1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Cuộc chiến biên giới phía Bắc 1979 và bình luận

Chủ đề trong 'Giáo dục quốc phòng' bởi cu-bo, 14/02/2014.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. phaphai

    phaphai Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    18/12/2004
    Bài viết:
    1.203
    Đã được thích:
    1.825
    Định không viết thêm, nhưng bổ sung thêm cái ảnh giúp bác (lỗ đạn xuyên qua giáp bảo vệ đấy - tìm Gú Gờ về những hình ảnh này cũng khá nhiều, chắc nhìn cái ảnh này bác không phản biện bảo nó đó là của tên lửa chống tăng!!!):

    [​IMG]

    Còn cái ảnh này thì xích xe vẫn còn nguyên, xe cũng chẳng thành than...
    [​IMG]

    Cái xe cháy được thành than hay không phụ thuộc vào điểm tiếp xúc. Cái M1 của Mỹ chẳng phải được quảng cáo xuông!
    Còn tốc đô truyền nổ của thuốc phóng với thuốc nổ khác nhau như thế nào nhường bác Gú gờ!
    Tôi viết thêm về cái kíp nổ không phải cho bác mà cho bác kia khi bác ấy phản bác việc chúng tôi đeo chung cả đạn và ngòi nổ trong 1 cái ba lô thôi!
    Lần cập nhật cuối: 02/07/2014
    cu-bo thích bài này.
  2. kuyomuko

    kuyomuko Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    21/04/2011
    Bài viết:
    19.996
    Đã được thích:
    29.085
    Thôi ta chuyển qua phim ảnh đi cho nó máu cụ @phaphai nhỉ! Trong phim blackhawk down có cái đoạn có thằng lái xe humvee bị ăn 1 quả B-41 nó xuyên qua luôn giáp xe xuyên luôn cái hông thằng đó mà đek nổ nhưng tất nhiên thằng đó chết queo. Quả đạn nằm nguyên ở đó chứ cũng đek thèm tự huỷ luôn. Chắc đạn nó mắc cười quá...sau có 1 thằng alpha tới lôi quả đạn ra khỏi hông thằng kia. Quả đạn hình như còn nguyên cánh đuôi luôn. Ghê thật... :D
  3. meo-u

    meo-u Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    29/04/2011
    Bài viết:
    4.710
    Đã được thích:
    4.111
    Thầy ơi. Thầy tìm bên top tăng thiết giáp có quả ảnh đạn B41 phang gẫy nan gà đấy.
    Thầy bảo đạn B41 xuyên qua được tấm thép 5mm, OK với điều kiện đạn không nổ.
    Vấn đề là cái quả đạn đó nó biến dạng cái mũ chụp roài. Mũ đó có dầy cứng như vỏ đạn pháo đâu. Thầy nghe lời cụ Huy Phúc vụ này sai roài.
    Mũ đạn lõm bị biến dạng. Đạn không nổ áp điện được. Khi nổ bằng ngòi tự hủy thì nó giống quả bộc phá vài lạng thuốc. Rách váy M1 là đúng roài. Quên, phá được một lỗ rào B40 nữa, hay bắn tung bao cát làm mù mắt quân địch cũng được.
  4. cu-bo

    cu-bo Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    03/05/2012
    Bài viết:
    388
    Đã được thích:
    322
    Tháng 7 ở Ma Lù Thàng


    Giờ nói đến Ma Lù Thàng (xã Ma Ly Pho, H.Phong Thổ, tỉnh Lai Châu) nhiều người hay nối thêm từ “khu kinh tế cửa khẩu”. Còn với những người lính kinh qua cuộc chiến bảo vệ biên giới phía bắc, nhắc đến Ma Lù Thàng là dư âm tiếng súng đầu tiên lại dội về, cùng ký ức về một thời đạn pháo - lưỡi lê bất ngờ ào sang từ bên kia biên giới.
    Súng nổ trước tháng 2.1979

    [​IMG] Bức ảnh chụp chung và lời đề tặng của thiếu tướng Nguyễn Ngọc Tiếu (khi đó là Phó tư lệnh Công an nhân dân vũ trang) với các cán bộ chiến sĩ Đồn biên phòng Ma Lù Thàng, sau trận 17.2.1979 - Ảnh: M.T.H chụp lại

    Ông Lương Thế Hào, Phó vụ trưởng Ủy ban Kiểm tra Trung ương, nguyên chiến sĩ Đồn biên phòng Ma Lù Thàng thuộc Bộ Chỉ huy Bộ đội biên phòng tỉnh Lai Châu từ 1976, đến giờ vẫn in sâu tên đơn vị cũ: “Đồn 33, Công an nhân dân vũ trang tỉnh Lai Châu” và nghẹn ngào: “Không có những năm tháng khốc liệt ấy, tôi không trưởng thành được như hôm nay”.

    Tương tự, đại tá Nguyễn Quang Thọ (59 tuổi, nguyên cán bộ đồn từ 1976 - 1980) thành thực: “Kinh qua nhiều chức vụ, chuyển nhiều đơn vị nhưng ấn tượng sâu sắc nhất là thời gian công tác tại Ma Lù Thàng. Đây là nơi rèn luyện, thử thách nghiệt ngã nhất!”. Ông nhấn mạnh: “Cuộc chiến chống quân Trung Quốc xâm lược tháng 2.1979 đã khẳng định sức mạnh của tình đồng đội trong những tình huống cam go nhất!”.

    Những tháng năm khốc liệt và cam go mà những cựu binh nhắc đến là cuối những năm 1978, khi tại Ma Lù Thàng, hành động Trung Quốc lấn chiếm đất đai diễn ra sớm nhất và căng thẳng nhất: ngày 29.11.1978, Trung Quốc cho 1 đại đội tập kích Trạm biên phòng Lùng Chan của đồn.

    Nhắc lại thời điểm trước tháng 2.1979, ông Lý Dân Quẩy (57 tuổi, ở bản Ma Ly Pho, nguyên chiến sĩ Tiểu đoàn 64, Tỉnh đội Lai Châu) kể: Đơn vị đóng chốt trên điểm cao K88 ngay cạnh đồn biên phòng, nhìn thấy rõ phía Trung Quốc cho tập kết khá sớm, lộ liễu các đơn vị xe tăng, cơ giới dọc đường lớn sau Kim Thủy Hà. “Từ Đồn Ma Lù Thàng nhìn sang dãy đồi Pờ Xì Ngài của Trung Quốc, thấy rõ mồn một các ụ súng DKZ, đại liên dày đặc. Cả trận địa 5 khẩu pháo 105 ly và 2 trận địa hỏa tiễn H12 cũng nhìn được bằng mắt thường!”, ông Quẩy rành mạch vậy và cứ thi thoảng lại hướng mắt lên dãy núi phía bên kia biên giới: “Đạn pháo nó bắn, giết chết mấy chục anh em biên phòng còn rất trẻ!”.

    Ông Phạm Trục (87 tuổi, hiện sống ở Yên Bái, nguyên Chính trị viên đồn thời điểm 1977 - 1980) kể: ngày 21.1.1979, tốp gồm 3 chiến sĩ Biên phòng Trạm 3 đang tuần tra dọc sông Nậm Na thì bị 1 trung đội lính Trung Quốc phục kích, bắn chết 1 chiến sĩ, bắt sống 1 người.



    "Hy sinh trên tay đồng đội

    “Khi tôi quay lại chỗ giấu binh nhất Nguyễn Văn Mật, quê ở Đông Khê, Mê Linh, Vĩnh Phúc để đưa về tiếp thì ruột gan Mật đã lòi hết ra ngoài. Lấy mũ úp vào phần ruột đồng đội, băng lại và ôm lưng đưa về tuyến sau, nhưng do mất nhiều máu, Mật hực lên vài tiếng và chết ngay trên tay tôi, mắt vẫn mở trừng trừng!”.

    Cựu binh Lê Đình Thế"




    Thịt xương tan trong đất

    Buổi sáng 17.2.1979, Ma Lù Thàng là đồn biên phòng xa nhất về phía tây trở thành mục tiêu Trung Quốc tấn công (trong tổng số 47/60 đồn biên phòng trên toàn tuyến biên giới Việt - Trung). Do nằm trên đường trục lớn cửa khẩu, đồn phải đối phó với hùng hậu bộ binh và xe tăng.

    Ông Lê Đình Thế, nguyên chiến sĩ Đồn Ma Lù Thàng (hiện ở xã Nhạc Sơn, Sông Lô, Vĩnh Phúc) kể lại tâm trạng của cậu trai 19 tuổi “run lập cập” lần đầu hứng chịu trận mưa pháo từ bên kia biên giới, khi đang cùng tiểu đội 7 người chốt gác ở cầu cửa khẩu tuyến 1. Thế nhưng chỉ sau nửa ngày đánh trả quân xâm lược, cậu trai ấy đã một mình vừa bắn trả lính Trung Quốc, vừa cõng - dìu 2 đồng đội bị thương nặng thoát khỏi trận địa.

