1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Các vấn đề tâm lý - Lý thuyết và ứng dụng. (Phần 2)

Chủ đề trong 'Tâm Lý Học' bởi Hoailong, 03/10/2010.

  1. 2 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 2)
  1. Hoailong

    Hoailong Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    28/04/2004
    Bài viết:
    2.028
    Đã được thích:
    46
    Phát hiện vùng não nhạy cảm của tình yêu & nỗi THÙ HẬN

    - "Điểm nhạy cảm" của não đối với tình yêu &nỗi THÙ HẬN đã được phát hiện trong một bệnh nhân thần kinh.

    Một khu vực sâu bên trong não kiểm soát xem một người đưa ra quyết định về việc yêu ai đó nhanh chóng như thế nào, theo một nghiên cứu mới công bố cho hay. Phát hiện này được rút ra từ một cuộc nghiên cứu người đàn ông 48 tuổi, người đàn ông nay đã trải qua một cơn đột quỵ, phát hiện trên cung cấp bằng chứng có tính quan hệ nhân quả đầu tiên rằng một khu vực của não được gọi làthùy nhỏ ở não trước (anterior insula)"đóng một vai trò quan trọng trong tình yêu", Nhà khoa học về thần kinh Stephanie Cacioppo, tác giả dẫn đầu nghiên cứu cho biết. Nghiên cứu này được thực hiện tại trường Đại học Chicago.

    Trong một bài báo trước đó đã phân tích nghiên cứu về chủ đề này, Cacioppo và các đồng nghiệp đã xác định tình yêu như là:"một tình trạng khao khát mạnh mẽ (và lâu dài) có chủ ý nhằm liên kết với người khác"trong khi sự ham muốn ti`nh dục, hoặc ham muốn về ti`nh dục, là đặc trưng bởi một tình trạng có chủ ý trong thời gian ngắn, mục đích để thỏa mãn.

    Trong nghiên cứu này, bệnh nhân đã ra các quyết định về ham muốn ti`nh dục một cách thông thường, nhưng đã cho thấy thời gian phản ứng lại chậm hơn khi đưa ra các quyết định về tình yêu, trái ngược với những người tham gia điển hình phù hợp về độ tuổi, giới tính và dân tộc. Các kết quả nghiên cứu được trình bày trong một bài báo"Selective Decision-Making Deficit in Love Following Damage to the Anterior Insula", (tạm dịch là Suy giảm khả năng ra quyết định lựa chọn trong tình yêu sau TỔN THƯƠNG ở thùy nhỏ não trước) được xuất bản trên tạp chí Current Trends in Neurology.

    [​IMG]

    "Sự khác biệt này đã được giải thích, đó là ham muốn ti`nh dục là một sự tượng trưng tương đối cụ thể về các trải nghiệm về giác quan, trong khi tình yêu là một sự tượng trưng trừu tượng hơn của những trải nghiệm đó",Cacioppo, một trợ lý nghiên cứu và phó giáo sư về tâm lý học cho biết. Các dữ liệu mới cho thấy, thùy nhỏ ở não sau ảnh hưởng đến cảm giác và kiểm soát vận động, là liên quan tới cảm xúc ham muốn ti`nh dục hoặc mong muốn, trong khi đó thùy nhỏ ở não trước đóng một vai trò trong các tượng trưng trừu tương hơn trong đó có tình yêu.

    Trong một bài báo trước đó có tên:"Các nền tảng về thần kinh thông thường giữa ham muốn ti`nh dục và tình yêu: Một phân tích fMRI mật độ Kernel đa cấp"Cacioppo và các đồng nghiệp đã kiểm tra một số nghiên cứu quét não để xem xét, sự khác biệt giữa tình yêu và ham muốn ti`nh dục.

    Các nghiên cứu đều cho thấy, sự nhất quán rằng thùy nhỏ ở não trước là liên quan đến tình yêu và thùy nhỏ ở não sau liên quan đến ham muốn ti`nh dục. Tuy nhiên, giống như trong tất cả các nghiên cứu sử dụng hình ảnh cộng hưởng từ (fMRI), những phát hiện này là tương quan với nhau.

    "Chúng tôi đã suy luận rằng, nếu thùy nhỏ ở não trước là nguồn gốc của phản ứng tình yêu, chúng ta có thể tìm bằng chứng cho điều đó bằng cách chụp quét não của một người mà thùy nhỏ ở não trước đã bị TỔN THƯƠNG", bà nói.

    Trong nghiên cứu, các nhà nghiên cứu đã kiểm tra người đàn ông 48 tuổi dị tính luyến ái ở Argentina, người này đã trải qua một cơn đột quỵ làm TỔN THƯƠNG chức năng thùy nhỏ ở não trước. Ông được so sánh với một nhóm kiểm soát gồm 7 nam giới người Áchentina cùng độ tuổi và không bị TỔN THƯƠNG thùy nhỏ ở não trước.

    Bệnh nhân này và nhóm được kiểm soát được cho xem 40 bức ảnh ngẫu nhiên về độ hấp dẫn của những cô gái trẻ mặc những chiếc váy ngắn và dài quyến rũ, và được hỏi rằng những cô gái này là đối tượng của ham muốn ti`nh dục hay tình yêu. Bệnh nhân bị TỔN THƯƠNG ở thùy trước ở não cho thấy phản ứng chậm hơn khi được hỏi câu hỏi trên.

    "Nghiên cứu này giúp tách tình yêu ra khỏi các yếu tố sinh học khác", các tác giả viết.

    Những nghiên cứu như vậy cũng có thể giúp các nhà nghiên cứu xem xét những cảm xúc của tình yêu bằng cách nghiên cứu các hoạt động thần kinh chứ không phải là bằng các câu hỏi mang tính chủ quan.
    Theo
    (khoahoc.tv & sciencedaily)
  2. Hoailong

    Hoailong Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    28/04/2004
    Bài viết:
    2.028
    Đã được thích:
    46
    Tại Sao Giận Dữ và Bốc Đồng Lại Đi Đôi Với Nhau?
    Tác giả: Lesley Henton, Texas A&M University | Dịch giả: Việt Nguyên

    “Nếu là người kiềm chế kém, có lẽ tốt nhất bạn nên tránh xa các tình huống có thể khơi gợi cảm xúc giận dữ hoặc lo lắng, vì rất khó để kiềm chế những cảm xúc này một khi chúng xuất hiện”- Brandon Schmeichel nói. (Robert Occhialini/Flickr)

    Những người có khả năng kiểm soát tốt cơn bốc đồng của mình sẽ có khả năng kiểm soát cơn giận dữ tốt hơn, và các nhà nghiên cứu nói rằng khả năng này liên quan đến việc kiểm soát luồng cảm xúc.

    “Chúng ta gói gọn vấn đề vào việc kiểm soát cảm xúc”- theo Brandon Schmeichel, giáo sư tâm lý học thuộc Trường Đại học Texas A&M, người chuyên nghiên cứu về “khả năng kiềm chế”, năng lực “nhẫn nại” của con người trước một phản ứng. “Những người giỏi trong việc tự kiểm soát bản thân đang từng lúc điều chỉnh cảm xúc của họ khi chống chọi lại cơn bốc đồng. Họ tự động sử dụng năng lực đó để giảm bớt các cảm xúc tiêu cực của bản thân”.

