1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

ĐĂK TÔ ‘Lính nhà trời’ Mỹ trên cao nguyên trung phần Nam Việt Nam

Chủ đề trong 'Kỹ thuật quân sự nước ngoài' bởi ngthi96, 01/04/2014.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. anheoinwater

    anheoinwater GDQP - KTQSNN Moderator

    Tham gia ngày:
    25/10/2007
    Bài viết:
    2.811
    Đã được thích:
    1.208

    Không phải do súng Mỹ, Nga hay Đức gì hết. Nếu bạn dùng dây đạn thì cần có người nạp đạn (đỡ dây đạn) để giảm bị kẹt đạn, và người đó còn có nhiệm vụ quan sát, cảnh giới, còn nếu dùng hộp tiếp đạn thì không cần người thứ hai.

    Dây đạn có hai yếu tố khiến đễ gây kẹt đạn là có thể bẻ cong khiến đường dây đạn vào nòng bị lệch ( nhìn hình ảnh có thể thấy lính đeo thành vòng tròn quanh cổ) và dễ dính đất cát rồi lôi vào nòng.

    Cái lon của M60 là phát kiến của Mỹ để tạm tiết kiệm 1 người ( khắc phục dây đạn bị bẻ cong theo chiều dọc, chiều ngang vẫn thế), nên rồi khi chuyển sang dùng M249 (mua thiết kế của Bỉ) vẫn thiết kế dùng hộp tiếp đạn cho gọn nhẹ và an toàn hơn là vác theo sơi dây đạn loằng ngoằng và dễ dính đất cát đó. Cho dù nếu thích vẫn có thể dùng dây đạn cho M249.
    Lần cập nhật cuối: 17/06/2014
  2. ngthi96

    ngthi96 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    10/07/2008
    Bài viết:
    1.650
    Đã được thích:
    9.272
    Willoughby nhảy vào tần số pháo binh và gào lên với trung tâm chỉ huy hỏa lực (FDC): ““Check fire! Check fire! Con mẹ nó! check fire!”

    Khi người trong trung tâm chỉ huy hỏa lực hỏi Willoughby cự ly để hiệu chỉnh thì Willoughby bừng bừng nổi giận hét vào ống nói: “Hiệu chỉnh cái con kẹt..!, ********* nào còn bắn 1 quả kiểu thế này nữa là tao giết đấy!”

    Sau đó Willoughby chỉnh đốn lại đội hình đại đội đang tản mát rồi lại tiến lên.

    Vừa qua buổi trưa thì tiểu đội của Nale lên đi dẫn đầu. Lúc này ko có pháo binh yểm trợ nên cứ được vài mét họ lại trinh sát bằng hỏa lực bằng cách bắn phứa vào cây rừng phía trước mặt. Nale được trang bị 1 khẩu súng phóng lựu M79, trong khi những người khác nã hàng tràng đạn M16 thì Nale câu tới vài viên đạn nổ. Họ làm cái ‘bài’ này được vài lần cho đến lúc tiến đến 1 cái gì nhỏ đầy cây cối thì bất ngờ Nale thấy có luồng đạn vạch đường xanh lét bay vụt qua đầu. Chỉ có bộ đội Bắc Việt mới dùng đạn vạch đường màu xanh lá cây.

    “Nằm xuống!” có ai đó hét lên.

    Trước đó Nale chưa bao giờ phải nằm dưới hỏa lực địch nên anh cứ phục xuống tại chỗ chờ xem mọi người làm gì.

    Và người mà anh đang chờ chính là Willoughby. Nale kinh ngạc nhìn đại đội trưởng xông lên phía trước, gào tướng lên trong khi miệng vẫn ngậm mẩu xì gà “Lên chiếm mỏm cao điểm ******** này đi! Tụi bây.”

    McDevitt cũng nghe thấy Willoughby ra lệnh. Anh rất ngạc nhiên “Chó thật!” anh chửi đổng “Nếu anh muốn lấy mỏm cao điểm khốn kiếp ấy đến thế thì tự lấy đi mà lấy.” Nhưng rồi anh cũng đứng dậy và bắt đầu dẫn trung đội tiến lên.

    Willoughby dẫn đầu, xả đạn bằng khẩu súng cắp ngang hông trong khi đại đội tản rộng ra xông đến.

    Nale và cậu bạn thân là binh nhất Doug Roth tiến lên phía trước. Những trái đạn B-40 lao đến nổ tung xung quanh, ko đếm xỉa tới sự nguy hiểm, cả 2 xông đến gần 1 cái hầm chiến đấu. Trong khi Roth bắn M16 kìm ko cho lính phòng thủ trong đó ngóc đầu lên thì Nale ném lựu đạn. Súng trong hầm liền câm bặt.

