1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Tâm lý học môi trường - Cũ mà lại mới -(Tiếp)

Chủ đề trong 'Tâm Lý Học' bởi Hoailong, 14/05/2011.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. Hoailong

    Hoailong Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    28/04/2004
    Bài viết:
    2.562
    Đã được thích:
    49
    Lịch sử loài người trong vòng 2 thế kỷ gần đây là quá trình đô thị hóa mạnh mẽ đi kèm với sự phát triển nhảy vọt của các fương tiện giao thông vận tải khiến MÔI TRƯỜNG cư trú của con người thay đổi rất lớn..
    Thành thị (hay đô thị)
    là những trung tâm dân cư hình thành trong quá trình thương mại hóa và công nghiệp hóa nền kinh tế xã hội.
    Cho đến nay, chưa có một định nghĩa nào thật hoàn chỉnh về khái niệm "thành thị" (hay đô thị), nhưng nói chung có thể nêu lên mấy đặc trưng: không gian nén chặt, mật độ dân số cao; có những liên hệ chặt chẽ về sản xuất, lao động, sinh hoạt, giải trí... để trở thành một chỉnh thể thống nhất; dân cư hoạt động phi nông nghiệp và chủ yếu là công nghiệp và dịch vụ...


    1 trong những nhánh học thuật TÂM LÝ HỌC MÔI TRƯỜNG mới fát triển gần nhất là TÂM LÝ HỌC ĐÔ THỊ hay thành thị
    Lần cập nhật cuối: 12/03/2014
  2. Hoailong

    Hoailong Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    28/04/2004
    Bài viết:
    2.562
    Đã được thích:
    49
    Trong khi ĐA SỐ các nhà TÂM LÝ HỌC MÔI TRƯỜNG & các học giả Phương Tây dựa nhiều vào các Quan điểm/ Tiếpcận về tiềm thức, sinh học thần kinh, sự học hỏi hay hành vi đối với Vật thể (MT Vật lý), thì Tại VN, 1 số đông HỌC GIẢ nhấn mạnh đến MT nhân văn và VĂN HÓA xã hội (phi Vật thể). Ng viết sẻ cố gắng Thu thập 1 số bài viết chủ yếu về đề tài này.
    Trước khi thực hiện việc này chúng ta hảy thư giản 1 tý để giãm Xì trét (Stress) qua 1 số Câu chuyện phiếm đầu năm NGỌ (NGỰA)

    Hình ảnh con ngựa trong tâm thức con người. 05/01/2014

    Trong số 12 con vật được chọn làm 12 con Giáp, biểu tượng cho CÁC BIẾN CHUYỂN MT THỜI GIAN năm tháng và tuổi tác của con Người ở đời, Ngựa là một động vật gần gũi nhất. Không những con Người tự hào về tuổi Ngựa: "Người ta tuổi Ngọ, tuổi Mùi- Riêng tôi cứ mãi ngậm ngùi tuổi Thân", mà còn mượn hình ảnh, tính nết Ngựa để diễn đạt, biểu hiện những tình cảm của mình.
    Ngựa như một ngôn ngữ và như một biểu tượng

    Ngựa là một trong những mẫu gốc cơ bản mà loài người đã ghi sâu vào trong ký ức của mình. Ý nghĩa biểu tượng của nó bao trùm cả hai cực- thấp nhất và cao nhất của CÁC BIẾN CHUYỂN MT THỜI GIAN năm tháng và tuổi tác của con Người ở đời, và vì thế là phổ quát thực thụ.

    Theo Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới(Nxb. Đà Nẵng, 1997), ngựa gắn với tín ngưỡng và hình ảnh này "đã ăn sâu vào ký ức tất cả các dân tộc từ thời nguyên thủy". Trải qua một quá trình phát triển lịch sử văn hóa lâu dài, hình ảnh ngựa ngày càng được bồi đắp những lớp ý nghĩa mới. Nhắc đến hình ảnh ngựa, người ta thấy xuất hiện một mạng lưới ý nghĩa rất khó bóc tách, rằng đâu là sản phẩm của trí tưởng tượng, của tín ngưỡng tâm linh, khoa học, truyền thuyết, huyền thoại, đâu là ý nghĩa nguyên gốc… Từ lâu, ngựa đã sống một đời sống phong phú, tinh tế của nó trong các sáng tác nghệ thuật; chỉ tính riêng các sáng tác văn học, từ văn học dân gian đến văn học viết hiên đại cũng thấy có ngàn lẻ hình ảnh ngựa. Ngựa gắn với sự sáng tạo những giá trị văn hóa tinh thần của con người từ buổi bình minh. Có thể nhận diện được nền văn minh châu Á cổ sơ qua một số nghi lễ saman giáo, nhất là tục hiến tế ngựa.
    "Thảo nguyên Trung Á, quê hương của những người cưỡi ngựa và những thầy pháp Saman, còn lưu giữ trong các truyền thuyết văn học của mình hình ảnh của con ngựa cõi âm ty, mà những khả năng bí ẩn của nó bổ sung cho những khả năng của con người, ở nơi mà chúng bị chặn lại, tức là trước ngưỡng cửa của cái chết. Có con mắt thấu thị, quen thuộc với bóng tối, con ngựa thực hành chức năng dẫn đường và nói thay, hay nói bằng một từ, dẫn dắt linh hồn. Bài ca sử thi Er-Toshtuk của người Kirghiz (Kiêcghidi) về phương diện này thật là có ý nghĩa (Boka). Để tìm lại linh hồn bị một thuật sĩ đánh cắp, người anh hùng Toshtruk, dù anh dũng đến đâu, cũng phải bằng cách nào đó từ bỏ nhân cách của mình để phó thác cho những năng lực siêu phàm của con ngựa thần Tchal-Kouirouk, con ngựa này đã giúp anh ta xâm nhập được vào thế giới dưới đất và nơi ấy tháo gỡ những cạm bẫy. Tchal-Lourirouk, một Bayard của châu Á, hiểu và nói như người; bắt đầu chuyến đi huyền thoại này, nó báo trước cho chủ nó về cuộc đổi thay các năng lực sẽ phải diễn ra…