    Trong một nghiên cứu mới xuất bản trên tạp chí Nhận thức và Cảm xúc, Schemeichel và đồng tác giả David Tang, một sinh viên cao học ngành tâm lý học, đã thử nghiệm khả năng kiềm chế của các đối tượng tham gia với phương pháp Trắc nghiệm tín hiệu ngừng là một phương pháp thí nghiệm thường được sử dụng, trong đó các đối tượng được yêu cầu phản ứng thật nhanh trước một hình vuông hoặc hình tròn trên màn hình máy tính bằng cách nhấn nút.

    Trong một vài lượt, sẽ có một tiếng bíp vang lên ngay sau khi hình ảnh xuất hiện, có ý nghĩa ra hiệu cho đối tượng là không nhấn nút. Những người có thể ức chế được phản ứng ấn nút của họ được tin là có khả năng kiềm chế tốt hơn. “Trắc nghiệm tín hiệu ngừng” là một phương pháp đo lường khả năng kiềm chế và đã được xác nhận, nhưng có một số nghiên cứu đã điều tra về mối liên hệ giữa việc tiến hành phương pháp tín hiệu ngừng và đáp ứng cảm xúc”- các nhà nghiên cứu viết.

    Tiếp theo phương pháp Trắc nghiệm tín hiệu ngừng, một số đối tượng được đưa vào một trạng thái cảm xúc bằng cách hồi tưởng lại thời điểm khi họ lo lắng hoặc TỨC GIẬN, trong khi các nhóm khác được yêu cầu nhớ lại thời điểm tại đó có các cảm xúc trung lập.

    Các kết quả đã cho thấy, những người với khả năng kiềm chế tốt hơn có báo cáo về các ký ức cảm xúc, nhưng trạng thái cảm xúc hiện tại của họ lại ít chịu ảnh hưởng của các ký ức đó, so với người có khả năng kiềm chế kém. Nói cách khác, khả năng kiềm chế kém hơn góp phần làm gia tăng các cảm xúc tiêu cực sau khi nhớ lại những ký ức buồn.

    “Bất kể là hồi tưởng lại ký ức lo lắng hay ký ức TỨC GIẬN, chúng tôi đã ghi nhận được sự gia tăng cảm xúc lo lắng ở những người tham gia có khả năng kiềm chế kém”- Schmeichel nói. “Với những người này, nhớ lại những ký ức chứa cảm xúc tiêu cực là một trải nghiệm khơi gợi sự lo lắng”.

    Phương pháp Bức tranh tổng thể
    Ngoài ra, TỨC GIẬN có cơ chế hoạt động hơi khác biệt so với lo lắng. “Theo báo cáo những người tham gia không có quá nhiều cảm xúc TỨC GIẬN khi họ hồi tưởng lại một ký ức lo lắng”- Schmeichel nói. “Nhưng khi họ hồi tưởng lại một ký ức TỨC GIẬN, đã ghi nhận được những thành viên với khả năng kiềm chế kém hơn có nhiều cảm xúc TỨC GIẬN hơn so với những người có khả năng kiềm chế tốt”.

    Nghiên cứu có thể nắm giữ đầu mối gợi ý cho mọi người cách chế ngự lo lắng và TỨC GIẬN. “Nếu bạn là kiểu người có khả năng kiềm chế kém, điều tốt nhất là tránh các tình huống có thể khơi gợi nên cảm xúc TỨC GIẬN và lo lắng, vì rất khó để kiềm chế các cảm xúc đó một khi chúng xuất hiện”.

    Ông gợi ý rằng, chúng ta nên dựa vào gia đình và bạn bè nhờ đó bạn sẽ lưu tâm về các tình huống trước khi chúng xảy ra. “Nếu bạn có khả năng kiểm soát kém, có một người bạn với khả năng kiểm soát tốt là điều tuyệt vời”- ông nhấn mạnh.

    Để rèn luyện các kỹ năng tự kiểm soát bản thân, hãy sử dụng phương pháp “Bức tranh tổng thể”- ông gợi ý. “Nó cần sự rèn luyện, như khi trong một phút bị cám dỗ, thì bạn hãy tập trung vào bức tranh tổng thể. Ví như khi bạn muốn hút thuốc lá, thì hãy lùi lại một bước và nhớ về gia đình bạn và việc bạn có ý nghĩa như thế nào đối với họ”.

    Nguồn: Đại Học Texas A&M. Tái bản từ trang

    Futurity.org dưới Creative Commons phiên bản 3.0.
  3. Hoailong

    Hoailong Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    28/04/2004
    Bài viết:
    2.028
    Đã được thích:
    46
    Có 1 câu hỏi là "Học tâm lý học để làm gì ?". & Sau đây là 1 trong ~ câu trả lời (thoả đáng):
    10 điều mà các giảng viên tâm lý học muốn bạn biết
    [​IMG]
    Hằng năm, là một giảng viên tâm lý học, tôi giúp hàng trăm bạn trẻ vượt qua một chương trình học khắt khe và chuẩn bị cho tương lai của họ. Theo một ý nghĩa, tương lai đó sẽ bao gồm sự huấn luyện đại học tiên tiến hoặc một nghề nghiệp có liên quan đến khoa học hành vi – hoặc cả hai. Nhưng chúng không phải là mục tiêu duy nhất chúng tôi muốn các sinh viên của chúng tôi đạt được trong 4 năm học của họ dưới sự dẫn dắt của chúng tôi. Dưới đây là mười sản phẩm của một nền giáo dục tâm lý học mà các giảng viên tâm lý học cố gắng trau dồi ở các sinh viên của họ trong nhiều năm.

    10. Hiểu rõ sự rộng lớn của nội dung các lĩnh vực trong tâm lý học.
    Tâm lý học rất rộng lớn! Nó bao gồm bất kỳ lĩnh vực nghiên cứu nào có liên quan đến những quá trình tâm lý hoặc hành vi – ở các loài!
    Những chủ đề được các nhà tâm lý nghiên cứu gồm nhiều loại khác nhau – ví dụ, trẻ sơ sinh nhận diện các khuôn mặt như thế nào, chó học cách tránh né những hậu quả đáng ghét ra sao, làm sao những tình huống tưởng chừng nhỏ bé lại có thể gây ra những hậu quả to lớn về hành vi ở người trưởng thành, con người ghi nhớ các danh sách như thế nào, và còn nhiều nữa.
    Khi một ai đó nói anh ấy đang học “tâm lý học” thì bạn cần hỏi “Học lĩnh vực gì? Chủ đề gì?”

    9. Hiểu rõ giá trị của sự rộng lớn của các lĩnh vực ứng dụng trong tâm lý học.

    Các sinh viên năm nhất học tâm lý học thường nghĩ rằng tất cả các nhà tâm lý đều là những nhà tâm lý học ứng dụng (rằng tất cả các nhà tâm lý có nhiệm vụ giúp đỡ ai đó xử lý vấn đề) và tất cả các nhà tâm lý học ứng dụng đều là những nhà trị liệu. Không đúng!
    Các nhà tâm lý học ứng dụng có nhiều kiểu khác nhau. Một số nhà tâm lý học ứng dụng là các nhà trị liệu (như nhà tâm lý học lâm sàng, tham vấn sức khoẻ tinh thần, nhà tham vấn học đường) trong khi một số khác thì giúp các tổ chức tối ưu hoá các điều kiện làm việc (nhà tâm lý học công nghiệp/tổ chức) và những người khác làm việc trong ngành công nghiệp chăm sóc sức khoẻ để giúp đạt được những kết quả khoẻ mạnh có liên quan đến những cái chung của sức khoẻ thể chất và tinh thần (các nhà tâm lý học sức khoẻ) và nhiều nữa!
    Khi ai đó nói rằng anh ấy muốn “làm việc trong lĩnh vực tâm lý học”, thì anh ta cần nhận ra có rất nhiều con đường nghề nghiệp khác nhau!

