1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Các vấn đề tâm lý - Lý thuyết và ứng dụng. (Phần 2)

Chủ đề trong 'Tâm Lý Học' bởi Hoailong, 03/10/2010.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. seovietdang

    seovietdang Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    04/04/2015
    Bài viết:
    241
    Đã được thích:
    1
    đọc có vẻ đa hiểu ra nhiều về lý thuyết TYPE và MOTIF
  2. Hoailong

    Hoailong Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    28/04/2004
    Bài viết:
    2.562
    Đã được thích:
    49
    1. Về Thuật ngữ, Khái niệm & giới niệm ARCHÉTYPE (tiếng Pháp), Archetype (tiếng Anh)

    ARCHÉTYPE (tiếng Pháp), Archetype (tiếng Anh), là thuật ngữ được C. G. Jung (1875 - 1961), nhà TÂM LÝ học phân tích lừng danh người Thụy Sỹ xác lập năm 1912, khi xuất bản cuốn Tâm lý học vô thức, sau đó, đến năm 1919, ông mới quảng diễn nó ra. Muray Stein gọi Jung là người vẽ bản bản đồ tâm hồn con người hoàn hảo nhất. Cho đến nay, nền TÂM LÝ học hiện đại, văn hóa học, nhân chủng học, văn học... đã ghi nhận một cách không hề dè dặt những cống hiến của Jung về những vén mở khả giải mới của chốn tiềm thức: các kiểu TÂM LÝ (hướng nội và hướng ngoại), cách hiểu mới về libido... và đặc biệt là VÔ THỨC TẬP THỂ và ARCHÉTYPE.

    Sang Việt Nam, ARCHÉTYPE được định danh theo nhiều cách khác nhau: SƠ NGUYÊN TƯỢNG (Kim Định), Siêu mẫu (Vũ Đình Lưu, Đỗ Lai Thúy), Nguyên mẫu (Phan Quang Định), MẪU TƯỢNG (Lưu Hồng Khanh), Mẫu cổ (Trần Đình Sử, Đỗ Đức Hiểu), CỔ MẪU (Phương Lựu, Nguyễn Thị Thanh Xuân), Đồ hình vĩnh cửu (Đỗ Lai Thúy), ARCHÉTYPE (Văn Giá, Đào Vũ Hòa An, Lưu Tuấn Ảnh). Các nhà lý luận HUYỀN THOẠI coi ARCHÉTYPE của Jung là NGUYÊN MẪU tân sinh... Trong các công trình của mình, chính Jung cũng có các tên gọi khác nhau: Siêu tượng, vết tích bản cổ, hình ảnh nguyên thủy; S. Freud gọi là Vết tích tối cổ (résidus archaques). Như vậy, dù có nhiều cách gọi tên trong thuật ngữ nhưng đều dẫn đến chung quyết: ARCHÉTYPE "là những yếu tố tâm thần (psyché) không thể cắt nghĩa được bằng một sự việc xẩy ra trong đời sống (...). Nó hình như bẩm sinh đã có, có từ nguyên thủy, nó là một thành phần trong gia tài tinh thần nhân loại"(2).

    Vì tính cách khá mới mẻ của nó ở Việt Nam về phương diện truy nguyên thuật ngữ nên việc tìm đến nguồn cội của cách hiểu cũng là một sự cần thiết. Thực ra, không phải đến Jung mới hình thành nên thuật ngữ này. Theo Bennet(3), trong một công trình cuối đời của mình, S. Freud đã đề cập đến những thuật ngữ như: Di sản cổ xưa hay Dấu vết của trí nhớ. Nếu xem ARCHÉTYPE là một cấu trúc tinh thần thì trước Jung rất xa đã có cách quan niệm về những Ý NIỆM hay những hình thức của Platon(4). " (Jung viết) tùy thuộc vào sự phân loại các ý nghĩ mà lúc đầu con người cảm thấy xa lạ nhưng đã sớm sở hữu và sử dụng chúng như là những khái niệm thân thuộc...CỔ MẪU là đúng và hữu ích bởi vì nó cho chúng ta biết rằng những nội dung VÔ THỨC TẬP THỂ có liên quan khi chúng ta xem xét những hình thức cổ xưa, hoặc đúng hơn những hình thức nguyên thủy, tức là những hình ảnh chung tồn tại từ những thời đại xa xưa nhất"(5). Cái psyché trong quá khứ xa thẳm ấy là nền móng tinh thần của con người. Điều khẳng định ở đây là việc ghi nhận đóng góp của Jung rằng ông đã xác lập một cách có hệ thống và tạo ra một cách nhìn hoàn toàn mới về cơ hệ tâm thức con người trong tính lịch sử đã trải qua. Việc phát hiện này đã mặc nhiên tạo ra một ảnh hưởng vô cùng lớn đối với TÂM LÝ học hiện đại.

    Văn học cũng chịu ảnh hưởng sâu sắc, trên nhiều phương diện: lý luận, sáng tác, nghiên cứu... Đến đây, vấn đề được đặt ra như một đòi hỏi rằng: ARCHÉTYPE là cái gì? Nó được mô tả và hiểu như thế nào? Và nếu như nó tham dự vào văn chương thì liệu chúng ta có những hi vọng gì?

    Về nghĩa từ nguyên, ARCHÉTYPE là từ ghép của: 1/ arche là khởi đầu, cơ sở, nguyên lý và 2/ type (typos) là dấu ấn, hình ảnh, mô hình, tiêu chuẩn, quy phạm... Theo Lưu Hồng Khanh, nó có cấu trúc và năng lực sinh hoạt riêng biệt theo từng thứ loại, vượt hẳn lên trên ba chiều không gian và thời gian vật lý để đi đến những chiều siêu cá nhân (trans - personal), siêu tâm linh (trans - mental)(6).

    Về nguyên cớ cội nguồn, ARCHÉTYPE "cũng như thân thể người ta là một tập hợp đầy đủ những bộ phận, mỗi bộ phận là kết quả của một cuộc tiến hóa qua các thời kỳ tiền sử, ta phải nghĩ rằng tinh thần của ta cũng có một tổ chức tương tự như thế. Tinh thần cũng như thể chất của ta, không thể là một cái gì không có quá khứ, một lịch sử của nó"(7). Cơ cấu tinh thần loài người cũng vậy, đó là những điểm tương đồng giữa những hình ảnh của tâm trạng con người cổ sơ và những ý niệm, thói tục, BIỂU TƯỢNG có ý nghĩa tập thể, những chuyện tHẦN THOẠI. Nếu nhìn nhận ARCHÉTYPE như một lát cắt tâm thức thì ta có thể thấy vị trí của nó là ở tầng sâu nhất: Tôi Ý thức Vô thức cá nhân VÔ THỨC TẬP THỂ VÔ THỨC TẬP THỂ không bao giờ ý thức được.

    ARCHÉTYPE được phát hiện không phải chỉ với bản năng, mà còn thông qua chiêm mộng, mơ tưởng, khải tượng; bởi nguồn cội cuối cùng của nó là những tầng sâu của VÔ THỨC TẬP THỂ, nơi được tàng trữ cô đọng lại những kinh nghiệm của cả loài người trải qua nhiều truyền thống của nhân loại trong không gian và thời gian.

    Về cơ sở TÂM LÝ, khởi thủy ý nghĩ tưởng tượng chủ quan được khích động bởi hiện tượng vật lý tạo ra những phản ứng riêng, được nhiều lần lặp đi lặp lại. Không phải ngẫu nhiên mà nhân loại qua hàng ngàn năm chiêm nghiệm đã phóng ngoại những phẩm tính của cuộc sống, của số phận, của định mệnh đời người... lên những chòm sao Bắc Giải, Bạch Dương, Thần Nông... Và cũng chẳng phải vô lý khi những hình ảnh BIỂU TƯỢNG lại được vô thức loài người từ Đông sang Tây nội giới hóa như Đất mẹ vĩnh hằng, hay tính hoàn hảo vĩnh cửu...(8).