    Hình tượng những con ngựa của thần chết, báo trước cái chết đầy rẫy trong toàn bộ folklore châu Âu, từ Hy Lạp cổ đại đến thời trung đại. Ngay người Hy lạp, theo một dị bản huyền thoại về chiếc chìa khóa giải các chiêm mộng- một tác phẩm của Artémidore- đã quan niệm rằng nằm mơ thấy ngựa là dấu hiệu sắp chết ở người mắc bệnh (Jead, 284). Ở vùng Arcadie nữ thần Déméter thường được hình dung có đầu ngựa và được đồng nhất hóa với một trong những Erinnyes, những nhân vật khủng khiếp thi hành công lý nơi âm phủ. Nữ thần này đã sinh ra, cùng với Poséidon, một con ngựa khác là Areion, vật cưỡi của Héralès." (Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới, tr.656)

    Ngựa không chỉ là một ngôn ngữ dùng để miêu tả thân thể, hình thể, mà còn là một ngôn ngữ nói. Ngôn-ngữ-ngựa (có để gọi như thế để phân biệt với vị trí, vai trò của các ngôn ngữ động vật khác) không chỉ nói về thế giới bên ngoài, thế giới khách quan, trần thế, mà còn dùng để nói về thế giới tâm hồn, tâm linh, thế giới siêu nhiên.

    Ngựa như một ngôn ngữ: chúng ta nói với nhau bằng "ngôn-ngữ -ngựa"

    Ngựa hiện diện trong đời sống hằng ngày, gắn bó chặt chẽ với con người, xưa nay nó vẫn được xem là một thứ động vật có tình cảm, tình nghĩa với con người. Nhưng trên thực tế, ngựa cũng đã trở thành một ngôn ngữ. Con người chúng ta đã nói với nhau, về nhau bằng "ngôn-ngữ-ngựa": khi vui, hy vọng lẫn khi buồn đau cô độc, trong những chuyến đi xa lẫn khi trở về, trên chiến trận và khi thời bình,… ngựa đều gắn bó, đi liền với con người, biểu đạt ý chí, ý nguyện, cảnh ngộ, tình cảm, tính cách, quyết định của mỗi người.

    (còn tiếp)
  3. Hoailong

    Hoailong Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    28/04/2004
    Bài viết:
    2.562
    Đã được thích:
    49
    (tiếp THEO)

    Chúng ta không chỉ nói với nhau bằng ngôn ngữ-văn tự mà nói với nhau bằng ngôn ngữ hình ảnh, bằng các ẩn dụ, các BIỂU TƯỢNG, các ký hiệu. Chúng ta đã nói, đã đọc và đã diễn giải về ngựa như một ngôn ngữ đặc biệt của chính chúng ta. Hơn thế, đọc nó như một văn bản, đọc thấy ở nó những thông tin, tin tức, ý nghĩa khác nhau… Việc con người nói với nhau bằng "ngôn- ngữ-động vật" đích thị là một sản phẩm bậc cao của văn hóa.

    Ngựa là một BIỂU TƯỢNG phức tạp bậc nhất trong nền văn hóa nhân loại: chúng ta xem ngựa như một biểu hiện của chính bản thân mình

    Ngựa như một ngôn ngữ, mà ngôn ngữ là một hệ thống ký hiệu, bởi vậy có thể xem ngựa là một kí hiệu. Ở hình ảnh độc đáo này tồn tại những ý nghĩa BIỂU TƯỢNG trái ngược nhau (nước/lửa, sống/chết, thành công/thất bại….).

    Ở Trung Quốc, trong truyền thuyết xa xưa, có kể lại rằng, vào đời Phục Hy, trên sông Hoàng Hà từng xuất hiện một con Long - Mã, trên mình con vật này có bức hà đồ, vua Phục Hy thấy vậy bắt chước viết thành Bát quái Tiên thiên. Cái hà đồ, hay còn gọi là mã đồ trên mình Long mã ấy, chính là một BIỂU TƯỢNG khác về lời, về ngôn ngữ biểu đạt, ngôn ngữ kí hiệu, tượng trưng của con người.

    Vẫn theo các tác giả Từ điển BIỂU TƯỢNG văn hóa thế giới, nhìn chung BIỂU TƯỢNG ngựa có những ý nghĩa sau:

    - Ngựa là một hình tượng âm tính. Ý nghĩa gốc của ngựa là tượng trưng cho "bóng tối âm ty", ma lực. Ngựa được xem như "là con đẻ của bóng đêm và cái huyền bí".

    - Ngựa vừa tượng trưng cho sự sống vừa tượng trưng cho cái chết, nó có mối liên hệ với lửa và nước, tượng trưng cho sức mạnh phá hủy đồng thời cũng BIỂU TƯỢNG cho chiến thắng.

