1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Trò chuyện linh tinh giữa 2 hiệp

Chủ đề trong 'Bóng đá Việt Nam' bởi sole_husband, 20/09/2015.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. Blood_Buddha

    Blood_Buddha Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    08/12/2010
    Bài viết:
    3.041
    Đã được thích:
    2.031
    quên zùm mấy vụ con nhà Phật với con của mẹ Quán Thế Âm giùm cái.
    Vạn sự duy tâm tạo, ông tin cái gì thì nó có cái đó, tin Phật có Phật, tin Ma có Ma. nên trong chữ Tín nhà Phật có 2 cái là Mê tín và Chánh tín. Cái này phải xác định cho rõ ràng.
    --- Gộp bài viết: 08/10/2015, Bài cũ từ: 08/10/2015 ---
    thôi, đi vẫy tay rồi chờ xem bóng đá. 8 trưa giờ cũng giết khối con thời gian
    Malogs thích bài này.
  2. Malogs

    Malogs Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    24/10/2008
    Bài viết:
    9.910
    Đã được thích:
    3.063
    dạ đúng đó bác
    không biết trước có chửi nhau với bác không, mà giờ nhìn lại tự thấy hồ đồ, có thì mong bác bỏ qua cho ^^
    --- Gộp bài viết: 08/10/2015, Bài cũ từ: 08/10/2015 ---
    cám ơn bác, cũng có nghe giảng về con đường chông gai này, và cũng xác định chậm mà chắc, với lại có nghĩ rằng giờ không tu thì đến khi nào tu nữa?
    thấy mấy cụ cao tuổi đến cuối đời mới tu thấy tội quá, nên phải tự mình cứu mình thôi, sớm chừng nào hay chừng đó
  3. Blood_Buddha

    Blood_Buddha Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    08/12/2010
    Bài viết:
    3.041
    Đã được thích:
    2.031
    ừ, "già mới lo tu tập, mộ phần đầy dẫy lũ thiếu niên"
    nếu muốn chậm mà chắc, ông tìm hiểu về Nguyên Thủy, và Tịnh Độ. Tôi đọc Thiền tông là chính, ít đọc Nguyên Thủy nhưng vẫn đọc pháp ngữ của Ấn Quang đại sư đều đều. Gởi ông bài naỳ nói về pháp môn niệm Phật của Tịnh Độ:

    Đại sư Tử Bách Đạt Quán dạy về niệm phật

    Sư hỏi vị tăng Hải Châu: “Niệm Phật có thường gián đoạn chăng?”

    Tăng đáp: “Hễ nhắm mắt ngủ liền quên mất”.
    Sư nghiêm mặt, quở:
    - Nếu nhắm mắt liền quên thì niệm Phật như vậy dù có niệm một vạn năm cũng vô ích! Từ nay trở đi, ông cần phải trong lúc ngủ cũng niệm Phật chẳng gián đoạn thì mới có phần thoát khổ nổi!

    Nếu trong giấc ngủ chẳng niệm Phật được, quên mất đi thì khi mở mắt ra liền buồn khóc, nhỏm dậy ngay, đến ngay trước đức Phật dập đầu đến chảy cả máu, hoặc niệm ngàn tiếng, vạn tiếng, dốc cạn hết sức chính mình mới thôi. Làm như thế chừng hai ba chục lần thì tự nhiên trong khi ngủ mê mệt, niệm Phật cũng chẳng bị gián đoạn.

    Người đời niệm Phật hoặc là hai, ba chục năm hoặc suốt đời niệm Phật mà đến lúc lâm chung lại thành vô dụng là do lúc ngủ nghỉ chẳng hề có ý niệm nhớ đến Phật.

    Người sống như đang tỉnh, người chết như mộng; bởi vậy, người nào trong mộng vẫn niệm Phật thì lúc lâm chung tự nhiên chẳng loạn vậy!

    Muốn khám nghiệm một cách chính xác xem mình niệm Phật có chơn thật hay không thì chỉ cần quan sát lúc mình hoan hỷ và phiền não thì biết rõ ràng ngay là tâm mình chơn thật hay giả dối.

    Ðại để, người chơn tâm niệm Phật dù là lúc hoan hỷ hay phiền não thì tất nhiên vẫn niệm niệm chẳng gián đoạn vì phiền não chẳng lay động người đó nổi, hoan hỷ cũng chẳng lay động người đó được. Phiền não lẫn hoan hỷ đều đã chẳng lay động nổi người đó thì trong cảnh sanh tử sẽ tự nhiên chẳng hoảng sợ.

