1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Tiềm lực quân sự Trung Quốc - Phần 4

Chủ đề trong 'Kỹ thuật quân sự nước ngoài' bởi thtcaymamtep, 16/10/2008.

Trạng thái chủ đề:
Đã khóa
  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. Electoker

    Electoker Thành viên gắn bó với ttvnol.com Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    12/11/2016
    Bài viết:
    1.597
    Đã được thích:
    325
    [​IMG]
    Đại nhảy vọt (1958 – 1961): Sự điên khùng của vị lãnh tụ

    Năm 1957, Mao ra lệnh thực hiện thêm một cuộc cách mạng nữa: với một cuộc “Đại Nhảy Vọt”, nền nông nghiệp Trung Quốc cần phải được hiện đại hóa và xuất khẩu những lượng ngũ cốc khổng lồ trong thời gian ngắn nhất, nhà máy điện cần phải sản xuất điện và lò luyện kim cần phải nấu chảy thép ở khắp nơi để đất nước qua đó mà trở thành một quốc gia công nghiệp. Thế nhưng kết quả của sự hiện đại hóa bị cưỡng bức này thật là khủng khiếp. Thép được sản xuất ra thường là vô dụng, hồ nước thủy điện bị nghẽn bùn – và hàng triệu người đã trở thành nạn nhân của nạn đói hẳn là lớn nhất trong lịch sử.

    Khi Xuân về ở Judong, những người đàn ông trẻ tuổi bỏ đi. Họ bỏ lại đồng ruộng mà trên đó không còn gì mọc nữa, vợ họ, những người không còn mang thai được nữa, con họ, những đứa bé sưng húp lên vì đói, cha mẹ họ, những người quá yếu ớt để mà có thể bỏ trốn. Nhà của họ bị phá tan, nồi nấu của họ bị tịch thu. Dân quân trong vùng săn lùng bất cứ người nào bỏ làng trốn đi, đánh chết hàng ngàn người.

    Thế nhưng những người đàn ông từ Judong [Để ngăn ngừa sự đàn áp – ngay cả đến ngày nay – tên làng và tên những người dân của nó đã được thay đổi.] thoát được, họ chạy đến một tuyến đường sắt mà không bị phát hiện, leo lên một con tàu hỏa, bí mật đến được với những con tàu hỏa khác, đi cho đến tận rìa của Cao nguyên Tây Tạng, nơi vẫn còn có thức ăn.

    Ở làng quê của họ, những người phụ nữ, trẻ em, người già và người bệnh đã chết trong vòng hai năm sau đó. Họ là nạn nhân của một nạn đói ngay cho Trung Quốc cũng là không tiền khoáng hậu – được gây ra bởi đảng đấy, cái đã nhận lấy quyền lực mười năm trước đó với lời hứa hẹn rằng không bao giờ sẽ có một người Trung Quốc nào chết đói nữa. Được gây ra trước hết là bởi người đứng đầu đảng này, người 16 tháng trước đó đã quyết định phóng đất nước này với một nổ lực vĩ đại vào thời Hiện đại công nghiệp – và đồng thời vào Chủ nghĩa Cộng sản.

    Phân nửa người dân của Judong và có lẽ thêm 30 triệu người Trung Quốc nữa đã trả giá bằng mạng sống của mình cho giấc mơ “Đại Nhảy Vọt” này. [Con số nạn nhân dựa trên ước lượng. Nó dao động giữa 15 và 55 triệu. Ý kiến thống trị cho rằng đã có 30 triệu người chết.]

    UDONG TRONG TỈNH HÀ NAM ở giữa Trung Quốc là một ngôi làng nghèo. Nó nằm giữa những cánh đồng trồng khoai lang và lúa mì trong vùng Tín Dương. Hồ nước lóng lánh giữa đồng ruộng.Người dân thường phải chịu đựng, họ quen với chiến tranh và thiên tai. Trong cuộc nội chiến, người nông dân đã đi xin ăn khắp nơi để mà sống qua ngày. Sau khi nắm lấy quyền lực năm 1949, Đảng đã gán cho họ một thể chế giai cấp tùy theo sở hữu của họ cho tới nay, cái đảo ngược trật tự của ngôi làng: “nông dân nghèo” được ưu đãi so với “đại địa chủ”. Ruộng đất của những người giàu nhất được chia lại, để cho tất cả nông dân có thể làm ruộng trên đất có giá trị khoảng như nhau.

