1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Stuka Pilot-Hans Ulrich Rudel-Huy chương Chữ thập hiệp sĩ với Lá sồi vàng, thanh kiếm và kim cương.

Chủ đề trong 'Kỹ thuật quân sự nước ngoài' bởi ChuyenGiaNemDa, 09/11/2021.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. ChuyenGiaNemDa

    ChuyenGiaNemDa Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    05/10/2015
    Bài viết:
    11.822
    Đã được thích:
    23.126
    Rồi chúng tôi nói chuyện về tình hình chiến sự. Goring khuyên tôi nên quay về căn cứ ngay lập tức, sắp có một sự kiện lớn trong khu vực, quả bóng đang căng hơi dần và sắp nổ, các chi tiết vừa được bàn thảo kĩ càng trong cuộc họp mà ông vừa tham dự với Quốc trưởng. Dù đồng ý với ông về chuyện quay ngay trở về căn cứ nhưng tôi bắt đầu cảm thấy thắc mắc khi ông hỏi tôi có nhận thấy sự chuẩn bị đó không vì có tới 300 xe tăng sẽ tham gia vào chiến dịch. Con số đó làm tôi choáng váng, nếu đó là xe tăng từ phía Nga thì chả có gì đáng ngạc nhiên nhưng bảo là xe tăng Đức thì hoang đường quá. Tôi hỏi phiên hiệu các sư đoàn và số xe tăng được trang bị bởi vì ở cương vị mình, tôi nắm rất chắc về các lực lượng Đức trên thực địa. Mới cách đây 2 tuần, trước ngày rời mặt trận tôi đã nói chuyện với tướng Unrein, tư lệnh sư đoàn thiết giáp 14, ông đã phàn nàn một cách cay đắng rằng cả sư đoàn chỉ còn một chiếc xe tăng, mà thậm chí còn không thể chiến đấu vì đã bị chất đầy các thiết bị điều khiển không lưu lên trên, biến nó thành cỗ máy chỉ thị mục tiêu cho máy bay cường kích Stuka. Có thể ông hơi phóng đại nhưng tôi biết rõ sức mạnh thực sự của sư đoàn thiết giáp 14.

    Goring tất nhiên không tin vì thông tin ông nhận được về sư đoàn 14 khác hẳn. Ông cười nửa đùa nửa thật, nói: “Nếu không biết rõ về anh thì tôi đã cho bắt anh rồi. Nhưng trắng đen sẽ rõ ràng ngay thôi”. Ông nhấc điện thoại, gọi cho Tổng tham mưu trưởng (ND: Đại tướng Alfred Jodl):

    - “Có phải ngài thông báo với Quốc trưởng về con số 300 xe tăng chuẩn bị cho chiến dịch X không?”. Tôi có thể nghe thấy tiếng vọng ra từ điện thoại.

    - “Vâng, đúng thế!”.

    - Tôi muốn biết phiên hiệu từng sư đoàn cũng như trang bị của họ. Người của tôi có thể xác minh thêm về thông tin.

    - “Người đó là ai?”. Tổng tham mưu trưởng hỏi

    - “Đó là người mà tôi biết rất rõ”. Ngay sau đó vị Tổng tham mưu trưởng đen đủi bắt đầu kể tên sư đoàn thiết giáp 14, thông báo rằng nó có trong biên chế 60 xe tăng. Goring bắt đầu thiếu kiềm chế.

    - “Người của tôi báo rằng nó chỉ còn 1 xe tăng thôi”. Đầu dây bên kia im lặng kéo dài rất lâu rồi nói tiếp:

    - Anh ta rời mặt trận từ bao giờ?

    - “Chỉ mới 4 ngày trước”. Đầu dây bên kia tiếp tục im lặng, sau cùng mới trả lời

    - 40 xe tăng đang trên đường ra mặt trận, số còn lại đang trong các trạm sửa chữa dọc theo đường tiếp vận nhưng sẽ có mặt tại đơn vị vào ngày Zero. Thế nên con số đó chính xác.