    Nay người niệm Phật vừa mới gặp phải chút vui mừng, giận hờn đã vứt A Di Ðà Phật ra sau ót thì sao mà niệm Phật được linh nghiệm cơ chứ?

    Nếu làm theo cách niệm Phật của tôi, thật sự có thể chẳng quên mất câu A Di Ðà Phật trong lúc yêu ghét, thế mà chẳng được lợi ích gì trong cuộc sống hằng ngày cũng như khi lâm chung chẳng được vãng sanh thì cái lưỡi của tôi ắt sẽ bị gãy nát vậy!

    Trích yếu sách Tử Bách Lão Nhân Tập
    của đại sư Tử Bách Ðạt Quán đời Minh

    p/s: nếu ông có tập ngồi kiết già thì phải nhớ tìm hiểu về các động tác xả thiền, cái này quan trọng, ngồi kiết già lâu ngày mà không biết cách xả, lâu ngày sẽ nguy hiểm
    Malogs thích bài này.
  4. Blood_Buddha

    Blood_Buddha Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    08/12/2010
    Bài viết:
    3.041
    Đã được thích:
    2.031
    * Pháp môn Niệm Phật nguyên lai ra sao? Do một niệm tâm tánh của chúng ta giống như hư không thường hằng, bất biến. Tuy thường chẳng biến, nhưng lại niệm niệm tùy duyên. Nếu chẳng duyên theo Phật giới sẽ duyên theo cửu giới. Chẳng duyên theo tam thừa sẽ duyên theo lục đạo. Chẳng duyên theo nhân thiên, ắt sẽ duyên theo tam đồ. Do duyên theo nhiễm - tịnh sai khác thành ra quả báo sướng - khổ khác xa.

    Dù bản thể trọn chẳng biến đổi, nhưng Tướng và Dụng dĩ nhiên khác biệt một trời, một vực! Ví như hư không, mặt trời chiếu thì sáng, mây đùn thì tối. Tuy bản thể của hư không chẳng vì mặt trời hay mây mà tăng, giảm, nhưng tướng trạng hiện rõ hay ngăn che cố nhiên chẳng thể nói là cá mè một lứa. Do nghĩa này, Như Lai dạy mọi chúng sanh duyên niệm nơi Phật.

    Vì thế mới nói: “Nếu tâm chúng sanh nhớ Phật, niệm Phật thì hiện tại, tương lai nhất định thấy Phật, cách Phật chẳng xa”.

    Lại nói: “Chư Phật Như Lai là pháp giới thân vào trong tâm tưởng của hết thảy chúng sanh. Vì thế, lúc tâm các ngươi tưởng Phật thì tâm ấy chính là ba mươi hai tướng, tám mươi vẻ đẹp phụ. Tâm này làm Phật, tâm này là Phật. Biển Chánh Biến Tri của chư Phật từ tâm tưởng sanh”.

    Hễ duyên theo Phật giới thì tâm này làm Phật, tâm này là Phật. Nếu duyên theo các giới chúng sanh thì tâm này làm chúng sanh, tâm này là chúng sanh. Đã hiểu vậy rồi mà vẫn chẳng niệm Phật, thật là chuyện chưa từng có! Một pháp Niệm Phật lấy vạn đức hồng danh của Như Lai làm duyên, mà vạn đức hồng danh ấy chính là Vô Thượng Giác Đạo do đức Như Lai đã chứng khi Ngài đắc quả. Do lấy Quả Địa Giác (sự giác ngộ khi đã chứng quả) làm Nhân Địa Tâm (cái tâm dùng để tu nhân), cho nên Nhân trùm biển Quả, Quả thấu tột nguồn Nhân. Như người nhiễm hương, thân có mùi thơm; như tò vò nuôi nhện, lâu ngày hóa tò vò con (3). Thành Phật ngay trong đời này, chuyển phàm thành thánh; công năng, lực dụng của pháp này vượt xa hết thảy các pháp môn khác trong cả một đời giáo hóa của Đức Phật. Bởi lẽ, các pháp môn khác đều cậy vào Tự Lực, phải đoạn Hoặc chứng chân mới hòng liễu sanh thoát tử.