    Thế nhưng năm 1957, tám năm sau khi thành lập nước Cộng hòa Nhân dân, ĐCS vẫn còn chưa thể lo được cái ăn cho tất cả mọi người Trung Quốc một cách đáng tin cậy. Cho tới năm 1952, tuy sản lượng thu hoạch có tăng lên – nhưng hầu như không đạt được đến mức của những năm 1930. Sau đấy, Đảng tập trung xây dựng công nghiệp.

    Thêm vào đó, từ năm 1955, người nông dân phải làm việc trong các hợp tác xã, những cái thường bao gồm nhiều làng và có cho tới 300 hộ dân. Bây giờ họ không còn được phép bán đất đai, trâu bò và dụng cụ nữa, họ không còn được phép quyết định gieo trồng những thứ gì. Họ là một phần của nền kinh tế kế hoạch.

    Vẫn còn có lỗ hổng: tuy là người nông dân phải bán mọi ngũ cốc lại cho nhà nước, cái còn lại sau khi trừ đi một phần làm lương thực nhỏ, thức ăn cho gia súc và hạt giống như là “phần dư ra”. Vì giá mua của nhà nước thấp nên phần lớn họ đều giữ lại thu hoạch của họ hay mang chúng ra chợ ở địa phương, nơi có thể bán với giá cao hơn.

    Nhưng khẩu phần lương thực, tiền ốm đau, tiền hưu thì chỉ có người dân thành phố là mới nhận được. Nông dân Trung Quốc, người đã đấu tranh cho ĐCS và đã hy sinh nhiều trong cuộc nội chiến, cảm thấy mình bị bỏ rơi. Báo chí tường thuật về sự bất bình ngày một tăng của con người ở nông thôn. Nông dân liên kết lại để ly khai ra khỏi hợp tác xã – về mặt chính thức, sự tham gia là tình nguyện.

    Những người khác khinh bỉ các cán bộ trong làng của họ, còn tấn công cả gia đình của những người đó. Cả ở gần Judong, chỉ qua đêm là có những khẩu hiệu chống Cộng sản đã xuất hiện trên tường của một hợp tác xã. Nhiều người biểu quyết chống Cộng sản bằng chân: họ rời bỏ những nhóm sản xuất của họ và tìm những công việc được trả công tốt hơn ở nơi khác. Sản xuất nông nghiệp đình trệ: như sản lượng thu hoạch năm 1957 chỉ tăng có một phần trăm so với năm trước đó. Thêm vào đó, một cuộc điều tra dân số năm 1953 đã cho thấy rằng không phải tròn 475 triệu người như dự đoán mà là 582,6 triệu người dân sống ở nông thôn.

    Trung Quốc hướng đến một cuộc khủng hoảng xã hội và kinh tế. Do vậy nên Mao cố thử nghiệm một bước đột phá và thề thốt với các đồng chí về một dự án mới: cuộc “Đại Nhảy Vọt”. Chỉ trong vòng ít năm, đất nước đang phát triển này cần phải trở thành một quốc gia công nghiệp; đồng thời, ông ấy muốn cải tạo triệt để nền nông nghiệp.

    Người Trung Quốc cần phải tăng sản lượng trên đồng ruộng, sản xuất năng lượng với những đập nước, sản xuất thép, làm việc trong nhà máy, xây đường lộ và đường sắt.

    Nếu như mỗi người đều sẵn sàng từ bỏ gia đình và cộng động làng quê và mang mình vào trong một đạo quân sản xuất mới, thì sau một vài năm khó nhọc sẽ thành hình không chỉ một Trung Quốc hùng mạnh về kinh tế mà cả một xã hội mới.

    Con người Cộng sản sẽ sống ở trong đó, những người đặt cái “chúng ta” lên trên cái “tôi”: sẵn sàng hy sinh, không có yêu cầu, đầy nhiệt tình cách mạng.

    Người chủ tịch muốn tái đánh thức dậy tinh thần hăng hái từ thời của cuộc nội chiến và chính bản thân mình cũng đầy sự thôi thúc muốn hành động, khi ông ấy tin rằng đã cảm nhận được sự nhiệt tình cách mạng mới. Nhưng dấy cũng là niềm tự hào quốc gia và lòng khao khát muốn được công nhận của Mao, những cái đã dẫn đến việc ông ấy quất roi đẩy dân tộc của ông ấy tiến lên phía trước một cách không thương xót.