    - Ngựa tượng trưng cho bóng tối, âm giới, sự lầm lạc, song cũng biểu trưng cho ánh sáng, mặt trời, thiên giới, dương tính. "Con thiên mã màu trắng biểu thị cho bản năng đã được kiểm soát, được làm chủ, được thăng hoa"
  4. Hoailong

    Hoailong Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    28/04/2004
    Bài viết:
    2.562
    Đã được thích:
    49
    Trước khi tiếp tục bàn về Năm Ngựa' Chúng ta hảy thảo luận qua về Khái Niệm
    Tiếp cận VĂN HÓA trong tâm lý học
    theo nhà nghiên cứu Lê Đức Phúc thì:

    1. Về khái niệm “tiếp cận” (Approach, tiếng Anh)

    Nếu đọc sách báo tâm lý học ở Việt Nam, người ta sẽ bắt gặp những cách diễn đạt phổ biến như “phương pháp tiếp cận lịch sử”, “phương pháp tiếp cận hoạt động – nhân cách”, “phương pháp tiếp cận giá trị”, “phương pháp tiếp cận hoạt động – giá trị - nhân cách”. Trong từ điển tiếng Việt, tiếp cận được định nghĩa là “từng bước, bằng những phương pháp nhất định, tìm hiểu một đối tượng nghiên cứu nào đó” (1).

    ; ; ; Thực ra, tiếp cận không phải là phương pháp. Đó là cách nhìn, cách thức nghiên cứu, xem xét, tìm hiểu vấn đề theo một quan điểm hay từ một giác độ nào đó. Cách tiếp cận xuyên VĂN HÓA (cross – cultural approach) trong nhân học VĂN HÓA và tâm lý học VĂN HÓA, hay cách tiếp cận liên ngành, không chỉ từ bình diện triết học, đối với các vấn đề của nhận thức luận là hai trong nhiều ví dụ về khái niệm có ý nghĩa phương pháp luận hơn là phương pháp, kỹ thuật này.

    *
    2. Tiếp cận VĂN HÓA

    Theo suy nghĩ chung, VĂN HÓA thường được hiểu là những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo nên. Nhưng, đã có hàng trăm định nghĩa khác nhau do cả cách nhìn và chủ ý nhấn mạnh một khía cạnh nào đó tạo nên, gắn với những tên tuổi như M.T. Cicero, J.G.Herder, A. Adler, L. White, R.Benedict, E. Herriot, M. Herskovits, A. Schweitzer, Jac- Hyeon Choe.v.v… VĂN HÓA có thể được xác định là phức hợp tâm lý chỉnh thể, được hình thành và phát triển cao độ trong hoạt động của cá nhân, phản ánh dấu ấn của một cộng đồng và là một nhân tố quan trọng bậc nhất của sự phát triển toàn diện nhân cách con người.

    Chính vì tầm quan trọng đó của VĂN HÓA nên từ lâu, các nhà tâm lý học đã nghiên cứu đối tượng của mình theo tinh thần tiếp cận VĂN HÓA. Trên lĩnh vực tâm lý học các dân tộc (Voelkerpsychologie), W. Wundt nhấn mạnh sự tham gia của cá nhân vào việc tạo ra giá trị VĂN HÓA chung là Volksgeist (tinh thần của nhân dân). Với “Lý giải giấc mơ” (1990) và nhất là “Totem und Tabu” (Vật tổ và cấm kỵ), S.Freud không chỉ lưu ý các nhà phân tâm học chú ý tới các chuẩn mực xã hội, quá trình xã hội hoá, mà còn cho rằng con người bắt đầu có năng lực VĂN HÓA khi tình cảm ăn năn, hối hận đã dẫn đến điều cấm loạn luân (Inzerttabu) và cấm ăn thịt động vật được coi là vật tổ (Totemtier). Các nhà tâm lý học nhóm, tâm lý học nhân văn, tâm lý học so sánh VĂN HÓA… cũng đều góp phần làm sáng tỏ, cách tiếp cận VĂN HÓA, cho dù còn bộc lộc những điều cần trao đổi hoặc phê phán nào đó.

    Cho đến nay, các nhà tâm lý học đã đề cập tới nhiều cách tiếp cận khác nhau mà theo tôi, có thể khái quát thành các nhóm chung và riêng dưới đây:

    1. Tiếp cận theo quan điểm tiến hoá và phát triển dẫn đến việc nghiên cứu VĂN HÓA cũng như ảnh hưởng của nó theo hai tuyến liên quan với nhau là bổ dọc và cắt ngang. Đồng thời, khi tiến hành, người ta phải chú ý đến bốn cấp độ: phát sinh chủng loại, phát sinh người, phát sinh cá thể, phát sinh thực tại.

    2. Tiếp cận theo tinh thần của tâm lý học VĂN HÓA, xuất phát từ mối quan hệ tương tác giữa tâm lý và VĂN HÓA. Theo đó, có những cách tiếp cận như: Tiếp cận xuyên VĂN HÓA, tiếp cận so sánh VĂN HÓA, tiếp cận liên VĂN HÓA.

