1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Tiềm lực quân sự Trung Quốc phần 5

Chủ đề trong 'Kỹ thuật quân sự nước ngoài' bởi halosun, 23/11/2018.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. rugi

    rugi Thành viên gắn bó với ttvnol.com Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    30/07/2018
    Bài viết:
    1.742
    Đã được thích:
    174
    Hệ thống phòng không Trung Quốc (2)

    Cuối thập niên 1980, sau thời kỳ dài đối kháng chính trị-tư tưởng, có khi chuyển thành các đụng độ vũ trang cục bộ, quan hệ Xô-Trung đã được bình thường hóa. Dự án lớn đầu tiên trong khuôn khổ hợp tác kỹ thuật quân sự giữa hai nước là hợp đồng bán tiêm kích Su-27SK cho Trung Quốc.

    [​IMG]
    Chèn chú thích ảnh vào đây
    Ngày 27/6/1992, lô đầu tiên gồm 8 chiếc Su-27SK và 4 Su-27UBK đã được đưa vào biên chế trung đoàn 9, sư đoàn 3 không quân Trung Quốc. Tháng 11/1992, các đơn vị này đã nhận thêm 12 tiêm kích một chỗ ngồi.
    [​IMG]
    Su-27SK số hiệu 19 màu xanh” - số hiệu trên bộ hút khí máy bay cho thấy máy bay này do KnAAPO (Liên hiệp sản xuất máy bay Komsomolsk trên sông Amur mang tên Yu. A. Gagarin, Nga) sản xuất, chiếc thứ 20 của loạt thứ 38
    Ngoài việc cung cấp trực tiếp sang Trung Quốc các máy bay chiến đấu hoàn chỉnh, Trung Quốc còn ký với phía Liên Xô hợp đồng chuyển giao tài liệu công nghệ và trợ giúp triển khai sản xuất theo giấy phép ở Trung Quốc. Năm 1996, sau thời gian đàm phán dài giữa Công ty Sukhoi và Tổng công ty Sản xuất máy bay Thẩm Dương (Shenyang Aircraft Corporation - SAC) hợp đồng cùng sản xuất 200 Su-27SK với tên gọi J-11 trị giá 2,5 tỷ USD đã được ký kết.
    [​IMG]

    Theo điều kiện hợp đồng, việc lắp ráp J-11 bằng linh kiện của Nga đã được thực hiện ở một nhà máy tại Thẩm Dương. Tiêm kích J-11 được lắp ráp theo hợp đồng giấy phép năm 1996 đã lần đầu tiên cất cánh vào năm 1998. Các máy bay đầu tiên sản xuất theo giấy phép đã được biên chế cho trung đoàn 6, sư đoàn 2 không quân Trung Quốc và được sử dụng cùng với các tiêm kích Su-27SK cung cấp từ Nga.
    [​IMG]
    Ảnh Google Earth: sân đỗ máy bay trên sân bay nhà máy ở Thẩm Dương
    Trung Quốc đã lắp ráp trong nước tổng cộng 105 J-11 theo giấy phép. Trên một phần đáng kể các máy bay này đã lắp đặt thiết bị avionics Trung Quốc. Sau khi lắp ráp 105 chiếc J-11, Trung Quốc từ chối điều khoản phụ lắp ráp thêm 95 máy bay với cớ tiêm kích Liên Xô “có tính năng chiến đấu thấp”. Tháng 12/2003, giai đoạn 2 của “Đề án 11” bắt đầu - chiếc tiêm kích “nội địa” J-11B do Trung Quốc chế tạo trên cơ sở Su-27SK đầu tiên cất cánh lần đầu tiên.

    Cùng với việc trang bị đầy đủ Su-27SK и J-11B cho các đơn vị không quân tiêm kích, các tiêm kích lỗi thời J-6, cũng như các biến thể đầu của tiêm kích đánh chặn J-8 bị loại khỏi biên chế chiến đấu. Các máy bay J-7 tạm thời tiếp tục được khai thác, nhưng chủ yếu cho mục đích đào tạo-huấn luyện hoặc trên các hướng thứ yếu.
    [​IMG]
    Các tiêm kích J-11 của Trung Quốc đang bay trên đỉnh Chomolungma cao nhất thế giới (8.848 m)

    Cố tìm cách thoát khỏi sự phụ thuộc công nghệ vào Nga, công nghiệp Trung Quốc đã phát triển hàng loạt linh kiện và hệ thống, cho phép lắp ráp các tiêm kích này mà không cần phụ tùng của Nga và cải tiến thích nghi để chúng sử dụng được vũ khí hàng không do Trung Quốc sản xuất.
    [​IMG]
    Tiêm kích thế hệ 5 J-20 của Trung Quốc

    Các công nghệ và tài liệu kỹ thuật nhận được từ Liên Xô và Nga đã cho phép tạo ra cú nhảy vọt về chất của công nghiệp hàng không Trung Quốc, đưa nó lên một trình độ phát triển mới. Trong một thời gian ngắn, Trung Quốc đã vượt qua sự lạc hậu 30 năm trong lĩnh vực này.

    Hiện nay, mặc dù gặp khó khăn trong việc chế tạo các động cơ máy bay hiện đại với độ tin cậy cần thiết, Trung Quốc hiện có khả năng chế tạo tất cả các loại máy bay chiến đấu, kể cả tiêm kích thế hệ 5. Ở đây, cần phải nói thêm rằng, ngoài sản xuất các tiêm kích mới, các nghiên cứu khoa học và kỹ thuật trong lĩnh vực hàng không, Trung Quốc đang đầu tư nguồn lực lớn cho phát triển mạng lưới sân bay. Trên lãnh thổ Trung Quốc đã xây dựng một số lượng lớn đường băng sân bay mặt cứng có khả năng khi cần tiếp nhận và khai thác tất cả các loại máy bay có trong biên chế quân đội.
    [​IMG]
    Mạng lưới sân bay của Trung Quốc

    Khoảng 30% các sân bay này hiện hoặc hoàn toàn không được khai thác, hoặc là khai thác với mức tải tối thiểu. Nhưng tất cả chúng đều được duy trì ở trạng thái làm việc. Sự hiện hữu của các đường băng tốt dự trữ đó và hạ tầng sân bay được chuẩn bị cho phép khi cần nhanh chóng phân tán máy bay chiến đấu để tránh đòn tấn công của đối phương.

    Xét về số lượng sân bay có đường băng mặt cứng có khả năng làm việc, Trung Quốc vượt trội đáng kể so với Nga.

    Ngoài các máy bay chiến đấu hiện đại, vào đầu thập niên 1990, quân đội Trung Quốc rất cần các hệ thống phòng không có thể thay thế các hệ thống tên lửa phòng không tương tự S-75 đã lạc hậu.

    Bắc Kinh đã bắt đầu đàm phán với Moskva để mua các hệ thống tên lửa phòng không từ năm 1991. Sau khi được trưng bày công khai tại Triển lãm hàng không Moskva vào năm 1992, hệ thống tên lửa phòng không S-300P, năm 1993, Nga đã bắt đầu cung cấp các hệ thống này cho Trung Quốc. Trung Quốc đã đặt mua 4 tiểu đoàn S-300PMU trị giá 220 triệu USD. Trước khi chuyển giao, mấy chục sĩ quan và chuyên gia dân sự Trung Quốc đã được đào tạo tại Nga. Năm 1993, Nga đã chuyển giao cho Trung Quốc 32 bệ phóng xe kéo 5P85Т với xe kéo KrAZ-265V, với 4 ống phóng chứa tên lửa phòng không có điều khiển 5V55U mỗi bệ và 4-8 tên lửa dự phòng đi kèm.

    Năm 1994, Nga đã chuyển giao thêm 120 tên lửa để tiến hành bắn tập, huấn luyện. Hệ thống có thể tiêu diệt đồng thời 6 mục tiêu bay ở cự ly đến 75 km với khả năng dẫn 2 tên lửa đến mỗi mục tiêu.
    [​IMG]
    Hệ thống tên lửa phòng không S-300PMU bằng các tính năng của mình để gây ấn tượng mạnh đối với các chuyên gia Trung Quốc vì đến lúc đó Trung Quốc chưa từng có hệ thống nào như vậy. Các tiểu đoàn phòng không đã được triển khai để bảo vệ các mục tiêu hành chính-công nghiệp và quân sự lớn.
    [​IMG]
    Ảnh Google Earth: các trận địa của hệ thống tên lửa phòng không S-300PMU ở ngoại ô Bắc Kinh
    Năm 1994, Trung Quốc ký tiếp hợp đồng mua 8 tiểu đoàn tên lửa phòng không cải tiến S-300PMU1 trị giá 400 triệu USD. Hợp đồng bao gồm cung cấp 32 bệ phóng 5P85SE/DЕ sử dụng khung gầm 4 trục MAZ-543М và 196 tên lửa 48N6Е đi kèm. Các tên lửa cải tiến được trang bị hệ dẫn radar bán chủ động kiểu “bám qua tên lửa” với tầm bắn tăng lên đến 150 km. Một nửa giá trị hợp đồng được thanh toán bằng các hợp đồng đổi hàng tiêu dùng của Trung Quố, nửa còn lại trả bằng ngoại tệ.