    Vì trong tháng 11 năm 1957 ông ấy đã đứng trên Lăng Lênin ở Moscow như là người khách danh dự và nhìn cuộc duyệt binh kỷ niệm lần thứ 40 Cách mạng Tháng Mười. Người Xô viết vừa mới đưa chiếc Sputnik thứ hai lên quỹ đạo. Sếp Đảng Cộng sản Khrushchev khoe khoang trước những người khách của ông ấy đến mức Mao cảm thấy bị thách thức và trả lời rằng. “Đồng chí Khrushchev nói với chúng tôi rằng 15 năm nữa Liên bang Xô viết sẽ vượt qua Hoa Kỳ. Tôi có thể nói với các bạn rằng rất có thể là 15 năm nữa chúng tôi sẽ đuổi kịp hay vượt qua Liên hiệp Anh.”

    NHỮNG NGƯỜI NÔNG DÂN ở Judong biết về dự định to lớn của Mao vài tuần sau đó. Vài người đàn ông được cử đi tham gia xây dựng một con đập nước. Khắp nơi trong Trung Quốc, các dự án xây dựng khổng lồ bắt đầu, những cái cần phải cải thiện việc tưới nước cho đồng ruộng hay cung cấp điện cho công nghiệp. Và Hà Nam đi đầu: chỉ riêng trong vùng giáp ranh với tỉnh An Huy láng giềng đã có hơn 100 con đập và hồ nước được xây cho tới năm 1959.

    Người ta làm việc gần như chỉ với đôi bàn tay không. Chính phủ bù đắp sự thiếu thốn máy ủi đất và máy đào với lượng người khổng lồ. Ngay trong tháng 1, cứ sáu người Trung Quốc là có một người đào kênh bằng mai và xẻng, đổ đất xây đập, gánh đất trong giỏ đi nơi khác, với đòn gánh bằng tre, nhiều giờ liền, ngày này qua ngày khác.

    Đạo quân lao động này đã dịch chuyển hơn 580 triệu mét khối đất trong hai tháng đầu tiên của chiến dịch tưới nước. Các cán bộ ở địa phương chú tâm đến trước hết là những con số hoành tráng: các chính quyền tỉnh cố vượt qua nhau với các báo cáo thành công về Bắc Kinh – vì một tỉnh có thể dịch chuyển càng nhiều tấn đất thì ảnh hưởng chính trị của họ càng lớn.

    Rằng các con số đó không hề có tương quan nào đến lợi ích thật sự, việc này có thể nhìn thấy tại một dự án ở Cam Túc trong miền Tây Bắc Trung Quốc: 160.000 người làm việc ở đó, để chỉnh dòng cho con sông Tao chảy qua núi cao và mang nước uống lại cho các ngôi làng ở cách xa lòng sông của nó. Thế nhưng luôn xảy ra đất lở, lòng sông bị nghẽn bùn. Năm 1962 người ta đã phải hủy bỏ dự án, không có đến một hecta duy nhất được tưới nước.

    Trong sự hấp tấp của họ, khởi động càng nhiều dự án càng tốt, càng nhiều dự án lớn càng tốt, các quan chức đã cho xây đập ở những nơi sai lầm, không chú ý đến các kế hoạch của kỹ sư, làm ngơ trước những sự tùy tiện.

    Một con đập cao hơn 100 mét, được hàng chục ngàn người nông dân xây dựng ở Hoàng Hà, cái có nhiệm vụ làm sạch trầm tích khỏi nước, thay vì vậy đã dẫn đến việc nó càng bị bùn lầy nhiều hơn nữa. Thêm vào đó, bây giờ nạn lụt đe dọa thành phố Tây An: chỉ khi mực nước của hồ được hạ thấp xuống thì mới có thể ngăn chận được điều đó, thế nhưng qua đấy thì các tuốc bin lại trở nên vô dụng; người ta lại tháo gỡ chúng ra.