    (co`n Tiểp)
  3. Hoailong

    Hoailong Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    28/04/2004
    Bài viết:
    2.562
    Đã được thích:
    49
    Nó (ARCHÉTYPE, Jung nói) "là một khuynh hướng bản năng, cũng như kích động bản năng làm cho chim biết làm tổ, kiến biết tổ chức thành đoàn thể"(9). Xu hướng của nó là được phú bẩm và trao truyền. Một chỗ khác, Jung cho rằng "các ARCHÉTYPE là những hình ảnh vô thức của chính những bản năng, hay nói theo cách khác chúng là những khuôn mẫu của hành vi bản năng", "nó chứa đựng những nội dung mà không ít thì nhiều tương tự ở khắp mọi nơi và ở mọi cá nhân. Nói theo cách khác, nó là đồng nhất ở tất cả mọi người và do đó tạo nên một cơ tầng tâm thần chung của bản chất siêu cá nhân hiện diện ở mỗi người chúng ta"(10). Và sự liên hệ giữa bản năng với ARCHÉTYPE là sự ràng buộc hình ảnh có tính cách BIỂU TƯỢNG. Nghĩa là yếu tố tâm thần ấy luôn được phóng ngoại bằng những hiện hữu cụ thể qua tạo hình. Kinh nghiệm của nhân loại được trao truyền từ khởi thủy, phát xuất từ đó, những ám ảnh trong thiên nhiên. Đó có thể là sự bất ngờ hoặc là nỗi sợ hãi trước ánh sáng và bóng tối, trước mặt trời và mặt trăng... như Lưu Hồng Khanh nhận diện, những nội dung của VÔ THỨC TẬP THỂ được phát xuất từ những hoàn cảnh sinh sống của con người như lo âu và sợ hãi, vui mừng và phấn chấn, tranh đấu để sống còn, tương giao giữa nam và nữ, giữa con cái và cha mẹ, những hình tượng người cha người mẹ, những thái độ với hận thù và yêu thương, đối với sinh tử và ly biệt, những quyền lực của các nguyên lý tối sáng và âm dương... Nó được diễn tả trong các hình ảnh của chiêm mộng và vu thuật, tưởng tượng, cách riêng dưới hình thức, hình ảnh nguyên ủy hay còn được ghi lại qua nhiều tiêu đề trong các truyện cổ tích, dị sử, tHẦN THOẠI, HUYỀN THOẠI. Theo các tài liệu của nhân chủng học và văn hóa học nguyên thủy, đó là khởi thủy của tín ngưỡng bái vật giáo, tôtem giáo, đa thần giáo... Nghĩa là từ khởi thủy, con người đã trải nghiệm những nỗi niềm mà cả cộng đồng cùng chung sống trong đó. Xét đến cùng, bản chất của các nhà sáng tạo, bằng những cách khác nhau, trong tính hằng viễn của vận động là truy nguyên nguồn gốc của bản thể sự vật. Những BIỂU TƯỢNG ám ảnh nghệ thuật từ sơ khởi, mượn lời của Will Durant là những ám ảnh mang tính tôn giáo thoát thai ra khỏi ý nghĩa phương thuật, tham dự vào cõi hiện sinh.

    Nguồn cội của ARCHÉTYPE luôn nằm trong ký ức của cả một cộng đồng, hay nói đúng hơn là biểu hiện cụ thể của VÔ THỨC TẬP THỂ (thuật ngữ này thường bị hiểu sai, bị nhầm lẫn với tâm hồn nhóm, tức là hành động vô thức của đám đông). Di chỉ của ký ức ấy khó mà diễn tả hết nỗi si mê và cuồng đắm qua các HUYỀN THOẠI (mythes), các tHẦN THOẠI mà nhân loại đã tạo nên, gây nên những ám ảnh, những kích thích khi nó xuất hiện. Sự hình thành của nó như cách nhìn của Jung, là luôn bắt nguồn từ những kinh nghiệm được lặp đi lặp lại nhiều lần của loài người, là những phản ứng chủ quan. ARCHÉTYPE mang trong mình sắc thái của những "dính dáng tự ngàn xưa", cổ sơ. Nó là một kết tinh quan trọng nhất của cội nguồn văn hóa - lịch sử, ẩn mình trong tâm thức là những triết lý sâu xa về cuộc sống và cái chết.

    Hệ tâm thức của con người có nhiều ARCHÉTYPE, các ARCHÉTYPE đều có những cấu trúc và ý nghĩa riêng biệt, nhưng chúng không đứng biệt lập riêng rẽ. Trái lại, chúng tương quan, liên hệ với nhau. Hơn nữa, chúng còn thâm nhập vào nhau trong một mối tương thức, tương nhập, tương tác rất mật thiết. ARCHÉTYPE với cấu trúc cơ bản và ý nghĩa toàn diện, là những năng lực tạo hình cho hệ tâm thức của con người. Nó "vừa là hình ảnh lại vừa là xúc động. Người ta chỉ có thể nói đến siêu tượng khi nào hai khía cạnh đó cùng xuất hiện một lúc. Khi nào chỉ có hình ảnh thì siêu tượng chỉ tương đương với một sự tả cảnh không có âm vang gì. Nhưng khi siêu tượng chứa chất xúc động tâm tình thì hình ảnh trở nên huyền nhiệm (có sinh lực tâm thần)"(11). Nó đồng thời cũng minh xác cho những mãnh lực huyền nhiệm. ARCHÉTYPE chỉ bắt đầu sống khi nào người ta kiên tâm khám phá ra tại sao nó có một ý nghĩa cho một người sống và ý nghĩa ấy thế nào.

    2. ARCHÉTYPE và VÔ THỨC TẬP THỂ, BIỂU TƯỢNG, MOTIF, HUYỀN THOẠI

    Ở đây, chúng tôi cố gắng phân tách sơ lược sự liên hệ lẫn nhau giữa ARCHÉTYPE VÔ THỨC TẬP THỂ, BIỂU TƯỢNG và mối liên quan của chúng với MOTIF HUYỀN THOẠI. Giữa chúng có một mối tương quan mật thiết, theo một phác đồ: VÔ THỨC TẬP THỂ (chất chứa những năng lượng TÂM LÝ chung), được phóng ngoại qua các năng lực tạo hình (ARCHÉTYPE, BIỂU TƯỢNG, MOTIF (ý tượng)); và HUYỀN THOẠI, nơi lưu dấu các huyền tích, huyền sử lại chính là nơi biểu hiện chủ yếu của ký ức cộng đồng ấy. HUYỀN THOẠI không bao giờ đông cứng theo cách hiểu nó đã sinh ra và mãi mãi tro bụi từ thuở bình minh của lịch sử nhân loại, mà nó có năng lực tái sinh nhờ sự bừng phát trong tầng sâu tâm thức con người mọi thời đại. Milan Kundera lưu ý rằng các thời đại luôn tuân theo những biến dịch của sử tính và có thể mất đi nhưng các kiểu mẫu tâm lí thì dường như không mấy thay đổi. Chính vì những lý do đó mà ở thế kỷ XX và XXI, nhân loại mới vẫn luôn sống trong những mảng HUYỀN THOẠI tái sinh trong ký ức, trong các sáng tạo văn học.

    (co`n Tiểp)
  4. Hoailong

    Hoailong Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    28/04/2004
    Bài viết:
    2.562
    Đã được thích:
    49
    Vấn đề vẫn chưa rõ ở đây là
    1/ Có phải mọi BIỂU TƯỢNG đều là ARCHÉTYPE?
    Và 2/ Giữa MOTIF BIỂU TƯỢNG có cái gì song chiếu, song trùng, dị biệt?