    Hợp đồng bổ sung ký năm 2001 trị giá 400 triệu USD với nội dung mua thêm 8 tiểu đoàn S-300PMU-1 với 32 bệ phóng và 198 tên lửa 48N6Е. Các hệ thống mua trong lô này đã được triển khai ở khu vực eo biển Đài Loan và xung quanh Bắc Kinh.

    Năm 2003, Trung Quốc đã nêu ý định đặt mua các hệ thống tên lửa phòng không cải tiến S-300PMU2 Favorit mà Nga lần đầu tiên chào bán trên thị trường vũ khí thế giới vào năm 2001. Đơn đặt hàng bao gồm 64 bệ phóng 5P85SЕ2/DЕ2 và 256 tên lửa phòng không có điều khiển 48N6Е2.

    Các tiểu đoàn đầu tiên đã được bàn giao cho khách hàng vào năm 2007. Hệ thống cải tiến này có thể bắn đồng thời 6 mục tiêu bay ở cự ly đến 200 km và độ cao đến 27 km.

    Với việc trang bị các hệ thống S-300PMU2, Trung Quốc đã lần đầu tiên có được khả năng hạn chế trong đánh chặn tên lửa đường đạn ở cự ly đến 40 km.

    Theo báo chí Nga, Trung Quốc đã nhận tổng cộng 4 tiểu đoàn S-300PMU, 8 tiểu đoàn S-300PMU1 và 12 tiểu đoàn S-300PMU2. Mỗi bộ trang bị cấp tiểu đoàn bao gồm 6 bệ phóng. Kết quả là Trung Quốc đã mua 24 tiểu đoàn S-300PMU/PMU1/PMU2 với 144 bệ phóng.

    Sau khi có kinh nghiệm khai thác các hệ thống tên lửa phòng không S-300P, Trung Quốc đã muốn triển khai sản xuất theo giấy phép các hệ thống này ở trong nước. Tuy nhiên, với bài học “sản xuất chung” tiêm kích Su-27 và lo nại mất “các công nghệ trọng yếu”, ban lãnh đạo Nga đã không chấp nhận, nên Trung Quốc đã phải tự lực tiến hành phát triển hệ thống tên lửa phòng không mới.
    [​IMG]
  2. rugi

    rugi Thành viên gắn bó với ttvnol.com Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    30/07/2018
    Bài viết:
    1.742
    Đã được thích:
    174
    Tuy nhiên, ở hệ thống tên lửa phòng không HQ-9 của Trung Quốc vẫn bộc lộ rõ nét các đường nét của S-300P. Hàng loạt các đặc điểm cấu trúc và giải pháp kỹ thuật của S-300P phần nhiều được các kỹ sư Trung Quốc sao chép khi thiết kế HQ-9.
    [​IMG]
    Bệ phóng của hệ thống tên lửa phòng không HQ-9
    Tuy vậy, coi HQ-9 là bản sao chép S-300P của Nga cũng không đúng. Bệ phóng của HQ-9 sử dụng một loại tên lửa khác có kích thước khác, radar anten mạng pha CJ-202 được sử dụng để điều khiển hỏa lực. Bệ phóng được lắp trên khung gầm xe việt dã 4 trục do Trung Quốc sản xuất. HQ-9 có tầm bắn tối đa gần 125 km, trần bắn tối đa 18.000 m, trần bắn tối thiểu 25 m, tầm tiêu diệt mục tiêu đường đạn 7-25 km ở độ cao 2.000-15.000 m.

    Một lữ đoàn HQ-9 gồm 6 tiểu đoàn, mỗi tiểu đoàn được trang bị một xe chỉ huy và radar điều khiển hỏa lực riêng. Một tiểu đoàn được biên chế 8 bệ phóng, số lượng tên lửa sẵn sàng phóng là 32 quả đạn.

    Biến thể xuất khẩu của HQ-9 là FD-2000 đã thắng thầu trong cuộc đấu thầu của Thổ Nhĩ Kỳ sau khi đánh bại các hệ thống Patriot của Mỹ, S-400 của Nga và Aster của châu Âu. Nhưng dưới áp lực của Mỹ, kết quả đấu thầu đã bị hủy bỏ. Hiện nay, Trung Quốc đang sản xuất biến thể hiện đại hóa là HQ-9A.

    HQ-9A có hiệu suất bắn và hiệu quả cao hơn, nhất là về khả năng chống tên lửa, đạt được nhờ nâng cấp thiết bị điện tử và phần mềm.

    Báo chí cũng đã đưa tin về việc Trung Quốc chế tạo và đưa vào trang bị hệ thống tên lửa phòng không HQ-15, được cho là sao chép S-300PMU-1. Nhưng thông tin chính xác về hệ thống này thì không thể tìm thấy.

    Từ năm 1991, Trung Quốc đã lần đầu tiên trưng bày hệ thống tên lửa phòng không tầm trung HQ-12 ở triển lãm Le Bourget, Pháp. Hệ thống này được bắt đầu phát triển từ đầu những năm 1980 để thay thế hệ thống tên lửa phòng không lạc hậu HQ-2.
    [​IMG]
    Bệ phóng tự hành hệ thống tên lửa phòng không tầm trung HQ-12

    Tuy nhiên, việc hoàn thiện hệ thống bị chậm trễ nhiều. Mãi đến năm 2009, hệ thống mới được công khai, mấy đại đội HQ-12 đã tham gia cuộc duyệt binh kỷ niệm 60 năm ngày quốc khánh Trung Quốc. Hiện tại, Trung Quốc đã triển khai gần 10 tiểu đoàn HQ-12.

    Dường như tỏ ra thành công hơn là hệ thống tên lửa phòng không tầm trung mới HQ-16 của Trung Quốc. Đây là sự kết hợp những giải pháp kỹ thuật tiên tiến sao chép từ các hệ thống S-300P và Buk-M2 của Nga. Khác với Buk, HQ-16 sử dụng chế độ “phóng nóng thẳng đứng”.
    [​IMG]
    Hệ thống tên lửa phòng không tầm trung HQ-16

    HQ-16 được trang bị các tên lửa phòng không có trọng lượng 328 kg, tầm bắn 40 km. Bệ phóng tự hành được trang bị 4-6 tên lửa để trong các ống phóng kín. Radar của hệ thống có khả năng phát hiện mục tiêu bay ở cự ly 150 km. Các thành phần của HQ-16 được bố trí trên các ô tô việt dãn 6 trục. Hiện nay, một số tiểu đoàn HQ-16 đang được triển khai tại các trận địa ở Tây Nam Trung Quốc.
    [​IMG]
    Ảnh Google Earth: các trận địa hệ thống tên lửa phòng không HQ-16 ở khu vực Thành Đô

    Hệ thống có khả năng tiêu diệt các máy bay của không quân lục quân, không quân chiến thuật và chiến lược, trực thăng chi viện hỏa lực, tên lửa hành trình và máy bay không người lái. HQ-16 cho phép đối phó hiệu quả các cuộc tập kích ồ ạt của các phương tiện tiến công đường không trong điều kiện có chế áp điện tử cường độ cao. Hệ thống có khả năng thực hiện nhiệm vụ chiến đấu trong các điều kiện thời tiết khác nhau. HQ-16 là hệ thống đa kênh. Các phương tiện hỏa lực của nó có thể bắn đồng thời đến 6 mục tiêu, dẫn đến 4 tên lửa từ một bệ phóng vào mỗi mục tiêu trong số đó. Khu vực tác xạ là 360 độ theo phương vị.

    Trong biên chế lực lượng tên lửa phòng không quân đội Trung Quốc có 110-120 hệ thống (tiểu đoàn) tên lửa phòng không với tổng cộng gần 700 bệ phóng. Xét về chỉ số này, Trung Quốc chỉ thua kém Nga (gần 1.500 bệ phóng). Hơn nữa, tỷ lệ các hệ thống tên lửa phòng không hiện đại trong quân đội Trung Quốc liên tục tăng lên.