    Với những cựu binh Đồn Ma Lù Thàng năm 1979, gương mặt xương xương của liệt sĩ - thiếu úy Nguyễn Văn Hiền (sinh năm 1950, tại xã Thiệu Long, H.Thiệu Yên, tỉnh Thanh Hóa) không bao giờ phai nhòa. Sáng 17.2.1979, người quản lý “tay hòm chìa khóa” hậu cần của đồn đã chỉ huy 1 phân đội chặn đánh quân xâm lược ở mũi chính diện, đẩy lùi nhiều đợt tấn công. Bị thương vào tay, anh tự băng bó và tiếp tục chỉ huy chiến đấu. Lần thứ ba, bị thương gãy cả hai chân, Nguyễn Văn Hiền vẫn không rời vị trí, tiếp tục động viên chiến sĩ phản kích quyết liệt. Địch dùng chiến thuật biển người ào lên hết đợt này đến đợt khác. Sắp hết đạn, Nguyễn Văn Hiền lệnh cho 12 chiến sĩ phá vây, rút về tuyến sau. Một mình anh ở lại ghìm chân địch và chiến đấu dũng cảm đến viên đạn cuối cùng, trưa 17.2.1979.



    [​IMG]
    Mốc 66 ở Khu kinh tế Ma Lù Thàng



    Nhớ về người chồng ngã xuống khi mới 29 tuổi, cô giáo mới nghỉ hưu Nguyễn Thị Đường (hiện đang ở P.Đông Sơn, TP.Thanh Hóa) nghèn nghẹn: “Mảnh đất Ma Lù Thàng là một phần máu thịt của tôi!” và cho biết con trai là Nguyễn Việt Hùng cũng tiếp bước con đường của bố, đang là thượng úy, công tác tại Đại đội 2, Bộ Chỉ huy Bộ đội biên phòng tỉnh Thanh Hóa.

    Với người khác, cụm từ “một phần máu thịt” có thể chỉ là hình tượng, nhưng với gia đình cô giáo Nguyễn Thị Đường và Bộ đội biên phòng Ma Lù Thàng thì đó là sự thật còn nhiều hơn cả thật: trong số các cán bộ chiến sĩ biên phòng hy sinh tại đồn, có 8 người được xác định là “không có khả năng tìm kiếm thi hài” và thân thể các anh tan vào từng nắm đất biên cương.

    Hội tụ ân tình

    Tôi lên Ma Lù Thàng trước ngày 27.7.2014, hơn 35 năm sau ngày những người lính Đồn Ma Lù Thàng ngã xuống (17.2.1979). Con đường từ Pa So - trung tâm huyện Phong Thổ lên Ma Lù Thàng không còn gập ghềnh đèo dốc như những năm trước, mà láng mịn chạy thẳng đến cửa khẩu thông thương. Nơi đóng quân của đồn, tranh nứa, hầm hào công sự chằng chịt thưở nào giờ đã san lấp thành mặt bằng chờ doanh nghiệp nào đó đến xây dựng - đầu tư nhà xưởng, kho bãi. Thời gian có thể lấy đi di chứng, kỷ vật, chiến địa nhưng chắc chắn không xóa nổi ký ức oai hùng, gắn với những con người anh dũng.

    Buổi chiều Ma Lù Thàng, thiếu tá Nguyễn Đức Hùng, Chính trị viên đồn, chở tôi dọc theo con sông Nậm Na, giới thiệu rành rọt từng địa danh gắn với sự kiện tháng 2.1979. Dọc đường đi, anh liên tục gọi điện thoại kiểm tra từng thông tin về những người lính năm xưa không tìm được thi thể, để gọi tên trong lễ cầu siêu tối mai. Hùng bảo: “Có những chuyện không được phép quên lãng, nhất là những sự thật lịch sử, để sống có trách nhiệm hơn với vùng đất mình gắn bó!”.

    Những điều Hùng nói, tôi tin là thật. Thật như khi đến Ma Lù Thàng ngày này, chứng kiến những chiến sĩ trẻ hoàn thành nghĩa vụ quân sự, sáng mai về lại quê nhà, nhưng ngày cuối cùng ở đơn vị vẫn nhễ nhại mồ hôi dọn dẹp - tu sửa đài tưởng niệm 26 người lính của đồn hy sinh 35 năm trước. Thật như lời của cựu binh Lý Dân Quẩy người dân tộc Dao: “Ối! Tối nào tao cũng đợi ti vi chiếu xem cái giàn khoan của Trung Quốc nó làm gì ngoài biển!” và bảo: “Ở biên giới này, phải nhắc con cháu cảnh giác thôi!”.

    Bao năm rồi, cuối tháng 7, những tấm bia ghi tên liệt sĩ trải dọc biên giới Việt - Trung luôn rừng rực khói hương, hằn soi ánh lửa trên phù hiệu hình vó ngựa gắn ve áo biên phòng.

    Tháng 7, trời Tây Bắc đang mùa mưa bỗng cao xanh đến lạ, cứ thăm thẳm như màu biển Hoàng Sa kéo về hòa cùng màu lá xanh nơi địa đầu. Hình như, đó là màu xanh hội tụ áo lính quá khứ - hiện tại cùng chọn một ngày thiêng và cùng thề giữ nước non!

    Mai Thanh Hải
    hk111333, onamiowadauman thích bài này.
  5. cu-bo

    cu-bo Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    03/05/2012
    Bài viết:
    388
    Đã được thích:
    322
    Nỗi đau Vị Xuyên trong ký ức người lính trở về
    Những chiến sĩ sư đoàn 356 đứng lặng dưới mưa, nhắc lại ký ức về trận chiến Vị Xuyên đau thương, hào hùng như mảnh pháo găm vào da thịt họ suốt 30 năm.
    Cuộc chiến biên giới Vị Xuyên (Hà Giang) đã trôi qua 30 năm, sư đoàn 356 cũng giải thể. Những anh lính năm xưa người trở về đời thường, người tiếp tục theo nghiệp binh. Còn lại trên mảnh đất Hà Giang nơi yên nghỉ của hơn 1.700 liệt sĩ hy sinh ở mặt trận Vị Xuyên trong cuộc chiến bảo vệ biên giới chống quân Trung Quốc xâm lược tại xã Đạo Đức, huyện Vị Xuyên, cách TP Hà Giang hơn 20 km.

    [​IMG]
    Cựu binh Lê Huy Tâm xúc động khi gặp lại người đồng đội xưa. Ảnh: Hoàng Phương.

    Tháng 7, Vị Xuyên mưa không ngớt. Từ đài tưởng niệm đi lên, khu mộ liệt sĩ chưa biết tên nằm góc bên tay phải. Người quản trang tên Nguyên cho biết, đó chủ yếu là những phần mộ của những người lính hy sinh ngày 12/7/1984. Cạnh những mộ phần có thông tin đầy đủ, nhiều ngôi vỏn vẹn ghi "Liệt sĩ đặc công", "Đơn vị trinh sát"... Đối chiếu ngày nhập ngũ, nhiều người mới bước qua tuổi 18.

    Mưa tan, các cựu chiến binh Sư đoàn 356 quê Yên Bái rủ nhau vào thắp hương cho đồng đội. Đồ lễ bao giờ cũng có mấy thanh lương khô. Đó là món ngon nhất mà người lính thích ăn trong những ngày giữ chốt biên thùy. "Ăn lương khô giờ chẳng hiểu sao không thể ngon bằng thứ lương khô vừa đắng, vừa bở như bột ngô hồi đó", cựu binh Nguyễn Quang Tuấn (48 tuổi) nói.

    Họ bảo nhau chia đều hương khói cho tất cả mộ nằm trong nghĩa trang. Các cựu binh tâm niệm rằng thắp cho người này mà bỏ sót người kia thì tội đồng đội lắm. Những vòng khói nhang cứ luẩn quẩn quanh tấm bia phủ màu rêu. Mỗi ngôi mộ là câu chuyện riêng về cuộc đời người lính đến từ những miền quê khác nhau, số phận khác nhau nhưng nằm lại đất này vì chung một nhiệm vụ giữ từng tấc đất biên thùy.

    [​IMG]
    Các cựu binh ôm guitar ca vang bài hát "Về đây đồng đội ơi" (sáng tác Trương Quý Hải). Phía sau họ là cao điểm 772, nơi hàng trăm người lính ngã xuống trong trận đánh ngày 12/7. Ảnh: Tạ Ngọc Dũng.

    Đứng trước ngôi mộ ghi thông tin liệt sĩ Đào Văn Tiến (người Hà Nội), cựu binh Lê Huy Tâm (51 tuổi) như vỡ òa khi nhìn thấy người đồng đội ở trung đoàn 876, Sư đoàn 356 năm xưa - vị tiểu đội trưởng hiền lành, ít nói, được cả đơn vị yêu quý gọi là Tiến "Chíp". Ông Tâm ngồi xoa cho rõ tấm bia, xưng mày tao thân thiết và kể cho người nằm dưới mộ nghe ký ức bữa cơm cuối cùng trước giờ xuất kích.