    1/ Không phải mọi BIỂU TƯỢNG đều là ARCHÉTYPE. Giữa chúng có cái chung đều là những năng lực tạo hình của những năng lượng tinh thần con người và năng lượng đó đã diễn ra trong quá khứ, nay xuất hiện với chúng ta qua ngưỡng vọng hoặc như một cứu cánh của niềm tin, mang tính chất cứu chuộc. Mọi ARCHÉTYPE đều là BIỂU TƯỢNG nhưng không phải ngược lại.

    BIỂU TƯỢNG (symbole) được hiểu theo nhiều cách khác nhau. Theo Jean Chevalier, ngay từ khởi thủy, BIỂU TƯỢNG đã là một dấu hiệu, một cơ sở quy ước của niềm tin. Ở tầng sâu hơn, nó là sự hội tụ của hai ý tưởng chia ra và kết lại, phân ly và tái hợp, nó là dấu hiệu bị đập vỡ, gãy vỡ và nối kết. Ở đó, cảm xúc luôn luôn nổi trội, biểu hiện thành những nỗi lo sợ hay mừng vui khôn xiết tả, những cảm xúc không lời...Theo cách hiểu của K. Jaspers, BIỂU TƯỢNG nắm giữ những gì vốn vượt chạy khỏi chúng ta để mà bị tiêu tán trong hư vô. BIỂU TƯỢNG cho ta thấy những gì, mà không có nó, hoàn toàn bị ẩn dấu đối với chúng ta. "Mỗi một vật tự nó, có thể là một BIỂU TƯỢNG qua sự biến thành của trình trạng là tha thể trong hoạt trình của siêu việt tính"(12). Đó là quá trình tư tưởng mà khách thể tính biến mất nhường chỗ cho sự siêu việt nội thể. BIỂU TƯỢNG trong văn học được truyền đạt thông qua ngôn ngữ, diễn đạt sự "tiếp xúc giữa thần bí và hữu thể" tạo ra "một kích thích trong đó hữu thể chiếm được thế lực truyền đạt (...) là một ý thức triết lý về hữu thể đó"(13). BIỂU TƯỢNG không những làm cho rõ ràng, mà còn làm cho trở nên chân thật những thực tại kinh nghiệm, là sự thức nhận và trội sinh của cảm xúc hiện hữu. Và "quá khứ chỉ chân thật đối với tôi khi nào mà tôi kinh nghiệm được nó trong sự cụ thể hóa của nó"(14).

    Cái được biểu trưng trong BIỂU TƯỢNG là tiềm ẩn, Jung coi nó "là một hình ảnh thích hợp đúng hơn cả để chỉ ra cái bản chất ta mơ hồ nghi hoặc của Tâm linh"(15). Với cách hiểu này, nó bao gồm cả ý thức và vô thức, cô đúc các sản phẩm tôn giáo và đạo đức, sáng tạo và thẩm mỹ, nhuốm màu xúc cảm và tưởng tượng của con người, liên hệ đến kinh nghiệm của tập thể. Jung chia ra hai loại: BIỂU TƯỢNG tự nhiên BIỂU TƯỢNG văn hóa. BIỂU TƯỢNG văn hóa dùng để diễn tả CHÂN LÝ vĩnh cửu. Qua sử tính, với nhiều lần thay đổi, nó trở thành những hình ảnh tập thể được các xã hội văn minh chấp nhận. Nó luôn giữ phần lớn tính chất huyền nhiệm, quyến rũ nguyên thủy làm người ta say mê. Thực tại hiện hữu có vô số điều mà con người không thể xác định được, cũng không thể hiểu được trọn vẹn. Việc con người sử dụng một cách có ý thức những BIỂU TƯỢNG là một sự kiện TÂM LÝ quan trọng, bởi vì, như Jung nói "con người cũng sáng tạo ra các BIỂU TƯỢNG một cách vô thức và tự phát".

    Lôgíc của BIỂU TƯỢNG là lôgíc của tưởng tượng "có một sự cố kết chức năng" (Jean Piaget), là "sự phun trào sum suê các hình ảnh, ngay cả trong trường hợp làm rối tinh thần nhất" (Gilbert Durand), thể hiện "bằng hoạt động tiềm thức và siêu nghiệm của con người" (Mircea Eliade) và "tập hợp cơ động các mối liên hệ giữa nhiều vế" (Jean Chevalier). Điều này tạo ra sự tái sinh nghĩa vô tận trong các kết hợp với các ngữ cảnh khác nhau trong các văn bản văn học qua mọi thời đại. Nhưng cái chúng ta cần ở đây là sự biểu hiện từ hình ảnh văn chương đến BIỂU TƯỢNG ARCHÉTYPE. Sự phân tách một cách rạch ròi BIỂU TƯỢNG ARCHÉTYPE đòi hỏi một công trình chuyên sâu hơn nhiều. Việc tìm ra ARCHÉTYPE nhất thiết phải thông qua BIỂU TƯỢNG, nhưng có những tác phẩm mang chứa nhiều BIỂU TƯỢNG cũng có thể không phải là đối tượng khảo sát. Trước hết, theo ông, đọc ARCHÉTYPE sẽ không tính đến những BIỂU TƯỢNG văn học, như là một sản phẩm của ý thức, bởi vì: tác phẩm dự định có tính BIỂU TƯỢNG từ trước thì không đòi hỏi phải tinh tế đến vậy. Bằng ngay thứ ngôn ngữ đa nghĩa được dùng, nó như bảo chúng ta: "Tôi định nói nhiều hơn cái tôi nói thực; ý nghĩa của tôi cao hơn tôi", mà chỉ quan tâm đến những BIỂU TƯỢNG văn học như là kết tinh của vô thức. Nhưng nếu những kết tinh từ Vô thức cá nhân chỉ đưa ra tính triệu chứng, thì những kết tinh từ VÔ THỨC TẬP THỂ mới làm nên tính BIỂU TƯỢNG ARCHÉTYPE. "Không bị dồn ép và không bị lãng quên", "VÔ THỨC TẬP THỂ cũng không tồn tại tự nó và cho nó, do nó chỉ là khả năng, cụ thể là khả năng mà ta được thừa kế từ thời xa xưa dưới dạng một hình thức nhất định của những hình ảnh được ghi nhớ trong cấu trúc của đầu não, nói theo giải phẫu học (...) Chúng bộc lộ chỉ trong chất liệu đã được tạo tác về mặt lí thuyết với tư cách là những nguyên tắc điều khiển sự tái lập chất liệu... "(16). Như vậy, BIỂU TƯỢNGARCHÉTYPE (trong tác phẩm văn học) khi: 1/ Nó không phải là một dự định mang tính ý thức của chủ thể sáng tạo và 2/ Nó là kết tinh của VÔ THỨC TẬP THỂ hóa thân trong các tác phẩm văn học là những chất liệu đặc biệt, chất chứa năng lực huyền dụ và đòi hỏi nhiều công phu giải mã(17).

    ARCHÉTYPE hiểu theo các nhà phê bình BIỂU TƯỢNG sẽ là trung tâm của mọi mơ mộng nghệ thuật, như G. Barchelard thị phạm, là nơi "thường xuyên quay trở lại những chủ đề nguyên thủy (...) bất chấp những bước tiến được rèn dũa, chống đối lại ngay cả việc dạy dỗ của những kinh nghiệm khoa học"(18).

    2/ Năng lực tạo hình của ARCHÉTYPE còn có một sự liên hệ chặt chẽ với các ý tượng (MOTIF). ARCHÉTYPE "nằm trong khuynh hướng tạo ra những ý tượng (MOTIF)"(19). MOTIF là một khái niệm của các nhà FOLKLORE hay VĂN HÓA DÂN GIAN khi khảo sát những câu chuyện tHẦN THOẠI và cổ tích có cùng trường biểu hiện về cách nhìn nhận thế giới. Theo S. Thompson, MOTIF là những hình mẫu thường lặp lại hoặc kết hợp với những hình mẫu khác theo một kiểu cách riêng biệt nào đó. Ví dụ như MOTIF chết đi - sống lại, sự đầu thai, sự đảo ngược của vận mệnh, sự may rủi hay những ân huệ do thần Số mệnh ban ra hoặc gây ra... Dấu ấn của văn học đương đại, đặc biệt là tiểu thuyết hiện nay thường sử dụng loại MOTIF song trùng, MOTIF chuyển hóa... như một vẫy gọi khám phá riêng. Người đọc văn học từ cái nhìn ARCHÉTYPE thường dõi theo những MOTIF lặp đi lặp lại trong tác phẩm để xác định vấn đề.