    Ông ta trả lời tương tự thế về tình trạng trang bị của các sư đoàn khác. Thống chế Goring đập điện thoại xuống giá treo một cách giận dữ: “Làm sao có thể như thế. Quốc trưởng rõ ràng được cung cấp một bức tranh tổng thể sai lầm dựa trên những dữ liệu không có thật, rồi sau đó ông ta sẽ phải loay hoay tìm hiểu lí do chiến dịch không dẫn đến thành công. Hôm nay nhờ anh mà chúng ta biết được bao nhiêu hi vọng đã được xây dựng rồi biến thành ảo vọng như thế nào. Khu vực phía đông nam và toàn bộ mạng lưới giao thông đang nằm dưới sự khống chế của các phi đội máy bay ném bom của kẻ thù, ai biết được bao nhiêu hoặc khi nào thì 40 xe tăng đấy, giả sử như chúng có thật, đến được tới mặt trận? Ai có thể biết được các trạm sửa chữa có nhận đủ phụ tùng thay thế kịp thời hoặc liệu họ có thể sửa chữa xong theo đúng lịch trình quy định hay không? Tôi sẽ báo cáo vụ việc này với Quốc trưởng”. Ông ta tuôn ra một tràng rồi im bặt.

    Đầu óc tôi cứ vướng vất với câu chuyện trên trên đường bay trở lại mặt trận. Mục đích của những báo cáo sai lạc, gây hiểu lầm kia là gì? Đấy là do lười hay cố tình? Dù là gì thì rõ ràng kẻ thù được hưởng lợi từ nó. Ai hoặc tổ chức nào thực hiện tội ác ghê tởm này?

    Tôi thay đổi hành trình ở tại Belgrade, khi hạ cánh xuống Semlin thì những phi đội máy bay ném bom 4 động cơ Hoa Kì xuất hiện phía đầu kia đường băng. Còi báo động rú lên còn các nhân viên mặt đất bỏ chạy toán loạn trong khi máy bay tôi lăn bánh về hướng những hăng ga (hangar) được khoét sâu vào trong dãy sườn đồi nằm ở phía tây sân bay.

    Đội hình máy bay ném bom ập tới, ngay trước mặt tôi. Tôi nhảy ngay ra khỏi máy bay, lao theo đoàn người như một cơn lốc trên đôi ủng lông mềm, vừa lăn được vào trong hầm thì quả bom đầu tiên phát nổ trên sân bay, tạo thành một cột khói khổng lồ. Sau đó là những tiếng nổ liên tiếp vang lên, có vẻ như đã nghiền nát mọi thứ ngoài đó. Phải một lúc lâu sau, những cột khói phía ngoài tan bớt tôi mới có thể quay lại đường băng, chiếc Stuka yêu quý và trung thành vẫn an toàn bên cạnh những đống đổ nát, tuy bị thủng nhiều lỗ nhưng động cơ, phần gầm dưới máy bay và hệ thống điều khiển vẫn còn nguyên vẹn. Tôi tìm kiếm một dải đất an toàn trên đường băng rồi cất cánh, vui mừng khi được ở an toàn trên không trung, hướng máy bay về khu vực tây nam của mặt trận để quay trở về với Không đoàn của tôi.

    Trong thời gian tôi vắng mặt, một phi đội Stuka do các phi công Rumania điều khiển tới gia nhập đơn vị. Họ đa phần là các sĩ quan, hầu hết đã có kinh nghiệm chiến đấu nhưng chả mấy chốc chúng tôi nhận thấy rằng họ chỉ nên xuất kích trong một đội hình tập trung cùng chúng tôi, nếu không tỉ lệ thương vong của họ sẽ tăng vọt. Các tiêm kích Nga rất hăng hái trong việc săn đuổi phi công Rumani còn người Rumani nhanh chóng học được bài học, trả bằng máu, về tầm quan trọng của việc giữ vững đội hình trong không chiến.