    "Mày nhớ không Tiến? Hôm đó, 7 thằng đang ăn thì hết cơm. Bọn mày chạy sang tiểu đội anh Đôn bê nồi cơm về ăn tiếp. Tao bảo kiêng không ăn cơm hai nồi nhưng bọn mày cười xòa. Lính trẻ vô tư, nào có nghĩ gì. 30 năm rồi đấy. Đến hôm nay, nhìn tấm bia tao mới biết mày ít tuổi hơn, thế mà hồi đó tao vẫn gọi mày là anh vì nhập ngũ sau", ông Tâm cười, tiếng cười nghẹn nơi cổ họng, vai khẽ rung lên. Đó cũng là bữa cơm cuối cùng ông được ăn với đồng đội người Thủ đô. Pháo quân Trung Quốc rót trúng tiểu đội dưới chân cao điểm 772 rạng sáng 12/7, liệt sĩ Tiến hy sinh khi mới 19 tuổi.

    Những ngày ăn cơm sấy, uống nước suối, bám đá, đội pháo quên thân, quăng quật ngày đêm để giữ từng tấc đất của Tổ quốc, người lính Sư đoàn 356 truyền nhau khẩu ngữ "10 không": Lên chốt gặp nhau không chào không hỏi/ Không bắt tay khi gặp khi xa/ Không cắt tóc cạo râu/ Không mặc quần áo mới/ Không la cà tụm ba tụm bảy/ Không gần gũi đàn bà/ Không ăn thịt vịt, trứng vịt, thịt chó, cá mè/ Không ăn cơm cháy, cơm khê, cơm hai nồi/ Khi ngủ không ngáy/ Không chửi thề chửi tục. Trong họ khi ấy chỉ có tâm niệm không để cho kẻ thù tràn xuống Hà Giang.

    Góc trái nghĩa trang là nơi yên nghỉ của hai liệt sĩ Nguyễn Văn Hùng và Nguyễn Quốc Hùng, đồng hương Yên Bái, bạn học của cựu chiến binh Đào Mạnh Chung (49 tuổi). Hai người nằm cùng hàng, chỉ cách nhau một ngôi mộ.

    "Cả xóm có 4 đứa chơi thân với nhau, đi bộ đội cùng ngày, biên chế vào một đơn vị. Cả hai Hùng hy sinh, người bạn kia không tìm thấy xác, chỉ mình tôi còn sống trở về. Người cha liệt sĩ Nguyễn Văn Hùng nay 85 tuổi, mong mỏi một lần được lên thăm mộ con trai nhưng sức yếu không đi được", người cựu chiến binh tên Chung rưng rưng nước mắt kể.

    Từng đám sương từ phía núi bay về, vấn vít khắp nghĩa trang. Các cựu binh cúi đầu, lầm rầm khấn vái trước khi giã biệt đồng đội. Họ như nghe rì rầm từ lòng đất vọng về tiếng trung đội phó DKZ tên Công, tối hôm trước mới khoe nhận thư nhà, vợ báo sinh con trai. Tiếng tiểu đoàn trưởng Thanh kể chuyện ngày phép đi hỏi vợ. Đứng trước ngàn quân, anh đĩnh đạc lắm. Nhưng đứng trước người con gái anh yêu thương lại không dám ngỏ lời, phải nhờ cha nói hộ.

    Đại úy Nguyễn Hữu Thanh là liệt sĩ đầu tiên được tìm thấy hài cốt tại cao điểm 772 sau khi cuộc chiến chấm dứt. Bà Lưu Thị Lan (vợ liệt sĩ Thanh) dò hỏi khắp nơi tin tức, đi dọc nghĩa trang Vị Xuyên tìm từng phần mộ. Nhờ những người đồng đội cũ nhớ rõ vị trí ông hy sinh, bà Lan mới đưa được hài cốt chồng về an táng tại Quảng Bình.

    Năm 1989, Sư đoàn 356 giải thể. Cái tên "sư đoàn hóa đá" trở thành nỗi đau chung của tất cả người lính. Người còn sống không còn giấy tờ, người đã khuất nằm mãi ở các điểm cao, thung sâu, vách núi, không mang được hài cốt về vì chiến trường xưa vẫn la liệt bãi mìn chưa gỡ hết. Người dân Vị Xuyên đi rừng thi thoảng vẫn nhìn thấy những mảnh hài cốt phơi mưa gió trên dải biên cương.

    Cuối năm 2013, các cựu binh Sư đoàn 356 góp chi phí xây dựng một đài hương nhỏ trên cao điểm 468, tưởng niệm đồng đội còn nằm lại chiến trường. Mỗi lần lên thăm, họ mang theo thuốc lào, pha ấm nước chè cúng như thói quen ngày còn chiến đấu.

    Đứng ở đài hương nhìn xuống thấy thung lũng Nậm Ngặt xanh mướt màu lúa non, lác đác nhà sàn của người dân sinh sống. Nhìn sang bên cạnh "đồi thịt băm" 772, "lò vôi thế kỷ" 685 phủ dầy cây cối, không còn màu chết chóc đau thương. Phía xa là điểm cao 1509 mây phủ, chỉ nhìn thấy đỉnh vài lần trong năm. Đài hương trở thành nơi hội quân của người lính sư đoàn 356 và đồng đội ở các đơn vị khác cùng góp máu xương cho cuộc chiến chống Trung Quốc xâm lược biên giới Vị Xuyên 30 năm trước.

    Hàng năm đến ngày 12/7, các cựu chiến binh từ Sài Gòn ra, từ Hà Nội lên, từ Lào Cai, Yên Bái sang... tụ họp tại Vị Xuyên. Không ai bảo ai, họ gặp nhau để cùng thắp nén hương tưởng nhớ người nằm xuống, ôm nhau khóc nức nở trong cơn mưa tầm tã trắng trời Vị Xuyên. 30 năm nay, chưa khi nào họ thôi khóc trong những cuộc hành quân trở về như thế.

    Và trong câu chuyện xưa kể lại, họ ôm guitar hát gọi những người lính mãi mãi tuổi hai mươi: Về đây đồng đội ơi…Hà Giang đã ngưng chiến trận/ Hãy về đồng đội ơi, còn nằm khe đá hay thung sâu/ Về đây có nhau như nguyện ước chiến hào, được hòa cùng bầy trẻ thơ bên sông Lô hát yên bình/ Quân dân nồng ấm nghĩa tình…/ Hãy về đồng đội ơi, người lính chiến mãi đôi mươi/ Về đây điếu thuốc lào, ấm trà chốt hồn nhiên nụ cười/ Bạn bè, đồng đội, người thân ôm nhau nước mắt chan hòa/ Biên cương hình bóng quê nhà...

    Hoàng Phương
    dungsamtien, Malogs, hk1113332 người khác thích bài này.
  6. hanhgl

    hanhgl Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    08/02/2010
    Bài viết:
    1.771
    Đã được thích:
    941
    Cụ nào có tư liệu vêv cuộc chiến chống thám báo biệt kích tàu không, sau 1979 cái này cũng căng và cam go lắm, hình như lúc ấy BP ta thuộc BCA tức là CAVT phải không các cụ. Những năm sau này nghe cụ nhà tôi và các cụ hiu chí khác hay trà dư tửu hậu lắm, bởi vì trong đó có cụ giỏi tiếng Trung đã từng khai thác bọn này. Tuy nhiên chỉ là lời kể thôi. Có lẽ không xác thực được.:)
  7. cu-bo

    cu-bo Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    03/05/2012
    Bài viết:
    388
    Đã được thích:
    322
    Biên cương nơi anh ngã xuống
    (TNO) 35 năm đã qua, nhưng những ngọn núi, thân cây dọc biên cương một dải phía Bắc vẫn còn đó những dấu ấn về cuộc chiến bảo vệ đất nước trước quân xâm lược Trung Quốc. Từ Móng Cái đến Lai Châu, từ huyện đến thôn bản nào cũng gặp các nhà bia ghi tên những người lính đã ngã xuống trong những tháng năm khốc liệt ấy.
    Những ngày cuối tháng 7.2014, bên cạnh những nhà bia mái cong, nức nở mùi hương thơm gọi tên từng người ngã xuống.
    Kỳ 1: Bức điện cuối cùng của đồn Pha Long

    [​IMG]
    Bia trấn ải tại Pha Long

    Lịch sử ngành Thông tin cơ yếu Quân đội không thể quên những bức điện vĩnh biệt đồng đội, gửi đi trong thời khắc cuối cùng của lằn ranh sinh - tử. Đó là một bức điện từ nhà giàn DK1 và một từ Đồn Biên phòng Pha Long (Lào Cai), ngay trong những ngày đầu đánh trả quân Trung Quốc xâm lược.