    3. Tuỳ theo vấn đề, mục đích và điều kiện, những cách tiếp cận nói trên lại được xử lý, cụ thể hoá cho phù hợp. Ví dụ, S. Moscovicis khi nghiên cứu các BIỂU TƯỢNG xã hội đã sử dụng cách phân tích bộ phận”VĂN HÓA khách quan” là các phương tiện thông tin đại chúng để tìm ra hạt nhân đặc trưng cho VĂN HÓA của các BIỂU TƯỢNG xã hội, cơ sở bổ sung cho những số liệu điều tra ở các cá nhân về “VĂN HÓA chủ quan”. Hoặc khi nghiên cứu nhân cách, cách tiếp cận nhân văn như của Carl Rogers đã tập trung hơn vào những sự kiện VĂN HÓA, xã hội thời hiện đại, so với các cách tiếp cận khác chỉ nhấn mạnh đến vai trò của xung năng (Trieb) hay của những tác động thời thơ ấu (Ví dụ, Basic Personality)…

    3. Tiếp cận VĂN HÓA trong toàn cầu hoá

    Toàn cầu hoá đem lại nhiều thuận lợi bao nhiêu thì cũng đã và đang đặt ra nhiều thách thức bấy nhiêu. Về hoạt động của một trường đại học và đào tạo trên lĩnh vực tâm lý học, ở đây, tôi chỉ tập trung bàn về những yêu cầu mới đối với việc hội nhập theo tinh thần tạo ra những điều kiện, khả năng thích ứng ngày một cao hơn.

    Trích : *http://www.vjol.info/index.php/TLH/article/viewArticle/5663
    Tiếp cận văn hoá trong tâm lý học
    Lê Đức Phúc

    Tóm tắt

    Bài này được viết xuất phát từ một quan điểm chung nhất là sự hình thành và phát triển tâm lý bao giờ cũng là kết quả của những sự tương tác giữa gien, văn hóa và môi trường hoạt động, trải nghiệm của con người. Do phạm vi có giới hạn, tác giả chỉ đề cập đến một số đặc điểm cơ bản cấp thIết của "tiếp cận văn hóa"

    Toàn văn: PDF



    Lần cập nhật cuối: 04/03/2014
  5. Hoailong

    Hoailong Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    28/04/2004
    Bài viết:
    2.562
    Đã được thích:
    49
    Có nhiều Phương pháp Tiếp cận văn hoá trong tâm lý học
    Trong Các Phương pháp Tiếp cận, Phương pháp tiếp cận Hệ Thống Phức hợp (Complex êmergent system Approach) dược đánh giá là cách tiếp cận phù hợp nhất hiện nay

    Phương pháp tiếp cận Hệ Thống này gồm 2 thể loại :

    -1 thể ứng về phương diện lý thuyết & thể dụng về mặt thực hành còn gọi theo tiếng Anh là ;
    Multi criteria Complex emergent system Approach

    Lần cập nhật cuối: 18/03/2014
  6. Hoailong

    Hoailong Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    28/04/2004
    Bài viết:
    2.562
    Đã được thích:
    49
    Bàn về ký niệm; ký hiệu & phạm trù BIỂU TƯỢNG; theo Phương pháp Tiếp cận văn hoá trong tâm lý học.

    sánh cùng ý niêm; ý nghia; khái niệm, tương niệm, ẫn dụ; hoán dụ trong ngôn ngữ - văn học &
    sau cùng là cổ ngữ, huyền thoại & TRUYền thuyết (thần thoại), cổ mẫu (Archetype), BIỂU TƯỢNG trong Tâm lý học chiều sâu (C G. Jung)
    Lần cập nhật cuối: 14/04/2014
  7. Hoailong

    Hoailong Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    28/04/2004
    Bài viết:
    2.562
    Đã được thích:
    49
    *
    Phương pháp tiếp cận Hệ Thống Phức hợp (Complex êmergent system Approach) là 1 thể ứng về phương diện lý thuyết.

    Tuy nhiên 1 số học giả VN tiến xa hơn với đề xuất:
    theo hướng tiếp cận hệ thống, phức hợp, tiến hóa biện chứng theo nghia~ tiếng Anh là:
    "Complex DIALECTIC EVOLUTIONARY system Approach" theo
    - Tô Duy Hợp TRONG 2 BàI tham luận hội thảo về “Minh Triết – giá trị văn hóa nhân loại đang phục hưng”, bao gồm “Đi tìm định nghĩa khái niệm Minh Triết” và bài thứ 2, “Bàn về thực chất và đặc điểm biến đổi Minh Triết”

    *
    Riêng về mặt thực hành ( thể dụng) Phương pháp tiếp cận này còn có tên gọi theo tiếng Anh là ;
    Multi criteria Complex emergent system Approãch tạm dịch
    tiếp cận Hệ Thống Phức hợp (hợp trội) đa tiêu chí

  8. Hoailong

    Hoailong Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    28/04/2004
    Bài viết:
    2.562
    Đã được thích:
    49
    Dưới đây là các định nghĩa cần thiết cho việc sử dụng tư duy hệ thống đích thực.

    ĐỊNH NGHĨA: HỆ THỐNG VÀ TƯ DUY HỆ THỐNG

    ➥ Hệ thống – Một tập hợp của các thành phần làm việc cùng nhau vì toàn bộ mục tiêu của toàn thể.

    ➥ Tư duy hệ thống – Một cách nhìn nhận mới mẻ và dựng lên mô hình trong tâm mình (mentally frame) những gì chúng ta thấy trên thế giới; một thế giới quan và cách suy nghĩ mà theo đó chúng ta thấy các thực thể hay đơn vị lần đầu tiên như một toàn thể, cùng sự điều chỉnh và mối quan hệ của nó với môi trường như là các mối quan tâm hàng đầu.

    Trong định nghĩa trên, mối quan hệ giữa tư duy hệ thống và lý thuyết hệ thống tổng quát là quá rõ rệt. Đã có điều gì xẩy đến với lý thuyết này? Nó chưa bao giờ trở nên phổ biến trong nhận thức chung của cộng đồng (mainstream consciousness), và do đó trở thành một nghệ thuật bị thất truyền — ít nhất là cho đến bây giờ.