    8. Hiểu rằng một sự giáo dục tốt về tâm lý học là một nền giáo dục toàn năng.
    Trong khoa của chúng tôi ở SUNY New Paltz, chúng tôi thực hiện nền giáo dục toàn năng rất nghiêm túc. Chúng tôi có hai câu lạc bộ tâm lý học khác nhau cho các sinh viên. Chúng tôi tổ chức những buổi nói chuyện nghiên cứu do nhiều chuyên gia bên ngoài trong lĩnh vực tâm lý học hằng năm. Chúng tôi có những truyền thống lâu đời như sự kiện “Tam khoa Tâm lý học” vào tháng 12 và BBQ mùa xuân. Và chúng tôi khuyến khích tất cả sinh viên của chúng tôi chủ động trong nghiên cứu học thuật và các cơ hội thực tập. GPA tốt và điểm số cao trong các bài kiểm tra là điều tuyệt vời – nhưng cuối cùng, chúng tôi đang chuẩn bị cho các nhà lãnh đạo tươmg lai trong lĩnh vực – và chúng tôi muốn họ có một nền giáo dục mở rộng ra bên ngoài lớp học vì, khi xem xét mọi thứ thì lớp học chỉ là một sự gần đúng với những gì mà thế giới thật đang đợi bạn trong tương lai.

    7. Khả năng thiết kế và thực hiện một nghiên cứu khoa học về một số vấn đề liên quan đến hành vi. Trong một lĩnh vực tâm lý học điển hình, bạn cần tham gia một khoá học về Các phương pháp nghiên cứu – ở đó bạn học các kỹ năng cần thiết để thiết kế và thực hiện nghiên cứu của riêng bạn. Chúng tôi muốn bạn mang theo những kỹ năng đó bên mình sau khi bạn tốt nghiệp! Bạn nên có khả năng trình bày rõ ràng một câu hỏi nghiên cứu vững chắc. Bạn nên có khả năng nhận diện những biến số trong nghiên cứu của bạn – và hiểu được bạn đo lường chúng như thế nào. Bạn nên có khả năng thiết kế một cuộc khảo sát có thể đưa đến dữ kiện có thể dễ dàng xác định số lượng. Và bạn nên có khả năng tính toán thống kê để hiểu được các kết quả của bạn. Dù bạn đang theo bất kì lĩnh vực nào thì tôi hứa với các bạn rằng các kỹ năng đó sẽ có lợi cho bạn.

    6. Một hiểu biết cơ bản về khoa học thống kê và khả năng đánh giá phản biện những thống kê của người khác. Lớp học thống kê của bạn trong ngành tâm lý học không được thiết kế để làm bạn cảm thấy như mình sắp đi gặp nha sỹ! Hiểu được khoa học thống kê ở cấp độ cơ bản sẽ có lợi cho bạn trong cuộc sống. Nó sẽ giúp bạn hiểu được dữ kiện do người khác trình bày. Nó sẽ giúp bạn đặt những câu hỏi đúng khi xem xét các kết quả (hoặc bất kì điều gì) được trình bày với bạn trong suốt cuộc sống của bạn. Và nó sẽ giúp bạn nghĩ về làm thế nào để hỏi và trả lời tốt nhất các câu hỏi mà bạn có về bất kì khía cạnh nào và tất cả các khía cạnh của thế giới. Từ lĩnh vực giáo dục đến luật cho đến y khoa, hiểu được khoa học thống kê sẽ giúp bạn định hình và trả lời các câu hỏi liên quan đến công việc của bạn tốt hơn.

    5. Nhận ra loài người có mối quan hệ chặt chẽ với những dạng thức khác của cuộc sống. Không phải tất cả mọi người đều nhận ra điều đó, nhưng tâm lý học không chỉ đề cập về con người! B. F. Skinner, một trong những nhà tâm lý học nổi tiếng nhất trong lịch sử của ngành, ông chỉ nghiên cứu về loài chuột và chim bồ câu! Nhiều nhà tâm lý học như Gordon Gallup, mở rộng nghiên cứu đến động vật linh trưởng. Các nhà tâm lý từng nghiên cứu về chó, mèo, chim, dế và nhiều nữa! Tâm lý học là nghiên cứu khoa học về hành vi – được định nghĩa rộng!
    Chúng ta có mối quan hệ quan trọng với toàn thể cuộc sống – và nhiều quy luật chi phối hành vi bao gồm nhiều loài khác nhau. Và đây là một điều hay!

    4. Hiểu rằng mọi người là giống nhau ở mọi nơi bạn đến. Trong một chương trình dạy tâm lý học theo tiêu chuẩn, tính chất chung của con người là mặc nhiên. Ví dụ, khi bạn học về trí nhớ dài hạn, bạn đang học về cách thức trí nhớ con người làm việc – ở mọi người nói chung. Khi bạn học về các giai đoạn phát triển nhận thức đầu đời của Piaget – bạn đang học về sự phát triển của con người.
    Khi bạn học về cách chúng ta xử lý cảm xúc (e.g., Ekman & Friesen, 1968), tức là bạn đang học về một khía cạnh cơ bản của tâm lý con người là đúng trên toàn cầu. Hầu như tâm lý học, ngầm hoặc công khai (xem Geher, 2014) tập trung vào những thứ mà tất cả chúng ta đều chia sẻ khi nói đến tâm trí và hành vi.
    (còn tiếp)
  4. thienbao10

    thienbao10 Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    07/01/2016
    Bài viết:
    280
    Đã được thích:
    22
    mình rất thích đọc các bài viết về tâm lý của con người như thế này cảm ơn ad đã chia sẻ nha
  5. Hoailong

    Hoailong Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    28/04/2004
    Bài viết:
    2.028
    Đã được thích:
    46
    (tiếp)
    3. Hiểu rằng văn hoá ảnh hưởng đến hành vi con người rất lớn. Hầu như tất cả những nỗ lực nghiên cứu về những ảnh hưởng của nền văn hoá lên hành vi con người (e.g., Schmitt, 2005) đã dẫn đến các kết quả có lợi. Đó là vì con người cực kì nhạy cảm với môi trường sống của họ – và nền văn hoá, có thể được xem như một bộ những yếu tố thuộc môi trường bao quanh một nhóm người tại một thời điểm nhất định (bao gồm ngôn ngữ, tôn giáo, nghệ thuật, triết học và còn nhiều nữa), là kiểu yếu tố thuộc môi trường có ảnh hưởng sâu sắc đến cách con người nhìn nhận về thế giới và cách họ hành động. Văn hoá ảnh hưởng đến nhiều hiện tượng tâm lý khác nhau ví dụ như những phản ứng cảm xúc, các quá trình nhận thức, hành vi trong mối quan hệ thân thiết, và nhiều nữa. Dù mọi người đều giống nhau y hệt, thì ở một mức độ nào đó, những nhóm người trên khắp thế giới có những cách độc đáo duy nhất của riêng họ. Văn hoá rất quan trọng.