    Theo thông tin báo chí, tại triển lãm hàng không quốc tế Chu Hải, Nga đã đồng ý về nguyên tắc bán cho Trung Quốc các hệ thống hệ thống tên lửa phòng không tối tân S-400. Hiện nay, hai bên đang thảo luận khả năng cung cấp cho Trung Quốc 2-4 tiểu đoàn S-400, mỗi tiểu đoàn được biên chế 8 bệ phóng. Phía Trung Quốc yêu cầu phải nhận được thông tin đầy đủ về các tính năng kỹ-chiến thuật của S-400. Nhờ mua sắm các hệ thống S-400, Trung Quốc sẽ có thể kiểm soát không phận không chỉ trên lãnh thổ của mình mà cả trên Đài Loan và quần đảo Senkaku.
    [​IMG]
    Ảnh Google Earth: sơ đồ bố trí hệ thống tên lửa phòng không (các hình vuông và tam giác tô màu) và radar (cac hình thoi màu xanh) dọc bờ biển Trung Quốc

    Đa số các hệ thống tên lửa phòng không tầm xa và tầm trung của Trung Quốc được triển khai dọc theo bờ biển nước này. Chính ở khu vực này có đại bộ phận các doanh nghiệp mang lại 70% GDP cho Trung Quốc. Trung Quốc cũng rất chú ý phát triển và hoàn thiện các phương tiện kiểm soát tình hình trên không. Các trạm radar lạc hậu sao chép các radar Liên Xô thời những năm 1950 đang được thay thế nhanh chóng bằng các radar mới.
    [​IMG]
    Trạm anten radar JY-27

    Có lẽ lớn nhất trong các trạm radar sóng mét là radar hai tọa độ phát hiện tầm xa băng rộng JY-27. Theo hãng thiết kế, radar này có khả năng phát hiện máy bay tàng hình ở cự ly xa (cự ly phát hiện mục tiêu bay là 500 km).
    [​IMG]
    Radar Type 120

    Radar Type 120 phát hiện mục tiêu bay thấp là sự phát triển tiếp theo của radar JY-29/LSS-1 2D, có khả năng đồng thời theo dõi 72 mục tiêu ở cự ly 200 km. Trung Quốc đã triển khai 120 radar này, kể cả trong thành phần các hệ thống tên lửa phòng không HQ-9, HQ-12 và HQ-16.
    [​IMG]
    Radar ba tọa độ JYL-1 với tầm phát hiện 320 km

    Một số loại trạm radar mới của Trung Quốc đã được giới thiệu tại triển lãm hàng không-vũ trụ China Airshow - 2014 ở Chu Hải.
    [​IMG]

    Ngoài các radar mặt đất, Trung Quốc cũng đang ráo riết nghiên cứu chế tạo các máy bay báo động sớm. Đó là vì đa số các tiêm kích hiện đại của Trung Quốc được triển khai tại các căn cứ dọc bờ biển. Chiều sâu bảo vệ bằng tiêm kích từ trạng thái “trực tại sân bay” là khoảng 150-250 km với điều kiện phát hiện mục tiêu bay ở cự ly đến 500 km.

    Xét tới yếu tố, radar phòng không trong đa số các trường hợp cho phép phát hiện mục tiêu ở cự ly đến 250-300 km và khi so chỉ số này với chiều sâu tấn công của các phương tiện tiến công đường không thì rõ ràng là không quân tiêm kích của hải quân Trung Quốc không có khả năng bảo đảm phòng không hiệu quả từ trạng thái “trực tại sân bay”.

    Các máy bay báo động sớm khi tuần ta bờ biển trên vùng biển quốc tế có khả năng đẩy xa tuyến phát hiện mục tiêu bay.

    Vào giữa thập niên 1990, Trung Quốc đã có một nỗ lực chế tạo máy bay báo động sớm với sự tham gia của các chuyên gia thiết kế nước ngoài. Sau quá trình đàm phán giữa Nga, Israel và Trung Quốc vào năm 1997, đã ký kết hợp đồng cùng phát triển, chế tạo và cung cấp cho Trung Quốc các hệ thống chỉ huy và báo động sớm.

    Theo đó, công ty sản xuất máy bay “Tổ hợp KHKT hàng không Taganrog” (TANTK) mang tên G.M. Beriev sẽ chế tạo trên cơ sở máy bay sản xuất loạt А-50 một máy bay để lắp hệ thống radar do Israel sản xuất với radar EL/M-205 PHALCON. Nền tảng của hệ thống là radar xung-Doppler đa năng EL/M-205 do công ty Elta của Israel phát triển. Radar này gồm 3 anten mạng pha chủ động cấu thành một tam giác và bố trí bên trên thân máy bay trong vỏ rẽ dòng cố định, hình nấm, đường kính 11,5 m (lớn hơn so với các máy bay E-3 của Mỹ và А-50 của Nga).

    Nhưng kế hoạch này đã không thể thực hiện được dưới áp lực cực mạnh của Mỹ. Mùa hè năm 2000, Israel đã buộc phải ban đầu là tạm dừng hợp đồng, còn sau đó là chính thức thông báo với Trung Quốc về việc dừng tham gia vào dự án. Sau khi Israel rút khỏi chương trình, ban lãnh đạo Trung Quốc đã quyết định tiếp tục tự lực thực hiện chương trình bằng cách lắp hệ thống radar với anten mạng pha chủ động lên máy bay do phía Nga cải tạo và cung cấp, các khí tài liên lạc và truyền dữ liệu sản xuất trong nước. Do Trung Quốc không có máy bay nào khác thích hợp với vai trò phương tiện mạng hệ thống radar báo động sớm, nên các máy bay chỉ huy-báo động sớm sản xuất loạt tiếp theo Trung Quốc quyết định sản xuất dựa trên cơ sở một số trong những máy bay vận tải quân sự Il-76MD mà Nga cung cấp cho Trung Quốc trong thập niên 1990.
    [​IMG]
    Máy bay chỉ huy-báo động sớm KJ-2000 của Trung Quốc

    Cuối năm 2007, 4 máy bay chỉ huy-báo động sớm KJ-2000 sản xuất loạt đã được chính thức nhận vào trang bị. Trên các nguồn tin công khai không có thông tin tin cậy về tính năng của hệ thống báo động sớm này. Chỉ biết rằng, tổ lái của KJ-2000 gồm 5 người và 10-15 trắc thủ. Máy bay có thể bay tuần tra ở độ cao 5-10 km, tầm bay tối đa 5000 km, thời gian bay 7 giờ 40 phút.

    Việc trang bị KJ-2000 đã cho phép nâng cao đáng kể khả năng của không quân Trung Quốc trong phát hiện mục tiêu bay, kể cả mục tiêu bay thấp và tàng hình. Nhưng một đơn vị máy bay báo động sớm chỉ gồm 5 chiếc (kể cả chiếc chế thử) KJ-2000 rõ ràng là không đủ đối với Trung Quốc. Bởi vậy, họ đã bắt đầu phát triển “loại radar bay” mới trên cơ sở máy bay vận tải quân sự Y-8 F-200. Máy bay được trang bị radar giống với radar Ericsson Erieye AESA của Thụy Điển, với tầm phát hiện mục tiêu 300-450 km.
    [​IMG]
    Máy bay chỉ huy-báo động sớm KJ-200 của Trung Quốc
    Máy bay KJ-200 sản xuất loạt đầu tiên cất cánh vào ngày 14/1/2005. Theo các chuyên gia nước ngoài, hiện nay, trong biên chế có không dưới 6 máy bay này.

    Trung Quốc cũng đang tiếp tục chế tạo các biến thể mới của các máy bay báo động sớm với các radar có tính năng cao hơn.

    Công nghiệp Trung Quốc đã có cú nhảy vọt trong lĩnh vực radar hàng không từ radar quét cơ khí đến các hệ thống với anten mạng pha chủ động.

    Các chuyên gia tổng công ty CETC đã chế tạo được radar 3 tọa độ phát hiện tầm xa với anten mạng pha chủ động, tức là radar cho phép quét điện tử theo độ cao và phương vị.
    [​IMG]
    Máy bay báo động sớm KJ-500 của Trung Quốc

    Giữa năm 2014 có tin Trung Quốc đã đưa vào trang bị máy bay báo động sớm hạng trung mới KJ-500 chế tạo trên cơ sở máy bay vận tải Y-8F-400. Khác với KJ-200 với radar dài cố định, KJ-500 có anten radar tròn đặt trên cột.
    [​IMG]

    Hiện nay, Trung Quốc khoảng gần 15 máy bay báo động sớm, hàng năm sản xuất 2-3 máy bay mới loại này. Trung Quốc đang rất chú trọng nghiên cứu chế tạo và hoàn thiện các tiêm kích hiện đại, các phương tiện phòng không mặt đất, các trạm radar phát hiện và các hệ thống chỉ huy tự động hóa.

    Theo các tài liệu do Bộ Quốc phòng Mỹ công bố, hiện nay, Trung Quốc đang nghiên cứu xây dựng hệ thống phòng không tích hợp, vạn năng quốc gia và dự kiến hoàn thành xây dựng vào năm 2020.