    “Dù còn 1 người cũng chiến đấu”

    Đồn Biên phòng Pha Long đóng ở tận cùng mảnh đất Mường Khương, Lào Cai với cổng đồn uy nghiêm vững chãi, chốt giữ con đường dẫn ra cửa khẩu cùng tên. Bên trái cánh cổng, mới cứng tấm bia trấn ải mới được dựng hồi tháng 5.2013, chữ tô đỏ chót như máu: “Nguyên Thần Bổn Mệnh giữ núi non. Nam Sơn bốn cõi tựa sách trời định. Thiên thiên nhật nguyệt linh linh ứng. Tuyệt tuyệt long phụng báo quốc an. Bình nhất hà Việt Nam Quốc thổ” (Tạm dịch nghĩa: Nguyên Thần được giao sứ mệnh giữ núi non. Núi nam bốn cõi đã quy định trong sách trời. Nghìn nghìn mặt trời, mặt trăng linh thiêng và ứng nghiệm (điều đó). (Có) rồng phượng tuyệt vời bảo vệ an nguy tổ quốc. Đất Việt Nam yên bình nhất là ở đây).

    Bên phải là đài tưởng niệm, ghi tên 37 người lính Biên phòng hy sinh tại Pha Long, đại đa số ngã xuống thời điểm tháng 2.1979, trong khi đánh trả quân Trung Quốc xâm lược.

    Trung tá Phan Đức Mạnh, Chính trị viên Đồn Biên phòng Pha Long, kể: sáng sớm 17.2.1979, phía Trung Quốc dùng 2 trung đoàn bộ binh bất ngờ tấn công sang Pha Long, nhằm triển khai ý đồ chiến thuật cắt rời mảnh đất hình tam giác này ra khỏi thế trận liên hoàn toàn tỉnh Hoàng Liên Sơn.

    [​IMG]
    Đài tưởng niệm các Liệt sĩ Đồn Biên phòng Pha Long

    Ngay từ 5 giờ sáng, Đồn Pha Long rơi vào thế cô lập, bị bao vây nhưng vẫn chiến đấu phòng ngự suốt 4 ngày đêm (17 - 20.2), chống trả số lính thiện chiến, có sự yểm trợ của pháo binh và đông gấp nhiều lần bên ta.

    Đến bây giờ, những người già ở Mường Khương vẫn thường nhắc đến những địa danh đẫm máu trong trận chiến khốc liệt 4 ngày đêm ấy. Đó là trạm Biên phòng Lồ Cố Chin, nằm cạnh mốc 21 cách Đồn 5 km; pháo đài Lê Đình Chinh, cách Đồn khoảng 200 m; chốt cửa khẩu và đặc biệt là Đồn bộ...

    Tính ra, trong 4 ngày đêm, lính Trung Quốc vây kín quanh Đồn, tổ chức 13 lần xung phong vượt cổng - vượt thành để chiếm Đồn thì 10 lần bị đánh trả quyết liệt phải tháo lui, yêu cầu pháo tầm xa và hỏa lực đi cùng bắn áp chế mục tiêu.



    [​IMG]Chúng tôi đã chiến đấu hết đạn. Xin vĩnh biệt các đồng chí![​IMG]
    Bức điện tín cuối cùng phát đi tại Đồn Pha Long


    Thượng tá Trần Quốc Khải, nguyên Trưởng Đồn Biên phòng Pha Long, hồi tưởng: “Quân đội đối phương được huấn luyện rất kỹ về đánh bộc phá, chúng lại giàu bộc phá để đánh công kiên, nhưng suốt 4 ngày đêm tấn công, chúng không đặt được 1 quả bộc phá nào vào chân lô cốt chỉ vì không tiếp cận được mục tiêu!”.

    Đến giờ ông vẫn ngạc nhiên về tác phong chiến đấu lạ lùng của binh sĩ địch: chỉ sợ B40 và lựu đạn; thấy súng CKC bắn trả chỉ cười và tiến dồn đống trước hỏa lực đại liên, trung liên; đánh vào lô cốt ngầm thì không tìm góc chết; khi bị thương thì kêu la inh ỏi, túm tụm với nhau...

    Chính những điểm yếu này của địch đã tạo cơ hội cho chiến sĩ ta đánh tiêu diệt, gây thương vong rất nặng cho chúng (khoảng 800 tên).

    Thời điểm ấy, Đồn trưởng Pha Long đi công tác xa, việc chỉ huy do thượng úy Trần Ngọc, Chính trị viên kiêm Bí thư Chi bộ Đồn. Mặc dù trước đó đã được tăng cường 3 Đại đội Cơ động của tỉnh, nhưng do bị vây đánh suốt mấy ngày liền, lương thực - đạn dược cạn dần, thương vong ngày càng cao... những người lính Pha Long đã chiến đấu đến hơi thở cuối cùng.

    Đến giờ, các nhân viên Thông tin - cơ yếu trong toàn quân lúc đó vẫn không quên nội dung 2 bức điện phát lên từ Pha Long: bức điện gửi trưa ngày 18.2 ghi: “Đồn Pha Long bị bao vây, địch đã chiếm hết các chốt của ta, lực lượng thương vong nhiều. Nhưng anh em chúng tôi còn lại kiên quyết không rời vị trí chiến đấu. Dù còn 1 người cũng chiến đấu”và bức điện lúc 11 giờ ngày 19.2: “Chúng tôi đã chiến đấu hết đạn. Xin vĩnh biệt các đồng chí!”.

    [​IMG]
    Nghĩa trang Liệt sĩ xã Pha Long

    32 người nằm lại Pò Hèn

    Cũng làm nhiệm vụ Thông tin - cơ yếu như đồng đội ở Đồn Pha Long, nhưng chiến sĩ Đoàn Tiến Phúc (Đồn Pò Hèn, Quảng Ninh) không kịp gửi bức điện vĩnh biệt, bởi phút cuối cùng, đài vô tuyến của đồn bị hỏng.

    Khi nhận được mệnh lệnh cuối cùng, trước khi ngã xuống của Chính trị viên Nguyễn Xuân Tảo: “Thiêu hủy tài liệu mật”, chiến sĩ Phúc chưa kịp thực hiện thì trúng đạn bị thương nặng. Biết không thể sống được, Phúc để tài liệu dưới bụng, nằm đè lên. Anh hy sinh bên cạnh Chính trị viên Tảo.

    “Đâu rồi những chàng trai trẻ/Ùa xuống cổng đồn đón khách lên thăm/Chỉ còn bia mộ nghĩa trang?/Mắt rưng rưng, dò đọc từng dòng/Gặp điệp khúc tháng hai năm bảy chín/Lời vĩnh biệt nhói trời Pha Long”...
    (Trích bài thơ “Ghi ở Pha Long” của nhà thơ Vương Trọng)



    Cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới tại Đồn Biên phòng Pò Hèn là một trong những trận đánh ác liệt nhất trong ngày 17.2.1979. Lúc 5 giờ 30 phút, chiến sĩ gác Phạm Văn Điều phát hiện lính Trung Quốc trước cổng Đồn, cũng là lúc chúng hoàn thành việc triển khai bao vây Đồn bằng 3 hướng bộ binh đã tràn sang trước đó.

    Cũng giống như ở Pha Long, Đồn trưởng Biên phòng Pò Hèn đi vắng, nên nhiệm vụ chỉ huy chiến đấu dồn lên vai Đồn phó Đỗ Sĩ Họa và Chính trị viên Nguyễn Xuân Tảo. Cùng sát cánh chiến đấu với cán bộ chiến sĩ Đồn là Chủ tịch xã Pò Hèn đến chơi và chị Hoàng Thị Hồng Chiêm, nhân viên Thương nghiệp huyện Hải Ninh (Quảng Ninh) lên thăm người yêu là anh Bùi Văn Lượng, cán bộ đội Vận động quần chúng của Đồn.

    Cuộc chiến đấu không cân sức giữa những người lính Biên phòng, đánh trả từ chó chiến đấu Trung Quốc cho đến những tên lính bộ binh thiện chiến, kết thúc lúc 11 giờ 30 cùng ngày. Tất cả 32 cán bộ chiến sĩ Đồn Pò Hèn hy sinh.



    [​IMG]
    Bộ đội Biên phòng Pha Long dựng nhà cho gia đình liệt sĩ



    Ở Đồn Biên phòng Pha Long và Pò Hèn bây giờ, cứ gần đến ngày 27.7 là thêm nghi ngút khói hương và nằng nặng sắc hoa tươi bên Đài tưởng niệm. Những bông hoa, chủ yếu là màu trắng, bởi những người lính khi ngã xuống còn rất trẻ. Người già ở Pha Long, Pò Hèn bảo: hầu hết anh em đều mất thi hài bởi đạn pháo, nên linh hồn quất quýt quanh Đồn, cùng giữ biên cương... (Còn tiếp)



    Theo tổng kết, tại hướng Hoàng Liên Sơn, phía Trung Quốc đã huy động 3 quân đoàn (11, 13, 14). Một trung đoàn địch đánh vào khu vực Pha Long ở phía Đông để yểm trợ cho cánh quân Mường Khương. Tại hướng này, 3 Đồn Biên phòng cửa khẩu là Lào Cai, Mường Khương, Pha Long và 2 Đồn Nậm Chảy, Na Lốc đã chiến đấu quyết liệt.