    Xung quanh họ các lính dù khác cũng đều đều tiến tới, khiến cho kẻ địch phải kinh ngạc trước cuộc tấn công táo bạo. 1 người bạn của Nale là binh nhất Varoli, sử dụng khẩu M60. Anh này nâng khẩu súng nặng nề trên cánh tay trái, kéo theo 1 dây đạn dài phía sau trong khi khoan thai tiến lên trước. Khẩu súng rung lên bần bật khi anh nã đạn, mặc kệ những đường đạn đang nhắm vào mình cùng những trái đạn B-40 nổ gần đó.

    Varoli tiêu diệt được mấy căn hầm của quân Bắc Việt thì vận may kết thúc. 1 trái B-40 bắn trúng đám cây rừng ngay trước mặt anh. Sức nổ khiến anh ngã sóng xoài, khẩu M60 văng khỏi tay. Mảnh đạn găm chi chít vào tay, chân. Varoli đã đến nam VN từ tháng 4 và là 1 lính cũ đã trải qua hàng chục trận đụng độ. Anh đã vượt qua hết ko hề bị xây xát gì nên bắt đầu cảm thấy mình là 1 kẻ bất khả chiến bại. Việc bị thương đã làm anh choáng váng. “Xem này, tôi bị rồi!” anh gào lên gọi các bạn. “Lũ khốn đã hạ được tôi,”, sau đó mới đi tìm lính cứu thương.

    Cách đó 1 quãng Nale và Roth vẫn đang tiếp tục chiến đấu. Với Nale thì trận đánh có vẻ hỗn loạn, tiếng nổ khắp nơi, những luồng đạn vạch đường xanh lét bay vèo vèo qua đám cây cối và tre trúc, tất cả đều kêu gào bằng đủ thứ tiếng và tuôn ra đủ mọi từ tục tĩu. Anh có thể nghe thấy đằng sau mình tiếng trung sĩ nhất Edward Kitchen chạy đi chạy lại như con thoi, đốc thúc mọi người giữ vững hàng ngũ.

    Hầm chiến đấu của bộ đội Bắc Việt được bố trí ở những chỗ khiến rất khó phát hiện ra trong tán lá rậm rịt. Nale và Roth đã nhảy ngay lên 1 cái như thế, ko hề biết đến mối nguy cho đến khi lính dù ở đằng sau hét lên cảnh báo. Chính “thiên binh” này là người đã dùng súng trường diệt 2 hầm Bắc Việt.

    Nale và Roth tiếp tục tiến công. Bỗng có 1 thứ gì đó bay vù qua giữ 2 người lính dù. Theo bản năng Nale lăn đi. Mảnh của trái đạn B-40 nổ đã găm vào tay phải, cổ, và hất văng anh xuống 1 cái hố nông. Trong khi rơi xuống 1 phát đạn bắn tỉa của Bắc Việt đã làm xước lưng Nale. Roth nằm ngay cạnh đó, máu chảy ra rất nhiều từ 1 vết thương trên trán.

    Nale tìm được khẩu M79 của mình, nhét 1 trái đạn vào và bắn. Anh nghĩ lính bắn tỉa địch núp ở trên đỉnh mấy bụi tre. Những trái đạn của anh đã phá tan chúng ra.

    Ít phút sau Nale lại phải sửng sốt khi nhìn thấy 1 lính dù khác. 1 cựu võ sĩ quyền Anh gan lì được mọi người gọi là “Mugsy”, lãnh 1 phát đạn ngay giữa ngực. Nale thấy viên đạn xuyên qua Mugsy, trổ ra sau lưng rồi rớt độp xuống đất. Đây là khoảnh khắc cực kỳ sống động nhưng rất thật khiến cho Nale cứ ngỡ mình đang xem 1 kỹ xảo đặc biệt trên truyền hình.

    Khi Mugsy ngã ngửa ra sau, anh ta còn tìm ra tên bắn tỉa, bắn và giết chết hắn trước khi lưng chạm mặt đất. Nale ko thể tin vào mắt mình nữa.