    2. Hiểu rằng mỗi người là một cá nhân – và đây không phải là lời nói cửa miệng!
    Tất cả mọi người là những cá nhân! Dù tất cả mọi người đều tuân theo nhiều quy luật chi phối các quá trình hành vi tâm lý, thì mỗi cá nhân là độc đáo duy nhất xét về mặt (a) cấu tạo di truyền của anh/cô ấy, (b) lịch sử phát triển, and (c) quan điểm về thế giới. Khi bạn nhìn thấy hành động của một ai đó, thông thường bạn hay nghĩ là “oh, người đó nhìn nhận về thế giới giống như tôi” – nhưng trên thực tế, giả định này thường sai lầm. Hai người nhìn về cùng một sự việc thì thường có những phản ứng cảm xúc và nhận thức rất khác nhau. Hãy nghĩ về Justin Bieber! Tôi cá là bạn có thể nghĩ đến những người trên thế giới này có nhiều phản ứng khác nhau đối với anh ta! Bên cạnh những vấn đề về tính chất chung của con người và tác động của văn hoá lên hành vi, mỗi người chúng ta có một tâm lý độc đáo duy nhất – và hiểu được thực tế này về bản thân và người khác có thể rất có ích cho việc hiểu được thế giới xã hội của bạn.

    1. Hiểu được sự thật rằng không có người xấu. Vào những năm 1960 và 1970, một loạt thực nghiệm nổi tiếmg được tiến hành bởi các nhà tâm lý học xã hội, nhưPhilip Zimbardo với Phim The Stanford Prison Experiment 2015 - Thí Nghiệm Nhà tù Stanford và Stanley Milgram với Phim Người Thử Nghiệm (Experimenter) 2015 , khám phá ra một số điều gây bất ngờ liên quan đến những gì là con người:
    Ví dụ, trong các nghiên cứu về “sự phục tùng” cổ điển của ông, Milgram (1963) cho thấy một phần lớn những người trưởng thành “bình thường” có thể tuân lệnh một người bề ngoài như nhà nghiên cứu – đến nỗi họ, những người tham gia, tin rằng hành động của họ trong nghiên cứu đang gây ra đau đớn – hoặc cái chết – cho những người tham gia khác trong nghiên cứu.
    Zimbardo đã tiến hành nhiều nghiên cứu tiếp theo với các kết quả tương tự – “những người bình thường” đều có khả năng trở thành “độc ác”. Dù những ý nghĩ đó có phần gây bất an, thì chúng cũng trao thêm sức mạnh.

    Một ngụ ý của các nghiên cứu cổ điển đó là: Cái ác không phải là một đặc điểm của con người – đúng hơn là, cái ác, cái xấu là một đặc điểm của hoàn cảnh, tình huống. Nếu chúng ta muốn con người hành xử theo cách nhân văn và hợp tác thì chúng ta cần tạo ra những hoàn cảnh tạo điều kiện cho những điều đó. Và khi bạn thấy một ai đó trong thế giới của bạn dường như xấu xa, hung ác – thì hãy lui lại và nghĩ về hoàn cảnh sống của người đó. Bạn có thể không trở nên tàn ác, thú tính, nhưng ít ra bạn có thể hiểu rõ làm thế nào hành vi của người đó phần nào là một phản ứng trước những yếu tố thuộc hoàn cảnh sống.
    Không có người xấu xa – đúng hơn là, chỉ có những hoàn cảnh sống dẫn đến những hành vi xấu xa. Có một sự khác biệt lớn ở đó!

    Nếu bạn đang là một sinh viên ngành tâm lý học thì tôi hy vọng rằng những vấn đề đó là hợp lý và cộng hưởng trong bạn. Trong công việc của tôi, cung cấp nền giáo dục tâm lý học tốt nhất có thể cho các bạn trẻ khi họ sắp dấn thân vào cuộc hành trình vào tuổi trưởng thành của họ là điều thiết yếu. Nếu bạn đang là một sinh viên chưa tốt nghiệp hoặc tốt nghiệp, nhận ra rằng các giảng viên của bạn đang làm nhiệm vụ tạo ra những nhà lãnh đạo tương lai của thế giới này – và nhận ra bạn, dù thích nó hay không, đang phát triển, hướng tới tương lai và giúp thế giới trở thành một nơi tốt hơn. Đừng làm hỏng nó!

    3. Hiểu rằng văn hoá ảnh hưởng đến hành vi con người rất lớn. Hầu như tất cả những nỗ lực nghiên cứu về những ảnh hưởng của nền văn hoá lên hành vi con người (e.g., Schmitt, 2005) đã dẫn đến các kết quả có lợi. Đó là vì con người cực kì nhạy cảm với môi trường sống của họ – và nền văn hoá, có thể được xem như một bộ những yếu tố thuộc môi trường bao quanh một nhóm người tại một thời điểm nhất định (bao gồm ngôn ngữ, tôn giáo, nghệ thuật, triết học và còn nhiều nữa), là kiểu yếu tố thuộc môi trường có ảnh hưởng sâu sắc đến cách con người nhìn nhận về thế giới và cách họ hành động. Văn hoá ảnh hưởng đến nhiều hiện tượng tâm lý khác nhau ví dụ như những phản ứng cảm xúc, các quá trình nhận thức, hành vi trong mối quan hệ thân thiết, và nhiều nữa. Dù mọi người đều giống nhau y hệt, thì ở một mức độ nào đó, những nhóm người trên khắp thế giới có những cách độc đáo duy nhất của riêng họ. Văn hoá rất quan trọng.

    References

    Ekman, P., & Friesen, W. V. (1986). A new pan-cultural facial expression of emotion. Motivation and Emotion, 10, 159-168.

    Geher, G. (2014). Evolutionary Psychology 101. New York: Springer. (link is external)

    Milgram, S. (1963). Behavioral study of obedience. Journal of Abnormal and Social Psychology, 67, 371-378

    Schmitt, D. P. (2005). Socio***uality from Argentina to Zimbabwe: A 48-nation study of ***, culture, and strategies of human mating. Behavioral and Brain Sciences, 28, 247-311.

    Thanh Hằng dịch

    Nguồn: PsychologyToday
  6. Hoailong

    Hoailong Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    28/04/2004
    Bài viết:
    2.028
    Đã được thích:
    46
    Vài nét tâm lý văn hóa người việt nam

    Lương Cần Liêm, Tiến sĩ tâm lý học, Bác sĩ tâm thần.
    Giảng viên Đại Học Paris 13.
    Chủ tịch Hội Pháp-Việt Tâm-thần và Tâm-lý Y Học (Paris).
    Hội thảo Đại Học Phạm Ngọc Thạch, Thành Phố Hồ Chí Minh, 27-30 tháng 10.2009.

    Tôi định nghĩa tâm lý học là bộ môn nghiên cứu hoạt động tâm và trí con người.
    Khi đóng khung một địa bàn tìm hiểu, nhà nghiên cứu đối chiếu qui luật tổng quát của bộ môn với lô gích nội thể của nó. Về hoạt động khoa học, chúng ta gặp tính chủ quan và khách quan của hai người trong và ngoài cuộc, cùng với hai lô gích nội bộ của sự khách quan và sự chủ quan mà tự bộ môn tạo ra trong một bố cảnh chánh trị, xã hội và văn hóa nhất định. (Xem Karl Popper,The logic of Scientific Discovery, 1959 & Thomas Samuel Kuhn,The structure of Scientific Revolutions,1962).
    Nói như vậy, con người là điều kiện, vật liệu và yếu tố duy nhất và tiên khởi của tất cả mọi sáng chế của cuộc sống, tạo ra quan niệm đời, kinh tế, khoa học, tôn giáo, vật chất, của cải, xã hội, lý tưởng. Con người tạo ra sản phẩm cụ thể và vô hình mà chính vì vậy loài người thành tập thể sống theo các sản phẩm ấy như một thường lệ; mỗi người tự nhận mình là một vật thể xã hội theo qui luật của nó.