    Trong khi những người đàn ông phải làm việc ở các công trường xây dựng cách xa làng quê của họ thì những người phụ nữ phải làm đồng. Các cán bộ của ĐCS tìm cách giải phóng phụ nữ nông dân ra khỏi những nhiệm vụ của họ, nấu ăn và chăm sóc người già cũng như nuôi dưỡng trẻ con. Và họ tìm thấy nó: ở tỉnh Hà Nam

    Cách Judong không xa lắm, trong tháng 4 năm 1958 quan chức Đảng đã lập từ 27 hợp tác xã và bốn thành phố nhỏ thành một nhóm được biết đến dưới tên Công xã Nhân dân “Sputnik”. Tròn 10.000 hộ dân được gộp lại thành một đơn vị ở đó. Chẳng bao lâu sao đó, cái vào lúc ban đầu không khác một hợp tác xã khổng lồ là bao đã trở thành một dự án cực đoan hơn rất nhiều: sở hữu và tiền lương bị bãi bỏ, lương thực và quần áo được phân phát không mất tiền, những người trong công xã cùng nhau làm việc và ăn uống.

    Giới lãnh đạo ở Bắc Kinh hân hoan vui mừng và mở rộng hợp tác xã trên toàn Trung Quốc. 740.000 hợp tác xã trong nước được liên kết thành 26.000 công xã. Một vài người trong số họ đảm nhận việc chăm sóc cho người già và trẻ con. Người nông dân phải giao ra trâu bò của họ và nồi nấu ăn của họ. Người trưởng nhóm sản xuất của họ quy định thời gian của họ, phân công việc làm cho họ. Họ nhận được điểm cho việc làm, được tính toán theo một hệ thống phức tạp: loại công việc, giới tính và tuổi của người lao động, năng suất trung bình của nhóm sản xuất của họ.

    Trên lý thuyết, người nông dân có thể mua ngũ cốc từ nhà nước với những điểm đấy. Nhưng trong thực tế, giá trị của những điểm lao động này chẳng bao lâu sau đó đã giảm đi nhanh chóng, và ngũ cốc không còn được chào bán ở nông thôn nữa.

    Và vào lúc ban đầu thì cũng không có lý do để mua thực phẩm. Làng nào cũng có một cái bếp nhân dân mà người nông dân nhận được thức ăn không mất tiền ở đó. Các quan chức dường như muốn hiện thực thật sự viễn tưởng huyền thoại của Karl Marx “Làm theo năng lực hưởng theo nhu cầu”. Cả ở Judong cũng bắt đầu “thời của những cái tô to”, như người dân làng gọi.

    Wu Tiancheng 23 tuổi tiếp nhận quyền lãnh đạo bếp nấu nhân dân trong làng. Các gia đình vào nhà ăn để ăn, lúc nào cũng tám người ngồi quanh một bàn; ngay sau khi những cái tô to được đặt vào giữa. Những người nông dân được phép chọn từ nhiều món ăn, ai cũng có thể ăn nhiều như người đó muốn.

    Đó là thời gian của sự dư thừa, như họ chưa từng trải qua trong làng. Ai đi qua đất nước đều có thể ăn no trong nhà ăn ở tại bất cứ một nơi nào.

    Vào khoảng cùng thời gian đó, nhà cửa ở Judong bị phá hủy – có thể là vì những bức tường bằng đất sét trộn với rơm cần phải được rải lên đồng ruộng để làm phân. Ở khắp nơi trong Trung Quốc, các gia dình nông dân bị bắt buộc phải dọn vào ở nhà người khác hay ở trong những ngôi nhà đơn giản nhất, bị nhà của họ bị nghiền nát ra. Cả những đống đổ nát của chuồng nuôi súc vật cũng được ưa thích, vì chúng thấm đầy nước tiểu.

    Bất cứ vật liệu hữu cơ nào mà các cán bộ tìm thấy được, họ đều cho mang đến: ở một vài làng, phụ nữ phải cạo trọc đầu nếu như họ muốn tiếp tục được phép ăn ở torng nhà bếp nhân dân – cả tóc cũng được đổ ra đồng. Tất cả là chỉ để làm tăng sản lượng thu hoạch.