    Một thành tựu lớn của công nghiệp vô tuyến điện tử Trung Quốc là khả năng tự lực phát triển và sản xuất hầu như tất cả các loại radar, phương tiện chỉ huy/điều khiển và dẫn đường. Các hệ thống xử lý dữ liệu trên khoang của các hệ thống phòng không này và các tiêm kích nội địa hiện sử dụng các máy tính và phần mềm do Trung Quốc phát triển và sản xuất nên tăng cường được an toàn thông tin và bảo đảm khả năng hoạt động của máy móc trong thời kỳ đặc biệt.


    Nguồn: TW, china-inc, 25.12.2014.
    http://vietnamdefence.com/Home/quandoi/trungquoc/He-thong-phong-khong-Trung-Quoc-2/20189/55471.vnd
  3. rugi

    rugi Thành viên gắn bó với ttvnol.com Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    30/07/2018
    Bài viết:
    1.742
    Đã được thích:
    174
    Máy bay chỉ huy-báo động sớm của Trung Quốc

    Máy bay chỉ huy-báo động sớm (AEW&C) là một trong những phương tiện cơ động kiểm soát không trung hiệu quả nhất, thực hiện các nhiệm vụ phát hiện sớm, bám và nhận dạng các mục tiêu trên không và mặt nước, dẫn máy bay chiến thuật tới các mục tiêu này, thu thập và truyền dữ liệu về tình hình tới các sở chỉ huy trên mặt đất, trên không và trên hạm tàu.

    Máy bay chỉ huy-báo động sớm (AEW&C) là một trong những phương tiện cơ động kiểm soát không trung hiệu quả nhất, thực hiện các nhiệm vụ phát hiện sớm, bám và nhận dạng các mục tiêu trên không và mặt nước, dẫn máy bay chiến thuật tới các mục tiêu này, thu thập và truyền dữ liệu về tình hình tới các sở chỉ huy trên mặt đất, trên không và trên hạm tàu. Hiệu quả sử dụng các máy bay lớp này ở vai trò đó đã nhiều lần được khẳng định trong các cuộc xung đột vũ trang cục bộ.