    Ít phút sau, trận đánh đột ngột chấm dứt. Hành động táo bạo của đại úy Willoughby đã khiến quân Bắc Việt kho thể chống nổi. Lính dù đại đội Bravo tìm thấy 13 xác lính địch. Có 10 “thiên binh” bị thương, ko ai bị giết.
    gakocanh, DepTraiDeu, dudu59 người khác thích bài này.
  3. phaphai

    phaphai Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    18/12/2004
    Bài viết:
    1.203
    Đã được thích:
    1.825
    Mảnh đạn B40?
    gakocanhhoadaols thích bài này.
  4. ngthi96

    ngthi96 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    10/07/2008
    Bài viết:
    1.650
    Đã được thích:
    9.272
    Căn cứ vào những thứ tìm được, trung úy McDevitt đã kết luận rằng đây là cuộc đụng độ với 1 trung đội Bắc Việt có nhiệm vụ chặn hậu trong khi 1 đơn vị lớn hơn đã đi thoát. Khi tiến hành lúc soát gò đất, anh tìm thấy nhiều vị trí dành cho lính bắn tỉa địch ở trên các ngọn cây và bụi tre, làm theo kiểu tổ chim làm từ những thân cây được buộc túm vào nhau. Tài khéo léo của đối phương làm cho McDevitt rất ấn tượng.

    Trong khi lữ đoàn dù 173 rình mò quanh những khu rừng phía nam Đắk Tô, thì bộ đội Bắc Việt bắt đầu gây áp lực với 2 trại biệt kích nằm biệt lập xa về phía bắc. Trong nửa cuối tháng 7, hầu như đêm nào cũng vậy, tại Đắk Siêng và Đắk Pék (Đức Phong. ND), cách Đắk Tô 20 và 45km về phía bắc, đều bị pháo kích bằng súng cối, rocket và súng không giật (DKZ). Sáng ngày 3 tháng 8 năm 1967, 1 đại đội biệt kích CIDG đã chạm súng với 2 đại đội Bắc Việt cách tây Đắk Siêng 1km. Quân cứu viện cho họ cũng bị tiến công. Mãi đến đầu giờ chiều thì trận đánh mới kết thúc.

    Vì trại có khả năng bị tiến công, tiểu đoàn 1, trung đoàn 42 bộ binh VNCH gấp rút được đưa tới khu vực. Cùng ngày hôm đó các tiểu đoàn nhảy dù số 5 và 8 VNCH cũng được trực thăng vận lên Đắk Siêng.

    Khi tiểu đoàn 8 nhảy dù tiến ra phía tây Đắk Siêng sáng hôm sau họ vấp phải 1 lực lượng mạnh quân Bắc Việt cố thủ trong công sự phía ngoài trại. Trận đánh đã kéo dài mấy giờ đồng hồ trước khi phía Bắc Việt rút lui.

    Tiểu đoàn 8 dù VNCH trụ lại đó và đẩy lùi các cuộc tiến công nhưng phải chịu thương vong nặng nề. Nhờ vậy mà tiểu đoàn 5 nhảy dù đã vượt qua họ và chiếm được mỏm cao điểm nằm ở phía tây. Họ tìm thấy 1 nơi đóng quân quy mô cấp trung đoàn của quân Bắc Việt với những căn hầm và 1 hầm chỉ huy bên trong có cả sa bàn mô phỏng chi tiết trại biệt kích Đắk Siêng. Những tài liệu để lại sau khi đối phương vội vã triệt thoái cho thấy, chủ nhân của nơi này là trung đoàn 174 Bắc Việt.

    Những cuộc đụng độ dữ dội xảy ra ngay gần Đắk Siêng cùng các trận bắn phá ban đêm vào Đắk Pék khiến cho tướng Peers tin rằng đối phương đang chuẩn bị cho 1 cuộc tiến công vào trại biệt kích này. Do đó ông ta cho rút tiểu đoàn 1, trung đoàn 503 đang ở trong rừng gần cao điểm 830 ra và đưa họ đến Đắk Pék. Họ lên tới nơi chiều ngày 4 tháng 8 và tới mùng 9 thì có thêm tiểu đoàn 4/503 tới gia nhập.

    Tiểu đoàn 4/503 đã có chỉ huy mới khi lên đường. Đại tá Jackley được trung tá James H. Johnson tới thay hôm mùng 4 tháng 8. Là người Washington, D.C, 38 tuổi, Johnson vào quân ngũ từ khóa đào tạo sĩ quan dự bị ở trường đại học Maryland và được phong sĩ quan tháng 6 năm 1950. Sau khi phục vụ ở Triều Tiên ông tiếp tục chọn theo sự nghiệp quân sự. Trong thời gian đóng quân ở Berlin đầu thập niên 1960, Johnson đã làm việc cùng tướng Deane. Khi Johnson có lệnh sang nam VN, Deane đã xin điều ông về lữ 173.