    Cũng như ở các dự án xây dựng, bắt đầu có một cuộc chạy đua vì các dự đoán thành tích. Đảng tổ chức họp trong mọi làng mạc, và Wu Tiancheng, người lãnh đạo một tổ sản xuất ở Judong, nhanh chóng học được những gì các bộ muốn nghe. Vì thế mà ông ấy trả lời cho câu hỏi, tổ của ông ấy sẽ thu hoạch bao nhiêu: rất nhiều.

    Người lãnh đạo công xã nhân dân là cấp trên của Wu tô hồng cho dự đoán đó thêm một ít, trước khi ông ấy báo cáo lên huyện – và cho tới khi các con số cuối cùng đến được với chính phủ tỉnh thì chúng đã được chỉnh sửa thêm nhiều lần cho tới mức mà các con số thu hoạch cho Hà Nam được báo lên đến Chủ tịch Ủy ban Kế hoạch chẳng còn có liên quan gì đến thực tế nữa cả.

    Ở Bắc Kinh, các mục đích thu hoạch được đưa ra với những con số đó – và trong lúc đó, dự đoán còn được nâng cao lên thêm một lần nữa.

    Dưới ấn tượng của các báo cáo tuyệt vời từ các công xã, huyện, tỉnh khác, trong thời gian sau đấy, các cán bộ Trung Quốc ngày càng thổi phồng các dự đoán của họ: trước khi công xã mô hình Sputnik được thành lập, người ta dự tính ở đấy trong tháng 2 năm 1958 với hơn bốn tấn lúa mì trên một hecta, cho tới mùa Đông, con số đấy được bơm lên đến 37,5 tấn (50 năm sau đấy, một nông dân người Đức sẽ thu hoạch trung bình tám tấn lúa mì mùa Đông.)

    Vì thế mà những người nông dân quẳng mọi thứ lên đồng ruộng, để có thể đạt được những dự đoán điên khùng đó. Nghĩa địa bị cải tạo thành đồng ruộng và ở một số nơi, những phần xác chết còn lại cũng được nấu thành phân bón.

    THÊM VÀO ĐÓ, người dân phải thực hiện nhiều ý tưởng mới từ Bắc Kinh, những cái thường trái ngược với kiến thức của họ. “Cày sâu” là một trong những yêu cầu đó, vì rễ mạnh, trên lý thuyết, sẽ cho cây sung túc hơn.

    Và bây giờ người nông dân phải trồng sát lại với nhau, vì người ta cho rằng cả cây cỏ cũng chia nhau chất dinh dưỡng, ánh sáng và nước một cách chan hòa. “Trong tập thể, chúng dễ tăng trưởng hơn”, Mao quả quyết, “với tập thể chúng sống dễ dàng hơn.”

    Và cũng như người Cộng Sản phải đề phòng các thế lực khuynh hữu và phản cách mạng, cây cỏ cũng có một kẻ thù tự nhiên: chim sẻ.

    Vì người ta cho rằng những con chim đó ăn hết hạt giống nên Đảng đã đưa ra một chiến dịch chống chim sẻ. Trẻ em cầm quay gỗ đi vòng quanh, hay đập vào xoong nồi, để liên tục xua chim bay đi, cho đến khi chúng rơi xuống đất vì kiệt sức.

    KHÔNG CHỈ TRÊN ĐỒNG RUỘNG là xảy ra cuộc đấu tranh vì tương lai của Trung Quốc. Ai muốn so mình với các quốc gia công nghiệp đều phải cần đến thép. Trong vòng 15 năm, sản xuất cần phải tăng lên gấp tám lần; trong đó, trước hết là giới nông dân phải làm sao cho ý muốn của Mao được thỏa mãn.

    Những ai trong số đàn ông của Judong mà không làm việc ở đập nước thì phải đi lên núi để thu nhặt đá cho một lò thô sơ dùng luyện thép, những cái bây giờ thành hình ở khắp nơi trong Trung Quốc. Ở những nơi không có mỏ sắt, nông dân quẳng tất cả những gì mà họ tìm được vào trong lò như là nguyên liệu: xoong nồi, cày, xe đạp, sắt phế liệu. Năm 1958, tổng cộng có 140.000 tấn dụng cụ nông nghiệp đã bị nấu chảy ra trong tỉnh Hà Nam. Để giữ được ngọn lửa, người nông dân đốt cả bàn ghế và kèo nhà. Rừng rậm cũng trở thành nạn nhân của chiến dịch thép, từ đấy đất không còn gì để bảo vệ trước mưa gió nữa.