    Máy bay AEW&C đầu tiên của Trung Quốc là KJ-1, được phát triển vào cuối thập niên 1960 trên cơ sở máy bay ném bom Тu-4 của Liên Xô. Hiện nay, trong biên chế chiến đấu của quân đội Trung Quốc có 4 loại máy bay chỉ huy-báo động sớm: Y-8J, KJ-200, KJ-2000 và KJ-500. Còn một loại nữa là ZDK-03 do Trung Quốc sản xuất với số lượng 4 chiếc được xuất khẩu sang Pakistan.
    Ở các giai đoạn phát triển khác nhau còn có một số loại máy bay chỉ huy-báo động sớm tương lai. Các loại chủ yếu trong số đó là KJ-3000 được chế tạo trên cơ sở máy bay vận tải quân sự hạng nặng Y-20 và KJ-600 triển khai trên tàu sân bay.
    Trung Quốc cần sử dụng các hệ thống radar báo động sớm lắp trên máy bay là vì các trạm radar mặt đất của phòng không Trung Quốc và kiểm soát tình hình mặt biển không bảo đảm thiết lập trường radar dày đặc phát hiện mục tiêu bay ở tất cả các mực độ cao và tầm hoạt động không đủ xa.
    Những nguyên nhân chính gây ra tình trạng đó là diện tích quá rộng của lãnh thổ lục địa của Trung Quốc (9,6 triệu km2) và diện tích các vùng biển tiếp giáp (3 triệu km2), đường biên giới trên bộ và trên biển với 13 quốc gia rất dài, bề mặt địa hình phức tạp, bao gồm các dãy núi, có các vùng lãnh thổ tranh chấp với các nước láng giềng, cũng như các vụ vi phạm biên giới quốc gia trên không.
    Đối với Trung Quốc, các máy bay AEW&C thực tế là phương tiện trinh sát trên không duy nhất cho bất kỳ cuộc xung đột tiềm tàng nào trên khu vực eo biển Đài Loan, biển Hoa Đông và Biển Đông. Ngoài ra, tính chất tác chiến hiện đại có sự gia tăng nhiều lần về tính phức tạp và thay đổi nhanh chóng tình hình trên không, đặt ra những yêu cầu cao hơn về tính vững chắc trong chỉ huy/điều khiển không quân.
    Đồng thời, việc xây dựng lực lượng máy bay AEW&C của Trung Quốc trong thời gian dài bị chậm trễ, kìm hãm bởi sự thiếu vắng các máy bay mang nội địa và sự tụt hậu lớn của ngành vô tuyến điện tử Trung Quốc.
    Chế tạo các máy bay báo động sớm nội địa được Trung Quốc xác định là một trong những nhiệm vụ ưu tiên từ giữa thập niên 1970. Trung Quốc bắt đầu ráo riết nghiên cứu chế tạo các máy bay này từ giữa những năm 2000.
    [​IMG]
    Hiện nay, máy bay AEW&C Y-8J lắp radar SkyMaster của Anh (máy bay có tên gọi khác là Y-8 AEW) là máy bay lạc hậu nhất trong tất cả các máy bay lớp này trong biên chế quân đội Trung Quốc.
    Y-8J được chế tạo trên cơ sở máy bay vận tải quân sự nâng cấp Y-8C (tương tự An-12 của Liên Xô) với chụp rẽ dòng đặc trưng ở mũi để chứa hệ thống anten radar. Mẫu cơ sở Y-8C được phát triển với sự trợ giúp kỹ thuật của công ty Lockheed (Mỹ) vào cuối thập niên 1980. Y-8J thực hiện chuyến bay đầu tiên vào năm 1998 và được nhận vào trang bị vào đầu những năm 2000.
    Nhiệm vụ chính của Y-8J là kiểm soát tình hình mặt biển và trên không trên các vùng biển ven bờ biển Hoàng Hải và biển Hoa Đông để ngăn chặn buôn lậu ở các khu vực này.
    Sau nhiều giai đoạn hiện đại hóa, biến thể Y-8J đã được trang bị các thùng nhiên liệu lớn hơn, các cửa nắp khẩn cấp bổ sung, các máy chụp không ảnh, các khí tài liên lạc, các phương tiện trinh sát vô tuyến điện và trinh sát kỹ thuật vô tuyến điện tử và các vị trí công tác tự động hóa dành cho các trắc thủ với các màn hình tinh thể lỏng để hiển thị tình huống hiện tại.
    Thành phần chính của hệ thống thiết bị vô tuyến điện tử trên khoang của máy bay này là radar SkyMaster. Radar này cho phép phát hiện các mục tiêu trên không (ở cự ly đến 400 km) và mặt nước (ở cự ly đến 110 km) khi máy bay mang bay ở độ cao đến 3.000 m, dẫn đường cho máy bay chiến thuật và cung cấp dữ liệu về các tàu mặt nước. Các radar này đã được trang bị cho các trực thăng báo động sớm Sea King AEW.2 của Anh từ cuối thập niên 1980.
    Radar SkyMaster do công ty TORN-EMI, sau này là Racal Radar Defence Systems, nay nằm trong tập đoàn Thales của châu Âu phát triển. Anh bán radar SkyMaster cho Trung Quốc vào năm 1996 với số lượng 6-8 bộ, dưới cái tên dân sự để né tránh trừng phạt kinh tế.
    Dự đoán, hải quân Trung Quốc hiện đang sử dụng từ 2-4 máy bay Y-8J, còn theo niên giám The Military Balance 2016 do Viện Nghiên cứu chiến lược ISS ở London xuất bản thì hiện sử dụng tất cả 8 chiếc máy bay đã sản xuất trước đó.
    Tóm lại, Y-8J đã trở thành máy bay đầu tiên của Trung Quốc có khả năng thực hiện một cách tổng hợp các nhiệm vụ báo động sớm, dẫn đường cho tiêm kích chiến thuật và cung cấp thông tin chỉ thị mục tiêu cho các tàu chiến mặt nước của hải quân Trung Quốc. Trong tương lai, các máy bay còn lại trong biên chế sẽ được sử dụng cho đến khi hết hạn sử dụng. Khi Y-8J bị loại khỏi biên chế chiến đấu, các nhiệm vụ của chúng sẽ được giao phó cho các máy bay hiện đại hơn là KJ-200.
    Năm 2000, Trung Quốc đã bắt đầu công tác nghiên cứu chế tạo AEW&C KJ-200. Biến thể xuất khẩu của máy bay này có những cái tên khác: Y-8 Balance Beam, Y-8W AEW&C và ZDK-06. KJ-200 cũng như Y-8J ngay từ đầu được chế tạo dựa trên máy bay vận tải quân sự Y-8. Máy bay được chế tạo dựa trên biến thể chế thử Y-8F-200 đã thực hiện chuyến bay đầu tiên vào cuối năm 2001. KJ-200 được cung cấp ở các biến thể khác nhau cho không quân và hải quân Trung Quốc.
    [​IMG]
    Mẫu chế thử thứ hai đã thực hiện chuyến bay đầu tiên vào đầu năm 2005. Mẫu này được chế tạo dựa trên máy bay vận tải Y-8F-600 được phát triển với sự tham gia của các chuyên gia của Tổ hợp KHKT hàng không mang tên O.K. Antonov (Ukraine) và định hướng để xuất khẩu. Các máy bay tiếp sau được dự kiến trang bị các động cơ turbine cánh quạt PW-150B công suất hơn 5.000 mã lực của công ty Pratt&Whitney (Canada) với các bộ cánh quạt 6 lá cánh composite R408 của công ty Dowty (Anh), thiết bị avionics và động cơ phụ trợ tương ứng của các công ty Mỹ Rockwell Collins và Honeywell. Máy bay này đã bị rơi khi bay thử vào giữa năm 2006, khả năng là do mất lái vì đóng băng.
    Vì chiếc KJ-200 thứ hai bị rơi nên việc chế tạo máy bay thứ ba đã bị tạm đình hoãn trong một năm. Kết quả là máy bay thứ ba và các máy bay tiếp đó đã được trang bị thêm hệ thống chống đóng băng, thiết bị cảnh báo tình huống khẩn cấp trên khoang, cũng như cấu trúc cánh được thay đổi và lắp thêm các cánh ổn định đứng ở phần cánh đuôi.
    Việc lắp ráp thiết bị cho các máy bay KJ-200 được tiến hành tại cơ sở của Công ty Công nghiệp hàng không Hán Trung (Hanzhong Aviation Industry (Group) Company - HAIC), thành phố Hán Trung, tỉnh Thiểm Tây, công ty đã triển khai sản xuất loạt Y-8 và các biến thể của nó. Công ty nằm trong thành phần tổng công ty Công nghiệp hàng không số 1 Trung Quốc (China Aviation Industry Corporation I - AVIC I). Việc sửa chữa và bảo dưỡng kỹ thuật định kỳ được tiến hành tại nhà máy sửa chữa máy bay ở thị xã Đương Dương, tỉnh Hồ Bắc.
    Hệ thống động lực của máy bay sử dụng các động cơ turbine quạt cải tiến WJ-6C với bộ cánh quạt 6 lá cánh JL-4 do Trung Quốc sản xuất. Các chuyên gia Trung Quốc khẳng định, tất cả các hệ thống và tổng thành, thiết bị avionics và thiết bị điện tử của máy bay hoàn toàn do Trung Quốc sản xuất.
    Thiết bị điện tử trên khoang của KJ-200 gồm: radar anten mạng pha chủ động JY-06, hệ thống trinh sát vô tuyến điện và trinh sát vô tuyến điện tử, máy thu hệ thống định vị vệ tinh Bắc Đầu, cũng như máy hỏi radar của hệ thống nhận dạng địchh-ta.
    Thành phần chính của hệ thống vô tuyến điện tử trên khoang là radar xung-Doppler 3 tọa độ đa năng dải cm với anten mạng pha chủ động 2 chiều cố định. Radar được bố trí bên trên phần giữa thân trong vỏ trong suốt vô tuyến hình hộp bút có chiều dài gần 9,8 m (chiều dài của bản thân anten mạng pha chủ động là 8,7 m). Tổng số các module thu phát là gần 200. Bộ hút khí bố trí ở phần trước của hộp vỏ, giúp làm mát các module thu phát của anten mạng pha chủ động bằng dòng khí ngược chiều. Hãng phát triển chính anten là Viện nghiên cứu 38 của tổng công ty KHKT công nghiệp điện tử Trung Quốc СЕТС (China Electronics Technology Corporation), thành phố Hợp Phì, tỉnh An Huy.
    Về kết cấu, anten gồm 2 panel anten hình chữ nhật giống nhau, mỗi panel bảo đảm quan sát một khoảng không gian trong sector từ 120-150° theo góc phương vị. Về hình dáng bên ngoài và các tính năng kỹ-chiến thuật chính, radar này tương đương radar PS-890 Erieye của Thụy Điển trên các máy bay AEW&C Saab 100D Argus (Không quân Thụy Điển) và Saab-2000.
    Dự đoán radar của Trung Quốc, khác với radar PS-Erieye của công ty Ericsson (Thụy Điển) có thể bảo đảm phát hiện và bám mục tiêu bay ở chế độ tự động ở cự ly gần cho đến 400 km.
    Năm 2016, Trung Quốc đã chế tạo biến thể hiện đại hóa trên cơ sở máy bay vận tải Y-9 và đặt tên là KJ-200A. Những khác biệt chính bên ngoài là chụp rẽ dòng ở mũi máy bay thay đổi về hình dáng (radar mới) và không có radar khí tượng ở bên dưới phần mũi máy bay. Radar mới được bố trí dưới chụp rẽ dòng ở mũi máy bay cỡ lớn hơn, dự đoán là để loại bỏ “vùng chết” trong phát hiện của anten mạng pha chủ động chính ở bán cầu trước.
    [​IMG]
    Ngoài ra, nhờ kéo dài (hơn 3 m) thân máy bay và trọng tải lớn hơn (đến 25 tấn), trên biến thể KJ-200A, số vị trí công tác tự động hóa dành cho các trắc thủ đã được tăng lên đến 8, lắp thêm trạm liên lạc vệ tinh, các hệ thống trinh sát vô tuyến điện và vô tuyến điện tử cải tiến, cũng như hệ thống phòng vệ máy bay sử dụng giao diện chuẩn ARINC 429.
