báo Lao Động năm 2005, “Lịch sử theo trang sách học trò”, tôi vạch rõ, dậy sử mà suốt ngày phải nói dối, điều đó đau lòng lắm."
    Tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ:
    -"Cái XHCN chỉ là con ngáo ộp lừa dối mà thôi, Chủ nghĩa xã hội chưa bao giờ là một hiện thực ở Việt nam bởi cho đến ngày hôm nay hệ tư tưởng ấy vẫn chỉ là “định hướng” như chính ban lãnh đạo cộng sản Việt nam thừa nhận.”
    Leszek Kolakowsi - triết gia Ba Lan (1927-2009) :
    Chủ nghĩa xã hội là gì?
    -Là nơi nhiều người đau khổ vì họ nói ra điều họ nghĩ còn những người khác lại đau khổ vì họ không nói.
    -Là nơi người ta khá lên nhờ họ biết khen ngợi lãnh đạo.
    -Là nơi mà các nhà lãnh đạo tự phong lẫn nhau.
    -Là nơi có nhiều công an hơn y tá và nhà tù có nhiều chỗ trống hơn bệnh viện.
    -Là nơi mà nói láo và ăn cắp là bình thường.
    -Là nơi sản xuất ra máy bay phản lực siêu phàm và những đôi giày quá tệ.
    -Là nơi mà những kẻ hèn nhát lại khá hơn những người can đảm.
    -Là nơi mà luật sư biện hộ thường đồng ý với công tố.
  9. cuongmta

    cuongmta Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    02/05/2011
    Bài viết:
    25
    Đã được thích:
    5
    Facebook của thầy em - là sĩ quan thông tin, đang đăng một seri hồi ký "những ngày này 35 năm trước". Bác nào quan tâm thì có thể ghé vào đọc ạ. Seri này tuy không ác liệt như hồi ký của các bác bộ binh, nhưng cũng cho ta một góc nhìn.
    https://www.facebook.com/nguyen.q.binh.3
    Gnuhlehcimm, zzsubmarinezzkarate_hn thích bài này.
  10. ttanh919

    ttanh919 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    14/09/2008
    Bài viết:
    518
    Đã được thích:
    148
    Con lậy bố, Putin nào nói câu đó hả bố, nguyên văn là "Ai không thương nhớ Liên xô, người ấy không có trái tim, ai muốn quay lại thời Liên xô, người ấy không có cái đầu."

    Bố láo bố toét nó vừa vừa thôi, các bạn tối ngày hô hào CS lừa dối mị dân này nọ mà bản thân mình cũng toàn xuyên tạc vẽ bậy vào lịch sử thì cũng *** có tư cách mà sủa người khác nhé.
    onelove114, halosun, JICKLE9 người khác thích bài này.

Chia sẻ trang này