    Ngay tại điểm chốt cầu Chui, 2 chiến sĩ Quách Văn Rạng và Lê Hồng Cầm (Đồn Biên phòng Cửa khẩu) đã bắn cháy 2 xe tăng - bọc thép của địch. Hết đạn, chiến sĩ Cầm bị thương, địch bao vây hòng bắt sống. Chiến sĩ Rạng băng bó, cõng Cầm giấu vào bụi cây, sau đó xách AK chạy ra hướng khác, bắn vào nhóm lính đang truy lùng, đánh lạc hướng. Địch dồn về phía Rạng, anh phá súng và tung quả lựu đạn cuối cùng. Hình ảnh cuối cùng mà Cầm nhìn thấy là Rạng tay không đánh địch và bị chúng bắt sống, nhưng cương quyết không khai. Điên khùng, chúng móc 2 mắt của người chiến sĩ biên phòng và tra tấn anh đến chết.



    Mai Thanh Hải
    hasinhat, Malogs, hk1113331 người khác thích bài này.
  8. cu-bo

    cu-bo Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    03/05/2012
    Bài viết:
    388
    Đã được thích:
    322
    Biên cương nơi anh ngã xuống - Kỳ 3: Những kỹ sư cầm súng nơi Tĩnh Túc
    Trận chiến chống quân Trung Quốc tại mỏ thiếc Tĩnh Túc (Cao Bằng) đã qua hơn 35 năm, nhưng những người thân, đồng đội, mỗi lần nhắc đến nước mắt lại cứ trào ra…
    [​IMG]
    Bà Hoàng Thị Thể, vợ liệt sĩ Chu Văn Thoát xúc động bên ngôi mộ chồng



    Những đêm gần cuối tháng 7.2014, nghĩa trang mỏ thiếc Tĩnh Túc, huyện Nguyên Bình (Cao Bằng) lung linh với hàng trăm ngọn nến, soi sáng cả một vùng rừng núi âm u.

    Đêm cầu siêu các anh linh liệt sĩ, mặc cho mưa bay, mặc cho gió thổi, một người đàn ông tuổi trạc ngũ tuần trầm ngâm ngồi bên những ngôi mộ tinh tươm mới xây. Tiếng ông khấn rì rầm lẫn vào tiếng gió. Thi thoảng ông đưa tay gạt những giọt nước mắt lăn trên má. Nước mắt nhớ thương những đồng đội hơn 35 năm không còn gặp lại.

    Ông là Hoàng Quốc Bình, người đồng đội duy nhất có mặt tại đây để mừng cho đồng đội về “nhà mới”. Và trận chiến ngày 20.2.1979 cứ hiện về trước mắt ông, cứ như mới hôm qua.

    Quyết chiến giữ mỏ

    Ngày ấy, các anh Nguyễn Văn Hoằng (quê Hà Nam Ninh), anh Dương Viết Lành (Quảng Bình), Nguyễn Văn Thành (Bắc Ninh), Phạm Văn Luân (Ninh Bình)… đều là những kỹ sư trẻ tuổi ngoài 20, vừa được đi đào tạo ở nước ngoài về. Theo tiếng gọi của của Tổ quốc, các anh xung phong lên công tác tại mỏ thiếc Tĩnh Túc.



    [​IMG]
    7 giờ 30 phút sáng, quân địch tiến đánh điểm chốt của ta trên quốc lộ 34. Trung đội tự vệ đã chiến đấu kiên cường, tiêu diệt tại chỗ và làm bị thương 80 tên địch. Chúng tôi đã bảo vệ được cây cầu Tà Sa, chặn đứng không để quân Trung Quốc tiến vào huyện Nguyên Bình và mỏ thiếc Tĩnh Túc phá hoại. Nhưng cũng trong trận đánh ác liệt đó, tôi đã mất đi 15 đồng đội

    [​IMG]
    Cựu chiến binh Hoàng Quốc Bình



    “Khi hay tin quân Trung Quốc tràn sang xâm chiếm đất nước, trong đó có tỉnh Cao Bằng, ngày 17.2.1979, chúng tôi là những thanh niên được đơn vị triệu tập vào trung đội tự vệ mỏ nhận nhiệm vụ chặn đánh địch.

    Chiều 18.2, cả đội được lệnh di chuyển xuống nhà máy thủy điện Tà Sa. Ghé qua huyện đội Nguyên Bình chúng tôi được trang bị thêm vũ khí. Thú thật, có người trong chúng tôi lúc đó chỉ quen lái máy xúc, máy ủi, chứ chưa bao giờ cầm súng, cầm lựu đạn”, ông Bình nhớ lại.

    Mờ sáng 19.2, cùng với hai đồng đội, ông Bình được cử đi trinh sát. Phát hiện một toán quân mặc quân phục xanh giống hệt bộ đội Việt Nam, chỉ khác ngôi sao 5 cánh trên mũ không có khuôn viền tròn ở ngoài, đoán là địch, đội trinh sát chạy về cấp báo.

    “Xét về tương quan lực lượng, mình yếu hơn địch rất nhiều. Để bảo toàn lực lượng, chúng tôi quyết chống trả đến cùng. 7 giờ 30 phút sáng, quân địch tiến đánh điểm chốt của ta trên quốc lộ 34. Trung đội tự vệ đã chiến đấu kiên cường, tiêu diệt tại chỗ và làm bị thương 80 tên địch. Chúng tôi đã bảo vệ được cây cầu Tà Sa, chặn đứng không để quân Trung Quốc tiến vào huyện Nguyên Bình và mỏ thiếc Tĩnh Túc phá hoại. Nhưng cũng trong trận đánh ác liệt đó, tôi đã mất đi 15 đồng đội”, ông Bình kể.

    Nỗi đau người ở lại

    Theo lời ông Bình, đa số anh em trong đội tự vệ từ dưới xuôi lên, chưa lập gia đình nên được phân công ở tập thể cùng nhau. Người đến từ Hà Bắc, Hà Nam Ninh, hay Hải Hưng… nhưng sống với nhau như anh em, chẳng so đo, so bì.

    Tuổi đôi mươi, tương lai của những anh kỹ sư, công nhân đang rạng ngời ở phía trước nhưng tất cả đều bị quân Trung Quốc xâm lược cướp mất, từ những ước mơ đến hạnh phúc nơi quê nhà.

    Dẫn chúng tôi đến từng ngôi mộ, ông Bình đau đớn kể: “Đây là anh Dương Viết Lành. Khi anh ra đi để lại người vợ trẻ đang mang thai. Vì quá đau buồn trước cái chết của chồng, sức khỏe suy sụp, sau khi sinh, chị cũng đi theo anh mãi mãi. Đứa con bé bỏng tội nghiệp của anh, sau đó được ông bà dưới quê đón về nuôi”.

    “Và còn nữa, anh Phạm Vũ Luân, người trong lao động sản xuất vô cùng tích cực. Trong tình cảm thì hết chê. Chính anh là người chỉ bảo chúng tôi cầm súng. Còn anh Nguyễn Văn Hoằng, chúng tôi hoàn toàn khâm phục anh. Nếu anh còn sống, có thể anh đã là lãnh đạo mỏ hoặc là kỹ sư giỏi đầu ngành”, ông Bình kể tiếp.



    “Đây là anh Nguyễn Đức Hùng sinh năm 1956, quê Hà Bắc, cao to cao đẹp trai. Anh nằm trong số anh em vừa đi học nước ngoài về. Nếu không có cuộc chiến, một tháng sau anh sẽ tổ chức đám cưới. Tôi có chút hoa tay, được anh gửi gắm vẽ và viết thiệp mời. Vậy mà, thiệp cưới viết dang dở, chưa kịp gửi đi, anh đã hy sinh”
    Cựu chiến binh Hoàng Quốc Bình rơm rớm nước mắt kể.


    Với những người đã có gia đình, sự thiếu vắng người chồng, người cha, thiếu đi trụ cột, cuộc sống vốn đã khó khăn, lại càng trở nên cơ cực.

    Bà Hoàng Thị Thể, vợ liệt sĩ Chu Văn Thoát, ngậm ngùi: “Ông ấy người Trùng Khánh, mồ côi cha mẹ từ bé. Cả hai đều là công nhân mỏ, gặp nhau nên duyên vợ chồng. Khi nhận được lệnh điều động, ông ấy vội vã ra đi, chưa kịp ăn sáng và nhắn nhủ vợ con điều gì. Còn 4 mẹ con gồng gánh đi sơ tán. Một tháng sau trở về, chỉ biết ôm nấm mồ mà khóc. Một mình nuôi 3 con nhỏ, đứa lớn 13, đứa nhỏ 7 tuổi, đồng lương công nhân còm cõi không đủ sống. Ngày ngày tôi trồng rau, nuôi lợn. Đứa lớn, sáng đi học, chiều chở giá đỗ đi bán. Vậy mà bữa đói, bữa no”.