    Lúc nhận quyền chỉ huy tiểu đoàn mới, Johnson đã vội nhận xét ngay là lính tráng nhếch nhác, chỗ ở thì dơ dáy, kỷ luật lỏng lẻo. Ông cảm thấy 1 số sĩ quan tham mưu trong tiểu đoàn có thái độ tiêu cực nên cần phải loại ra ngay. Ông cho rằng những rắc rối và tinh thần chủ bại lan tràn lúc này là do các tổn thất trong trận đánh ngày 10 tháng 7. Johnson lập tức siết chặt sự kiểm soát, chỉnh đốn quân kỷ để khôi phục lại sự tự tin và nhuệ khí trong binh sĩ.

    Không phải tất cả các sĩ quan và binh lính trong tiểu đoàn đều đồng tình với những đánh giá của Johnson. Ví dụ như trung úy Connolly, cảm thấy những qui kết cay nghiệt của vị tiểu đoàn trưởng mới là do ông này có hiểu biết hạn chế về tình cảnh chiến đấu của lính dù ở đây. Rất khó khăn, nếu ko thể nói là không thể, để duy trì điều kiện sống tươm tất, chỉnh chu trong mùa mưa ở Tây Nguyên.

    Ngày 10 tháng 8, 2 tiểu đoàn dù bắt đầu tổ chức hành quân tìm – diệt ở vùng phía tây và nam Đắk Pék. Mỗi đại đội đều có biệt kích CIDG đi phối thuộc. Các lực lượng đồng minh đã phát hiện 1 số nơi trú quân của đối phương nhưng ko thấy lính Bắc Việt nào. Họ đã hành quân vất vả suốt 10 ngày nhưng ko hề chạm địch. Tướng Peers kết luận là những phản ứng nhanh chóng của ông khi thấy Đắk Pék bị đe dọa đã làm kế hoạch của quân Bắc Việt bị cản trở. Thông tin tình báo cũng xác nhận rằng bộ đội Bắc Việt đã rút sang Lào.

    Hai tiểu đoàn dù được trực thăng vận về Đắk Tô ngày 20 và 21 tháng 8. Các tiểu đoàn dù VNCH cũng đã rời khỏi khu vực và trở về doanh trại của họ gần Sài Gòn.

    3 tiểu đoàn của lữ 173 còn đi tuần tiễu trong vùng rừng núi quanh Đắk Tô thêm mấy tuần nữa. Dựa trên tin tức tình báo, các đại đội súng trường tiếp tục tìm kiếm kẻ thù. Tuy nhiên cũng khó khăn như việc tìm kiếm, chẳng thấy gì đáng kể để cho họ diệt cả. Rất nhiều “thiên binh” cho rằng bộ đội Bắc Việt đã hoàn toàn rút bỏ vùng này.

    1 thành phần quan trọng trong việc tìm kiếm quân Bắc Việt là những toán viễn thám (LRRP) của lữ đoàn. Đó là những lính tình nguyện gan dạ hoạt động theo từng toán nhỏ, tiến xa phía trước các đại đội súng trường. Nhiệm vụ của họ là luồn sâu bí mật trong rừng để tìm kiếm dấu vết kẻ địch. Vì quân số các toán viễn thám thường chỉ có 5 người, nên họ chủ động tránh đụng độ với đối phương. Việc của họ là tìm ra kẻ thù chứ ko phải là giao chiến với chúng.
    anhcos, gakocanh, DepTraiDeu10 người khác thích bài này.
  5. ngthi96

    ngthi96 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    10/07/2008
    Bài viết:
    1.650
    Đã được thích:
    9.272
    Đại úy Thomas H. Baird chỉ huy các toán viễn thám gần như suốt mùa hè năm 1967. Là 1 quân nhân xuất sắc, tốt nghiệp West Point khóa 1961. Năm 1964 anh đã tình nguyện tham gia khóa huấn luyện biệt kích. Sau khi tốt nghiệp anh mặc sắc áo lính mũ nồi xanh và sang nam VN. Trong 6 tháng từ tháng 11 năm 1964 đến tháng 4 năm 1965, Baird chỉ huy 1 toán A, là đơn vị biệt kích thường phụ trách 1 lực lượng quân CIDG đóng trên các tiền đồn biệt lập như vẫn thấy ở vùng Tây Nguyên này.