    Như vậy, quan hệ giữa ARCHÉTYPE VÔ THỨC TẬP THỂ là sự hình tượng hóa những thực tế có thể quan sát được của năng lượng tinh thần vô thức. Các HUYỀN THOẠI tồn tại rất lâu trước khoa học và biểu hiện cuộc sống như nó được thấy và trải nghiệm thông qua các cá nhân, cộng đồng chính là nơi biểu hiện tập trung của chất liệu ARCHÉTYPE. Đặc biệt là các huyễn tưởng và giấc mơ. Nó xuất hiện trong những phóng chiếu thế giới vô thức qua những hình ảnh nguyên thủy. Mối liên hệ của chúng, như đã chỉ ra, là hết sức mật thiết. Chúng là những khái niệm quan trọng của Tâm lý học chuyên sâu, đồng thời cũng là những gợi mở thiết yếu để soi chiếu vào thế giới nghệ thuật của nhà văn. ****
  5. Hoailong

    Hoailong Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    28/04/2004
    Bài viết:
    2.562
    Đã được thích:
    49
    Nhân ngày 30/4; trở lại câu Truyện Tấm Cám, hảy luận Bàn dưới góc độ MÔ TIP/MOTIF:

    VẤN ĐỀ VỀ CÁI CHẾT CỦA MẸ CON CÔ CÁM thuộc số những vấn đề chưa được nghiên cứu kỹ và có những ý kiến khác nhau nhiều.

    Bản kể của Vũ Ngọc Phan (trong Truyện Tấm Cám, NXB Kim Đồng, Hà Nội - 1966) kể về cái chết của mẹ con cô Cám như sau:

    "[Sau khi nhận ra vợ mình ở quán bà cụ bán hàng nước nhà nghèo, vua cho đón Tấm về cung] Cám thấy chị trẻ đẹp hơn xưa, sinh lòng ghen ghét, ao ước cũng được trắng, được tươi giòn như Tấm. Nó giả vờ như không biết chuyện gì, hỏi Tấm:
    - Chị Tấm ơi, chị Tấm, chị dầm sương giãi nắng, đi vắng khá lâu, sao giờ chị trắng?
    Tấm đáp:
    - Có muốn trắng để chị giúp cho.
    Cám hí hửng bằng lòng ngay. Tấm sai người đào một cái hố, bảo con Cám tụt xuống rồi sai người đem nước sôi giội vào con Cám, con Cám chết còng queo dưới hố. Tấm đem xác con Cám làm mắm gửi cho dì ghẻ, nói là quà của con gái mụ gửi biếu. Mẹ con Cám tưởng là quà của con thật, lấy làm sung sướng, ngày nào mụ cũng giở mắm ra ăn, khen lấy khen để.
    Một con quạ bén hơi, bay đến đậu trên nóc nhà, nhìn xuống kêu:
    - Ngon gì mà ngon, mẹ ăn thịt con, có còn xin miếng.
    Mụ chửi bới quạ, xua đuổi con quạ bay đi. Đến ngày mắm gần hết, nhòm vào chĩnh, mụ mới nhìn thấy đầu lâu con mình..., uất lên, ngã vật xuống đất mà chết."

    Vấn đề về cái chết của mẹ con cô Cám như được kể lại trên đây, đã được Đinh Gia Khánh nêu lên thành ''vấn đề nên TRỪNG PHẠT kẻ thù như thế nào'' (Đinh Gia Khánh, 1968, tr. 97).

    ***
    Tác giả Chu Xuân Diên đã vận dụng phương pháp nghiên cứu đặc thù của văn học dân gian (sử dụng khái niệm MÔ TIP/MOTIF được đề xuất bởi A.N Vêxêlôpxki, để phân tích kiểu truyện Tấm Cám), tránh xu hướng quan tâm chủ yếu đến các yếu tố tâm lí – đạo đức trong hành động của Tấm [312], xu hướng gắn với mục đích đánh giá nhân vật, thường dựa trên những tiêu chuẩn tâm lí và đạo đức của con người hiện đại.
    Từ đó tác giả triển khai và giải quyết các vấn đề:
    3. TRẢ THÙ HAY TRỪNG PHẠT?

    Câu hỏi đầu tiên này có liên quan đến việc nhận dạng MÔTIP chính làm nòng cốt cho đoạn kết của truyện Tấm Cám. Để tiện cho quá trình tìm tòi, hãy tạm quy ước rằng việc xác định ai là người đã gây ra cái chết của mẹ con cô Cám sẽ được dùng như một tiêu chí để xác định MÔTIP chính ấy là mô típ TRẢ THÙ hay MÔTIP TRỪNG PHẠT.

    Dễ nhận thấy hầu hết các ý kiến đã dẫn ra ở đoạn 1 đều nói rõ hoặc ngầm nói rằng hành động của Tấm là một hành động TRẢ THÙ. Các cách diễn đạt như "hành động giết Cám rồi làm mắm cho dì ghẻ ăn", "hành động TRẢ THÙ của Tấm", "cách thức TRẢ THÙ của Tấm"... nói rõ xu hướng chung coi đây là MÔTIP TRẢ THÙ. Trong bài Nghiên cứu truyện cổ dân gian Việt Nam theo bản mục lục tra cứu tip và MÔTIP truyện cổ dân gian của Antti Aarne và Stith Thompson đăng trên tạp chí Văn hóa dân gian số 2 năm 1996, Nguyễn Thị Hiền đã liệt kê được 35 MÔTIP của truyện Tấm Cám dựa theo bản kể của Nguyễn Đổng Chi. Các MÔTIP trong đoạn kết truyện Tấm Cám mà có liên quan đến vấn đề đang bàn, gồm có:

    l - MÔTIP "TRẢ THÙ mẹ con dì ghẻ" (mã số S34).
    2 - MÔTIP "Giết người bằng cách giội nước sôi" (mã số K926).
    3 - MÔTIP "Giội nước sôi cho đến khi chết" (mã số Sl12. l).
    4 - MÔTIP "Ăn thịt người một cách vô tình" (mã số G60).
    5 - MÔTIP "Mẹ nhận ra thịt con khi ăn gần hết" (mã số H61.2).

    Đối chiếu với bản mục lục của S. Thompson, tác giả bài báo cho biết các MÔTIP l, 2 là các MÔTIP mới. Ta có thể chú ý thêm là MÔTIP 3, vốn có trong bản mục lục của S. Thompson, chỉ khác MÔTIP 2 ở chỗ trong MÔTIP 2, hành động giội nước sôi là một hành động chủ ý giết người, còn trong MÔTIP 3 hành động ấy không chủ ý giết người, tuy cách gọi tên 2 MÔTIP không nói rõ hẳn ra sự khác nhau đó. Ta sẽ có dịp bàn về sự khác nhau này. Bây giờ hãy chỉ nêu lên nhận xét rằng theo Nguyễn Thị Hiền thì hành động của cô Tấm cũng thuộc MÔTIP TRẢ THÙ.

    Việc xác nhận hành động của cô Tấm là hành động TRẢ THÙ đã dẫn đến xu hướng nghiên cứu MÔTIP TRẢ THÙ chủ yếu là về mặt đánh giá nhân vật Tấm theo các tiêu chuẩn đạo đức - xã hội và đặc điểm tâm lý của con người hiện nay. Việc đánh giá như vậy mang tính chất bình luận văn học nhiều hơn là nghiên cứu MÔTIP một cách thực sự.