    35 năm lùi xa, nhưng những nỗi đau vẫn dai dẳng ở lại. Vợ liệt sĩ Lý Văn Nhân, bà Đinh Thị Thóa, là một trong số đó.

    Chồng mất, gánh nặng dồn lên vai người phụ nữ, nên bà không thể cáng đáng nuôi nổi 4 đứa con ăn học đến nơi đến chốn. Đứa con trai duy nhất, bị mất trí, khi lên cơn hay đánh đập bà. Nó còn bán hết cả đồ đạc, giường tủ trong nhà. Còn cô út, năm 1997 bị lừa bán sang Trung Quốc, đến giờ vẫn bặt tin.

    Mặc dù tay bị liệt, đi phải chống gậy, bà Thóa vẫn một mực đòi anh Cao Văn Đang, con rể đưa đến nghĩa trang để thắp một nén nhang lên ngôi mộ mới được sửa sang của chồng. Anh Đang cho hay, do buồn chuyện chồng con, nên sức khỏe bà suy sụp như vậy.

    Ông Hoàng Quốc Bình cho biết: “Căn nhà xây từ những năm 1963 đến giờ, mưa nắng vẫn lo dột vào nhà. Chúng tôi cũng đã hỗ trợ, tạo mọi điều kiện nhưng gia đình bà Đinh Thị Thóa cũng chưa có một mái nhà thực sự êm ấm. Trách nhiệm của chúng tôi, trách nhiệm của địa phương và những người còn sống là để bà không còn chịu cảnh vất vả”.



    [​IMG]
    Bà Đinh Thị Thóa, chống gậy thắp hương cho chồng

    [​IMG]
    Tay bị liệt, nên bà Thóa rất khó khăn khi chắp tay vái chồng

    [​IMG]
    Bà Thóa nhất định đòi con rể (trái) dẫn đến đây để thắp nén nhang mừng "nhà mới" của người chồng liệt sĩ - Ảnh: T.Hằng

    [​IMG]
    Ông Hoàng Quốc Bình, lặng lẽ trò chuyện với những người đồng đội





    "Thay mặt những người thân, đồng đội đã nằm xuống ở Tĩnh Túc, ông Bình cảm ơn Báo Thanh Niên, các nhà tài trợ đã giúp "nhà mới" cho các liệt sĩ chống Trung Quốc. Ông Bình bày tỏ: “Việc tu sửa, nâng cấp lại nghĩa trang là sự khởi đầu. Về phần mình, tôi hy vọng sẽ cùng với địa phương làm tốt công tác chính sách xã hội, nhất là đối với các gia đình liệt sĩ. Đây cũng là cách tri ân tốt nhất của những người còn sống với các liệt sĩ nằm xuống."



    Thu Hằng
    truonghuyenquan thích bài này.
  9. cu-bo

    cu-bo Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    03/05/2012
    Bài viết:
    388
    Đã được thích:
    322
    Tướng Lương: Dù TBT Lê Duẩn đã dự kiến, tôi vẫn chưa tin TQ đánh
    Hồng Chính Quang


    [​IMG]


    - Tướng Lê Mã Lương nói: “Lần giở lịch sử, thấy những cuộc xung đột của Trung Quốc với các nước láng giềng thì không có gì ngạc nhiên khi cuộc chiến năm 1979 xảy ra”.
    Lời tòa soạn: Cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc vào tháng 2/1979 do Trung Quốc phát động xâm lược Việt Nam đã qua đi được 35 năm. Dù Trung Quốc đã rút quân vào đầu tháng 3/1979 nhưng những hy sinh mất mát của người Việt Nam chỉ kết thúc thực sự vào năm 1989, sau khi Trung Quốc dùng vũ lực chiếm một số đảo thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam. Để giúp bạn đọc có những góc nhìn đầy đủ hơn về cuộc chiến bảo vệ từng tấc đất biên cương của quân và dân Việt Nam cũng như bản chất của hành động gọi là “dạy cho Việt Nam một bài học” từ Đặng Tiểu Bình, chúng tôi xin giới thiệu tới độc giả loạt bài về Chiến tranh biên giới phía Bắc.

    Là người từng lăn lộn, chiến đấu tại những nơi ác liệt nhất ở biên giới phía Bắc trong 8 năm, Thiếu tướng Lê Mã Lương vẫn còn nhớ như in những ký ức về cuộc chiến tàn khốc này. Chúng tôi tìm đến vị tướng nổi tiếng với câu nói: “Cuộc đời đẹp nhất là trên trận tuyến chống quân thù” để nghe ông kể về những năm tháng không thể nào quên trong cuộc đời người lính ở cuộc chiến tranh khốc liệt ấy.

    Tướng Lê Mã Lương cho hay: “Kể từ sau khi chiến tranh kết thúc, năm nào tôi cũng có các chuyến đi đến một số tỉnh biên giới phía Bắc với những công việc khác nhau. Nhìn sự phát triển của các địa phương nơi địa đầu của Tổ quốc như ngày nay, mấy ai có thể tưởng tượng được những nơi đó đã từng phải chịu sự tàn phá của cuộc chiến khốc liệt năm 1979 do Trung Quốc phát động với ý đồ “dạy cho Việt Nam một bài học”.

    [​IMG]

    Thiếu tướng Lê Mã Lương (Ảnh: Tuấn Nam)
    Ông bồi hồi nhớ lại: “Sau khi giải phóng miền Nam năm 1975, tháng 8/1975, Trung đoàn 24 thuộc Sư đoàn 304 cùng với một số đơn vị khác rời Sài Gòn lên Tây Nguyên để tiêu diệt Fulro. Suốt từ 8/1975 cho đến 6/1976, chúng tôi lăn lộn trên vùng Tây Nguyên và đã thực hiện được nhiệm vụ rất vẻ vang là làm tan rã toàn bộ lực lượng Fulro – lực lượng có ý đồ tách vùng Tây Nguyên của Việt Nam ra thành một nhà nước độc lập.

    Với bài học luôn cảnh giác, khi chiến tranh biên giới ở phía Tây Nam nổ ra, các lực lượng của chúng ta lại bước vào một cuộc chiến mới với tâm thế rất đàng hoàng, đĩnh đạc vì yêu cầu của nước bạn, giúp bạn trên tinh thần giúp bạn như giúp chính mình. Vì vậy chúng ta đã hết sức vô tư cam kết với bạn và cùng với bạn tiến hành cuộc chiến tranh chống lại Pol – Pốt mà đứng đằng sau họ là đội ngũ cố vấn của Trung Quốc. Trung Quốc đã trang bị và có những đảm bảo về hậu cần giúp cho quân đội Khmer – đỏ chống lại quân tình nguyện và quân cách mạng Campuchia.
    Chúng ta đã có thêm một bài học và linh tính có một sự manh nha nào đó về một cuộc chiến với người bạn lớn, nước láng giềng lớn đã từng kề vai sát cánh với chúng ta trong sự nghiệp chống kẻ thù chung. Những người bạn đó đã giúp cho kẻ thù chống phá sự bình yên vừa hé mở đối với Việt Nam. Sau hành động này của Trung Quốc ở biên giới Tây Nam, một lần nữa hiện thực lại cho thấy để có một nền hòa bình, chúng ta cũng phải trả những giá rất đắt. Chính vì vậy khi chiến tranh biên giới phía Bắc nổ ra, có nhiều người bất ngờ nhưng xâu chuỗi lại những hành động của Trung Quốc thì lại không có gì là bất ngờ.

    Tôi chỉ có ngạc nhiên là một nước XHCN lại phát động một chiến chống lại một nước XHCN khác vừa ra khỏi cuộc chiến tranh chống Mỹ 21 năm? Sao lại có hành động của Trung Quốc ở Campuchia? Sao Trung Quốc lại phát động cuộc chiến tranh chống lại Việt Nam như vậy?”

    Tháng 8/1975, tôi bước vào cuộc chiến đấu mới. Đến tháng 7/1976, tôi rời khỏi miền Nam lên đường ra Bắc đi học. Tháng 8/1976 – 8/1978, tôi kết thúc một khóa học cơ bản ở Học viện Chính trị quân sự ở Hà Đông.