    Pháp môn Niệm Phật: Tự Lực và Phật Lực cả hai cùng đủ. Bởi thế, người đã đoạn Hoặc Nghiệp sẽ mau chứng Pháp Thân. Người đầy dẫy Hoặc Nghiệp thì đới nghiệp vãng sanh. Pháp này cực kỳ bình thường, dù là kẻ ngu phu, ngu phụ cũng được hưởng lợi ích; nhưng lại cực kỳ huyền diệu, dẫu là Đẳng Giác Bồ Tát cũng chẳng thoát khỏi phạm vi của pháp này. Vì thế, không một ai là chẳng tu được. Hạ thủ dễ, thành công cao. Dùng sức ít, hiệu quả nhanh chóng. Thật là pháp môn đặc biệt trong cả một đời giáo hóa của Như Lai. Vì thế, chẳng thể dùng những giáo lý thông thường để bình luận, phán đoán được! Mạt Pháp chúng sanh phước mỏng, huệ cạn, chướng dày, nghiệp sâu, chẳng tu pháp này, toan cậy Tự Lực để đoạn Hoặc chứng chân hòng liễu sanh tử thật là vạn nan, vạn nan!

    Ấn Quang đại sư
    MalogsXinLoi_EmChiLa_ConVeo thích bài này.
  5. thrall_d

    thrall_d Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    06/02/2015
    Bài viết:
    1.158
    Đã được thích:
    1.191
    Thế gian này ai chẳng phải con Nhà Phật nên bác kia nói thế là đúng 100% rồi còn gì.
    Bác Buddha cũng nên bớt cứng nhắc ,nếu tin là con nhà Phật mà đưa được người đến nẻo lành thì cũng tốt.
    Phật giáo ở Ấn độ bị tuyệt chủng là do nó quá hàn lâm, nó coi thường cái tín ngưỡng quần chúng mà nơi đó con người cần một đấng thần linh để làm chỗ dựa.

    Nên Phật giáo cốt yếu là để đưa người đến nẻo lành, đi được bao xa là cơ duyên của mỗi người, không phải ai cũng cần đi đến mức tột đỉnh. Vì thế Phật giáo cần mềm dẻo, chẳng cần cứng nhắc bám vào han lâm làm gì. Ai cần triết lý, phật giáo cho triết lý, ai cần đấng tối cao để làm chỗ dựa thì mình cho chỗ dựa, ai cần sự màu nhiệm thì cho màu nhiệm. Cuối cùng vẫn để người tuỳ căn cơ mà hiểu được phần nào lý nhân quả để tự sửa mình.

    Thấy dạo này có nhiều học giả Phật giáo đọc kinh sách nhiều, tu ít đả phá phật giáo bình dân nơi Phật giáo hoà quyện vào tín ngưỡng, nơi chỗ dựa tâm linh cho người nghèo khổ, cho rằng đó là tà kiến, đề cao quá mức phật giáo hàn lâm. Tui thấy vậy là đi vào vết xe đổ phat giáo Ấn ngày xưa, nước trong quá thì không có cá.

    Nguoi dân nghèo người ta không cần triết lý cao siêu, đúng đúng sai sai. Họ cần một chỗ dựa về tâm linh, thông qua chỗ dựa đó mà Phật pháp hướng con người về những nghiệp lành.
    MalogsXinLoi_EmChiLa_ConVeo thích bài này.
  6. Blood_Buddha

    Blood_Buddha Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    08/12/2010
    Bài viết:
    3.041
    Đã được thích:
    2.031
    Nếu người ta hiểu và tin theo cái lý như ông nói thì tôi nói làm gì. Vấn đề là họ nghĩ con Trời con Phật theo cái hướng khác. Nhưng mà thôi, xem bóng thôi.
    MalogsXinLoi_EmChiLa_ConVeo thích bài này.
  7. thrall_d

    thrall_d Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    06/02/2015
    Bài viết:
    1.158
    Đã được thích:
    1.191
    ^^.Tui thấy đời người mà biết được có cái thứ gọi là Phật Pháp tồn tại thì đã là cái duyên lớn rồi. Từ từ cac thứ khác sẽ tới sau.
    --- Gộp bài viết: 08/10/2015, Bài cũ từ: 08/10/2015 ---
    Có một lần nghe Pháp Thoại của Thầy Thích Nhất Hạnh có một đoạn thấy hay. Có lần học trò Tây của Thầy xin ý kiến là có nên bỏ tôn giáo cũ để đi theo Phật giáo không. Thầy trả lời là không nên vì cái tôn giáo cu đã là một phần của con người mình rồi nên hãy giữ Phật Pháp chỉ thêm vào để hoàn thiện cuộc sống của mình.
    Nếu bạn cần cả người chỉ đường và đấng bảo hộ thì Phật đóng vai trò cả hai. Còn bạn đã có người bảo hộ rồi chỉ còn thiếu người dẫn đường thì Phật dẫn đường. Phật không tranh vị trí thượng tôn với người khác, thiếu gì thì cho đó.
    Vì vậy mà phat giáo đi đến mỗi nơi mỗi khác, muôn màu muôn vẻ nhưng không ngoài ý hướng con người về đường thiện. Tuỳ duyên mà bất biến ^^.
    MalogsXinLoi_EmChiLa_ConVeo thích bài này.
  8. Malogs