    Trong quan hệ điều trị, chủ quan và khách quan tréo với nhau hai lần giữa người và người và giữa người với bộ môn. Ta gọi đó là hiện tượngchuyển cảm(transfert) trong ban giao. Hiện tượng này cần cân đối với hiện tượngphản cảm chuyển(contre transfert) để đạt một thăng bằng trong trao đổi tâm và trí, cho phép đôi bên giử sáng suốt.
    Y thức cái tréo đôi ấy giúp công tác điều trị đạt một vị trí trung dung, có thế phê chuẩn và phê bình trong tính trung lập, gọi là trao đổi -- trao rồi đổi chứng kiến -- giữa hai đối tác không có sự áp đạt tâm lý của người đứng ngoài cuộc có hiểu biết chuyên môn, trên người đứng trong cuộc phải chịu xào những khó khăn của mình.

    Dụng cụ nghiên cứu tâm lý là ngôn ngữ và cách phát ngôn.

    Trước tiên là xem hai điểm quan trọng như sau.

    A.- trong TừPsychologie của văn hóa phương tây
    - logie; có nghĩa là môn học :-
    Psyche --
    là tất cả hiện tượng của trí cho phép định chế cá thể con người như mình xem mình trong một tấm gương đứng (psyché).

    Chúng ta dùng chữTâm lý học. Trong gốc hán nôm quốc ngữ, " Lý " có hai nghĩa không xa với nhau : một là lý luận và hai là lý do. " Tâm lý học " là bộ môn nghiên cứu luật tâm lý và nguyên tắc tình cảm làm con người sống có văn hóa. Ta tượng trưng cái đó bằng trái tim. Lúc xưa, người phương tây không rành chuyện cho rằng người phương đông không phân biệt tâm và trí, trái tim và bộ não nên họ nghĩ rằng người việt nam dùng chữ tâm lý như thoái tả cảnh thô sơ, một cách nói để nói. Nếu ta suy nghĩ theo họ thì phương đông chưa từng biết " hoạt động nội tâm " là gì. Ta tiếp tục xem ngành này mới sanh ra đời gần đây mà thôi. Họ không biết rằng chữ tâm không phải là trái tim : tâm là một hình ảnh, là cách nói ẩn dụ (métaphorique), bóng gió, trừu tượng để mô tả con người là một thể chất vừa có trí, vừa có thân, vừa có cảm xúc. Con người vốn là người tình cảm và đạo đức -- ta gọi là người có lương tâm --, dùng lý trí để phục vụ mình, thấu hiểu mình, giải thích mình, kế hoạch hóa mình.

    Chú ý các điểm này là để hiểu bối cảnh văn hóa của từ ngữ ta dùng, không rơi vào một số bẫy khi thấy một vấn đề xã hội mới, tưởng chừng như có một ý niệm tâm lý một mới. Ví dụ " nghiện games ". Chúng ta tránh lạm dụng " danh từ mới " ví dụ như từ " trầm cảm " mà dân gian đã biết " bệnh buồn-buồn " hoặc " bệnh buồn vô cớ ". Từ " dépression " xuất hiện ở phương tây vào những năm 1970. Đây một từ lấy trong bộ môn khí tượng thời tiết nói về sức áp trời xụt xuống độ thấp, giống giống như ta nói " mất khí sống " vậy. (Thật vậy, người có tánh nết trầm lặng là người trầm cảm ngầm mà họ không biết chăng ?).
    B.- Trong lịch trình chuyển tiếp tiếng quốc ngôn sang chữ quốc ngữ, người việt nam hết dùng chữ hán nôm để ghi lại tiếng nói của mình. Như thế, con người thay đổi tư duy và cách nhìn thực trạng của cụ thể. Mặt khác, các từ ngữ có khi lại mất nguyên gốc của nó.

    Tôi xin có vài ví dụ cùng với một số vấn đề dịch thuật :

    1. ChữÁi(yêu)là chữ ghép trong hán nôm : Nữ + Nhi. Mô hình tình ái là tình cảm giữa bà mẹ và con trẻ chớ không phải giữa nam và nữ. Như thế là đủ để suy nghĩ đến quan niệm văn hóa về tình, sự khác biệt giữa tình cảm, tình_dục, tình yêu, tình duyên (mà tiếng pháp chỉ có một chử aimer, tiếng anh hai chữ to love và to like).

    2. ChữGian(tánh gian tham) là ba chữ nữ ghép với nhau trong hán nôm. Thế thì ngày xưa, 3 phụ nữ chung với nhau thì có vấn đề gì ?

    3. ChữKhông giandịch ra là Espace (Space tiếng anh). Gian (như gian nhà) là một khoảng : Không gian là một khoảng trống, trong khi đó từ Espace là một khoản đầy.
    Thời gianlà đơn vị thời điểm chụm lại trong khi đó từ Temps (Times) là một khoản thời kéo dài duy nhất. (Xem François Jullien :du Temps, Paris, Grasset, 2001, có dịch ra tiếng việt Bàn về chử Thời).
    4. Trong lúc chuyển sang quốc ngữ, một số ý nghĩa đã biến đổi. Ví dụ :Đạocó nghĩa là con đường dẫn lối trong triết học trừu tượng, nay là tôn giáo.
    Ví dụ :Kinhtrước có nghĩa là quyển sáchgiáo khoacủa người dạy người (KINH DỊCH, Đạo Đức Kinh, hay Tứ Kinh), nay là một lời thánh của Chúa -- hoặc người cao thượng -- ban xuống cho chúng sinh, từ lúc ông cha Jean-Louis Taberd (1794-1840)http://en.wikipedia.org/wiki/Jean-Louis_Taberd - cite_note-1dịch oratorio = kinh.In :Dictionarium Anamitico-Latinum, J. L. Taberd,Serampore,1838.

    5. Ý niệm "hạnh" thiệt ra không có tương đương ở phương âu. Chữ " đức " được dịch tiếng pháp làvertu(tiếng anh làvirtue) ; ngược của vertu làvice(a :vice) tức là dâm trong khi đó, " thất đức " (không có đức hoặc hết đức) không bao giờ có nghĩa là dâm tính, hay dâm dục.
    (còn tiếp)
  7. Hoailong

    Hoailong Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    28/04/2004
    Bài viết:
    2.028
    Đã được thích:
    46
    (tiếp)
    Bốn cực tâm lý văn hóa người việtnam


    Trong quá trình phát triển văn minh nhân loại đến giai đọan toàn cầu ngày nay, chúng ta nhận xét 3 vùng địa danh chánh : văn hóa địa trung hải (do thái, hy lạp và la tinh), rồi Trung đông á rập, văn hóa phương động ấn độ, Nam Á và văn hóa Đông Á, quanh cái trục trung hoa. Cùng một lúc, vào 5 thế kỷ trước công nguyên, ở phía tây có 3 vị Socrate, Platon, Aristote ; và phía đông, Gautama Phật, Lão Tử và Khổng Tử.

    Theo ý tôi, tâm lý người việtnam nhận bốn nguồn văn hóa chính. Gần đây, có sự ảnh hưởng của đạo Công Giáo có việtnam hoá, tương đối mới nên tôi không đề cập ở đây.

    1.Từ phía nam, văn hóa mélanésiađề cao giá trị phụ nữ qua chế độ mẩu hệ còn tồn tại trên nhiều nơi. Ví dụ dùng chữmẫuvừa là gương, vừa là mẹ (gốc hán nôm viết khác nhau). Những gì quan trọng là chiếu theo nữ giới : cái cổngcái, con sôngcái(sông lớn), điện thoạimẹ(điện thoại góc của điện thoại bàn)...Nói như vậy, phải xét quan điểm Freud về vai trò nữ giới trong tâm lý, một cách tương đối so với văn hóa.Từ phía nam Á, tâm lý người việtnam cũng có ảnh hưởng của Ấn độ giáo. Cái gì có cấu tạo (Vishnu) là có gốc phân ly (Shiva), ấy là biến chuyển của mọi việc (Brahma). Có đoàn kết là có khác biệt, có khác biệt thì cần đoàn kết, sức sống biến đổi vừa đoàn kết, vừa khác biệt và cứ mãi mãi như thế mà mọi việc mới sẻ đến như nước không động.