    Nhưng trong nhiều tỉnh, hơn hai phần ba lượng thép được sản xuất như thế lại có chất lượng thấp: không thể sản xuất cả xe máy cày lẫn máy bơm hay cái cày từ đó.

    Trong mùa Thu năm 1958, một năm của những chiến dịch không ngừng nghỉ mới chấm dứt. Bây giờ, các dự đoán phải được thực hiện. Thế nhưng nhiều thiết bị đã bị nấu chảy, nhiều người đàn ông vẫn còn ở trên các công trình xây dựng. Cây trồng đã chết vì chúng được trồng quá sâu hay quá gần nhau. Côn trùng tấn công đồng ruộng, vì những kẻ thù tự nhiên của chúng, chim sẻ, đã bị xua đuổi cho tới chết.

    Vào cuối mùa Hè 1958, Mao dự định rằng Trung Quốc sẽ có được một vụ thu hoạch kỷ lục. Trong những chuyến đi xuyên qua đất nước, ông ấy đã nhìn thấy những đống ngũ cốc ở cạnh đường, những cánh đồng lúa xanh tươi, xa ngút tầm mắt. Có lẽ ông ấy đã không nhận ra, rằng nông dân đã tuân theo mệnh lệnh của cán bộ mà trồng lại cây dọc theo tuyến đường đi của ông ấy, rằng vì ông mà họ đã đổ đống lúa mì ở ven đường – chứ không phải vì kho chứa đã đầy. Ông chủ tịch dường như hạnh phúc. Ông ấy phấn khởi khuyên nông dân nên ăn năm lần trong ngày và trong tương lai nên trồng trọt ít đi. Giới lãnh đạo Đảng đã thật sự bỏ hoang đồng ruộng trong những năm sau đó ở khắp nơi, để giảm tải cho các kho dự trữ.

    Thế nhưng vụ thu hoạch kỷ lục đã không đến.

    Người nông dân phải đưa cho nhà nước phần ngũ cốc thừa. Nhưng Đảng đã tính toán phần thừa này dựa trên những con số sai lầm. Và không nơi nào khác trong Trung Quốc mà chúng lại không đúng nhiều như ở Hà Nam, thay vì 35 triệu tấn ngũ cốc theo dự đoán chỉ thu hoạch được có 12,5 triệu tấn.

    Với lời hứa, không để cho người Trung Quốc nào còn phải đói nữa và dẫn dắt đất nước đến một tương lai xán lại, Đảng đã gửi không biết bao nhiêu là người Trung Quốc đi đến cái chết. Phần lớn không được nước ngoài Phương Tây nhận biết, trong vòng ba năm có lẽ đã có 30 triệu người chết trong các làng mạc Trung Quốc. Và không phải tất cả đều chết đói: hàng triệu người bị đánh chết, đâm chết, bắn chết. Không phải bởi một đạo quân thù địch, mà bởi chính người của họ.

    Đại Nhảy Vọt là sai lầm lớn nhất của Mao Trạch Đông, tội phạm lớn nhất của ông ấy. Và ông ấy sẽ không quên rằng ai đã dám nói lên sự thật về thảm họa này: Lưu Thiếu Kỳ.

    Người đấy, người mà cả một thời gian dài được xem là người thừa kế Mao, sẽ phải trả giá bằng mạng sống của mình cho những lời nói công khai đấy một vài năm sau này. Ông ấy là nạn nhân cuối cùng của 30 triệu nạn nhân mà nhân dân Trung Quốc phải gánh chịu vì sự điên rồ của mỗi một người: vì ý tưởng, rằng người ta có thể quất roi thúc một đất nước đang phát triển nhanh chóng đi vào hiện đại.

    Phan Ba dịch từ chuyên san lịch sử “Trung Quốc của Mao Trạch Đông” do GEO EPOCHE xuất bản
  2. despair

    despair Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    14/05/2005
    Bài viết:
    6.956
    Đã được thích:
    1.641
    Tầm nhìn xa trông rộng nhất của lãnh đạo Trung Quốc là bắt buộc thành phần có học hơn ( ở đồng bằng, tp ) chỉ được đẻ 1 con, còn ít học ( vùng sâu vùng xa ) thì được đẻ 2.

    từ năm 1978 tới năm vừa rồi, tức là gần 40 năm.