    Theo tôi việc nghiên cứu MÔTIP một cách thực sự cần bao gồm, nếu không nói trước hết phải là việc nhận dạng MÔTIP.

    Trên kia đã nói xu hướng chung coi MÔTIP chính làm nòng cốt cho đoạn kết của truyện Tấm Cám là MÔTIP TRẢ THÙ, dựa trên cơ sở xác định Tấm là người đã gây ra cái chết của mẹ con cô Cám. Nhưng việc nhận dạng MÔTIP không thể chỉ dừng lại ở đấy.

    Đặc điểm của đời sống MÔTIP là có khả năng biến đổi, chuyển hóa không những từ đề tài - cốt truyện này sang đề tài - cốt truyện khác, mà cả trong những dị bản của cùng một đề tài - cốt truyện. Trước khi tiếp tục khảo sát theo hướng lịch sử như vậy về MÔTIP chính làm nòng cốt cho đoạn kết truyện Tấm Cám, hãy giả định rằng yếu tố bất biến của MÔTIP đó là cái chết của mẹ con cô Cám.

    Thứ nhất, hành động của Tấm là sự TRỪNG PHẠT, chứ không phải là trả thù. Qua việc so sánh các dị bản của truyện Tấm Cám trong nước, với kiểu truyện mang tính quốc tế, đối sánh với hệ thống tên gọi MÔ TIP/MOTIF của Stith Thompson, tác giả đi đến kết luận: về phương diện cấu trúc và chức năng MÔ TIP/MOTIF cơ bản và nòng cốt của cho đoạn kết của truyện Tấm Cám là MÔ TIP/MOTIF TRỪNG PHẠT, cái ác phải bị đền tội. [318].
    Tôi cho rằng, đây được xem như đặc điểm hiển nhiên với tất cả mọi người và trên thực tế việc tiếp nhận truyện cổ tích Tấm Cám của chúng ta từ ngày bé nghe ông bà cha mẹ kể đến chi tiết này không hề có cảm giác ghê sợ hay không đồng tình với cô Tấm. Ngược lại, khi cái ác bị đền tội, đứa trẻ nào cũng thấy hả hê và tin tưởng vào sự công bằng mà thế giới "ngày xửa, ngày xưa" mở ra trước mắt chúng.
    Xét về phương diện lí luận và thi pháp thể loại, cốt truyện cổ tích là yếu tố bất biến, là mô hình đã được xác lập ổn định, trong đó chỉ có lời kể thay đổi do quy luật của sự sáng tạo truyền miệng cũng như sự vận động của cốt truyện trong bối cảnh không–THỜI GIAN. Vì thế, việc cô Cám bị TRỪNG PHẠT bởi Tấm, nhà vua, Thiên Lôi, hay bất kì một thế lực nào khác thì bản chất của sự kiện, hành động vẫn không đổi: cái ác phải bị tiêu diệt, công lí phải được thực thi, còn ai là người thực hiện điều đó và thực hiện như thế nào không quan trọng. Mỗi cộng đồng, thời đại có cách lựa chọn của riêng mình cho cách kể nhưng phải tuân thủ một quy luật: không thể để yếu tố thời đại, thực tại xâm nhập vào cốt truyện dân gian. Vì thế một chi tiết "giết bằng gươm, giết bằng giội nước sôi, bằng đốt lửa" có ý nghĩa lịch sử, thời đại của chúng mà chúng ta không thể thay thế bằng việc "giết nhân vật bằng súng"...
    Thứ hai, vấn đề ai thực hiện việc TRỪNG PHẠT và TRỪNG PHẠT như thế nào được tác giả lí giải ở các phần tiếp theo. Các MÔ TIP/MOTIF "Sự bắt chước không thành công", "Dội nước sôi trở nên xinh đẹp hơn", "Mẹ ăn thịt con"... được tác giả phân tích dưới góc nhìn cấu trúc cốt truyện và phương pháp so sánh lịch sử. Tác giả đi tìm những tư liệu dân tộc học, phong tục học, để đi đến nhận định đã từng tồn tại quan niệm về việc "Chết do việc dội nước sôi để trở nên trắng và đẹp hơn" [324], đồng thời trong nghi lễ trưởng thành của hầu hết các tộc người cũng tồn tại quan niệm và thực hành: con người trải qua sự hành xác thì trở nên đẹp đẽ, hoàn thiện hơn. MÔ TIP/MOTIF truyện dân gian là những tia hồi quang của các phong tục và nghi lễ dân gian mà đến thời đại chúng ta, do khoảng cách lịch sử mối dây liên hệ đó không liên tục khiến chúng ta xa lạ và khó chấp nhận.
    TRUYỆN CỔ TÍCH, ngoài chức năng phản ánh, lí giải các hiện tượng tâm lí, xã hội còn hướng tới chủ đề phong tục. Về mặt cốt truyện, sự kiện nhân vật chết (cái ác, cái xấu) có thể kết thúc câu chuyện. Nhưng truyện cổ tích vẫn luôn thêm vào sự hóa thân của nhân vật để gửi gắm quan niệm của dân gian, ***g ghép các chủ đề khác: trầu cau, ba ông đầu rau... Cho nên, truyện Tấm Cám của người Việt không dừng lại ở cái kết cô Tấm trở thành hoàng hậu mà kéo dài đoạn TRỪNG PHẠT cũng là thực hiện chức năng đó.Do đó, truyện cổ tích không chỉ được tiếp nhận dưới góc nhìn văn học mà cần đặt nó trên bình diện VĂN HÓA rộng lớn, với sự bổ trợ của các kiến thức dân tộc học, phong tục học, nghi lễ và tín ngưỡng dân gian...
    Thêm nữa, chúng ta quen xét đoán nhân vật cổ tích dưới góc nhìn tâm lí – đạo đức của thời đại (cái nhìn lịch đại) mà không đặt nhân vật dưới góc nhìn đồng đại: so sánh kiểu hành động TRỪNG PHẠT của cô Tấm với các nhân vật khác. Chẳng hạn, hành động TRỪNG PHẠT của Đức Phật trong các truyện cổ có tính chất Phật thoại: Sự tích cái chổi, Sự tích lá phướn nhà chùa, Sự tích ông bình vôi... Phật TRỪNG PHẠT những lỗi lầm, sơ suất rất thường tình của con người bằng những cái chết cho nhân vật. Ở đây, chúng ta cũng không thể đánh giá Đức Phật dưới góc độ con người – đạo đức vì Đức Phật thực hiện chức năng mà truyện cổ tích quy định: răn dạy con người tuân thủ nghiêm ngặt giáo lí của nhà Phật, ai đi ngược lại điều đó thì bị TRỪNG PHẠT. Tư tưởng đó tạo ra sự tôn nghiêm, thiêng liêng của tôn giáo trong lòng nhân dân. Tương tự như vậy, tư tưởng về sự TRỪNG PHẠT cái Ác trong Tấm Cám cũng để tạo nên sự tin tưởng của nhân dân về lẽ công bằng, về quy luật "ác giả ác báo, thiện giả thiện báo".
  6. Hoailong

    Hoailong Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    28/04/2004
    Bài viết:
    2.562
    Đã được thích:
    49
    & 1 trong ~ tình tiết (MEM VH)& MOT‬IP/motif ướm GiÀY/hài cho vừa chân trong các Câu chuyện TC hay Cinderella (Tro bếp/Lọ Lem) đả là nguồn cãm hứng cho 1 bộ fim TLXH nổi tiếng Hàn Quốc là MOT‬IP/motif "CHIẾC GiÀY Thủy tinh" Mà các bạn có thể theo dõi qua ~ dòng link sau đây:

    http://trucong.com/Chiec-giay-thuy-tinh?a1a--Tap-1=phim33



    & 1 bộ fim Tình cãm XH VN là:

    Chiếc Giày Lọ Lem:

  7. Hoailong

    Hoailong Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    28/04/2004
    Bài viết:
    2.562
    Đã được thích:
    49
    & sau đây là 1 bài viết # trên mạng để chúng ta cùng thảo luận:
    “Văn hóa/hay MEM-VH Tấm-Cám”!
    * PGs.Ts.VŨ TRỌNG KHẢI

    [​IMG]
    Dân tộc nào cũng có những truyện cổ tích. Truyện cổ tích được hình thành, biến đổi theo chiều dài lịch sử hàng ngàn năm của mỗi dân tộc, rồi mới được "định hình". Khi "định hình", truyện cổ tích đã kết tinh được những giá trị phổ quát mang tính triết học, mỹ học và tâm linh mà dân tộc đó tôn thờ, trở thành một bộ phận cấu thành nền văn hoá của dân tộc đó.
    Nhớ lại hồi học tiểu học, lớp 3 hay 4, sách giáo khoa tập đọc cho học sinh có truyện cổ tích " Tấm-Cám". Học sinh phải tập đọc và còn được thầy, cô giáo đọc hay kể lại nhiều lần với những phân tích "đắt giá", cố làm cho học sinh "hiểu sâu sắc" hơn những "giá trị" của truyện Tấm, Cám như : truyện Tấm, Cám phản ánh cuộc đấu tranh giữa cái "thiện" và cái "ác", giữa " chính" và " tà"; kết cục luôn có hậu là " cái thiện" thắng "cái ác", " cái chính" thắng " cái tà" bằng những âm mưu lừa gạt và hành vi độc ác, giống như cách hành xử của “cái ác”, nhưng không bị lên án! Mỗi khi đọc hay kể đến những lần cô Tấm bị mẹ, con cô Cám bày mưu lừa gạt, hãm hại, máu căm thù trong tôi lại sôi lên sùng sục. Ngược lại, khi đọc, hay nghe đến những đoạn “cô Tấm thảo hiền” lừa và trả thù được mẹ, con cô Cám, cũng bằng những thủ đoạn, mưu mô và hành vi độc ác tương tự như mẹ con cô Cám, thì lòng tôi lại hả hê, thích thù vô cùng! Đến đoạn kết, cô Tấm lừa được cô Cám nghe theo lời mình, tắm gội bằng nước sôi để trắng da nên bị chết; cô Tấm băm xác cô Cám để làm mắm, gửi về “biếu” mẹ cô Cám, thì sự độc ác của câu truyện đạt đến tột đỉnh, nhưng bọn trẻ và có lẽ cả người lớn, lại vui mừng, sung sướng cũng đến tột đỉnh!??

    Bây giờ nghĩ lại thấy rùng mình, không hiểu nổi tại sao mình lại có tình cảm căm thù và hả hê đến tột đỉnh như thế khi đọc truyện Tấm, Cám?? Cả câu truyện là một chuỗi những âm mưu lừa gạt, những hành vi trả thù độc ác, “lấy oán trả oán”, không có điểm dừng. Đúng là “thù muôn đời, muôn kiếp không tan; “căm hờn lại giục căm hờn, máu kêu trả máu, đầu van trả đầu” (Tố Hữu). Tuy vậy, trong lịch sử dân tộc ta, đạo Phật đã tồn tại gần như quốc đạo trong suốt gần 400 năm dưới 2 triều đại Lý, Trần, với triết lý “lấy ân báo oán”, hòng chặn đứng chuỗi âm mưu lừa gạt và hành vi độc ác của con người. Muốn lấy ân báo oán, con người phải biết sống khoan dung. UNESCO (1995) quan niệm “khoan dung là hài hòa trong khác biệt; khoan dung vừa là bổn phận đạo đức, vừa là một đòi hỏi pháp lý và chính trị”. Tuy coi đạo Phật gần như là quốc giáo, nhà Trần vẫn tôn trọng các tôn giáo khác. “Tam giáo đồng nguyên”, Phật giáo, Đạo giáo, Nho giáo cùng tồn tại bên nhau, không kì thị, bài xích nhau. Hơn thế nữa, sau khi chiến thắng quân Nguyên-Mông lần thứ 3, vua Trần Nhân Tông không những không đọc mà còn buộc đốt bỏ tất cả những đơn thư tố cáo, vật chứng kết tội một số quan chức đã đầu hàng, thậm chí làm tay sai cho giặc, rồi tha cho viên quan Hoàng Cự Đà đã trốn chạy quân Nguyên….. Sau sự kiện này mấy trăm năm , tổng thống Hoa Kì Abraham Lincoln cũng có hành vi tương tự khi kết thúc cuộc chiến Nam-Bắc Mỹ mà phần thắng thuộc về các bang miền Bắc do ông lãnh đạo.

    Sự KHOAN DUNG, vị tha trong lịch sử Việt Nam có lẽ đạt đến đỉnh cao dưới thời vua Lê Thánh Tông, thể hiện trong bộ luật Hồng Đức. Luật Hồng Đức không những miễn tội cho những kẻ không tố cáo người thân (ông bà, cha mẹ, vợ chồng, anh, chị em ruột) phạm tội, mà còn cấm con, cháu tố cáo ông bà, cha mẹ khi họ phạm tội, trừ tội đại nghịch, giết người thân một cách độc ác; con cháu có nghĩa vụ che dấu tội cho ông bà, cha mẹ.

    Đó là những điểm sáng văn hóa trong lịch sử hình thành và phát triển dân tộc và nhà nước Việt Nam. Nhưng cũng rất tiếc là phải thừa nhận rằng triết lí sống lấy oán trả oán vẫn lấn át triết lí sống lấy ân trả oán trong suốt chiều dài lịch sử Việt Nam. Lừa bịp và dối trá, căm hờn và trả thù một cách độc ác, nói gọn là “dối trá và độc ác” có thể được định danh là “Văn hóa Tấm – Cám”.

    “Văn hóa/hay MEM-VH Tấm, Cám” có lẽ bắt nguồn sâu xa từ văn hóa làng Việt . Có thể khi mới ra đời, truyện Tấm-Cám chỉ phản ánh khát vọng chiến thắng cái ác của những người yếu thế, lương thiện , mà chủ yếu là nông dân . Nhưng cùng với quá trình lịch sử phát triển của dân tộc Việt, nó đã trở thành văn hoá lúc nào không hay. Mỗi làng là một ” tiểu vương quốc”, “ phép vua, thua lệ làng”. Trai, gái kết hôn theo tập tục bất thành văn “trong làng, ngoài họ” (tất nhiên vẫn có ngoại lệ). Trai làng này sang “tán” gái làng kia dễ dẫn đến ẩu đả, đổ máu giữa con trai 2 làng. Trong mỗi làng, không chỉ có những vị thuộc lớp Kì, Hào, Mục hãnh tiến về mình và tranh giành vị thế, uy danh với nhau, với làng bên, mà đến tên mõ làng cũng vậy. Thằng mõ là kẻ có chức “tệ” nhất trong một làng, mà còn có cảnh “thằng mõ làng lớn bắt nạt thằng mõ làng bé”. Mõ làng lớn phải “oai” hơn, hãnh tiến hơn các mõ làng bé. Thế thì các vị Kì, Hào, Mục ở làng lớn cũng sẽ ra oai với các vị Kì, Hào, Mục ở làng bé gấp nhiều lần bọn mõ làng. Muốn tỏ ra “oai hơn” tất phải âm mưu lừa gạt và hành động độc ác theo “Văn hóa/hay MEM-VH Tấm – Cám”. Người Việt từ xa xưa và dường như vẫn tồn tại đến bây giờ cái “lí tưởng”, cái mục tiêu cao nhất, gần như duy nhất của sự học là để làm quan, chứ không phải làm doanh nhân hay khoa học gia. Bởi kẻ làm quan mới có vị thế quyền hành bắt nạt người khác, ra oai với mọi người, tự hào với dòng tộc, làng nước, để “ Một người làm quan, cả họ được nhờ”. Tất nhiên, để đạt được “khát vọng” đó, từ thằng mõ đến các quan lớn, nhỏ đều phải thực hiện các hành vi “lừa bịp và độc ác”. Dường như, người ta, dù có học vấn, cao hay thấp, có địa vị hay sang hèn, đều cảm thấy sung sướng, hãnh tiến và tự hào khi làm người khác đau khổ bằng những âm mưu lừa gạt thấp hèn và hành vi độc ác của mình. Chả thế mà một anh dân phòng, giữ trật tự ở chợ, lại dám vặn cổ một người bán hàng rong; Một viên cảnh sát giao thông dám đánh chết người dân ở đồn công an chỉ vì người này mắc lỗi vi phạm luật giao thông :đi xe máy không đội mũ bảo hiểm….. Bộ máy cầm quyền cai trị bằng cách làm cho người dân luôn luôn nơm nớp lo sợ trước những âm mưu lừa gạt và hành vi độc ác của kẻ có, dù chỉ một chút, quyền lực. Nhà cầm quyền dù là vua, quan dưới thời phong kiến hay quan lại dưới thời thực dân đều cai trị dân theo kiểu như vậy : Tạo ra tâm lí sợ hãi trước uy quyền, không cần biết uy quyền ấy có chính danh hay không.