    Dù đã lập gia đình và có 2 con nhỏ, tháng 3 năm 1967, Baird vẫn quay lại nam VN. Anh đã yêu cầu thuyên chuyển sang lữ 173 vì biết đây là 1 đơn vị danh tiếng lẫy lừng. Anh làm sĩ quan hành quân của tiểu đoàn trợ chiến lữ đoàn trong 3 tháng rồi có cơ hội chỉ huy lực lượng viễn thám khi đại úy Alan Phillips sang nắm đại đội Alpha, tiểu đoàn 4/503.

    Gốc biệt kích của Baird khiến anh trở thành 1 chỉ huy viễn thám lý tưởng. Anh biết cách hoạt động lén lút, cách thức sinh tồn, cách theo dõi kẻ thù mà ko để lộ vị trí. Dù việc hành quân của Baird gắn trong phạm vi khu vực tác chiến (AO) và đặt dưới sự chỉ đạo và giám sát của phòng tình báo (S-2), thỉnh thoảng anh vẫn giành quyền tự quyết trên thực địa. Lính dưới quyền yêu quí anh chính vì thế. Baird hết mực bảo vệ lính của mình. Anh ko cho phép họ hành động liều lĩnh hay chiến đấu như bộ binh thường. Để đảm bảo các toán viễn thám được phục vụ bởi những người lính ưu tú nhất, Baird đích thân phỏng vấn những người nộp đơn xin vào đơn vị. Chỉ những ai đáp ứng được hết các tiêu chuẩn anh đưa ra thì mới được chấp nhận.

    Có 1 người làm được như vậy đó là Sp4 Irvin Moran. Moran sinh trưởng tại Princeton, New Jersey, là thành viên nổi bật trong đội bóng chày ở đây hồi trung học. Tốt nghiệp tháng 6 năm 1965, anh lập tức nhập ngũ. Moran được huấn luyện làm quân cảnh rồi về sư đoàn dù 82 tại căn cứ Fort Bragg. Sau 1 năm làm nghĩa vụ với các công việc lặt vặt trong các vọng gác ở Mỹ. Moran tình nguyện sang phục vụ ở miền nam VN.

    Tháng 2 năm 1967, Moran đặt chân lên vùng đất chiến tranh. Anh nhận nhiệm vụ trong trung đội quân cảnh của lữ 173. Phần lớn thời gian của nhiệm vụ này là hộ tống các đoàn xe và canh gác khiến cho anh cảm thấy mình chỉ đứng ngoài lề cuộc chiến. Khi nghe nói đơn vị viễn thám cần người, anh xin ứng tuyển ngay. Sau khi qua được cuộc phỏng vấn khó khăn của đại úy Baird, Moran chuyển sang viễn thám tháng 7 năm 1967.

    Nhiệm vụ cơ bản của Moran và 4 người cùng toán là lên trực thăng chở quân (slick) ở Đắk Tô vào lúc trời chưa sáng. Họ được chở đến khu vực tác chiến cùng với 2 chiếc slick và 2 trực thăng vũ trang nữa đi kèm. Sau nhiều động thái nghi binh đánh lừa đối phương, lính viễn thám sẽ nhảy xuống.

    Từ lúc rời khỏi trực thăng, toán quân hoạt động 1 cách thuần thục, nhuần nhuyễn. Họ dùng thủ hiệu để liên lạc với nhau, tránh ko theo các lối mòn mà đi cắt rừng, luôn cảnh giác cao khi thấy dấu vết của quân địch. Họ di chuyển từ từ, tránh gây tiếng động để khỏi bị lộ.

    Nếu phát hiện 1 lực lượng quân Bắc Việt, quân viễn thám có thể sẽ gọi máy bay tới không kích hay pháo dập. Vì trận oanh tạc sẽ đánh động kẻ thù nên toán viễn thám sẽ lập tức di chuyển tới khu vực bốc quân để rút về. Sau khi nghỉ ngơi vài hôm, họ sẽ lại lên đường làm nhiệm vụ kế tiếp.

    Trong hè và đầu mùa thu năm 1967, mục tiêu là rất hiếm gặp. Moran và toán của mình đã thực hiện hàng chục vụ nhưng cũng chẳng tìm thấy gì đáng kể. Có bữa, 1 toán khác đã phát hiện hàng trăm bộ đội Bắc Việt đang băng rừng gần biên giới Campuchia. Họ gọi máy bay không kích nhưng khi những chiếc phản lực tới nơi thì đoàn quân địch đã vượt qua bên kia biên giới.