    Song song với việc nghiên cứu chế tạo biến thể hiện đại hóa KJ-200A, từ cuối năm 2016, Trung Quốc tiến hành cải tiến nâng cấp máy bay lên biến thể KJ-200B tại cơ sở của Trung tâm bay thử nghiệm quốc gia (CFTE - China Flight Test Establishment) ở Tây An-Diêm Lương, tỉnh Thiểm Tây.
    Tổng cộng, không quân và hải quân Trung Quốc đã tiếp nhận đến 13 chiếc KJ-200, trong đó có 5 chiếc cho không quân và 6 chiếc cho hải quân, cũng như 1 chiếc KJ-200A và 1 chiếc KJ-200B.
    Dưới tên gọi ZDK-06, Trung Quốc đang chào bán biến thể xuất khẩu của KJ-200, trang bị radar anten mạng pha chủ động JY-06.
    Nhìn chung, máy bay AEW&C KJ-200 là tương đối hiện đại và có đủ tính năng bay-kỹ thuật để thực hiện các nhiệm vụ báo động sớm và chỉ huy máy bay. Sử dụng máy bay này cho phép nâng cao hiệu quả trinh sát mục tiêu trên không và mặt đất/mặt nước, cũng như khả năng của các phương tiện phòng không bảo vệ các mục tiêu quân sự và hành chính quan trọng.
    Ngoài ra, Trung Quốc là quốc gia thứ tư sản xuất anten mạng pha chủ động cố định lắp trên máy bay sau Thụy Điển, Mỹ (radar MESA của công ty Northrop-Grumman trên máy bay Boeing-737-700 của Không quân Australia và Thổ Nhĩ Kỳ) và Ấn Độ (trạm radar LSTAR trên máy bay turbine phản lực EMB-145SM Embraer của Brazil). Dự kiến, kết quả nghiên cứu thu được khi phát triển hệ thống báo động sớm trang bị radar với anten mạng pha chủ động nội địa sẽ giúp Trung Quốc giành một trong những vị trí dẫn đầu thế giới trong lĩnh vực chế tạo các hệ thống radar phát hiện tầm xa lắp trên máy bay.
    Đồng thời, Trung Quốc vẫn tiếp tục sao chép những cách tiếp cận chính của các cường quốc hàng đầu thế giới khi thiết kế các hệ thống vũ khí nội địa. Xét đến những khác biệt về kích thước máy bay (Saab của Thụy Điển, Embraer của Brazil và Boeing của Mỹ), giá thành anten mạng pha chủ động và chi phí khai thác và bảo dưỡng, máy bay KJ-200 và biến thể xuất khẩu của nó là ZDK-06 có hàng loạt ưu điểm và khả năng tiếp tục hiện đại hóa, nên có thể đánh giá máy bay này có tiềm năng xuất khẩu cao.
    Máy bay AEW&C KJ-2000 được chế tạo dựa trên cơ sở máy bay vận tải quân sự Il-76TD. So với biến thể cơ sở, máy bay đầu tiên do Nga chuyển giao cho Trung Quốc vào tháng 10/1999 khác ở chỗ có bộ càng được gia cường để cất/hạ cánh từ đường băng đất nện, có thêm 2 đuôi đứng lắp dưới thân ở phần đuôi để bảo đảm ổn định và có cần tiếp dầu trên không (chỉ ở chiếc đầu tiên).
    Trung Quốc đã sản xuất tổng cộng 4 chiếc KJ-2000, 2 chiếc đầu tiên trong số đó được đưa vào trang bị của không quân trung Quốc vào năm 2005, còn 2 chiếc tiếp theo - vào năm 2008. Đơn giá 1 máy bay KJ-2000 là 250-270 triệu USD.
    [​IMG]
    Việc lắp trang thiết bị và hiện đại hóa các máy bay KJ-2000 được tiến hành từ năm 2002 tại cơ sở của tổng công ty sản xuất máy bay Tây An. Chuyến bay đầu tiên được thực hiện vào năm 2003 từ sân bay của Trung tâm bay thử quốc gia (CFTE - China Flight Test Establishment) ở Tây An-Diêm Lương, tỉnh Thiểm Tây.
    Công tác sửa chữa và bảo dưỡng kỹ thuật định kỳ KJ-2000 được tiến hành tại Nhà máy sửa chữa máy bay ở thị xã Đương Dương, tỉnh Hồ Bắc.
    Thành phần chính của hệ thống vô tuyến điện tử trên khoang là radar xung-Doppler 3 tọa độ đa năng dải cm với anten mạng pha chủ động cố định lắp trong vỏ rẽ dòng trong suốt vô tuyến, hình đĩa đường kính 14 m, làm mát bằng chất lỏng. Hãng phát triển chính anten mạng pha chủ động là Viện nghiên cứu 14 của tổng công ty NRIET (Nanjing Research Institute of Electronic Technology - Viện Nghiên cứu công nghệ điện tử Nam Kinh).
    Ngay từ đầu, hệ thống radar A-50I được chế tạo trên cơ sở radar đa năng EL/M-2075 PHALCON (Phased Array, L-band, CONformal) cùng với các chuyên gia Israel. Công việc đã được tiến hành từ năm 1996, nhưng dưới áp lực của Washington, hợp đồng với Tel Aviv đã bị hủy bỏ vào năm 2000, anten radar và trang thiết bị đã bị tháo gỡ, còn máy bay được phía Israel trả cho Trung Quốc vào năm 2002.
    Cuối năm 2002, đã bắt đầu lắp đặt lên máy bay radar do Viện 14 của NRIET phát triển (Viện 14 là cơ quan có kinh nghiệm chế tạo radar trên khoang cho các tiêm kích nội địa của Trung Quốc). Trong khi đó, các chuyên gia Trung Quốc cũng đã kịp tìm hiểu hồ sơ, tài liệu thiết kế của radar Israel của công ty Elta vì nhiều bộ phận của kết cấu, thiết bị điện tử trên khoang và các giải pháp kỹ thuật đã được bắt chước của radar EL/M-2075.
    Về cấu trúc, anten mạng pha chủ động gồm 3 bộ phận anten hình tam giác giống nhau, mỗi bộ phận quét một sector 120° về phương vị. Việc sử dụng chung 3 bộ phận anten bảo đảm radar quan sát vòng tròn. Ở chế độ quan sát, tần số bức xạ và chu kỳ lặp của các xung dò radar có thể do trắc thủ lựa chọn một cách độc lập cho mỗi một trong 3 panel anten mạng pha.
    Ngoài ra, anten mạng pha chủ động có 2 chế độ quan sát chính: quan sát vòng tròn bằng cả 3 bộ phận anten trong sector 360°, quan sát theo sector khi việc quét không gian bằng các tia giản đồ hướng anten được thực hiện ở sector 0-240°. Điều đó bảo đảm phát hiện tin cậy các mục tiêu bay ở tất cả các mực độ cao ở dải tầm phát hiện tối đa 200-470 km đối với mục tiêu bay có bề mặt tán xạ hiệu dụng tương ứng là 1 và 5 m2.
    Theo đánh giá của các chuyên gia phương Tây, kích thước vỏ rẽ dòng (14 m) của radar trên máy bay KJ-2000 đến nay là lớn nhất về đường kính trong số các loại vỏ rẽ dòng radar tương tự. Đường kính của anten quay radar AN/APY-2 trên máy bay AEW&C Е-3С Sentry của Mỹ là gần 8 m, trên máy bay А-50 của Nga là 9 m, còn của radar Phalcon do Ấn Độ hợp tác với Israel chế tạo là 11m.
    Giống như các máy bay báo động sớm khác của Trung Quốc, KJ-2000 được trang bị máy hỏi radar địch-ta, anten vệ tinh dải siêu cao tần (ở bên dưới chụp rẽ dòng, bên trên phần thân trước) và hệ thống phòng vệ của máy bay. Nhưng khác với KJ-200 và Y-8J, trên KJ-2000 dự đoán không có hệ thống trinh sát vô tuyến điện và vô tuyến điện tử.
    9 vị trí công tác tự động hóa của trắc thủ được trang bị các máy tính hiệu suất cao với màn hình tinh thể lỏng và được kết nối thành một mạng cục bộ thống nhất.
    Các máy bay KJ-2000 từ năm 2006 thường xuyên được huy động tham gia các cuộc tập trận của quân đội Trung Quốc, trong đó tiến hành thao dượt các phương án chiến thuật sử dụng các máy bay này, trong đó có việc tuần tra chung với các máy bay KJ-200. Ngoài ra, năm 2013 đã tiến hành cuộc luyện tập với kế hoạch trù định việc tuần tra liên tục trong vòng một ngày đêm bằng 3 máy bay KJ-2000 không phận bên trên các khu vực Tây Bắc Trung Quốc, cũng như các vùng biển ở biển Hoa Đông và Biển Đông.
    Năm 2006, Trung Quốc đã bắt đầu nghiên cứu chế tạo máy bay AEW&C nội địa ZDK-03 Karakorum Eagle dành cho Không quân Pakistan mà Trung Quốc có mức độ hợp tác kỹ thuật quân sự cao. Đồng thời, đối với Trung Quốc, đây là thiết kế máy bay báo động sớm xuất khẩu đầu tiên.
    [​IMG]
    Cái tên ZDK lặp lại tên gọi của công ty sản xuất là tổng công ty công nghệ điện tử СЕТС (trong tiếng Trung là Zhong Dian Ке). Mã số “03” có nghĩa là thiết kế máy bay AEW&C thứ ba do các bộ phận và viện nghiên cứu của CETC phát triển (hai thiết kế đầu là KJ-200 và KJ-2000).
    Máy bay được chế tạo trên cơ sở máy bay vận tải quân sự Y-8F-400 (mẫu máy bay cải tiến tương tự An-12 của Liên Xô) của Trung Quốc. Mẫu chế thử đầu tiên được đặt tên là Y-8P.
    ZDK-03 thực hiện chuyến bay đầu tiên vào năm 2010 trong khuôn khổ bay thử nghiệm trên lãnh thổ Trung Quốc. Chiếc đầu tiên được bàn giao cho Không quân Pakistan vào cuối năm 2010, sau đó bắt đầu bay thử với tổ lái Pakistan.
    Theo hợp đồng trị giá gần 280 triệu USD, Trung Quốc có trách nhiệm nghiên cứu chế tạo và chuyển giao cho Không quân Pakistan 4 máy bay với radar quay lắp trong vỏ rẽ dòng hình đĩa. Hai chiếc đầu tiên đã được bàn giao cho Pakistan vào cuối năm - đầu năm 2012, chiếc thứ ba - vào năm 2013 và chiếc thứ tư - vào năm 2014.
    Trong sản xuất máy bay và toàn bộ thiết bị vô tuyến điện tử, máy tính chỉ sử dụng linh kiện Trung Quốc, kể cả các bộ vi xử lý của máy tính trung tâm trên khoang và các vị trí công tác tự động hóa của trắc thủ.
    Việc lắp ráp máy bay tiến hành ở cơ sở của tổng công ty sản xuất máy bay Tây An. Máy bay sử dụng các động cơ turbine cánh quạt WJ-6C với 6 lá cánh JL-4 sản xuất trong nước, cũng như bố trí 8 vị trí công tác tự động hóa cho trắc thủ.
    Đối với Không quân Pakistan, đây là máy bay AEW&C thứ hai. Gần như song song, Không quân Pakistan còn mua loạt 4 máy bay Saab-2000. Không quân Pakistan dự kiến sử dụng ZDK-03 của Trung Quốc để chỉ huy hoạt động của các tiêm kích JF-17 Thunder (do Trung Quốc hợp tác với Pakistan chế tạo, tên Trung Quốc là FC-1 Kiêu long) và sử dụng Saab-2000 của Thụy Điển trang bị radar PS-890 Erieye để chỉ huy các tiêm kích F-16 của Mỹ và Mirage của Pháp trong biên chế của mình. Tầm phát hiện tối đa của radar Trung Quốc lớn hơn không đánh kể (20 km) so với radar Erieye của Thụy Điển.
    Hãng phát triển chính radar anten mạng pha là Viện 38 của tổng công ty СЕТС. Theo chứng nhận kỹ thuật và yêu cầu kỹ thuật của khách hàng, anten quay của radar trên khoang có tên dự đoán là KLC-7 có tầm phát hiện mục tiêu bay tối đa 470 km. Anten cho phép quan sát theo góc tà nhờ tia quét điện tử giản đồ hướng và nhìn vòng nhờ anten lắp trong vỏ rẽ dòng trong suốt quay cơ khí.