    Malogs Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    24/10/2008
    Bài viết:
    9.910
    Đã được thích:
    3.063
    kính bác
    có thầy là Phàm Tăng mà cũng có thầy là Thánh Tăng
    Thánh Tăng thì rất hiếm lộ diện, chỉ thân cận lắm mới biết, hoặc chỉ khi mất đi, có dấu hiệu thì mới vỡ lẽ
    Blood_Buddha thích bài này.
  9. thrall_d

    thrall_d Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    06/02/2015
    Bài viết:
    1.158
    Đã được thích:
    1.191
    Thấy các bác toàn nói chuyện mà chỉ 0 với 1. Còn 0.1, 0.2, 0.1346, 0.764455 các bác để đâu. Làm người đâu phải chỉ có 2 lựa chọn là bản năng ,sân si hết mình hoặc buông xả hoàn toàn như ông phật. Thiếu gì chỗ ở giữa cho mình đứng mà vẫn sống tốt.
    VD; ai cần bảo bác ăn chay, chỉ cần đừng ăn thitj quá mức. Ăn gà, cá thay cho heo bò đã là một bước tiến bộ rất lớn. Hãy flexible hơn. Nên quan trọng không phải là một người đang ở đâu mà là họ đang đi đến đâu.
    Mấy ông su thi cũng là người đang đi trên đường như chúng ta thôi. Nên không có cớ gì ép người ta phải như ông Phạt được. Có sư thì có chí tu thật, có sư thì chỉ mượn cửa chùa để sống, có người đứt gánh giữa đường, đủ chủng loại. Su nhận cúng dường của thiên hạ , nhiệm vụ là tu và truyền lại sở tu cho thiên hạ. Sư nhận của cúng dường mà không tu thì coi như phá hợp đông, tội nghiệp rất lớn. kieu như bác nhận học bổng mà không lo học, lấy tiền ăn chơi là tội nghiệp rất lớn.
    Lần cập nhật cuối: 08/10/2015
    Malogs thích bài này.
  10. Blood_Buddha

    Blood_Buddha Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    08/12/2010
    Bài viết:
    3.041
    Đã được thích:
    2.031
    Lúc nãy bận xem bóng nên không trả lời ông

    Thế gian này ai chẳng phải con Nhà Phật nên bác kia nói thế là đúng 100% rồi còn gì.
    ông mà đi nói với Thiên Chúa Giáo hay Hồi Giáo hoặc ngoại đạo khác, thì sẽ có câu trả lời thiết thực hơn.
    cái 100% này chỉ đúng đối với người trong Phật môn với nhau mà thôi.

    về việc Phật giáo gần như bị tiêu diệt ở Ấn Độ,
    Phật giáo ở Ấn độ bị tuyệt chủng là do nó quá hàn lâm, nó coi thường cái tín ngưỡng quần chúng mà nơi đó con người cần một đấng thần linh để làm chỗ dựa.
    xin đừng nói xàm, mời ông đọc:

    Tại sao Phật giáo gần như biến mất khỏi Ấn Độ

    [​IMG]

    Philippe Cornu -Hoàng Phong dịch

    Lời giới thiệu của người dịch :

    Ông Philippe Cornu là đương kim Chủ tịch Đại học Phật giáo Âu châu, Giảng sư tại Viện Quốc gia Ngôn ngữ và Văn minh Đông phương (Inalco) của Pháp. Ông cũng là một học giả uyên bác về Phật giáo, dịch nhiều kinh sách từ các tiếng Tây Tạng, Trung Hoa..., đồng thời ông cũng trước tác, viết báo và giảng dạy về Phật giáo. Một trong những công trình đáng kể của ông là quyển Tự điển Bách khoa Phật giáo.

    Sau đây là một bài báo ngắn do nữ ký giả Cathérine Golliau phỏng vấn ông, đăng trên một tờ tạp chí lớn của nước Pháp là Le Point (số ngoại lệ với chuyên đề về nên Văn minh Ấn độ, số 3 tháng 7 và 8, năm 2008).

    Báo Le Point: Có phải đấy là một phản ứng chống lại đạo Bà-la-môn hay không?