    Ngày 19 tháng 8, 1 toán viễn thám đã phát hiện 2 chục lính Bắc Việt đang di chuyển trong rừng. Trưởng toán là trung sĩ tiểu đội trưởng (Staff Sergeant) Charles J. Holland đã gọi pháo kích rồi sau đó lệnh cho toán tiến về điểm hẹn. Khi đang di chuyển đến bãi bốc quân thì bị lọt vào lưới lửa của số lính Bắc Việt mà họ ko phát hiện ra lúc trước. 1 cơn mưa đạn đuổi theo toán khi họ tháo chạy đến bãi bốc quân. Tới nơi thì trung sĩ Holland mới phát hiện ra điện đài của toán đã vô ý bị bỏ lại phía sau. Ko muốn điện đài lọt vào tay quân Bắc Việt, Holland đã 1 mình quay lại và ko thấy trở về nữa. Khi trực thăng tới đón, những thành viên còn lại trong toán ko còn cách nào hơn là phải lên máy bay trở về.

    Xác của Holland được tìm thấy ngày hôm sau. Anh đã quay lại và lấy được cái điện đài, đeo nó sau lưng. Holland lẩn trốn và chỉ còn 1 quãng ngắn nữa là về đến toán thì bị địch quân bắn hạ.

    Ngày 23 tháng 8 năm 1967, tướng Deane chuyển giao quyền tư lệnh lữ đoàn dù 173 cho chuẩn tướng Leo H. Schweiter. Schweiter tới với lữ 173 từ căn cứ Fort Campbell, nơi ông làm tư lệnh phó sư đoàn dù 101. Kinh nghiệm chiến trường đầu tiên của ông với “những đại bàng gầm thét” (Screaming Eagles) là nhảy dù xuống Normandy, nước Pháp trước bình minh ngày D, mùng 6 tháng 6 năm 1944. Hôm đó ông bị địch bắt sống rồi sau đó đã trốn thoát. Tháng 9 ông nhảy dù xuống Hà Lan và đã chiến đấu tại Bastogne, nước Bỉ trong trận Bulge vào tháng 12. Schweiter là 1 người lính rất quả cảm, ông được thưởng huân chương sao bạc vì đã tấn công và diệt 1 chiếc xe tăng của bọn phát xít ở Bastogne.

    Trong chiến tranh Triều Tiên, là thành viên của sư đoàn 7 bộ binh, Schweiter đã tham gia cuộc đổ bộ bi tráng lên Inchon tháng 9 năm 1950. Vài tuần sau đó ông đã cùng sư đoàn 7 lại đổ bộ lên bờ biển phía đông của Bắc Triều Tiên. Tháng 11 ông đã tham gia vào cuộc rút lui cuống cuồng khỏi Bắc Triều Tiên và được thưởng huân chương sao bạc vì hành động anh hùng. Sau đó ông lên nắm quyền chỉ huy trung đoàn 32 bộ binh của sư đoàn 7.
    bloodheartvn, dudu5, gakocanh8 người khác thích bài này.
  6. gakocanh

    gakocanh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    07/04/2011
    Bài viết:
    207
    Đã được thích:
    162
    nó là do bọn dùng băng dây khi dây xoắn vào nhau sẽ ko bắn đc bác ạ.súng của Nga Sô hay Trung Cộng thì nó dùng hộp đựng dây đạn (như PK,RPD) nên ko lo xoắn bác ạ.bỏ dây đạn ra khỏi hộp thì cũng xoắn như ai :D
  7. gakocanh

    gakocanh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    07/04/2011
    Bài viết:
    207
    Đã được thích:
    162
    vết thương của thằng này nó biết chạy :D
    lamnhabinh thích bài này.
  8. ngthi96

    ngthi96 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    10/07/2008
    Bài viết:
    1.650
    Đã được thích:
    9.272
    Chạy đâu mà chạy...Nale và Roth là 2 thằng khác nhau mà...1 thằng bị mảnh sắt cắm chi chít còn thằng kia bị ở trán.:P
    gakocanh, tekute1976gaume1 thích bài này.
  9. ngthi96

    ngthi96 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    10/07/2008
    Bài viết:
    1.650
    Đã được thích:
    9.272
    Trong những năm sau đó ở Triều Tiên, Schweiter ghi dấu ấn như là 1 sĩ quan xuất sắc, đi đầu trong chủ trương cơ động đường không. Schweiter đã phục vụ trong liên đoàn 5 biệt kích (5th Special Forces Group ) ở nam VN ngay trước khi nhận ngôi sao cấp tướng và chuyển đến căn cứ Fort Campbell.