    Cùng thời gian, cố vấn TQ hướng dẫn Polpot giết hết thành phần trí thức ở Campuchia. Như vậy mục tiêu khá rõ ràng, TQ muốn nhiều thế hệ nhân dân sau này là thành phần ít học hơn.
  3. oplot1

    oplot1 Thành viên tích cực Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    27/09/2017
    Bài viết:
    598
    Đã được thích:
    25
    Ít học mà lên được vũ trụ còn nhiều chữ làm ốc vít ko xong :))
  4. despair

    despair Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    14/05/2005
    Bài viết:
    6.956
    Đã được thích:
    1.641
    Khựa và giả Khựa thường ngu nhất khi bắt đầu quay về so sánh với Man di.

    GDP đầu người Khựa còn thua thằng ăn bốc ( Mã lai ) kìa.

    So với tất cả các nước sử dụng tiếng Hoa, Trung Quốc là nỗi xấu hổ của người Hoa vì nghèo hèn hơn.

    Hongkong, Đài Loan, Singapore
    oplot1 thích bài này.
  5. oplot1

    oplot1 Thành viên tích cực Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    27/09/2017
    Bài viết:
    598
    Đã được thích:
    25
    ồ nói ai đâu nói bóng gió thôi mà :rolleyes:
  6. meo-u

    meo-u Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    29/04/2011
    Bài viết:
    4.710
    Đã được thích:
    4.111
    Chuẩn. Người ta chê J20 ko cơ động nhưng tôi cho rằng nó cóc cần cơ động làm gì vì nó toàn mang hàng tầm xa. Nó sẽ là máy bay chống tiếp cận tầm xa thay cho cả Mig31 và Tu22

    Đó là máy bay thể hiện tư duy thực dụng của TQ. Phù hợp công nghệ và nhu cầu thực tế của TQ. Nó là máy bay rất nguy hiểm dù ko phải là vô đối.
    oplot1 thích bài này.
  7. despair

    despair Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    14/05/2005
    Bài viết:
    6.956
    Đã được thích:
    1.641
    muốn biết TQ có thật giàu ko, phải xem họ định nghĩa thế nào là nghèo. 2300 yuan / 1 năm ( < 1 UsD / ngày ) được coi là thoát nghèo rồi.
  8. oplot1

    oplot1 Thành viên tích cực Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    27/09/2017
    Bài viết:
    598
    Đã được thích:
    25
    Chả bù cho Nhật lùn rèn mãi ko ra chiếc Gen 5 nào cuối cùng phải bám đuôi Mỹ lại :-(
  9. despair

    despair Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    14/05/2005
    Bài viết:
    6.956
    Đã được thích:
    1.641

    J20 sẽ là cái gì chưa cần quan tâm. Cái cần quan tâm là bao giờ nó đạt tiêu chuẩn thiết kế đặt ra. Ví dụ 1 cái là vẫn dùng tạm động cơ thiếu công suất mà lại là hàng nhập khẩu. Nên Nga vẫn là thằng quyết định TQ có bao nhiêu J.

    Người lạc quan ở TQ cho rằng đến 2029 J20 mới đủ tiêu chuẩn thiết kế.

    J31 nghe cũng rất nguy hiểm trên giấy tờ đấy ( thông số thiết kế ) nhưng Trung Quốc còn mất mười mấy năm từ lần bay đầu tiên máy bay Arj21 tới khi có thể cho bay 3 ngày 1 lần, cho dù mọi thứ linh kiện đều nhập tư bản cơ mà.
    Lần cập nhật cuối: 30/09/2017
  10. oplot1

    oplot1 Thành viên tích cực Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    27/09/2017
    Bài viết:
    598
    Đã được thích:
    25
    Nga ko bán cho TQ thì dân Nga bốc tuyết ăn vã, mà cũng chả hiểu nguồn nào nói J20 dùng động cơ Nga ngoài nguồn Tây lông và nguồn VN cay cú trích dẫn lại

    Ko có 1 cái nguồn Nga, TQ mới nhất nào nói J20 dùng động cơ Nga, chỉ có nguồn Tây lông và VN cay cú ngồi thẩm du cho nhau
Trạng thái chủ đề:
Đã khóa

Chia sẻ trang này