    P. Cornu : Đức Phật xuất hiện vào một thời điểm mà các bản kinh Vệ-đà của đạo Bà-la-môn bị chỉ trích là chỉ biết chú trọng đến nghi lễ, một số người không chấp nhận khía cạnh ấy của đạo Bà-la-môn đứng ra soạn thảo các kinh điển mới gọi là Upanisad, các kinh này quan tâm nhiều hơn đến sự giải thoát cá nhân. Con đường của đức Phật nằm trong bối cảnh diễn tiến đó của kinh điển Upanisad, tuy nhiên tính cách đặc thù trong luận lý và kinh nghiệm của đức Phật khác hẳn các hình thức cải tiến của đạo Bà-la-môn qua các kinh điển Upanisad như vừa kể.

    Báo Le Point : Đâu là những khác biệt chính yếu cho thấy những điểm trái ngược giữa hai trào lưu đó?

    P. Cornu: Trọng tâm trong những lời giáo huấn của đức Phật là tính cách vô thường của tất cả mọi sự vật, sự kiện không hề có một “cái ngã” trường tồn, và những gì mà thông thường người ta gọi là sự tương liên hay là sự tương tạo dựa vào nhiều điều kiện, nguyên tắc ấy cho thấy mọi hiện tượng chỉ có thể hiện hữu bằng cách liên đới với nhau, những hiện tựơng này làm điều kiện giúp cho những hiện tượng khác hiện hữu.

    Tham vọng muốn kiểm soát mọi vật thể và lòng ước mong chận đứng, bằng bất cứ giá nào, những chuyển động của vô thường, sẽ làm phát sinh những hiểu biết sai lầm về thế giới này và do đó chỉ đem đến khổ đau mà thôi.

    Tại sao lại như thế?

    Bởi vì tất cả những hành vi của chúng ta đều nhắm vào ý đồ kiểm soát thế giới này và mọi sự hiện hữu, và sự căng thẳng đó nhất thiết sẽ tạo ra một hố sâu khổng lồ ngắn cách một bên là những gì chúng ta mong muốn được nhìn thấy và tin rằng những thứ ấy là hiện thực, và bên kia là bản thể đích thực của hiện thực.

    Báo Le Point : Tuy thế Phật giáo và Ấn độ giáo đôi khi lại sử dụng một số ngôn từ giống nhau…

    P. Cornu : Đúng thế, nhưng ý nghĩa thì lại khác nhau. Hãy lấy thí dụ chữ “karma” (nghiệp) (1). Trong đạo Bà-la-môn thuộc hệ thống kinh điển Vệ-đà, karma tượng trưng cho một hành vi mang tính cách nghi lễ giúp hội nhập với thế giới thiêng liêng. Đối với Đạo Bà-la-môn cải tiến trong hệ thống kinh điển Upanisad, thì chữ karma lại mang ý nghĩa về luân lý : tùy theo hành vi mang phẩm tính thiện hay ác, sẽ tạo ra một loại khả năng tiềm tàng, và chính khả năng ấy sẽ chín muồi khi tái sinh trong một kiếp sống thuận lợi hay bất thuận lợi về sau.

    Ngoài ra, Ấn Độ giáo lại chủ trương một hình thức định mệnh: chẳng hạn khi rơi vào một giai cấp nào thì phải tùy thuộc vào giai cấp ấy và không thể nào thoát ra được, bởi vì karma đã quyết định như thế.

    Trong khi đó đối với Phật giáo, karma là một hành vi, và trước hết là một ý đồ trong tâm thức. Phật giáo phân biệt rõ rệt karma nguyên thủy làm nguồn gốc và hậu quả phát sinh sau đó từ karma, đấy là hai thứ khác nhau không thể lầm lẫn được. Sự phát sinh của hậu quả không thể tránh khỏi, nếu ta không làm gì cả để hoá giải nó, và hơn thế nữa ta còn có thể tinh khiết hoá cả karma trước khi nó chín muồi.

    Mặt khác, karma không ép buộc con người phải sống một cách thụ động trong một cấu trúc xã hội đã quy định sẳn : mỗi cá nhân phải tự nắm lấy vận mệnh của mình để tự giải thoát cho chính mình ra khỏi karma, vì đó là một thứ động cơ thúc đẩy gây ra khổ đau, cần phải được khắc phục. Người ta cũng có thể tìm hiểu theo phương cách tương tợ đối với chữ “samsara” (luân hồi). Chữ samsara mang một ý nghĩa giống nhau trong cả hai nền triết học Bà-la-môn và Phật giáo, tức có nghĩa là sự hiện hữu dựa vào nhiều điều kiện.