    2.Từ Ấn độ giáo ra Phật giáomà tôi trình bài ở đây triết học con người. Tôi xin nói đến 3 đề.

    A)Nhân quả(Karma) là thành quả của nhân loại. Chúng ta có thể xem đó là vốn văn hóa mà cả nhân loại đã tích lủy cho từng người chúng ta hưởng khi ra đời ; cái vốn này --nghiệp-- tương đương với vốn ADN trong tế bào. Vốn tốt là sự nghiệp phát sinh tốt, vốn không tốt thì kết quả chưa đến chờ người lọc nó (nghiệp chướng). Nói cách khác, đây là tâm lý nhận thức, trách nhiệm và bồi dưỡng. Con người có " số phận " nhận vốn loài/làm người, rồi " bổn phận " bảo tồn và quản lý nó để phát huy, khai triển thành công một cuộc sống hiện thực. Mục đích làm tốt và chuyển cái tốt đó cho thế hệ mai sau. Tâm lý phương tây gọi kế thừa văn hóa và tâm lý giáo dục đó làhéritage trans générationnel(kế thừa xuyên thế hệ). Sự ẩn núp của Nhân quả gần ý niệm Vô thức (inconscient) nhưng điểm dứt khoát không giống là tính chất hoàn toàn đạo đức của Nhân quả, khác với cái " Vô thức " của Freud.

    B)Đời là đau khổ. Con người có thể giải thoát khỏi cái khổ đó khi hết lệ thuộc quá đáng bởi những nhu cầu do sự vật và sự kiện tự mình tạo ra. Sự đau đớn đó do con người chưa nhận thức và giác ngộ là tất cả cái gì, tất cả những vật gì đều có thực nhưng tất cả điềuVô Thường, tức là có thay đổi thường xuyên, luân chuyển đổi dạng rồi hiện ra cái khác. Đau đớn là do bám vào sự cố không cho nó biến chất. Cái Tôi hôm nay không phải là cái Tôi hôm qua mà chưa phải cái Tôi ngày mai. Tôi là tôi nhưng không phải là tôi : cái Tôi cơ bản là gốc Phật có trong tôi và cho tôi biến thành người tốt. Nếu ta sắm chiếc xe thì ta phục vụ nó bằng cách đổ xăng không ngừng. Ta có cảm giác tự do di chuyển nhưng thật sự cái tự do đó bị ràng buộc nơi có tiền đổ xăng. Do đó, thuyết sung sướng của Freud chủ trương nguồn gốc con người là ham muốn và sự đau đớn là hậu quả của tội lỗi, của thiếu thốn.

    C)Luật luân hồi(Samsara) là qui luật chứng minh rằng hiệu quả của mọi hành động, mọi hành vi sẽ là nguyên cớ cho hành động, cho hành vi kế tiếp của mình và cứ như thế mỗi hồi luân chuyển. Đây là nói tương quan biện chứng giữa nguyên nhân và kết quả -- tức lànhân duyên-- mà cũng cứ như thế, thế giới tiến tới, hoặc tốt, hoặc xấu. Kết quả của sự ham muốn là động cơ thêm ham muốn, kết quả của thiệt thòi là chịu thêm thiệt thòi. Tâm lý phương tây gọi đó làcompulsion à la répétition. Thuyết nhà Phật giải đáp vấn đề này bằng quan niệm bình đẳng nói rằng mỗi người đều có gốc Phật bằng như nhau, không ai kém hơn ai trên đường Niết Bàn. Người sẽ thành vị Bồ Tát khi giác ngộ rằng hiệu quả và nguyên cớ phải mang tính đạo đức và vượt ra khỏi vòng mù ám của người vô thức, tức là người không biết luật vô thường của thiên hạ sự mà lặp tới lặp lui cái trạng thái của mình như người đi trên đường mòn. Luật luân hồi diễn tả tâm lý người bình thường, có muốn thì muốn thêm để đạt một thiêng liêng " đầy " như mình đã tính, chống cái thất vọng và cái khổ sẽ đến khi thiếu thốn.

    Theo phương tây, nguồn gốc tâm lý con người là cái Tôi (Ego) thật " đầy " ; càng chắc chắn, càng nhiều tình thương, càng giàu sang là càng tốt. Theo Nhà Phật, cái Tôi là "Vô Ngã" (ngã = ngộ = tôi). Đây không có nghĩa là cái Tôi không có, vì nếu không có thì làm sao chúng mình gặp nhau, có lời nói chuyện với nhau. Cái Tôi Vô Ngã có nghĩa là có như không, không như có, thật mềm dẻo ; có nghĩa là khi Tôi là tôi, tôi đã biến đổi thành một cáí Tôi mới so với cái tôi của lúc trước và cũng mới so với cái gì bạn đã nghĩ về tôi. Mỗi chốc lát biến đổi là mỗi lần tôi thành một người mới nhưng tôi không biết vì tôi vẫn giử tánh cũ, lời cũ, ý niệm cũ : cái " cũ " cho tôi được yên trí, yên tâm. Đấy là thuyết " Có như không, không như có " gọi là thuyết "Không không". Nói cách khách, Vô Ngã là " muôn cuộc sống trong một đời ". Mỗi lần thay đổi, là mỗi lần biến dạng ; và cứ như thế là mỗi lần ta đạt tới một tột đỉnh cao mà ta gọi làNiết Bàncủa chốc lát. Mỗi lần yên tịnh trầm lặng đổi dạng, là mỗi lần bước qua một ải Niết Bàn mới, và cứ như thế đời là một xâu chuỗi. Con người trong lúc đó hết mâu thuẩn xung đột, hết do dự với chính mình, sống trọn vẹn thời khắc của cuộc sống.

    Về nhân loại học (anthropologie), ý niệm triết học " muôn cuộc sống trong một đời ", đã chuyển sang khái niệm tôn giáo " đầu thai muôn kíếp " (đầu thai xuất thể) chuẩn bị vào Niết Bàn sau khi cải thiện Nhân quả.

    Ông Parménide (515- 440 trước c.n.), là nhà triết học Hy Lạp trước Socrate. Ông khởi tiên là người ghi 5 bộ giác để con người giao dịch với thế giới bên ngoài : cặp mắt, cái mũi, cái lưỡi, cặp tai, bộ da (in :De la Nature). Từ quan điểm đó, cảm giác, cảm nghĩ và cảm tình con người cần bộc lộ qua lý trí và lời lẽ. Cái gì cũng phải nói ra, nói cho được, nói cho hết (Thậm chí bất kể người trước mặt).
    Theo phương đông, người có 6 giác : 5 giác ghi trên cộng thêmtrí giác. Vị trí trí giác là ngang hàng với những giác kia nên con người có thể cảm xúc trực tiếp mà không nhất thiết cái gì cũng nói, hoặc khi nói thì không bao giờ nói hết lời, được hiểu 100%. Do đó, có nhận xét rằng người Á và người Âu không giống nhau về cách nói cảm xúc của mình, về cách sống với thiên nhiên và suy luận phân tích nhân duyên, cách nói.