    Nguồn: Stephen G. Haines, Manager’s Pocket Guide to Systems Thinking and Learning
  9. Hoailong

    Hoailong Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    28/04/2004
    Bài viết:
    2.562
    Đã được thích:
    49
  10. Hoailong

    Hoailong Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    28/04/2004
    Bài viết:
    2.562
    Đã được thích:
    49
    Những mẫu chuyện về Ngôn ngữ và Văn hóa Môi trường
    Môi trường văn hóa và ngôn ngữ có liên hệ chặt chẽ, không thể tách rời. Ngôn ngữ là phương tiện chuyên chở văn hóa và văn hóa chứa đựng trong ngôn ngữ. Người ta đã nói rằng ngôn ngữ và văn tự là kết tinh của văn hóa dân tộc, nhờ ngôn ngữ và văn tự để được lưu truyền và trong tương lai, nền văn hóa cũng nhờ vào ngôn ngữ để phát triển. Sự biến đổi và phát triển ngôn ngữ lại luôn luôn đi song song với biến đổi và phát triển văn hóa. Vậy muốn nghiên cứu sâu về văn hóa phải nghiên cứu ngôn ngữ, và tất nhiên muốn đi sâu vào ngôn ngữ phải chú tâm đến văn hóa. Điều đó được thể hiện rõ ràng trong trường hợp tiếp xúc giao thiệp văn hóa mà hai bên (khác dân tộc, khác quốc gia) có bối cảnh văn hóa khác nhau.


    Thông thường thì trình độ sử dụng một ngôn ngữ như một ngoại ngữ (khả năng nghe, nói, đọc và viết, mà nghe là quan trọng nhất) được quyết định bằng hai yếu tố: sự am hiểu về ngôn ngữ đó và sự hiểu biết về kiến thức văn hóa trong bối cảnh của ngôn ngữ đó. Khi một người đã nắm được đầy đủ những kiến thức ngôn ngữ mà vẫn không giải thích thỏa đáng được ngoại ngữ là vì họ không có đủ kiến thức về bối cảnh của ngôn ngữ đó. Do sự khác biệt về óc thẩm mỹ, cách suy tư, quan niệm GIÁ TRỊ, đặc trưng tâm lý và tập quán của từng dân tộc, cách giải thích và diễn đạt cùng một sự vật cũng sẽ khác nhau. Cho nên có khó khăn hoặc có khi dẫn tới sự hiểu lầm trong tiếp xúc là lẽ đương nhiên.

    Chúng tôi xin nêu một số trường hợp đáng chú ý sau đây:

    CÁCH THỨC ĐỐI THOẠI

    1. Chào hỏi.

    Người Việt Nam và người Á đông có thói quen (thói quen, tập quán là văn hóa) chào nhau bằng cách hỏi: Ông ăn cơm chưa? Bác đi đâu đấy? Bà đang làm gì đấy? Hỏi mà không cần nghe câu trả lời, đó chỉ là cách thức chào, không phải thật sự muốn biết người được hỏi ăn cơm chưa; đi đâu; hay đang làm gì. Khi trả lời, người ta có thể đáp lại một cách không đích xác, hoặc không trả lời. Nếu dịch những câu hỏi trên sang tiếng Anh, tiếng Pháp thì sẽ là những câu hỏi rõ ràng, cần phải trả lời. Nếu chúng ta chào hỏi người Pháp người Mỹ những câu như thế có thể có sự hiểu lầm, vì họ chào nhau bằng những câu như: Bon soir, Good morning... Trái lại với chúng ta khi muốn chào như thế, chúng ta không cần phải nói rõ là chào buổi chiều, hay chào buổi tối.

    2. Làm quen.

    Người Việt Nam và người Á Đông có thói quen ưa tìm hiểu quan sát và đánh giá người mình tiếp xúc. Tuổi tác, quê quán, trình độ văn hóa, địa vị xã hội, mức thu nhập cá nhân, tình trạng gia đình. (Bố mẹ còn hay mất, đã lập gia đình chưa, đã có con chưa, mấy trai mấy gái. Nhũng câu hỏi về biography và background cho người đối diện luôn là những điều chúng ta quan tâm và đặt câu hỏi). Chúng ta hỏi những điều đó là xuất phát từ óc cộng đồng, tự thấy có trách nhiệm phải chú ý đến người khác, cần biết rõ người đối thoại. Nhưng thói quen ưa tìm hiểu này hoàn tòan trái ngược với người Tây phương. Người Âu Mỹ đề cao chuyện riêng tư của con người, coi như bất khả xâm phạm, nhất là về lương bổng và tuổi tác phụ nữ. Ở Mỹ, ngay cả trong mẫu đơn xin việc và trong các cuộc phỏng vấn nhận nhân viên, công nhân, không có quyền hỏi người đứng đơn về tình trạng gia đình. Người Tây phương khi làm quen thường khen nhau trẻ, đẹp, quần áo hợp thời trang, hoặc nói về thời tiết, hay bàn về trận đấu thể thao vừa qua. Nếu cứ hỏi người Tây phương về chuyện riêng của họ, họ cho mình là tò mò, hay dò tìm những điều bí ẩn của người khác và có thể họ sẽ chán nản, tức giận.