    Không đoàn bắt đầu chuyển sang huấn luyện sử dụng máy bay Focke-Wolf 190s. Phi đoàn 1 rút khỏi mặt trận trong 8 tuần về sân bay hậu cứ ở Sachsisch Regen, nơi các phi công học bay chuyển loại. Trong tương lai các đơn vị khác cũng phải làm thế vì các nhà máy không còn sản xuất Ju 87 Stuka nữa, nó sẽ được rút ra khỏi biên chế (ND: Nửa cuối cuộc chiến Ju 87 đã quá lạc hậu so với tình hình thực tế chiến trường, thời gian tồn tại trung bình của một chiếc Stuka giảm xuống còn 4 ngày). Vì vậy khi còn ở Husti, vào những lúc rảnh rỗi, tôi bay thực hành trên một chiếc Focke-Wolf 190s để đạt đủ điều kiện được tiếp tục chiến đấu. Ngay sau khi quá trình này hoàn thành, tôi lập tức xuất kích 1 hoặc 2 chuyến ra mặt trận với loại máy bay mới và cảm thấy khá hài lòng với nó.

    Chiến dịch bắt đầu vào tháng 7, chúng tôi liên tục xuất kích, thực hiện các cuộc oanh kích mang tính cục bộ vào các khu vực bắc Jassy. Tất nhiên không phải với số lượng xe tăng phóng đại như đã hứa hẹn dù ngày Zero (ND: Ngày bắt đầu chiến dịch) đã được lùi lại, nhưng các đội quân mới đến có chất lượng tốt hơn hẳn. Mục tiêu chiến lược cần chiếm là cao nguyên giữa Pruth và Targul Frumos, vị trí hiệu quả cho lục quân phòng thủ đồng thời tước đi bàn đạp thuận lợi cho việc phát triển của kẻ thù. Nhưng dù đã thành công trong việc đẩy lùi người Nga ra xa một khoảng cách đáng kể thì việc thiếu hụt lực lượng khiến kết quả cuối cùng không trọn vẹn, các lực lượng xung kích Đức liên tục bị rút ra, ném vào các điểm nóng và bị tiêu hao, còn người Nga thì ngoan cố chống trả và trụ vững ở các cao điểm chiến lược trong khu vực.

    Chuyến xuất kích chiến đấu thứ 2100 của tôi được thực hiện trong chiến dịch này, mục tiêu quen thuộc là cây cầu ở Sculeni, có tầm quan trọng sống còn đối với hệ thống tiếp vận của Liên Xô. Họ tung ra một màn khói dày đặc bao phủ bầu trời mỗi khi thấy không quân Đức tiếp cận từ phía bắc Jassy, khiến chúng tôi thường xuyên lo sợ cho việc ném bom trúng quân nhà, ở ngay gần đó. Tôi luôn bật cười mỗi khi nghĩ đến những khuôn mặt người Nga nhìn chằm chằm phía sau làn khói, tìm kiếm máy bay Đức. Nhưng những ngày cuối cùng của chúng tôi ở Husti cũng đã điểm.

    Vào trung tuần tháng 7, sau bữa tiệc sinh nhật linh đình của tôi được tổ chức trong vườn nho cạnh nơi ở, lệnh di chuyển được truyền xuống, chúng tôi đến Zamosc ở khu vực trung tâm của mặt trận phía Đông, nơi người Nga đang tiến hành một chiến dịch có quy mô lớn.