    (còn tiếp)
  8. Hoailong

    Hoailong Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    28/04/2004
    Bài viết:
    2.028
    Đã được thích:
    46
    (tiếp)
    3. Có một chuyện rất xưa cùng lúc với ý thức khác biệt của nhân loại, là quan niệm vũ trụ là Một nhưng có hai phần. Trong văn hóa phương đông,
    -KINH DỊCH & Đạo Đức Kinh của Lão Tử là quyển nhập ý niệm Âm Dương thành một hệ thống luận nói đến quan hệ biện chứng của mọi việc, tức là cách định nghĩa mặt này là định nghĩa mặt kia : có trên là có dưới, có nam là có nữ, có ban sáng là có ban tối... Tách rời không phải riêng biệt.

    Một sanh ra Hai (âm và dương), Hai sanh ra Bốn (trong âm, có âm và có dương ; và trong dương, có dương và có âm) và cứ như vậy mà vũ trụ nở sinh. Trong nam có phần nữ, và ở nơi người phụ nữ có tánh nam giới. Hai, Bốn, Mười Sáu hoặc Một trăm năm mươi sáu vẫn là Một đơn vị Số tròn nguyên thủy.
    Nói cách khác, vũ trụ quan Trong văn hóa phương đông là Qui luật Số :
    khởi đầu là Big Bang của vật lý học, không có Nguời cấu tạo (vì ta chấp nhận không biết nhưng nếu nói theo Công giáo là Chúa). Do đó, con người sống theo nhịp của ba qui luật Số (nghĩa rộng hơn ý niệm phương tây numéro/number) : Số Trời diễn tả cái thường xuyên của thời tiết, sáng tối, gió mùa ; Số Người ghi mạng theo ngày giờ sanh con người (số Tử Vi) chủ động như một thành viên của vũ trụ thiên nhiên ;
    Số Thứ Tự ghi trật tự gia-đình, xã-hội, con số mà ta dùng để tổ chức, làm (số kế) toán, làm sổ sách kế hoạch. Như thế, qui luật số gắng liền mạng người với sự nghiệp của MÔI TRƯỜNG, khoa học gọi đó là Ecologie/Ecosysteme. Vì xã hội là một vũ trụ hẹp, loài người ở bất kỳ văn hóa nào đều đánh giá mình bằng hai khuynh hướng.

    Một là khách quan hóa việc này hay việc kia bằng con số bao nhiêu phần trâm (% cảm giác hạnh phúc). Khuynh hướng này đưa đến suy nghĩ khoa học.
    Hai là đánh giá chủ quan của mình bằng cảm xúc hên xui may rủi (số tốt, số xấu, tới số�). Khuynh hướng này đưa đến suy nghĩ chính trị và tôn giáo.
    Chính vì trong xã hội loài người, cảm xúc lờ mờ có " qui luật số " có nên Nhà Nước ở các quốc gia đều tổ chức "xổ số " (loterie/lotto) trên hy vọng của người dân được " trúng số ". Đây là một hình thức thâu thuế (" Số mạng" là một quan niệm về bản thân mà ta cần hỏi người đến khám bệnh, nghĩ sao về chính họ).

    Về mâu thuẫn, nhà triết học đức E. Kant (1724-1804) nói có hai loại : mâu thuẩn đối kháng và không đối kháng, tùy định nghĩa chuẩn do người thông đồng với nhau. E. Kant nghĩ rằng mâu thuẫn không bao giờ tuyệt đối với nhau (cũng như mọi sự).
    Về phương đông, mâu thuẫn không có quan hệ chạm trán, không mặt thắng mặt thua : mọi nhân tố đều bên cạnh hỗ trợ giúp nhau để mỗi lần mở rộng sự thật thêm rộng lớn hơn. Muốn nước chảy phải có độ trên và độ dưới ; có buổi sáng là có buổi tối, rồi sáng tối không mâu thuẫn đối kháng với nhau ví sáng hay tối đều có ánh mặt trời và mặt trăng.

    Nam với nữ không đối kháng vì cả hai đều là con người. Việc này có là nhờ có việc kia xác định cho, chớ không phải định nghĩa bằng sự thiếu thốn, thèm thùa, ghen ghét, xung đột. Ngược lại, theo thuyết Freud, nam và nữ là hai diện đối kháng và cạnh tranh. Quan niệm này là kế thừa quan niệm đạo Công Giáo về tội và lỗi.

    Như vậy, ý niệm âm dương thường xuyên hiện lên trong lời lẽ và đời sống hàng ngày.

    * Có sinh mới có sống, mà sống không chế tạo là không đầu tư, là không toàn diện, không động cơ ; do đó ta dùng chữ đôi âm dương : sinh sống.

    * Cả nước Việtnam vào ngày Tết là đếm theo âm lịch ; bắt đầu là ngày 25 tết đến mùng 10 tết, cũng ta " quên " tháng dương lịch đi.

    * " Công cha như núi Thái Sơn, Nghĩa mẹ như nuớc trong nguồn chảy ra ", đấy là tinh thần, lối suy nghĩ âm dương cân đối với nhau qua những cập từ : cha và mẹ, công và nghĩa, núi và nước hay đất và nước.
    Nói tóm lại, tâm lý phân tâm học (psychanalyse) lấy xung đột làm khâu của tất cả quan điểm cuộc sống.
    Trong khi đó, tâm lý truyền thống á đông hiểu rằng xung đột và tranh chấp không nhất định là sự kiện của bình hòa ; nếu chỉ biết tìm ai có lý hoặc ai không có lý thì chỉ sống trong xung đột, nghi vấn ; người ấy đã lầm lẫn nguyên tắc với nội dung.

    (còn tiếp)
  9. Hoailong

    Hoailong Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    28/04/2004
    Bài viết:
    2.028
    Đã được thích:
    46
    ( tiếp)

    4. Cột trụ thứ tư của tâm lý đông Á là Nho Giáo. Đương nhiên là về mặt lịch sử xã hội, chúng ta không quên Nho giáo đã là cơ sở tư tưởng của chế độ phong kiến, nhưng chúng ta cũng không thể dùng một tư tưởng hệ để bài trừ nghiên cứu Nho Giáo.

    Lời của Khổng Tử được ghi lạy trong một quyển sách duy nhất viết 300 năm sau khi ông mất. Những nhà nho giáo về sau, như Mạnh Tử, cho thêm ví dụ nhưng không bao giờ có ai định nghĩa thế nào là nhân, là nghĩa, là lễ, là trí và là trung. Vì đó là triết học nên chỉ nói đến ý nghĩa chớ không thể nào có qui định nội dung một cách vĩnh viễn cái gì là cái gì.
    Từ đó, các nước á châu đều có được một quan niệm văn hóa đạo đức công chúng cho xã hội dân sự, gần giống nhau cho cả miền phương động.

    Cho hôm nay, tôi chỉ nhắc giá trị tâm lý của thuyết Ngũ Đức : Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Trung. (Một số sách việt nam ghi : nhân, nghĩa, lễ, trí, tín. Qua sưu tầm của tôi, từ hán nôm gốc là Trung. Trong triều Gia-Long, vấn đề người trung và người tin cậy là một chuyện lớn mà có thể từ đó, chứ Tín đã thay thế chữ Trung).