    Nhưng “tức nước vỡ bờ”, “con giun xéo mãi cũng oằn”, người bị cai trị đến một ngưỡng nào đó sẽ vượt qua sự sợ hãi, dám đứng lên chống lại kẻ cầm quyền. Đến lượt họ, người dân, theo “Văn hóa/hay MEM-VH Tấm – Cám”, cũng dùng những âm mưu lừa gạt và hành vi độc ác để trả thù bọn cầm quyền, nhiều khi còn độc ác hơn bọn quan lại. Sự hận thù, lấy oán trả oán của người dân đối với bọn quan lại thực dân còn tệ hại, độc ác hơn đối với bọn quan lại phong kiến. Lúc đầu sự phản kháng của người dân thường bằng những câu truyện tiếu lâm, những lời nói châm biếm, chế giễu bọn quan lại, như “miệng quan, trôn trẻ”, “cướp đêm là giặc, cướp ngày là quan”; “thằng ấy tuy là đảng viên nhưng mà tốt”; “Nó tuy là giáo sư, nhưng mà giỏi”…. “Nó tuy là giám đốc, nhưng biết thương người lao động”…..Nhưng khi đã vượt qua sự sợ hãi, sự uất ức của người dân biến thành những hành động độc ác, như “Trí, phú, địa, hào: Đào tận gốc, trốc tận rễ”, cất lên lời ca đầy hãnh tiến “thề phanh thây, uống máu quân thù; đường vinh quang xây xác quân thù” (Văn Cao). Tuy thế, dân tộc Việt Nam cũng đẻ ra những trí thức tinh hoa, thấy được tai hại của “Văn hóa/hay MEM-VH Tấm ,Cám”. Phan Chu Trinh và nhóm Nguyễn Ái Quốc ở Paris đầu thế kỉ 20 đã kế thừa văn hóa đạo Phật thời Lý-Trần, kết hợp với văn hóa phương tây “Tự do, bình đẳng, bác ái”, không muốn dùng bạo lực, đổ máu của người dân để có độc lập dân tộc, nên đưa ra khẩu hiệu “Pháp-Việt đề huề”, “khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh”. Điều đáng tiếc là, người Việt rất kính trọng chí sĩ Phan Chu Trinh, hàng vạn người dân đã dự lễ tang cụ ở Sài Gòn năm 1926, nhưng lại không chấp nhận tư tưởng của cụ. Phần lớn người Việt cho tư tưởng của cụ Phan Chu Trinh là cải lương, là ảo tưởng….Vì thế, Tản Đà đã phải thốt lên “ Dân hai mươi triệu, ai người lớn/ Nước bốn ngàn năm vẫn trẻ con”. Họ đã dùng bạo lực để có độc lập dân tộc, mặc dù phải hy sinh tính mạng đến mức “núi xương, sông máu”, “dù có phải đốt cả dãy Trường Sơn” (Hồ Chí Minh). Nhưng khi đã thoát khỏi ách nô lệ thực dân, người ta lại tự đeo vào cổ gông cùm mới, đậm “Văn hóa/hay MEM-VH Tấm – Cám”, thằng mõ làng lớn bắt nạt thằng mõ làng bé. Vì thế , lí thuyết đấu tranh giai cấp, đấu tố địa chủ diễn ra không chỉ trong mỗi làng mà cả trong mỗi gia tộc, đến mức “Ông không phải là bố tôi” (Lưu Quang Vũ). Người ta hô hào :
    Giết, giết nữa, bàn tay không ngừng nghỉ
    Cho đồng ruộng lúa tốt, thuế mau xong
    Cho đảng bền lâu, cùng rập bước chung lòng
    Thờ Mao chủ tịch, thờ Xít ta lin bất diệt (Tố Hữu)!


    (còn tiếp)
  8. Hoailong

    Hoailong Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    28/04/2004
    Bài viết:
    2.562
    Đã được thích:
    49
    Trong cải cách ruộng đất 1953-1956, con đấu tố cha mẹ, vợ đấu tố chồng, kẻ mang ơn bịa đặt tố cáo người gia ơn…. diễn ra phổ biến mà điển hình tột bậc là vụ đấu tố, xử bắn bà Nguyễn Thị Năm ở Thái Nguyên năm 1953. Theo cuốn sách “Lịch sử kinh tế Việt Nam 1945-2000” của Viện kinh tế học Việt Nam, trong cải cách ruộng đất, có tới 586.000 nạn nhân bị xử lí, 172.008 người bị giết, trong đó oan sai là 123.266 người, chiếm 71,66% số người bị giết. Lưu ý là người bị giết oan sai là theo tiêu chuẩn của nhà cầm quyền. Luật hình sự 1985 qui định con cháu phải tố cáo ông, bà, cha, mẹ, vợ chồng phải tố cáo nhau, khi cho là họ mắc tội. Lòng khoan dung, nhân bản của bộ luật Hồng Đức thời Lê Thánh Tông bị xóa bỏ.

    “Văn hóa Tấm – Cám” vẫn có giá trị phổ quát, trở thành mảnh đất màu mỡ cho sự phát triển nhanh chóng của học thuyết “đấu tranh giai cấp, với tư cách là động lực của sự phát triển xã hội”. Bởi, theo Các –Mác, trong Tuyên ngôn của Đảng cộng sản 1848, “suy cho đến cùng, lịch sử loài người là lịch sử đấu tranh giai cấp”. Và kết quả cuối cùng của đấu tranh giai cấp tất yếu phải là sự thiết lập nhà nước chuyên chính của giai cấp vô sản, không phải là nhà nước của toàn dân, do dân, vì dân”.