    Nhưng đối với Ấn Độ giáo, con người chỉ có thể thoát ra khỏi samsara khi nào linh hồn hay “cái ngã” (atman) được giải thoát để hội nhập với thể dạng Nhất Nguyên Vĩ Đại.

    Trong khi đó đối với Phật giáo, samsara trước hết là một sự quán nhận, phát sinh từ nhiều điều kiện, về một sự hiện hữu do karma và dục vọng của chính mình tạo tác, vì thế mỗi cá nhân phải tự giải thoát chính mình ra khỏi cảnh giới luân hồi.Vì vậy, cần phải định nghĩa trở lại các ngôn từ trong từng trường hợp một.

    Vòng quay Samsara (luân hồi)

    Báo Le Poìnt: Phật giáo có thu nạp các vị trời (2) của Ấn giáo hay không?

    P. Cornu: Có. Toàn bộ hậu cảnh huyền thoại của Ấn giáo đã được thu nạp vào Phật giáo. Nhưng ở đây cũng phải nhắc lại thêm một lần nữa, tuy Phật giáo đã thu nạp nhưng thu nạp với ý nghĩa hoàn toàn khác biệt.

    Thật vậy, theo Phật giáo các vị trời đều được xem là thuộc vào cảnh giới samsara (luân hồi). Vi chính các vị trời vẫn còn vướng mắc trong sự lầm lẫn ! Dù cho họ có một đời sống lâu dài đi nữa, nhưng khi karma đã cạn, họ sẽ rơi vào một cảnh giới khác của samsara. Họ không thể thoát khỏi bản chất có tính cách toàn diện của khổ đau.

    Báo Le Point : Nhưng tại sao nền triết học ấy chủ trương tìm kiếm sự giải thoát, lại còn cần đến các vị trời?

    P. Cornu : Đức Phật không hề tìm cách bài bác bất cứ một thứ gì. Ngài chỉ đơn giản đặt mọi sự vật vào đúng vị trí của chúng. Các vị trời không phải là mục đích cũng không phải là những nhu cầu của Ngài, và đương nhiên không hề là một đối tượng cho sự nương tựa.

    Trong Phật giáo người ta nương tựa vào nguyên tắc của Giác ngộ, vào những lời giáo huấn đưa đến Giác ngộ, và vào tập thể những người đã chọn những lời giáo huấn ấy. Đấy là những gì mà người ta gọi là Tam Bảo : Đức Phật, Dharma (đạo Pháp) và Sangha (Tăng đoàn).

    Đức Phật là nguyên tắc của Giác ngộ, vì thế Ngài là một vị hướng dẫn; Dharma là những lời giáo huấn và cách thức tu tập mà Đức Phật đã khuyên bảo để giúp đưa đến Giác ngộ ; Sangha là tập thể Tăng đoàn, nhất thiết họ là những tu sĩ, những vị hiền nhân.

    Các vị trời được xem như những gì mang tính cách truyền thống lâu đời : người ta kính trọng các vị ấy như những người láng giềng và xem họ là những biểu hiện mang tính cách dân gian, những vị ấy rồi sẽ tự xoá mờ, dần dần từng chút một, trước một mục đích cao rộng hơn. Chính sự bao dung đó đã giải thích sự thành công của Phật giáo. Đó là một nền triết học thật mềm dẽo đủ sức để thích ứng với tất cả mọi nền văn hoá.

    Báo Le Point : Phật giáo không chấp nhận giai cấp trong xã hội. Vậy có phải Phật giáo chống lại trật tự xã hội của Đạo Bà-la-môn hay chăng ?

    P. Cornu: Từ nguyên thủy, chủ đích của đức Phật không phải là thay đổi trật tự xã hội. Nhưng chỉ để thiết lập một dòng tu sĩ, nhưng vì vị thế tự đứng ra bên ngoài thế giới này, nên dòng tu sĩ ấy đã mở cửa đón nhận tất cả mọi cá nhân, thuộc tất cả mọi nguồn gốc và giai cấp, đúng hơn phải nói là Đức Phật đã tạo ra một sự dứt bỏ.

    Báo Le Point: Phật giáo sau đó đã phát triển thật mạnh mẽ trong đế quốc của vua A-Dục. Tại sao Phật giáo đã chủ trương niềm tin về “vô ngã” lại có thể phù hợp được với sức mạnh của uy quyền ?