    Trong Đạo làm Người (Nhân), mỗi người phải tìm ra đường chân lý của mình. Tâm lý học nói đây là một vấn đề rất to lớn. Con người phải ý thức trách nhiệm của mình, thế nào là tự do suy luận để sống phù hợp với cộng đồng của mình. Nói cách khác, Nho Giáo khẳng định rằng không bao giờ có một tự do tuyệt đối (như muốn là được). Ngược lại, con người tạo điều kiện tâm và trí cho tự do chỉ nhận giới hạn của phương pháp lý luận học, tức là chỉ có giới hạn của lô-gích (ý niệm mới, chữ mới). Chính nhờ văn hóa này mà cả nền văn minh phương đông tồn tại, biển đổi và hấp thụ văn minh phương tây tràn vào từ thế kỷ 19 đến nay.

    Về mặt tâm lý, trước tiên là Trung : trung kiên, liêm sỉ với chính mình và thích hợp với bối cảnh sống ; sau đó là Trí : lấy cái sáng suốt mà phân tích, phản hồi, suy nghĩ, bình luận ; tiếp theo là Lễ, tức là luận ra luật nội tâm, nguyên tắc xã hội, điều lệ và thói quen ; sau nữa là Nghĩa tức là tìm ra ý nghĩa và nghĩa vụ trong các việc của cuộc sống rồi cuối cùng thành Nhân, tức là thành Người Hiền, hết là tiểu nhân xem mọi việc một cách hẹp hòi, ích kỷ, cục bộ.

    Cách dẫn Đường là Hiếu thảo Thương con, phù hợp với truyền thống Thờ Cúng Ông BàLễ đám giổ và một số tục lệ khác ; chớ nên gọi tất cả là mê tín dị đoan. Cơ sở là tình thương hai chiều trên dưới trong gia đình ; tránh lạm phép tình cảm dùng sức ép tinh thần của người lớn, có quyền hạn để hành hạ người nhỏ, người thấp, người trẻ ; nam ép nữ theo kiểu phong kiến gia đình mà gọi đó là truyền thống. Thật vậy, quan niệm á đông gia đình là một xã hội nhỏ nối liền và tập sự cho con người vào xã hội thực vô danh, trong khi đó phương tây quan niệm có một dứt đoạn giữa cá thể và tập thể, giữa gia đình và xã hội.

    Như vậy, tâm lý phục vụ nhu cầu vào khuôn khuông của con người có quan niệm lý tưởng [khuôn] và cụ thể [khuông] về đạo đức sống.

    Do đó, khi điều trị tâm lý, chúng ta sẽ đồng hành với người đau khổ để giải bài xung đột tâm lý giữa nhu cầu tự do nội bản với điều kiện tự do bên ngoài ; xung đột giữa lý tưởng và hiện thực, giữa trung kiên và sáng tạo ; xung đột giữa cái sự thật và cái thật sự ; xung đột thời gian giữa thế hệ, giữa cái sợ và những gì chưa biết.


    (còn tiếp)
  10. Hoailong

    Hoailong Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    28/04/2004
    Bài viết:
    2.028
    Đã được thích:
    46
    (tiếp) & Kết luận

    Tâm lý học là bộ môn khoa học nhân văn gắn liền con người với môi trường sống, xã hội và lịch sử văn minh. Do đó, nghiên cứu tâm lý là nghiên cứu quan hệ cấu tạo một thân với một thể thành một đơn vị tâm trí gọi là con người, có tìềm năng nghiền ngẫm nội tâm và xây dựng kế hoạch tương lai riêng cho cá thể mình, và phù hợp với tập thể và lý tưởng.

    Một trong phát minh tâm lý điều trị là phân tâm học. Chúng ta cần xem đây là một thuyết nằm trong lòng văn hóa tây phương cá nhân chủ nghĩa ; do đó thuyết này ít đề cập đến yếu tố tập thể, con người đứng xa yếu tố xã hội. Biết như vậy, sự đối chiếu Âu Á phải là một đối chiếu văn hóa để xem thế nào là tâm lý nội tâm con người việt nam.
    Dương nhiên, nếu ta xem con người như một bộ máy thì môn tâm lý sẻ nghiên cứu một máy tâm lý, ví dụ như tâm lý thương mại người tiêu dùng. Lúc đó, ta nghiên cứu hành vi, một khía cạnh nhỏ của nghiên cứu tâm lý con người tổng quát. Cũng như chỉ chữa bệnh tâm thần bằng hóa chất mà thôi. Tỉa ngọn mà không nuôi tưới gốc thì rất nguy. Ngược lại, nhờ phương pháp học mới này, nhà tâm lý học là người tư vấn chuyên nghiệp, giúp con người tự tìm hiểu chính mình và tìm ra cách thích ứng tối đa với môi trường sống, thoát khỏi các loại " tâm lý " dạy đời, giáo huấn.

    Khi ta hiểu kho tàng văn hóa của ta là một văn minh có giá trị thì ta không sợ mất bản sắc và đặc thù truyền thống của ta, trở thành người tiếp thu dể dàng văn hóa từ xa đến. Như vậy có thể nghĩ gọn rằng nền tản tâm lý người việt nam rất đa dạng tổng hợp, trong đó vốn Phật Giáo đã nói đến tâm lý nội tâm, Lão Giáo dùng đề nói quan niệm vũ trụ, và Nho Giáo bàn về đạo đức con người xã hội.

    Có khi tôi tự hỏi một câu : tại sao chúng mình có rất nhiều từ phong phú như " Hồn ", " Vía ", " Ma ", " Bống ", " Linh ", " Tâm ", " Trí "... mà phương tây chỉ một chữ Psyche duy nhất ? Có lẽ người tây phương không quan niệm có trí giác giống như người mình.

    Tôi hy vọng rằng hội thảo hôm nay của chúng ta đã đưa đến quí vị, sự hâm mộ nghiên cứu và phát huy một ngành tâm lý học việtnam hiện đại, khoa học, hữu dụng và nhân tâm - nhân bản.

    (Bài này đi đôi với bài tiếng pháp, không phải bài dịch)

    Tác giả đã viết những sách sau đây (hoặc cộng tác viết) :

    - Colloque INSERM-Autisme, Paris, Volume 146, 1987 (ouvrage collectif).
    - Bouddhisme et Psychiatrie. Paris, Edt L'Harmattan, 1992.
    - Enfance : état de lieux. Le Vietnam au coeur de la Francophonie.
    Paris, Edt L'Harmattan, 1998. (Ouvrage collectif).
    - Dictionnaire des thérapeutiques médicopsychologiques et psychiatriques. Ouvrage collectif sous la direction de H.N. Barte. Paris, Edt Ellipse, 2001.
    - Psychologie politique de la citoyenneté, du patriotisme, de la mondialisation. Paris, Edt L�Harmattan, 2002.
    - Psychothérapie bouddhique : médi_tation, éthique, liberté. Paris, Edt L'Harmattan, 2002.
    - De la psychologie asiatique. L'Humain, le Politique, l'Ethique. Paris, Edt L'Harmattan, 2004.
    - Sổ tay tâm lý học (Manuel de psychologie médicale). Ho Chi Minh ville, Edi_tion Nha Xuat Ban Y Hoc, 2005. Ouvrage collectif en vietnamien sous la direction du Prof Isidor Pelc et du Dr Lam Xuan Dien. Dans le cadre de la Coopération Interuniversitaire Francophone du Développement de la Belgique avec le Centre Universitaire de Formation des personnels de santé. 730 pages.
    - Manuel de psychiatrie transculturelle, 2e édi_tion. Ouvrage collectif sous la direction du Prof. M.R. Moro, Grenoble, La Pensée Sauvage, 2006.
    - Psychologie transculturelle et psychopathologie. Occident et Asie orientale. Paris, You Feng, 2006.
    -Conscience éthique et esprit démocrate. Essai sur l'harmonie et le politique. Paris, L'Harmattan, 2009.

Chia sẻ trang này