    Vì thế, trong những năm 1952-1954 ở Việt Bắc, giới trí thức đi kháng chiến phải “chỉnh huận” để giác ngộ lập trường giai cấp công-nông, tự nguyện “đầu hàng giai cấp công-nông”, tự lên án cha mẹ, bản thân mình là thấm đậm nền giáo dục thực dân, làm công trong bộ máy cầm quyền thực dân là phản cách mạng, có xưởng máy, đồn điền là bóc lột, học vấn càng cao, càng nhiễm độc văn hóa của thực dân, phong kiến, chỉ thích hưởng thụ cá nhân, không dám dấn thân. Ai không “tự ngộ”, tự “xỉ vả” mình thì các đồng chí sẽ giúp mình giác ngộ, bằng những ngày dài, đêm thâu thực hiện phê bình, kiểm điểm theo kiểu đấu tố xỉ vả nhau. Không tự tìm thấy khuyết điểm của mình là ngoan cố, không thành khẩn, chưa giác ngộ giai cấp, là tiểu tư sản, phải cố nghĩ ra khuyết điểm để chứng tỏ mình đã thấm nhuần học thuyết Mác-Lenin, Mao Trạch Đông….
  9. Hoailong

    Hoailong Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    28/04/2004
    Bài viết:
    2.562
    Đã được thích:
    49

    Sau 30/4/1975, "bên thắng cuộc" (Huy Đức), đã cất những lời ca hào hùng, kiêu hãnh, sảng khoái, hân hoan…."Như có bác Hồ trong ngày vui đại thắng" (Phạm Tuyên), "Đất nước trọn niềm vui" (Hoàng Hà), "Tiếng hát từ thành phố mang tên Bác" (Cao Việt Bách…). Niềm kiêu hãnh ấy và "Văn hóa/hay MEM-VH Tấm-Cám" đã dẫn đến những chính sách bịp bợm và trả thù độc ác đối với "bên thua cuộc", như chính sách cải tạo mà thực chất là tù không án đối với những người đã tham gia vào bộ máy cầm quyền của "bên thua cuộc", thực thi chiến dịch X1, X2 đối với tư sản, tiêu diệt tầng lớp doanh nhân văn minh vừa mới hình thành trong nền kinh tế thị trường, để sau đó hơn 10 năm (1986) lại bắt đầu mở ra kinh tế thị trường hoang dại, hình thành một tầng lớp doanh nhân thân hữu,lien kết với những kẻ thoai hoa trong bộ máy cầm quyền, tạo ra các nhóm lợi ích kiểu mafia, chuyen "buon co che,chinh sach",thay vi buon vua nhu La Bat Vy ngay xua ,dẫn đến quốc nạn tham nhũng không thể khắc phục được, đến những vụ cướp đất, làm bần cùng hóa nông dân, gây nên những "núi" oan ức thấu trời cao, cùng đất kiệt.

    Bên cạnh nền "Văn hóa/hay MEM-VH Tấm-Cám", cũng có điểm sáng tuy chỉ le lói của văn hóa khoan dung, nhân bản. Văn nghệ sĩ chân chính và tài ba là những con chim báo bão, dự đoán tương lai phát triển của mỗi dân tộc. Năm 1976, bài ca "Mùa xuân đầu tiên" của Văn Cao ra đời là một trong những tia sáng le lói ấy. Hình như ông đã sám hối, khi cất lên lời ca :"Từ đấy người biết quê hương, từ đấy người biết thương người; Từ đấy người biết yêu người" trong giai điệu valse nhẹ nhàng, du dương, êm đềm, đầm ấm." Mùa xuân đầu tiên" lại là sự kết thúc của quá trình tự ngộ của Văn Cao, của dân tộc, đi từ triết lí lấy oán trả oán, "thề phanh thây uống máu quân thù", "đường vinh quang xây xác quân thù" đến triết lí khoan dung "người biết thương người, biết yêu người". Chính vì sự "mơ hồ lập trường giai cấp,"nhưng đậm tính nhân loại , nên " Mùa xuân đầu tiên" chỉ xuất hiện trên báo "Sài Gòn giải phóng" xuân Bính Thìn 1976, và phải đợi 20 năm sau, khi Văn Cao chết, nó mới được cất lên trên sàn diễn và các phương tiện thông tin đại chúng.

    Một chính trị gia hiếm hoi, cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt cũng đã ngộ ra như Văn Cao khi ông phát biểu, đại ý:"Ngày 30 tháng 4 nên gọi là ngày hòa bình, thống nhất nước nhà, đừng gọi là ngày giải phóng Miền Nam. Bởi vì ngày đó, có một triệu người vui ,thì cũng có một triệu người buồn".

    Những hậu quả tiêu cực của xã hội ta hôm nay trên tất cả các lĩnh vực bắt nguồn từ "Văn hóa/hay MEM-VH Tấm-Cám". Đừng đổ cái lỗi ấy cho bất kỳ nhóm người nào, cho ý thức hệ nào. Bởi vì, dù là ý thức hệ nào, nó cũng chỉ là trào lưu tư tưởng của xã hội loài người, vốn rất đa nguyên, nhiều nhóm lợi ích….

    Tiếp thu ý thức hệ nào tùy thuộc ở văn hóa của mỗi dân tộc, mỗi gia tộc và mỗi con người cụ thể. Bản thân ý thức hệ không có lỗi. Nhóm người nào, dù có ý thức hệ quốc gia hay quốc tế cộng sản đều là một bộ phận của dân tộc Việt, là kết quả của hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước, của quốc gia Việt Nam, đều là "con Lạc, cháu Hồng". Tại sao các nước quanh ta, như Thái Lan, Malaysia_ Indonesia_ Myanmar_ India…., họ không tiếp thu học thuyết đấu tranh giai cấp?? Không dùng bạo lực để chống bạo lực?
    Chính quyền của họ không được đẻ ra trên nòng súng như Mao Trạch Đông nói?. Không lấy oán trả oán? Nhưng cuối cùng, hiện nay, họ không những giành được độc lập dân tộc trọn vẹn, mà còn phát triển, hơn ta nhiều lần, về mọi mặt. Rất tiếc là đã có một Mahatma Gandhi, một Nelson Mandela của Việt Nam, là Phan Chu Trinh, nhưng dân ta lại không chấp nhận tư tưởng của ông, nên đã không đạt được thành tựu như India và Nam Phi.
    (còn tiếp)
  10. Hoailong

    Hoailong Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    28/04/2004
    Bài viết:
    2.562
    Đã được thích:
    49
    Nhưng lịch sử không có "chữ nếu" hay "giá như". Sự kiện lịch sử chỉ diễn ra một lần duy nhất, tuy rằng người ta có thể viết nhiều lần về cùng một sự kiện ấy, dưới góc nhìn khác nhau. Phê phán nhau lúc này là "xa xỉ".
    Phải trở lại tư tưởng Phan Chu Trinh: mọi tầng lớp xã hội sống đề huề trong khoan dung, khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh. Có dân trí và dân khí cao, con người sẽ vượt qua nỗi sợ hãi, để xây dựng lại đất nước từ nền móng, theo xu hướng thời đại, hội nhập với thế giới văn minh. Bởi dân nào chính phủ ấy, chứ không phải ngược lại. Cho nên tầng lớp trí thức tinh hoa phải dấn thân trong sự nghiệp khai dân trí, xóa bỏ "Văn hóa/hay MEM-VH Tấm –Cám", xây dựng văn hóa khoan dung, nhân bản, mọi người đều thắng. Hãy khép lại cánh cửa của quá khứ hàm hồ [Dương Thu Hương] và mở ra cánh cửa của tương lai nhân bản và dân chủ cho Việt Nam. Nelson Mandela, sau 27 năm bị tù đày, đã rất chí lí và sâu sắc, khi nói, đại ý: "Bước ra khỏi cánh cửa nhà tù, nếu tôi vẫn mang theo lòng hận thù, thì tôi vẫn là một tù nhân". Hòa giải, tha thứ và khoan dung để cùng nhau xây dựng lại (reengineering hay perestroika, không phải tái cấu trúc- restructuring) đất nước về mọi mặt kinh tế, xã hội, văn hóa, môi trường tự nhiên và nhân văn. Đó là con đường duy nhất đưa Việt Nam đến vị thế sánh vai cùng các nước phát triển trong khu vực và thế giới.

    P/S : Không có quốc gia nào chọn được quốc gia láng giềng. Không con người có thể chọn được sắc tộc, dân tộc và cha mẹ. Nhưng con người có thể chọn được quốc tịch. Mà những con người có khả năng tự chọn quốc tịch cho mình hầu hết là người thông minh thuộc giới tinh hoa, là nguyên khí của quốc gia. Thế hệ hôm nay phải làm hết sức mình để con cháu chúng ta không buộc phải chọn cách "bỏ phiếu bằng chân" [Ly.dai ngu] để thay đổi quốc tịch của mình.

    Tháng 1/2015 V.T.K

Chia sẻ trang này