    3. Lời khen hay lời chê.

    Khoảng 30, 40 năm trở lại đây, phụ nữ Âu Mỹ rất sợ béo mập, vì béo mập là hình dáng không đẹp, lại là mầm mống của nhiều thứ bệnh. Trong khi người Á đông khen: béo tốt, tốt tướng, lên cân, bệ vệ thì người được khen hài lòng. Ngược lại khen như thế lại là lời sỉ mạ người được khen! Người Việt và người Trung Hoa có thói quen nói lớn tiếng ngoài đường phố, nơi công cộng. Trong khi đó người Âu, Mỹ thường nói chuyện vừa đủ nghe, tôn trọng bầu không khí yên tĩnh, tôn trọng người khác. Người Á đông vào những trường hợp ông, bà, cha, mẹ nhận quà tặng của con cháu, nhận lời chúc mừng, nhận lời khen tặng, không cần phải cảm ơn. Các vị đó xem như con cháu có bổn phận phải làm như thế.

    Người Việt, có khi khen thật lòng, có khi lại khen mỉa mai, khen mà là chê. Ví dụ có người hỏi: Cô ấy, bà ấy đẹp nhỉ, người đối thoại sẽ trả lời: Đẹp? Đẹp thật à? À, đẹp thật, đẹp chín nghìn! Hoặc dùng ca dao: Đẹp như con tép kho tương! Trái lại khi khen một đứa bé bụ bẫm thì dùng hình thức chê, vì e sợ mụ quở, sợ ma quỷ bắt đứa bé đi: "Ấy cháu nó xấu xí lắm, nó hư lắm." Có nghĩa là cháu nó bụ sữa lắm! Cháu nó ngoan lắm! Nếu dịch lời chê rồi giải nghĩa cho người Âu Mỹ hiểu đó là lời khen thì họ phải cố hiểu mới hiểu nổi.

    4. Cách xưng hô.

    Trong một ngôn ngữ, cách xưng hô luôn luôn biểu lộ đặc trưng tâm lý, nếp suy tư và văn hóa của dân tộc đó. Trong tiếng Việt cách xưng hô rất phong phú và phức tạp. Ngoài các đại từ nhân xưng như: tôi tao, tớ, mày, nó, hắn; chúng tôi, chúng tao, chúng tớ, chúng nó, bọn hắn còn có một số lượng lớn các danh từ chỉ liên hệ họ hàng như: anh - em, bà - cháu, chú - cháu... để thay thế cho đại từ nhân xưng và những danh từ này có xu hướng lấn át các đại từ nhân xưng. Hệ thống xưng hô này nói lên đặc điểm của văn hóa Việt Nam. Chúng được ứng dụng tùy theo tình cảm của người phát biểu và trường hợp cụ thể khi nói chuyện. Cùng tiếp xúc một người, người ta có thể dùng những cặp từ xưng hô khác nhau như: anh - em, anh - tôi, ông - tôi, mày - tao tùy theo từng trường hợp. Trái lại trong ngôn ngữ Tây phương và cách nói phổ thông của Trung Hoa chỉ sử dụng các đại từ nhân xưng như: I, you, he, she, Hán ngữ thì ngã, nhĩ (ngổ, nỉ).

    Nếu so sánh các danh từ chỉ liên hệ họ hàng trong các ngôn ngữ, chúng ta sẽ thấy nhiều điểm khác nhau có khi thú vị, khôi hài và kỳ lạ. Ví dụ trong tiếng Việt cháu (trai, gái) chỉ người thế hệ sau, nhưng không phải là con, gồm: con của con, con của anh, chị và em. Trong tiếng Anh cũng có grand child, nephew và niece. Nhưng nếu dạy tiếng Việt cho người Anh, Mỹ thì cháu lại có thể là con, có thể là tôi nữa. Ví dụ hỏi một thanh niên: Anh đã có cháu nào chưa? Hay nói: Thưa các cụ, cháu không dám ạ! Như vậy cách xưng hô nói lên những đặc trưng bối cảnh văn hóa xã hội của từng ngôn ngữ, cần được nghiên cứu bằng kết hợp văn hóa và ngôn ngữ.

    5. Lối khiêm tốn (nhún nhường).

    Khiêm tốn là một đức tính, nhưng mỗi dân tộc thường có cách thức riêng để tỏ ý khiêm nhường. Người Việt Nam và Á đông thường tỏ ý khiêm tốn bằng cách tự khiêm, là tự hạ mình xuống. Ví dụ trong một cuộc họp, người Á đông thường mở đầu bằng mấy câu như sau: "Trình độ của tôi không bằng ai, tôi chưa chuẩn bị kỹ, nếu có chỗ nào tôi sơ xuất thì mong quý vị thông cảm và bổ túc cho" Nói như thế là lịch sự. Nhưng người Tây phương sẽ không hài lòng và phản ứng: nếu trình độ yếu, chưa chuẩn bị kỹ thì nói làm gì?" Họ không hiểu rằng khi nói thế chỉ là cách nhún mình thôi, thật ra người ấy rất giỏi, và chuẩn bị hết sức kỹ càng. Người Á Đông không bao giờ tự khen mình tự tâng bốc mình, e bị chê cười. Trái lại người Tây phương cho rằng chúng ta thiếu tự tin, và tự tin không có nghĩa là tự khoe khoang. Khi tặng quà, người Việt thường muốn giảm GIÁ TRỊ món quà, dù món quà đó họ đã bỏ ra nhiều công sức tiền bạc mới mua được. Họ chỉ nói "Đây là chút quà mọn chẳng đáng gì bao nhiêu". Nói thế để người nhận quà yên lòng. Người Âu Mỹ thì trái lại. Khi tặng quà họ thường nói rõ: Món quà này tôi đã có chủ ý đi mua cho bằng được, hoặc là:" Đây là hàng nổi tiếng, hiếm có". Người phương Tây cho rằng nói thế mới tỏ lòng chân thành.