    P. Cornu: Nền triết học đó không hề tìm cách thay đổi một xã hội, nhưng chỉ chủ trương sự biến cải cá nhân trong lòng của mỗi cá nhân : nhưng nếu vì thế mà xã hội có thay đổi đi nữa, thì đó chính là nhờ từng cá nhân đã tu tập để tự biến cải tận đáy lòng của chính họ.

    A-Dục là một vị đế vương xuất thân từ dòng dõi võ bị ; triều đại khởi sự bằng chém giết: và chính vào thời điểm đó ông ta đã ý thức được khổ đau là gì và đã quy y.

    Nhưng chúng ta cũng không nên lầm lẫn : quả thật có một huyền thoại mạ vàng về sự kiện vua A-Dục quy y làm một phật tử, và đã đem đến thanh bình và hạnh phúc cho toàn cõi đế quốc của ông. Trong đó có một phần sự thật, vì thực tế không hoàn toàn chỉ có màu hồng, dù sao đi nữa vua A-Dục cũng là một vị vua độc đoán...

    Báo Le Point :Làm thế nào để giải thích Phật giáo đã chinh phục được cả Á châu lại biến mất ở Ấn độ, trong khi Ấn giáo gần như không bành trướng ra khỏi Ấn độ nhưng vẫn tiếp tục sinh động trên bán lục địa này?

    P. Cornu: Phật giáo đối đầu với Ấn giáo, giống như là một hình thức cải tiến của Đạo Bà-la-môn khi Phật giáo tiếp xúc với Đạo này, Phật giáo ăn sâu vào các cấu trúc xã hội và được chính quyền nâng đỡ. Nhưng về sau đã bị các đạo quân Hồi giáo tiêu diệt khi xâm chiếm lãnh thổ Ấn độ.

    Phật giáo chủ trương thiết lập những Đại học to lớn, chẳng hạn như Na-lan-đà, gồm hàng ngàn tu sĩ, đấy là nhưng nơi tập trung đông đảo về nhân sự nên dễ bị tiêu diệt. Ấn giáo dựa vào cấu trúc gia đình vì thế khó bị hủy diệt hơn (3).

    Cũng nên thẳng thắn mà nói: chính những đạo quân Hồi giáo đã làm cho Phật giáo biến mất ở Ấn độ giữa buổi bình minh của thế kỷ XIII.

    GHI CHÚ THÊM CỦA NGƯỜI DỊCH


    1- Karma : tức là nghiệp. Kinh sách Tây phương không dịch mà thường dùng thẳng một số ngôn từ có tính cách đặc thù của Phật giáo dưới hình thức chữ Phạn. Chẳng hạn như các chữ Dharma, samsara, nirvana, atman v.v… Kinh sách tiếng Việt quen dùng các từ dịch từ tiếng Hán, và người đọc cũng đã quen với ý nghĩa của các từ ấy. Tuy nhiên người dịch xin giữ lại các từ tiếng Phạn đúng như trong nguyên bản của bài viết này, chỉ thêm từ tương đương gốc tiếng Hán giữa hai dấu ngoặc.

    2- Các vị trời ở đây có nghĩa là các thánh nhân, thiên nhân, thần linh, các đấng thiêng liêng, v.v… được tôn thờ trong Đại thừa Phật giáo. Một số có nguồn gốc Ấn giáo, một số phát xuất từ các nên văn hoá địa phương tùy theo quốc gia nơi Phật giáo phát triển.

    3- Thật ra Phật giáo đã bắt đầu suy thoái trước đó. Người Hung nô hết sức thù nghịch với Phật giáo, và vào thế kỷ thứ V, các đạo quân của họ xâm chiếm Tây bắc Ấn độ, đã tàn phá tất cả các trung tâm Phật giáo trong vùng này. Chính quyền trung ương Ấn độ cũng bị tan rã, Hoàng triều Gupta xụp đổ. Phật giáo di chuyển dần về các vùng trung tâm trên lãnh thổ Ấn. Các vương quốc phía Nam tuy không thù nghịch hẳn với Phật giáo, nhưng cũng không hổ trợ Phật giáo như các vua chúa của vùng Bắc Ấn.

    Sau người Hung nô, các đạo quân Hồi giáo phát xuất từ Afghanistan lại xâm chiếm nước Ấn, họ tàn phá trung tâm Đại học Na-lan-đà vào năm 1199, thiêu hủy thư viện khổng lồ của Na-lan-đà và giết hết các tu sĩ.

    Biến cố đó đánh dấu sự chấm dứt cuối cùng của một trang lịch sử vô cùng rực rỡ của Phật giáo kéo dài mười bảy thế kỷ trên đất Ấn.