    Ko có mấy người hiểu được ông ta. Cá tính và phong cách chỉ huy của tướng Schweiter khó có thể bì kịp phong thái hòa nhã của “chú Jack” Deane. Cộc cằn và ít nói, Schweiter rất dễ nổi nóng khi mọi thứ ko diễn ra theo ý muốn. Vô cảm, khắc kỷ và cầu toàn, ông đòi hỏi cấp dưới phải tuân theo những tiêu chuẩn cao mà mình đặt ra. Khi họ ko làm được thì ông nổi đóa ngay. Có 1 sĩ quan tham mưu tại 1 cuộc họp do ko chuẩn bị trước những câu lục vấn của Schweiter nên đã bị ông mắng nhiếc đến nỗi anh này quá căng thẳng mà ngất xỉu. Schweiter cho thay thế người này ngay.

    Trung úy Mike Deems rời đại đội Dog, tiểu đoàn 4/503 lên làm trợ lý cho Schweiter. Anh mau chóng nhận ra đây là cái nhiệm vụ tồi tệ nhất trong sự nghiệp. Khi gặp bất cứ cái gì trục trặc là Schweiter lại trút giận lên đầu Deems. Thậm chí những thứ tưởng như vô thưởng vô phạt như việc điện đài trên chiếc trực thăng chỉ huy bị hỏng cũng khiến Deams hứng trọn cơn thịnh nộ của Schweiter. Thay vì coi việc lên làm trợ lý là 1 sự thăng tiến thì càng ngày Deems càng thấy chán ghét công việc này.

    Đại úy Baird thì cho rằng Schweiter là người liều lĩnh. Có lần, ông tướng sai sĩ quan tình báo (S-2) lệnh cho quân viễn thám của Baird phải dùng dây thừng đu xuống từ trên tán rừng cao 50m xuống đất chứ ko cho trực thăng thả họ xuống khu vực tác chiến. Baird rất tức giận trước cái chỉ thị mà anh cho là ngu xuẩn và nguy hiểm đó. Anh không tuân lệnh vì việc này giống như là tự sát. May mắn cho Baird là Schweiter đã đổi ý trước khi việc kháng lệnh đến tai ông tướng.

    Trung tá Partain lại coi Schweiter là con người nóng nảy, bạo ngược. Ông nghĩ viên tướng thiếu tự tin vào bản thân và còn có thể là thiếu quyết đoán nữa. Theo Partain thì Schweiter chỉ chú tâm đến bản thân với những thứ nhỏ nhặt như là những đặc quyền giành cho sĩ quan cấp tướng. Partain đã chứng kiến 1 lần Schweiter giành quá nhiều thời giờ để lo tổ chức bữa ăn cấp tướng của mình.

    Schweiter tìm cách áp đặt thói quen của mình cho hầu hết những người hoạt động dưới quyền chỉ huy của ông. Nhưng những lề thói này hiếm khi xuống đến chỗ đám lính quèn. Thật ra, Schweiter vẫn là 1 sĩ quan cấp tướng có quan tâm nhiều tới binh sĩ. Ông làm mọi khả năng để cung cấp cho lính dù những tiện nghi có thể. Ông muốn mỗi “thiên binh” khi hành quân dã ngoại đều được ăn nóng ít nhất là 1 bữa trong ngày. Ông cấm các sĩ quan tham mưu ko được xài đồ xa xỉ, như là ăn kem trừ phi anh ta bảo đảm các đại đội chiến đấu đều đã có phần.

    3 tuần sau khi tướng Schweiter lên nắm quyền, các đơn vị chính của lữ 173 bắt đầu chuẩn bị rời Đắk Tô. Việc tiếp tục ko gặp địch đã khiến cho tướng Rosson tin rằng bộ đội Bắc Việt ko còn uy hiếp các trại biệt kích trong vùng Pleiku–Kontum–Đắk Tô nữa. Ông cảm thấy sư đoàn 4 bộ binh, lúc này đã có đầy đủ sức mạnh với việc trở lại của lữ đoàn bộ binh thứ ba, có thể tự xử lý được tình hình Tây Nguyên. Do đó tướng Rosson đã giao cho lữ đoàn dù 173 1 nhiệm vụ khác.

    Nằm ở phía đông nam Đắk Tô, trên bờ biển của nam VN, là tỉnh Phú Yên. Với vụ thu hoạch lúa mùa thu sắp đến, vựa gạo Phú yên sẽ là 1 mục tiêu hấp dẫn cho những đơn vị VC địa phương. Lữ 173 phải đánh đuổi VC ra khỏi địa bàn này. Lữ đoàn cũng sẽ bảo vệ an ninh cho căn cứ không quân lớn tại Tuy Hòa, thủ phủ của tỉnh. Tướng Rosson gọi nỗ lực này là chiến dịch Bolling.