    Đầu năm 2015, Trung Quốc đã nhận vào trang bị loại máy bay AEW&C nội địa thứ ba, tiếp theo là KJ-500. Giống như KJ-200, máy bay KJ-500 được trang bị cho cả không quân và hải quân Trung Quốc.
    KJ-500 được chế tạo trên cơ sở máy bay vận tải quân sự Trung Quốc Y-9 (tương tự An-12 của Liên Xô), dùng để sục sạo, phát hiện, nhận dạng và bám các mục tiêu trên không và mặt nước (mặt đất) ở tầm đến 500 km.
    Việc lắp ráp các hệ thống anten và thiết bị điện tử của KJ-500, cũng giống như đa số các máy bay báo động sớm của Trung Quốc, đã được tiến hành vào năm 2010-2011 tại cơ sở của tổng công ty chế tạo máy bay Tây An. Máy bay thực hiện chuyến bay đầu tiên vào năm 2013, được giới thiệu tại triển lãm hàng không-vũ trụ Airshow China-2014 ở Chu Hải, tỉnh Quảng Đông vào năm 2014.
    Các sơ đồ cấu trúc của hệ thống vô tuyến điện tử trên khoang cảu máy bay được thiết kế có sử dụng kết quả nghiên cứu tích lũy được khi nghiên cứu chế tạo và khai thác các hệ thống AEW&C trước đó là KJ-200, KJ-2000 và ZDK-03. Ngoài ra, một phần các giải pháp kỹ thuật còn được sao chép từ radar EL/M-2075 Phalcon của Israel.
    Thành phần then chốt của hệ thống vô tuyến điện tử trên khoang là radar xung-Doppler 3 tọa độ, đa năng dải cm với anten mạng pha chủ động cố định do Viện 38 thuộc tổng công ty СЕТС phát triển.
    Hệ thống anten của radar được bố trí bên trên thân máy bay, trong vỏ rẽ dòng trong suốt vô tuyến, hình đĩa đường kính 6-7 m. Về kết cấu, anten gồm 3 panel anten hình tam giác giống nhau, mỗi panel bảo đảm quan sát về phương vị một sector rộng 120°.
    Radar có các chế độ quan sát không gian nhìn vòng (360°) và quan sát sector (120-240°) khi sử dụng tương ứng 3, 2 hay 1 panel anten. Radar cho phép phát hiện tên lửa hành trình ở độ cao nhỏ và dẫn đường cho tới 10 máy bay chiến thuật đến các mục tiêu bay.
    Hệ thống phòng vệ của máy bay cho phép cảnh báo phi hành đoàn khi đối phương phóng tên lửa có điều khiển, bám theo các tên lửa này, đánh giá mức độ nguy hiểm và tự động gây nhiễu tích cực. Các anten của hệ thống phòng vệ máy bay dự đoán được bố trí trong phần mũi máy bay và ở trên cánh ổn định đuôi đứng.
    Khác biệt chủ yếu của KJ-500 so với biến thể xuất khẩu ZDK-03 vốn cũng được chế tạo trên cơ sở máy bay vận tải quân sự Y-9 là sơ đồ kết cấu của vỏ rẽ dòng của anten mạng pha chủ động cố định, cũng như sự hiện diện của anten (dự đoán là anten liên lạc vệ tinh siêu cao tần) ở bên trên phần giữa vỏ rẽ dòng của anten mạng pha chủ động. Ngoài ra, để bảo đảm độ ổn định bay, máy bay được lắp thêm 2 cánh đứng đuôi ở dưới thân máy bay.
    Ngoài radar, hệ thống vô tuyến điện tử trên khoang của KJ-500 còn có: trạm trinh sát vô tuyến điện và vô tuyến điện tử, thiết bị của hệ thống nhận dạng địch-ta, hệ thống phòng vệ máy bay, các phương tiện liên lạc sóng ngắn, sóng cực ngắn, liên lạc vệ tinh và truyền dữ liệu, các vị trí công tác tự động hóa của trắc thủ.
    Các anten của trạm trinh sát vô tuyến điện và vô tuyến điện tử được lắp trong các đầu mút cánh, trong phần mũi và đuôi máy bay, cũng như ở hai bên sườn trái và phải. Trạm này cho phép phát hiện và chặn thu các nguồn bức xạ vô tuyến điện dải sóng cực ngắn và siêu cao tần, cũng như trinh sát vô tuyến điện các tín hiệu của các phương tiện liên lạc mặt đất, trên không và trên biển, trước hết là của các phương tiện radar phòng không đối phương.
    Nhìn chung, KJ-500 là máy bay AEW&C hiện đại với khả năng tiến hành trinh sát vô tuyến điện và vô tuyến điện tử. So với các mẫu máy bay báo động sớm trước đó của Trung Quốc, KJ-500 có các điểm vượt trội chính sau: có anten mạng pha chủ động đa năng cố định, có các phương tiện liên lạc vệ tinh (khác với KJ-2000) và trạm trinh sát vô tuyến điện và vô tuyến điện tử. Ngoài ra, hệ thống vô tuyến điện tử trên khoang sử dụng các linh kiện điện tử sản xuất hoàn toàn ở Trung Quốc. KJ-500 có kích thước nhỏ hơn loại tiền nhiệm KJ-2000 và dự đoán vượt trội KJ-2000 về độ chính xác phát hiện và số lượng mục tiêu có thể bám đồng thời.
    Tính đến năm 2018, trong biên chế quân đội Trung Quốc dự đoán có 3 chiếc KJ-500 (1 trong không quân và 2 trong hải quân). Sắp tới, quân đội Trung Quốc dự định mua sắm thêm không dưới 3-4 chiếc KJ-500. Đơn giá một chiếc KJ-500 là từ 90-110 triệu USD.
    Việc đưa vào trang bị các máy bay AEW&C mới KJ-500 đã nâng cao đáng kể khả năng chiến đấu của quân đội Trung Quốc khi thực hiện nhiệm vụ phòng không và phòng thủ tên lửa các mục tiêu quân sự và hành chính quan trọng. Việc sử dụng chung KJ-500 với các máy bay báo động sớm KJ-200, KJ-2000 và Y-8J sẽ cho phép nâng cao đáng kể hiệu quả kiểm soát đối với các vùng biển ven bờ của các biển tiếp giáp, đối với các vùng núi và các vùng tranh chấp lãnh thổ, kể cả quần đảo Senkaku (Điếu Ngư) tranh chấp với Nhật Bản ở biển Hoa Đông, quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa của Việt Nam ở Biển Đông.
    Như vậy, tính đến năm 2018, trong trang bị của quân đội Trung Quốc có 4 loại máy bay AEW&C (Y-8J, KJ-200, KJ-500 và KJ-2000) với số lượng tổng cộng 21-24 chiếc. Tất cả các hệ thống này, ngoại trừ KJ-2000, đều đang sử dụng máy bay sản xuất trong nước làm phương tiện mang (Y-7, Y-8 và Y-9). Số lượng máy bay AEW&C kể trên sẽ cho phép khi cần mở rộng nhanh chóng khả năng của hệ thống phòng không Trung Quốc ở gần như bất kỳ khu vực nào của nước này, đồng thời tạo ra một vùng phát hiện tổng hợp mục tiêu bay với sự chồng lấn nhiều lần trên tất cả các mực độ cao trên các khu vực có các mục tiêu hành chính và quân sự quan trọng.
    Đồng thời, để tạo dựng bức tranh chung về tình hình trên không hiện thời, cần có một nền tảng thông tin-tình báo chung cho tất cả các máy bay báo động sớm do Trung Quốc phát triển. Nền tảng này phải bảo đảm việc thu nhận từ các nguồn khác nhau (trên không, trên tàu và mặt đất), bao gồm các đài radar phòng không, dữ liệu về các mục tiêu bay phát hiện được, xử lý các dữ liệu đó và tạo dựng trường thông tin đồ họa tổng hợp hiển thị tình huống. Ngoài ra, hệ thống (nền tảng) thông tin-tình báo thống nhất phải được kết nối với tất cả các nguồn cung cấp dữ liệu kể trên và bảo đảm cung cấp dữ liệu chỉ thị mục tiêu qua các kênh truyền dữ liệu bảo mật (tương tự như kênh Link-16) ở chế độ gần với thời gian thực.
    Tất cả các loại máy bay AEW&C, ngoại trừ KJ-2000, là các máy bay đa năng và được trang bị các hệ thống trinh sát vô tuyến điện và vô tuyến điện tử, cho phép kiểm soát tình hình vô tuyến điện tử và phát hiện các nguồn bức xạ vô tuyến điện. Trong tương lai, dự kiến khả năng của các máy bay AEW&C tiếp tục được mở rộng nhờ lắp cho chúng các khí tài trinh sát quang-điện tử.
    Gần như tất cả các máy bay đều được trang bị các hệ thống thông tin và truyền tin chuẩn hóa, trang thiết bị tiêu chuẩn, cũng như các tổ hợp và bộ phận do Trung Quốc phát triển, bao gồm thiết bị điện tử hàng không, máy tính và máy chủ, các hệ điều hành và hệ thống vô tuyến điện tử trên khoang. Điều đó cho phép loại trừ sự phụ thuộc vào các nhà cung cấp nước ngoài, giảm chi phí sửa chữa, bảo dưỡng kỹ thuật và nâng cao an toàn thông tin nói chung. Đồng thời, các chuyên gia Trung Quốc đang tiếp tục áp dụng rộng rãi việc sao chép các mẫu tương ứng của nước ngoài.
    Các hệ thống AEW&C có thể tạm chia thành các hệ thống chiến lược (KJ-2000) và chiến dịch-chiến thuật (Y-8J, KJ-200 và KJ-500). Về các tính năng chính của hệ thống vô tuyến điện tử trên khoang, các máy bay báo động sớm của Trung Quốc không thua kém nhiều các loại tương tự của nước ngoài. Tất cả các máy bay dự đoán đều được trang bị máy thu tín hiệu hệ thống định vị vệ tinh Bắc Đẩu của Trung Quốc (độ chính xác đến 10 m), nên nâng cao đáng kể được hiệu quả của các hệ thống chỉ thị mục tiêu và chỉ huy máy bay chiến đấu. Ngoài ra, để nâng cao độ chính xác, các thiết bị thu đầu cuối bố trí trên các máy bay báo động sớm dự đoán cũng cho phép đồng thời thu và xử lý tín hiệu của hệ thống định vị vệ tinh NAVSTAR (GPS) của Mỹ, GLONASS của Nga và Galileo của châu Âu.
    Trung Quốc đã phát triển tổng cộng 4 loại anten mạng pha chủ động, một loại trong số đó có chế độ quay anten kiểu cơ khí (dành cho máy bay xuất khẩu ZDK-03), ba loại còn lại là kiểu cố định, không quay, điều đó cho thấy sự đột phá mạnh của công nghiệp quốc phòng Trung Quốc trong lĩnh vực chế tạo radar hàng không từ các hệ thống quét kiểu cơ khí đến các hệ thống trang bị anten mạng pha chủ động.
    Tóm lại, công nghiệp Trung Quốc đã có bước nhảy vọt về chất và số lượng trong lĩnh vực chế tạo máy bay AEW&C. Trong vòng 15 năm, quân đội Trung Quốc đã nhận vào trang bị đến 24 máy bay thuộc 3 loại sản xuất trong nước. Các kế hoạch tiếp theo dự tính chế tạo thêm 2 thiết kế máy bay AEW&C chính nữa là máy bay AEW&C chiến lược KJ-3000 (có tính năng gần với Е-ЗС Sentry của Mỹ) và máy bay AEW&C trên hạm KJ-600 (tương đương E-2D Advanced Hawkeye của Mỹ), cũng như một loại bổ trợ là KJ-900. Tổng số lượng các máy bay AEW&C của Trung Quốc đến năm 2035 có thể là 50-70 chiếc các loại và các biến thể, cho phép Trung Quốc giữ vị trí thứ hai sau Mỹ trên thế giới về số lượng và thứ nhất về số lượng chủng loại máy bay và nâng cao đáng kể tiềm năng xuất khẩu trên thị trường máy bay AEW&C.
    Tính năng kỹ-chiến thuật chính của các máy bay chỉ huy-báo động sớm của Trung Quốc, Mỹ và Thụy Điển