    Sau khóa đào tạo cán bộ trung, cao cấp của quân đội, tôi được cử ở lại làm giáo viên khoa Công tác Đảng, công tác Chính trị. Chỉ một thời gian ngắn, tôi cũng như nhiều sỹ quan khác nghe phong thanh về quan hệ căng thẳng giữa Việt Nam và Trung Quốc. Chúng tôi bắt đầu có linh cảm sớm muộn gì rồi chiến tranh giữa Trung Quốc và Việt Nam sẽ xảy ra. Và với mật độ căng thẳng giữa 2 nước ngày càng tăng tại thời điểm đó thì sẽ dẫn đến căng thẳng ở biên giới giữa hai nước. Sau đó, chúng tôi được nghe quán triệt tinh thần của Nghị quyết của Bộ Chính trị và Trung ương Đảng đánh giá về Mỹ và Trung Quốc. Lúc đầu, một số anh em ngạc nhiên tại sao lại đánh giá Trung Quốc như thế. Nhưng khi trao đổi và lần giở những trang lịch sử thì thấy quan hệ Việt Nam - Trung Quốc sẽ đến một trang đen tối và Trung Quốc có thể tấn công Việt Nam bất kỳ lúc nào.

    Lần giở lịch sử thì có thể thấy quan hệ giữa các nước XHCN và đặc biệt là giữa Trung Quốc với các nước láng giềng. Năm 1962, Trung Quốc đã có một cuộc xung đột ở biên giới với Ấn Độ; Năm 1969, Trung Quốc lại có xung đột biên giới với Liên Xô gây ra sự ngạc nhiên cho rất nhiều người. Sự ngạc nhiên đó xuất phát từ những vấn đề như Chủ nghĩa Xét lại, Chủ nghĩa Sovanh… đã không thể được dung hòa, buộc dẫn đến cuộc chiến tranh “huynh đệ tương tàn”.

    [​IMG]

    Sau năm 1969, đầu năm 1972, sau một cuộc ngoại giao "bóng bàn", đã có một cuộc tiếp xúc giữa Nixon và Mao Trạch Đông ở Trung Quốc. Từ đó hé ra một điều: Trung Quốc đứng trên lưng Việt Nam bán đứng Việt Nam, lấy Việt Nam ra để mặc cả với Mỹ. Hội nghị Paris năm 1972 cũng có những bế tắc mà chính từ bế tắc đó mà Mỹ tìm đến Trung Quốc. Trung Quốc đã có những thỏa thuận đối với Mỹ tại Hội nghị Thượng Hải. Một thông báo chung giữa Mỹ và Trung Quốc đã được đưa ra.

    Tháng 12/1972, Việt Nam đã phải bước vào một cuộc chiến đấu mà sau này chúng ta gọi đó là trận “Điện Biên Phủ trên không” trong 12 ngày đêm. Khi đó, một trung tướng của Mỹ có nói sẽ cho Việt Nam quay trở lại thời kỳ đồ đá. Nhưng thực tế, Việt Nam không bị quay trở lại thời kỳ đồ đá mà còn đánh sập hiện tượng “pháo đài bay” - lực lượng chiến lược của không quân Mỹ buộc Mỹ phải xuống thang và bước vào ký Hiệp định Paris.

    Thông qua đó, chúng ta thấy được Trung Quốc từ khi lập nước năm 1949 đến 1973 và cho đến 1979, trải qua mấy chục năm, quan hệ với Việt Nam lúc mặn nồng, lúc tẻ nhạt, lúc coi Việt Nam như kẻ thù. Nhưng với Việt Nam, thực tế, Việt Nam chưa bao giờ coi Trung Quốc là kẻ thù. Chỉ khi Trung Quốc phát động chiến tranh thì Việt Nam mới coi tập đoàn lãnh đạo Trung Quốc khi đó là kẻ thù trực tiếp.

    Dưới góc độ nào đó, Trung Quốc đã có những sự giúp đỡ cả sức và của với Việt Nam chống Mỹ và chống Pháp trước đó. Ngược lại, Việt Nam đã giúp cách mạng Trung Quốc rất nhiều nhất là giai đoạn 1950 – 1952, dọc theo vùng biên giới khi Cách mạng Trung Quốc có những khó khăn. Trước năm 1949, chúng ta cũng đã giúp cách mạng Trung Quốc. Nhiều cán bộ, chiến sỹ Việt Nam đã tham gia vào quân giải phóng Trung Quốc và nhiều người đã hy sinh. Về mặt giúp đỡ, Việt Nam cũng giúp Trung Quốc. Lịch sử rất công bằng”, tướng Lê Mã Lương nhớ lại.

    Vị tướng này kể tiếp: “Quay trở lại thời điểm cuối năm 1978, khi có Nghị quyết của Bộ Chính trị như vậy, nhiều người đã ngạc nhiên. Tháng 10/1978, Tổng cục Chính trị lấy một số cán bộ trẻ có kinh nghiệm chiến đấu ở miền Nam, được học cơ bản để đi một số quân khu, quân đoàn để phổ biến tinh thần của Nghị quyết của Bộ Chính trị đánh giá về tình hình thế giới, Mỹ và Trung Quốc cùng nguy cơ một cuộc chiến tranh Việt Nam – Trung Quốc. Tôi được tham gia vào cuộc đi này.

    Tôi đưa 500 học viên của các trường: Trường Sỹ quan Chính trị, Trường Sỹ quan Lục quân, Trường Sỹ quan Quân Y (nay là Học viện Quân Y) đến các đơn vị ở biên giới phía Bắc thuộc phạm vi của quân khu 2. Lực lượng chủ yếu của 500 học viên ấy đi về Sư đoàn 316 với nhiệm vụ giúp Sư đoàn này bằng khả năng chuyên môn của mình. Đồng thời đây cũng là chuyến đi thực tế của các học viên trước khi về đơn vị làm nhiệm vụ chiến đấu. Trong chuyến đi dài 3 tháng ấy (từ tháng 10 đến tháng 12/1978), các học viên đã lăn lộn ở các đơn vị biên giới phía Bắc từ Quảng Ninh cho đến Hà Giang. Các học viên đã giúp các đơn vị nhiều mặt, kể cả về mặt huấn luyện lẫn phổ biến tinh thần Nghị quyết của Bộ Chính trị để thông qua đó những người chiến sỹ ở chốt - những người sẽ trực tiếp đối đầu với quân đội Trung Quốc khi Trung Quốc phát động chiến tranh xâm lược Việt Nam - xác định được kẻ thù mới, an tâm thực hiện sứ mệnh, nhiệm vụ cao cả: Bảo vệ biên giới của Tổ quốc.

    Kết thúc chuyến đi đó, trong một báo cáo gửi Học viện Chính trị và gửi Tổng cục Chính trị, tôi có nhấn một điểm rằng: Các đơn vị ở biên giới phía Bắc thể hiện tinh thần sẵn sàng chiến đấu rất cao, thể hiện tinh thần đoàn kết cao. Tình cán – binh được thể hiện ra trong quá trình huấn luyện, trong sẵn sàng chiến đấu, trong công tác đảm bảo hậu cần tại chỗ. Đó là nét lớn nhất và rõ nhất của những người chiến sỹ ở vùng biên giới. Dù đã kết thúc chuyến đi thực tế và rút về nhưng trong sâu thẳm suy nghĩ, tôi cho rằng không có lý nào mà Trung Quốc lại đánh Việt Nam mặc dù Tổng Bí thư Lê Duẩn đã có dự kiến: “Trong thời gian sắp tới, Trung Quốc có thể sẽ phát động một cuộc chiến tranh trong phạm vi và không gian lớn. Có thể chúng ta phải đụng với 1 – 1,5 triệu quân của Trung Quốc. Các tỉnh biên giới phải hết sức cảnh giác và sẵn sàng cho cuộc chiến đấu”.

    (còn nữa)
  10. cu-bo

    cu-bo Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    03/05/2012
    Bài viết:
    388
    Đã được thích:
    322
    Quân TQ năm 1979: "Chưa thấy đội quân nào ô hợp, hôi của như thế"
    Hồng Chính Quang
    [​IMG]


    Thiếu tướng Lê Mã Lương (Ảnh: Tuấn Nam)
    - Nói về lính Trung Quốc, tướng Lương chia sẻ: “Trang bị của quân Trung Quốc làm cho chúng tôi thấy rất bất ngờ bởi sự yếu kém của họ".
    Lời tòa soạn: Cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc vào tháng 2/1979 do Trung Quốc phát động xâm lược Việt Nam đã qua đi được 35 năm. Dù Trung Quốc đã rút quân vào đầu tháng 3/1979 nhưng những hy sinh mất mát của người Việt Nam chỉ kết thúc thực sự vào năm 1989, sau khi Trung Quốc dùng vũ lực chiếm một số đảo thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam. Để giúp bạn đọc có những góc nhìn đầy đủ hơn về cuộc chiến bảo vệ từng tấc đất biên cương của quân và dân Việt Nam cũng như bản chất của hành động gọi là “dạy cho Việt Nam một bài học” từ Đặng Tiểu Bình, chúng tôi xin giới thiệu tới độc giả loạt bài về Chiến tranh biên giới phía Bắc.