    Không phải tất cả lữ 173 đều sẽ đi Tuy Hòa. Tiểu đoàn 2/503 của trung tá Partain với sự yểm trợ của pháo đội A, tiểu đoàn 3, trung đoàn pháo binh 319 sẽ ở lại Đắk Tô. Họ sẽ là 1 phần của chiến đoàn đặc nhiệm 77 (Task Force 77), cùng với các tiểu đoàn của VNCH là tiểu đoàn 3 dù và tiểu đoàn 1, trung đoàn 42 bộ binh cùng 1 đại đội biệt kích mike force (thuộc biệt kích SOG, các đại đội này đóng vai trò xung kích, tiếp ứng. ND) tiến hành thám kích trong vùng thung lũng Tu Mơ Rông, nằm phía bắc Đắk Tô.

    Những đơn vị khác của lữ 173 bắt đầu rời Đắk Tô ngày 17 tháng 9 năm 1967. Những chiếc máy bay C-130 của Không quân chở các “Thiên binh” đến sân bay Tuy Hòa. Sau những cơn mưa như trút cùng những ngọn núi dốc đứng trên Tây Nguyên thì Tuy Hòa là 1 nơi đáng hoan nghênh đối với lính dù. Nhiều đại đội súng trưởng tổ chức tiệc nướng trên các bãi biễn cát trắng phau của Tuy Hòa; ở đó lính dù vui vẻ nô đùa trên sóng nước đại dương. Họ ko còn là những chiến binh gai góc nữa mà đã trở lại là cậu trai trẻ vui vẻ, dễ mến.

    Specialist 4 Arturo Ortiz, 1 chàng lính 20 tuổi trong đại đội Charlie, tiểu đoàn 4/503 của trung úy Connolly, có lúc đã tưởng tượng những bãi biển Tuy Hòa như là bãi biển ở Venice, California, nơi anh sinh trưởng. Anh cũng tỏ vẻ ngạc nhiên khi nhìn bầu trời trong xanh ngày này qua ngày khác ở đây chứ ko phải là tấm màn mây bao phủ các ngọn núi.

    1 người bạn thân của Ortiz trong đại đội Charlie là binh nhất Gerhard Tauss, sinh năm 1943 ở Nam Tư là con 1 lính Đức. Đầu những năm 1950, Tauss cùng gia đình di cư đến Los Angele. Sau khi học xong cao đẳng và 4 năm đại học, đến năm 1966 khi ko còn là sinh viên nữa thì anh phải đi quân dịch. Theo lời khuyên của 1 người bạn thuộc sư đoàn dù 82, Tauss tình nguyện học nhảy dù sau khi đã được huấn luyện cơ bản. Đây là 1 quyết định mà anh ko bao giờ thấy hối tiếc. Tauss mê mẩn tình bằng hữu giữa những “thiên binh”. Anh cảm thấy từ trung úy Connolly trở xuống thì ko chỗ nào tốt hơn đơn vị của mình.
  10. phaphai

    phaphai Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    18/12/2004
    Bài viết:
    1.203
    Đã được thích:
    1.825
    Đúng là tác giả chỉ là 1 nhà văn, ít hiểu biết về quân sự!
    Ông ấy khuếch đại quá nhiều về B40. Nếu cái trận vừa rồi chỉ gặp một trung đội Giải Phóng thì có được mấy khẩu B40, dù có được ưu tiên để làm nhiệm vụ chặn địch. Đánh ở vùng núi, nhất là phòng ngự từ phía trên đồi thì chắc người ta ưu tiên AK, RPD với lựu đạn chứ chẳng dồn hết cho B40 (B40 ngoài chuyện phụ thuộc vào địa hình thì còn có 1 nhược điểm nữa là 1 người không thể bắn được nhiều phát đạn trong 1 trận).
    Hồi đó đúng là bộ đội mình dùng B40 là chính, hầu như chưa có B41. B40 chưa có liều đẩy thứ 2 nên đuôi đạn ngắn hơn, nhưng cả 2 loại đạn này vỏ đầu chúng chỉ là 1 lớp tôn mỏng. Dù chỉ là đạn nổ, không phải đạn xuyên (để chống bộ binh) thì chủ yếu khi nổ khả năng sát thương là sức (sóng) nổ, hầu như không có mảnh, trừ mỗi cái đuôi (hầu như còn nguyên xi sau khi đầu đạn nổ)!
    Lần cập nhật cuối: 23/06/2014
    usadok, ngthi96, khuc_thuy_du3 người khác thích bài này.

Chia sẻ trang này