    Lối tự khiêm còn thể hiện ngay trong cách sử dụng ngôn ngữ. Vi dụ: "Ông lại chơi nhà chúng tôi; Ông cho tôi món quà" nhưng lại nói để nâng cao giá trị người đối thoại: "Tôi xin lại thăm ông bà"; "Tôi xin biếu ông bà món quà mọn".

    SỬ DỤNG CÁC TỪ NGỮ VĂN HÓA TRONG GIAO THIỆP

    Từ ngữ văn hóa có ý nghĩa văn hóa xã hội. Ý nghĩa văn hóa xã hội là chỉ nghĩa bóng, ẩn dụ, tượng trưng, biểu cảm.

    1. Từ ngữ tượng trưng.

    Đó là các từ ngữ có hàm nghĩa tựng trưng văn hóa, ngoài chức việc định danh ra, các từ ngữ gợi lên một sự liên tưởng nào đó. Ví dụ trong tiếng Việt, từ "con rồng" ngoài chức năng định danh là chỉ một con vật tưởng tượng ra, là biểu tượng của nhà vua thời xưa và tượng trưng của dân tộc Việt. Người Việt thường tự nhận là con rồng cháu tiên. Người Trung Hoa cũng thường nhận là con cháu của Rồng. Nhưng trong các tiếng Tây phương, Dragon (rồng) lại không có nghĩa đẹp như vậy. Đó chỉ là con vật huyền thoại rất hung ác, luôn luôn làm hại con người. Bởi thế người Tây phương không hiểu tại sao tại sao người Việt, người Trung Hoa lại sùng bái một con ác thú như thế!

    Trong Hán ngữ "con bò vàng già" (lão hoàng ngưu) là chỉ tượng trưng những người làm việc cần cù, có góp công sức lớn lao và không bao giờ khoe khoang, là một danh hiệu rất quý Nhưng trong tiếng Việt, con bò là một biểu tượng cho ngu đần. Người ta nói: ngu như bò, đầu bò đầu bướu (bướng bỉnh, ngang ngạnh) con bò vàng già chỉ là người già yếu chậm chạp ngu dốt. Trong khi đó để chỉ người kém thông minh, người Mỹ nói: óc nó nhỏ như hạt đậu (bean).

    Ngôn ngữ Việt, tiếng lóng “dê” có nghĩa không đẹp, dùng để chỉ đàn ông đa dâm: nó có máu dê, nó là dê cụ, dê xồm? Nhưng trong Hán ngữ thì dê và cừu là hình ảnh dịu hiền, rất dễ thương. Ngoài ra vì đồng âm với dương (trái với Âm) và cùng vần với chữ may mắn, nên người Trung Hoa xem con dê và cừu là tượng trưng cho may mắn.

    Người Việt và Trung Hoa cho con chim khách là biểu tượng cho điềm lành, tin rằng nó đem đến tin vui. Người Âu Tây hình ảnh chim khách không quý báu gì, ở nước Nga người ta cho loại chim này là tượng trưng cho kẻ đâm bị thóc, chọc bị gạo và kẻ trộm.

    2. Hình thức tôn kính.

    Ở Á Đông như Nhật, Cao Ly và Tây Tạng có hình thức nói và viết tôn kính đối với những bậc tu hành, lãnh đạo... Hình thức này được biến cải ngay vào trong ngôn ngữ. Ở Việt Nam và Trung Hoa không có lối viết như thế, nhưng dùng những từ đặt thêm vào để bày tỏ lòng quý trọng tôn kính. Ví dụ tiên sinh, tiền bôí; ông anh, đàn anh. Riêng Việt Nam có những có những chữ không dịch ra tiếng Anh, tiếng Pháp được, để bày tỏ kính trọng người hơn mình về tuổi tác, học vấn, tư tưởng... Đó là "thưa, trình, bẩm" ở đầu câu và "ạ" ở cuối câu. Người Mỹ chỉ có từ Sir và Madam đặt ở cuối hoặc đầu câu để bày tỏ sự tôn kính thôi.

    3. Con số.

    Ngôn ngữ nào cũng phải có số đếm, nhưng có vài con số có những hàm nghĩa đặc biệt. Chính con số không có gì thần bí, nhưng từ chỗ sùng bái linh vật về ngôn ngữ, người ta đi đến sùng bái về con số. Người ta cho rằng có những số lành, may mắn, có những số dữ, xui xẻo.