    Chúng tôi bay qua Bắc Caparthians, qua Stryj – Lemberg, đóng quân trong một doanh trại cũ của Balan ở rìa phía bắc Zamosc, một thị trấn nhỏ xinh đẹp. Sân bay nằm trơ trọi giữa những cánh đồng rộng lớn, đường băng hẹp, là nguyên nhân của nhiều tai nạn không đáng có. Người hạ cánh đầu tiên chào sân bay bằng một cú va chạm, Chuẩn úy W, một trong những thợ săn tăng tốt nhất của phi đoàn bị thương và nhập viện, phải nhiều ngày sau anh mới quay trở lại với chúng tôi. Ở đây mặt trận không cố định và thường xuyên biến động, xe tăng đối phương đột kích qua chiến tuyến hàng ngày nên là môi trường lí tưởng cho các phi đội săn tăng. Các mũi đột kích của Liên Xô vượt qua Kowel hướng tới Bug, không lâu trước khi tiến tới khu vực đông bắc của Lemberg, tại Rawaruska và Towaszow, và phía bắc của Cholm.

    Chúng tôi lại tiếp tục chuyển sân bay, lần này tới Mielec, một thành phố nhỏ của Balan cách Krakau 60 dặm về phía đông bắc. Người Nga đang cố gắng tiếp cận sông Vistula trên một phạm vi rộng lớn, còn chúng tôi thì cố gắng ngăn chặn những dòng người và phương tiện băng qua San hướng tới phía bắc của Premysl. Không thể coi thường tiêm kích đối phương, đặc biệt là sự xuất hiện ngày càng nhiều của những phi đội tiêm kích Mĩ làm nhiệm vụ hộ tống các máy bay ném bom 4 động cơ đi oanh tạc trên đất Đức. Chúng đến từ phía Tây Địa Trung Hải, băng ngang qua vùng lãnh thổ của Đế chế rồi hạ cánh xuống các căn cứ Nga để nghỉ ngơi và tiếp nhiên liệu, một ngày sau chúng thực hiện chuyến bay khứ hồi, tấn công xuống các mục tiêu Đức một lần nữa rồi trở về căn cứ xuất phát ở phía Nam. Tôi đã chạm trán chúng một lần trên không phận San, cách mục tiêu Jaroslaw 23 dặm, hơn 300 chiếc Mustang tấn công vào đội hình 15 chiếc máy bay ném bom của chúng tôi. Không có tiêm kích Đức hỗ trợ, tôi buộc phải ra lệnh vứt bom rồi hạ thấp độ cao, rút lui trước một cuộc đụng độ quá chênh lệch. Đây là lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng tôi làm thế, bởi không còn cách nào khác để bảo vệ các phi công, một số trong đó là lính mới, khỏi sự áp đảo mang tính hủy diệt như vậy.

    Vì thế, tôi đưa đồng đội về căn cứ an toàn, hi vọng rằng ngày mai, với các điều kiện thuận lợi hơn, chúng tôi có thể hoàn thành nhiệm vụ. Nhưng đơn vị hàng xóm bên cạnh thì không có may mắn như thế, họ bị đội hình Mustang khổng lồ kia gây cho những thiệt hại nặng nề. Ít ngày sau, ngay vào giữa trưa, trong khi chúng tôi đang tiếp nhiên liệu, tụi Mustang lại đến viếng thăm, phòng không sân bay cũng ngạc nhiên y như các phi công nên phản ứng quá chậm so với tốc độ tấn công của người Mĩ. Bọn họ bỏ đi mà không gây nhiều hậu quả đáng kể, tiếp tục trên con đường càn quét để tìm kiếm những con mồi dễ dàng hơn.

    Một thông báo gửi tới từ Bộ tư lệnh không quân, lần đầu tiên trong chiến tranh người Nga đặt chân lên nước Đức, từ khu vực Willkowiscen của Đông Phổ tiến theo hướng Gumbinnen-Insterburg. Tôi yêu cầu được chuyển đến Đông Phổ và ngày hôm sau được chấp nhận, ngày tiếp theo tôi đã có mặt ở Insterburg cùng với các thành viên phi đội. Bầu trời Đông Phổ thật yên bình, thật khó có thể tin rằng chiến tranh đang đến gần, với những chiếc máy bay ném bom và máy bay săn tăng phải bay lượn trực chiến hàng ngày. Trong thị trấn, người dân vẫn chưa thích nghi được với tình trạng thời chiến, còn ở sân bay các thiết bị gây cản trở cho hoạt động tác chiến quy mô lớn vẫn chưa bị gỡ bỏ. Vì vậy, tốt hơn là chúng tôi nên chuyển đến một sân bay nhỏ ở Lotzen, gần một chuỗi các hồ ở Mazurian.