    Nguồn: wwwthuvienhoasen.org

    http://nghiencuulichsu.com/2013/08/29/tai-sao-phat-giao-gan-nhu-bien-mat-khoi-an-do/

    Nên Phật giáo cốt yếu là để đưa người đến nẻo lành, đi được bao xa là cơ duyên của mỗi người, không phải ai cũng cần đi đến mức tột đỉnh.
    cốt yếu của đạo Phật là giải thoát, những cái ông nói chỉ là phương tiện, hướng đi bước đầu
    ai không cần đi đến rốt ráo thì người đó còn trong vòng luân hồi sinh tử, đó là chọn lựa mỗi người, chứ không phải Phật giáo đưa ra những mức độ cho chúng sinh chọn.

    chúng sanh bình đẳng, chư Phật bình đẳng , làm gì có đấng tối cao, mời ông sang Ki tô giáo với Hồi giáo mà hàn huyên tâm sự với các đấng tối cao. Người hiểu phật pháp, coi giáo lý nhà Phật là một môn giáo dục, chứ không phải là đối tượng để thần thánh hóa hay dựa dẫm nương nhờ. dĩ nhiên, khi đạo tâm còn yếu thì phải nương nhờ tha lực, nhưng cốt yếu vẫn ở tự lực bản thân mà tu tập.

    Tình trạng của Phật giáo Việt Nam, là do bị tạp nhiễm quá sâu nặng mức độ mê tín của Trung Hoa do cả ngàn năm bị đô hộ, ông quá lẫn lộn, đưa Phật giáo xuống hàng thần thánh cầu phước cầu tài rồi. nên hiểu sự xuống cấp và hiểu sai về Phật giáo trong nước, là do bị sự tác động của chính trị, lịch sử và nhiều yếu tố khác nữa cộng hợp, vì dụ như chúng ta đang ở thời Mạt pháp. Nhưng để hiểu đúng đắn về Mạt hay Chánh pháp, lại cần phải nói riêng.

    Thấy dạo này có nhiều học giả Phật giáo đọc kinh sách nhiều, tu ít đả phá phật giáo bình dân nơi Phật giáo hoà quyện vào tín ngưỡng, nơi chỗ dựa tâm linh cho người nghèo khổ, cho rằng đó là tà kiến, đề cao quá mức phật giáo hàn lâm.

    Giáo lý Phật giáo là bình đẳng, làm gì có bình dân hay sang giàu mà phân biệt. Làm gì có Phật Tàu hay Phật Việt mà đề cao hay hạ thấp. Nực cười cho những ai cứ muốn xiển dương một Phật giáo thuần Việt. Con đường hướng Phật là tiến đến vô ngã, vô phân biệt; thì cần xây dựng một cái riêng để làm gì ? ngoài việc tô đắp cho những cái ngã.
    Anh em ở đây chỉ đơn thuần là trao đổi chia sẻ với nhau, chứ không ai áp đặt gì ai cả, nên ông đừng giở miệng lưỡi chụp mũ ra đây.

    nguoi dân nghèo người ta không cần triết lý cao siêu, đúng đúng sai sai. Họ cần một chỗ dựa về tâm linh, thông qua chỗ dựa đó mà Phật pháp hướng con người về những nghiệp lành

    bởi nghĩ như thế cho nên đạo Phật mới bị hiểu sai, người nghèo không có nghĩa là trí tuệ họ cũng tỉ lệ thuận với vật chất. Lục tổ Huệ Năng ông bảo Ngài là giàu hay nghèo, có chữ hay không có chữ ? Quan trọng là ở cái căn lành và ngộ tính của mỗi người. Ông học Phật mà phát ngôn như này, tôi nghĩ nên xét lại nhìn nhận của mình sâu kĩ hơn.
    --- Gộp bài viết: 08/10/2015, Bài cũ từ: 08/10/2015 ---
    ông chịu đọc thì tìm Kinh Duy Ma Cật - Tuệ Sỹ dịch mà đọc
    Thầy Tuệ sỹ vừa có bản dịch vừa có bản giảng luận giải Kinh
    Bất kể tăng tục đều có khả năng buông xả hoàn toàn, nhưng là phải trên 1 tiến trình tu tập, và trải qua nhiều kinh nghiệm thực chứng chứ k phải kiểu đập phát ăn ngay
    Lần cập nhật cuối: 08/10/2015
    fuman, AnOanTinhThu2Malogs thích bài này.

Chia sẻ trang này