    Kể tiếp về cuộc chiến biên giới phía Bắc năm 1979, Thiếu tướng Lê Mã Lương chia sẻ: “Qua dự kiến của Tổng Bí thư Lê Duẩn khi đó, rõ ràng về mặt chiến lược Việt Nam không bị động bởi đã có sự dự kiến lực lượng Trung Quốc sang xâm lược Việt Nam. Đó là một dự kiến về mặt chiến lược, không gian chiến trường. Dù Bộ Chính trị không hề mất cảnh giác nhưng ở cấp dưới trong đó có cả tôi cũng suy nghĩ rằng: Không lẽ nào một nước XHCN với diện tích lớn như Trung Quốc lại đem quân đi đánh một nước XHCN có diện tích nhỏ hơn như Việt Nam mà chỉ có thể có những xung đột ở vùng này, vùng kia. Tuy nhiên, trong thâm thâm cũng như khi đi nói chuyện với cán bộ, chiến sỹ, tôi đều xác định cho anh em chúng ta sẵn sàng chiến đấu, mọi thứ có thể thay đổi: Trung Quốc có thể lật lọng với những cam kết với Việt Nam; Trung Quốc có thể phát động một cuộc chiến lớn như Nghị quyết của Trung ương. Và hơn lúc nào hết, Việt Nam phải chuẩn bị cho một cuộc chiến đấu mới.

    Đúng như Tổng Bí thư Lê Duẩn dự kiến, ngày 17/2/1979, Trung Quốc đã phát động một cuộc chiến xâm lược Việt Nam. Trước đó, trong suốt thời gian đầu năm 1979, các đơn vị phía biên giới thường xuyên có những kiểm tra và báo động. Khi đó, chúng ta liên tục chuyển trạng thái: từ thấp lên cao nhất – trạng thái “toàn bộ” rồi lại hạ nhiệt xuống “lên cao” rồi xuống nữa là “thường xuyên”. “Thường xuyên” là mức trực chiến thấp nhất. Chính khi chúng ta bước vào mức độ chiến đấu “trạng thái thường xuyên” thấp nhất (bộ đội không còn trong trạng thái căng thẳng nhất) thì Trung Quốc phát động chiến tranh trên toàn tuyến biên giới phía Bắc hơn 600 km ở 6 tỉnh biên giới phía Bắc từ Quảng Ninh cho đến Lai Châu.

    [​IMG]
    Bệnh viện huyện Trùng Khánh (Cao Bằng) bị quân Trung Quốc tàn phá tháng 2/1979 (Ảnh tư liệu)
    Chúng ta phải đối diện với 60 vạn quân Trung Quốc trên 1 tuyến biên giới rộng lớn. Trong khi đó, về phía ta, chủ yếu là quân ở sư đoàn 316 – một trong những sư đoàn thiện chiến của quân đội thuộc quân khu 2. Việt Nam đưa thêm Sư đoàn 3 từ miền Trung cũng là một sư đoàn thiện chiến ra Lạng Sơn từ 8/1978.
    Chúng ta xác định, nếu chiến tranh xảy ra thì Lạng Sơn sẽ là hướng chủ yếu. Vì thế, Sư đoàn 3 ra ngay Thị xã Lạng Sơn để sẵn sàng đánh địch. Các đơn vị khác trên tuyến biên giới như sư đoàn 395 và Sư đoàn 345 hầu hết là các sư đoàn làm kinh tế, làm đường dọc tuyến biên giới được lệnh khẩn trương, cấp tốc trang bị lại để bước vào cuộc chiến đấu.

    Khi đó tôi thuộc Sư đoàn 395 ở Quảng Ninh. Các đơn vị chủ lực khác của Việt Nam đang bị hút vào biên giới Campuchia. Còn Quân đoàn 1 thì án binh bất động để giữ Trung ương và hậu phương, đề phòng địch sử dụng quân dù nhảy thẳng vào Thủ đô Hà Nội hòng chia cắt hậu phương với tiền tuyến. Quân đoàn 1 sẵn sàng chiến đấu ở hậu phương.

    Khi bước vào cuộc chiến đấu tháng 2/1979, tinh thần của nhân dân Việt Nam nói chung và các tỉnh phía Bắc sục sôi. Nhất là khi có sự phát lệnh tổng động viên, một không khi chống quân Trung Quốc xâm lược sục sôi từ Hà Nội lên đến các tỉnh biên giới phía Bắc sẵn sàng chiến đấu ở ngày đầu tiên. Nhân dân theo hướng dẫn tự đào hầm, hố như thời chống Mỹ để nếu quân Trung Quốc chia các mũi tiến về Hà Nội thì có thể sẵn sàng chiến đấu.

    Tôi còn nhớ như in, tại thời điểm đó, nhân dân bình tĩnh, hết sức lạc quan và không hề tỏ ra sợ Trung Quốc. Còn phía trước, bộ đội ta với tinh thần được quán triệt quân Trung Quốc đông nhưng không mạnh. Đánh giá này của Trung ương về Trung Quốc có ý nghĩa rất lớn về mặt chiến lược”.

    Theo tướng Lê Mã Lương, đội quân xâm lược Việt Nam tháng 2/1979 là quân giải phóng nhân dân Trung Quốc được trang bị rất kém: một khẩu súng trường, một chiếc ba lô với những thứ gì đó đảm bảo cho cuộc chiến đấu dài ngày.

    “Trang bị của quân Trung Quốc làm cho chúng tôi thấy rất bất ngờ bởi cho đến năm 1979 mà trang bị cho quân đội của Trung Quốc lại yếu kém, ô hợp và hôi của như thế. Khi lực lượng chiến đấu của Trung Quốc đi trước hoặc chiếm được những vị trí, những đường phố của ta thì phía sau là đội quân dân binh rất đông vừa đảm bảo sức chiến đấu quân Trung Quốc nhưng lại là đội quân ô hợp để hôi của. Họ vào nhà dân vơ vét tất cả những gì có thể dùng được. Trong lịch sử, tôi chưa từng thấy một quân đội của một nước lớn nào phát động chiến tranh lại đưa dân binh đi để vơ vét của cải như thế. Thậm chí họ còn bắt gà, bắt lợn và xuống ao để bắt cá. Nếu không dùng được thì cho bộc phá giật nổ. Hành động của quân Trung Quốc khiến tôi liên tưởng đến năm 1945 khi quân Tàu – Tưởng sang Việt Nam đi giải giáp quân đội Nhật. Không thể tưởng tượng được quân đội của một nước mạnh như Trung Quốc lại vô kỷ luật như vậy. Bộ đội Việt Nam rất ngạc nhiên về hành động của lính và dân binh Trung Quốc”, tướng Lê Mã Lương nói.

    Thiếu tướng Lê Mã Lương kể tiếp: “Trên hướng chúng ta dự kiến là hướng chủ đạo, đã có những trận đấu hết sức quyết liệt và những chiến sỹ của Sư đoàn 3 – một trong những sư đoàn dũng cảm ở miền Nam, đã chặn đứng quân địch, không để cho quân địch phát động những cuộc hành quân ồ ạt hoặc tiến sâu vào vùng nội địa của Việt Nam. Cùng với Sư đoàn 3, trên hướng Tây Bắc, Sư đoàn 316 là một trong những sư đoàn chặn đứng cuộc hành binh của Trung Quốc tiêu diệt hàng đại đội lính Trung Quốc - điều mà quân Trung Quốc không thực hiện được đối với quân Việt Nam.

    Chưa có trận đánh nào quân Trung Quốc làm tê liệt nổi một đại đội của Việt Nam. Trong khi đó bộ đội ta tổ chức những trận đánh tiêu diệt gọn một đại đội của quân Trung Quốc. Đó mới chỉ là những trận đánh của các Sư đoàn chứ chưa phải là sư đoàn cơ động - chủ lực của quân đội Việt Nam. Suốt cho đến cuối tháng 2, đầu tháng 3/1979, mặc dù quân Trung Quốc đã phá hủy 5 thị xã, thị trấn: Móng Cái, Lạng Sơn, Cao Bằng, Phong Thổ, Lào Cai nhưng các đơn vị biên phòng, lực lượng tự về, sư đoàn làm kinh tế cùng 2 sư đoàn chiến đấu tinh nhuệ của ta là Sư đoàn 3 và Sư đoàn 316 đã chặn đứng những bước tiến của quân địch.

    Trong kế hoạch của quân đội Trung Quốc, nếu như có thể tiến sâu về Hà Nội thì cố gắng tiến sâu nhưng đã không một đơn vị nào của Trung Quốc có thể vượt qua tuyến một (tuyến các tỉnh biên giới) để xuống tuyến hai và hướng về Hà Nội. Hai bên quần thảo với nhau ở 6 tỉnh biên giới phía Bắc chứ quân Trung Quốc chưa tiến được sâu hơn. Chúng ta đã chặn được ý đồ của Đặng Tiểu Bình khi phát động cuộc chiến xâm lược Việt Nam “dạy cho Biệt Nam một bài học”.

    (còn nữa)
    maseo thích bài này.

Chia sẻ trang này