    Ví dụ ở các nước phương Tây, số 13 bị coi là số xấu, người ta luôn luôn kiêng và cố lẩn tránh con số này. Ở các nhà lầu, ngườii ta không lấy số 13, các bệnh viện và giường bệnh số 13. Trên máy bay xe lửa và ở mỗi hàng ghế đều không có ghế số 13. Người ta tiến hành những việc quan trọng cũng cố tránh ngày 13. Nhưng ở Việt Nam và Trung Hoa lại không tin như thế. Một vài tỉnh ở Trung Quốc người ta cho các số 3, 6, 9 là số đẹp, chọn những ngày 3, 6, 9, 13, 16, 26, 29 âm lịch làm lễ cưới. Ở Nhật, người ta cho số 4 là xấu, vì tiếng Nhật số 4 đọc lên nghe gần như chết (Xi = tứ, xi = tử) nên người Nhật thường kiêng số này. Nhiều bệnh viện Nhật không có tầng số 4, phòng số 4 và giường số 4. Tiếng trung Hoa cũng như vậy, tứ đọc lên theo phương ngữ nào nghe cũng gần giống với tử, nên nhiêu bệnh nhân nằm bệnh viên kiêng số đó. Ngay cả số điện thoại, người ta cũng không thích số 4. Gần đây vì ảnh hưởng Hương Cảng và Quảng Đông, họ rất chuộng con số 8. Bát đọc lên gần như phát (tài), nên người ta rất thích số 8, nếu có số 168 là nhất lộ (lục) phát hay 598 đọc như ngã cửu phát (ngũ cửu bát) = tôi phát tài được lâu. Ở Việt Nam, người ta có quan niệm riêng về các con số, coi số lẻ là tốt đẹp. Làm đám cưới cũng có thói quen chọn ngày, có người kiêng ngày 3 và ngày 7, vì đã có câu: Chớ đi ngày bảy, chớ về ngày ba. Nhưng so với hai nước nói trên, quan niệm lành dữ về con số của người Việt vẫn nhẹ hơn. Người Việt chuộng nhất số 9 và kỵ nhất số 10, gọi là số bù, bảng số xe các loại, họ đều thích có số 9, hoặc cộng lại số thành là 9.

    4. Từ ngữ chỉ màu sắc.

    Màu sắc có ảnh hưởng đến tâm lý con người điều đó đã được công nhận. Trong ngôn ngữ, các từ ngữ chỉ màu sắc có thể phản ảnh được tâm lý văn hóa dân tộc. Cho nên các từ ngữ chỉ màu sắc thường có nghĩa tượng trưng văn hóa rất phong phú.

    Từ xưa, người Việt chịu ảnh hưởng Trung Hoa có quan niệm tôn sùng màu vàng, vì từ đời Hán, lấy năm sắc tượng trưng cho ngũ hành là Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ và ngũ phương là Đông, Tây, Nam, Bắc. Vàng là tượng trưng cho Thổ và Trung ương và là màu của vương quyền. Từ đời Hán trở xuống, các nhà vua đều mặc áo vàng, và đó là độc quyền của nhà vua.

    Nhưng từ hơn chục năm nay, màu vàng lại có nghĩa tượng trưng cho khiêu dâm, dâm ô, vì mấy chữ điện ảnh màu vàng nghĩa là phim ảnh khiêu dâm; phòng khiêu vũ màu vàng, băng hình màu vàng là cùng nghĩa đó. Ở Việt Nam thì coi nhẹ hơn, nhạc vàng có nghĩa là nhạc buồn ủy mị, lãng mạn. Người Á đông cũng thích màu đỏ, cho đó là tượng trưng cho sự may mắn, hạnh phúc, vui vẻ, thành đạt. Vào các dịp ngày Tết, ngày lễ lớn thường treo câu đối đỏ, thắp nến đỏ... Ở Trung Hoa còn treo đèn ***g đỏ, trong đám cưới cô dâu mặc toàn màu đỏ, trang hoàng trong nhà toàn bằng màu đỏ. Trái lại ở Tây phương, cô dâu mặc bộ áo cưới màu trắng, họ cho rằng màu trắng tương trưng cho sự trong sạch, tinh khiết của cô dâu. Nhưng ở Trung Hoa dân gian lại kiêng màu trắng trong đám cưới, vì họ vẫn coi màu trắng là màu tang tóc. Người Á đông không thích màu đen cho rằng đó là vận không may, số đen, đen đủi trong khi vẫn có nhiều người Tây phương thích sơn cửa màu đen cổ điển.

    Các từ ngữ văn hóa còn rất nhiều, như những chữ kiêng kỵ, thành ngữ, tục ngữ, ca dao, tiếng lóng v. v.. Ví dụ một từ có cùng nghĩa nhưng lại thay đổi, hay thêm bớt nghĩa, tùy theo cách dùng, cách đặt câu của từng quốc gia. Như từ nóng = chaud = hot của Việt, Pháp và Anh. Nóng của Việt Nam giống như hot của Anh có nghĩa nữa là nóng nảy; mới tinh, nhưng tiếng Anh còn thêm nghĩa là cay (hot pepper). Chaud (e), chaleur của Pháp là nóng, nhưng nếu nhầm lẫn nói một người đàn bà đang "en chaleur” thì thật là nguy hiểm!

    Những điểm nói trên cho thấy yếu tố văn hóa có vai trò quan trọng trong giao thiệp, tiếp xúc đặc biệt là trong tiếp xúc văn hóa. Đây cũng là vấn đề ngôn ngữ và vấn đề bối cảnh văn hóa. Chú tâm đến khía cạnh văn hóa khi nghiên cứu ngôn ngữ là cần thiết và là cách tìm hiểu mới, một địa hạt mới trong Ngôn ngữ học.

    Vài chục năm nay, ở Mỹ, Nga, Trung Quốc, các nhà Ngôn ngữ học đã làm nhiều việc nghiên cứu ngôn ngữ qua văn hóa và thu được một số thành quả. Chẳng hạn muốn học một ngoại ngữ, cần phải học qua về văn hóa của thứ tiếng đó. Đặc biệt là phải hiểu phong tục, tập quán, sử, địa... của nước đó. Họ nghiên cứu các mặt ngữ âm, ngữ pháp, từ vựng, ngữ nghĩa để kết hợp ngôn ngữ với các ngành khoa học xã hội khác và từ đó tạo dựng một số môn học liên ngành, trong đó có môn Ngôn ngữ văn hóa (Cultural linguistics).

    Diệu Tần (http://www.macdinhchireunion.net)

Chia sẻ trang này