    [​IMG]
    http://vietnamdefence.com/Home/quan...uybao-dong-som-cua-Trung-Quoc/20189/55469.vnd
  4. despair

    despair Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    14/05/2005
    Bài viết:
    6.956
    Đã được thích:
    1.641
    Tôi nói các đồng chí đừng buồn, Nga nó bắt TQ giết chó nửa nước để lấy lông làm áo cho người Nga nó mới đồng ý bán Su27 cho đấy
    --- Gộp bài viết: 25/11/2018, Bài cũ từ: 25/11/2018 ---
    Trong nước TQ cũng ko có ai dùng hả bác?
    Electoker thích bài này.
  5. fongtinhfan

    fongtinhfan Thành viên tích cực Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    31/10/2018
    Bài viết:
    85
    Đã được thích:
    44
    Tàu khựa quá dã man. Dân TQ có tinh thần dân tộc khá cao. Chính phủ kêu gọi nộp chó để đổi máy bay có lẽ hiệu quả rất cao. Thịt chó thì đem bán, còn da cho đổi ngoại tệ. Thương thay cho những chú cẩu chưa già mà đã lên đĩa.
    Chiến tranh với Quốc dân Đảng thì Stalin và bù nhìn Mao đã thắng bằng chiến thuật biển người.
    Chiến tranh kỹ thuật thì thắng bằng chiến thuật " biển chó". Hi sinh quá nhiều sinh linh để hùng mạnh, đó là cách làm của các hoàng đế Trung Quốc xưa nay.
    kimdungmk2 thích bài này.
  6. Electoker

    Electoker Thành viên gắn bó với ttvnol.com Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    12/11/2016
    Bài viết:
    1.597
    Đã được thích:
    325
    Vũ khí TQ sản xuất thoải mái để tặng và bán như cho , không cần lời với ưu thế giá rẻ và không có điều kiện kèm theo .
    Lần cập nhật cuối: 26/11/2018
  7. kimdungmk2

    kimdungmk2 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    08/09/2017
    Bài viết:
    1.135
    Đã được thích:
    892
    cơ bản là ko dám dùng . VD: tên lửa PK tầm xa để đảm bảo cho Ban đầu sậu phải sắm cả vài chục tiểu đoàn S-300 + 400 của Nga , vài chục Su-35 cho chắc ăn ;)) vũ khí nội địa dùng để...tự nổ với bán cho mấy thằng châu Phi choảng nhau chơi :))
    Electoker thích bài này.
  8. rugi

    rugi Thành viên gắn bó với ttvnol.com Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    30/07/2018
    Bài viết:
    1.742
    Đã được thích:
    174
    UAE Saudi Jodarn Thái Lan Thổ toàn nước giàu hơn VN chắc là châu phi ;-)
  9. halosun

    halosun Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    31/07/2006
    Bài viết:
    18.881
    Đã được thích:
    17.404
    Trung quốc xác nhận đang đóng tsb thứ 3

    Ngày 26/11, Tân Hoa xã có một bài viết cho biết "Kiểu mới hàng không mẫu hạm đã chế tạo trên bờ trượt, kiểu mới hàng không mẫu hạm là chiếc hàng không mẫu hạm thứ 3 của nước ta (TQ)". Đây là lần đầu tiên một cơ quan ngôn luận chính thức của TQ xác nhận đang chế tạo tsb thứ 3.
    [​IMG]
    --- Gộp bài viết: 26/11/2018, Bài cũ từ: 26/11/2018 ---
    Các cấu hình vũ khí chiến đấu của cá mập J-15
    [​IMG]
    - 3 ảnh hàng trên là tải vũ khí có thể cất cánh ở 2 điểm cất cánh ngắn (105m) treo 2 đạn PL-8 + 2 đạn PL-12 và 9 tấn dầu, treo 4 đạn PL-8 + 4 đạn PL-12 với 8 tấn dầu, treo 2 đạn PL-8 + 2 đạn PL-12 + 3 đạn YJ-83K (YJ-91) với 7 tấn dầu.

    - 2 ảnh hàng dưới là tải vũ khí có thể cất cánh ở điểm cánh cánh xa (195m) treo 2 đạn PL-8 + 2 đạn PL-12 + 4 đạn YJ-83K ( hoặc YJ-91/KD-88/ bom chỉ đạo 500kg) với 9 tấn dầu.
    rugi thích bài này.
  10. despair

    despair Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    14/05/2005
    Bài viết:
    6.956
    Đã được thích:
    1.641
    "Nếu không đạt được thỏa thuận, chúng tôi sẽ áp thêm mức thuế suất 10% hoặc 25% với 267 tỷ USD hàng nhập khẩu Trung Quốc", Wall Street Journaldẫn lời Tổng thống Mỹ Donald Trump hôm qua cảnh báo, đề cập đến cuộc gặp Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình bên lề hội nghị thượng đỉnh G20 tại Argentina.
    Electoker thích bài này.

Chia sẻ trang này