    P-51 Mustang trên bầu trời

    [​IMG]

    Quân đoàn 51 của Không quân Hoa Kì

    [​IMG]
    --- Gộp bài viết: 20/12/2021, Bài cũ từ: 20/12/2021 ---
    Máy bay tiêm/cường kích một động cơ Focke - Wolf 190 thay thế cho Ju 87 Stuka

    [​IMG]
    Lần cập nhật cuối: 20/12/2021
  2. kuyomukotoho

    kuyomukotoho Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    21/05/2014
    Bài viết:
    5.706
    Đã được thích:
    8.590
    không thể nhịn được cười khi đọc đoạn 1 sư đoàn tăng có 1 xe tăng. Nhưng từ đó ngộ ra rằng khi anh quản lý quá chặt chẽ việc thực hiện 1 mục tiêu chủ quan đặt ra, anh sẽ đẩy nhân viên vào thế báo cáo láo để duy trì việc làm
  3. ChuyenGiaNemDa

    ChuyenGiaNemDa Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    05/10/2015
    Bài viết:
    11.822
    Đã được thích:
    23.126
    Cuối thế chiến có mấy ai dám cãi lại Hitler đâu, ông ấy ra lệnh thế nào thì cứ thế mà làm, ko làm được cũng phải cố mà làm. Đọc các hồi kí còn kể chuyện Hitler tí đánh nhau tay đôi với Manstein trước khi sa thải ông ta nữa cơ.

    Phim Downfall kể ra có hơi bôi bác Hitler thật, nhưng miêu tả rất sống động những cơn nổi khùng bất chợt của ngài Quốc trưởng. Đoạn phim này trở nên kinh điển, được đem ra chế rất nhiều :D

    maseo thích bài này.
  4. ChuyenGiaNemDa

    ChuyenGiaNemDa Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    05/10/2015
    Bài viết:
    11.822
    Đã được thích:
    23.126
    Giờ là giữa mùa hè trên Đông Phổ thân thương, liệu nó có trở thành bãi chiến trường hay không? Chính ở đây chúng tôi nhận ra mình đang chiến đấu cho tự do, cho quê nhà của chính chúng tôi. Bao nhiêu dòng máu German đã đổ xuống vùng đất này trong vô vọng, nó sẽ không bao giờ xảy ra một lần nữa (ND: Ý nói thất bại của Đức ở Đông Phổ trong Thế chiến I). Đây là những suy tư dày vò trong lòng khi chúng tôi bay đến phía bắc Memel, Schaulen, Suwalki hoặc Augustowo rồi quay về sân bay. Giờ thì lãnh thổ của chúng tôi bị đẩy lùi về thời điểm năm 1941. Liệu đài tưởng niệm Tannenberg có còn mang ý nghĩa lớn lao hơn nữa không? Biểu tượng của tinh thần hiệp sĩ Đức được vẽ trên máy bay khiến chúng tôi cảm thấy day dứt hơn bao giờ hết.

    Giao tranh dữ dội diễn ra trong khu vực Wilkowiscen, thành phố đổi chủ hết lần này đến lần khác. Chúng tôi duy trì sự hiện diện trên không trung suốt cả ngày, yểm trợ cho một đơn vị thiết giáp nhỏ đang cố thủ chống lại những đợt tấn công liên tiếp của người Nga. Trên những cánh đồng ngô đã được thu hoạch, những chiếc T-34 ẩn hiện sau những cột thân và lá ngô lớn (ND: giống như cây rơm của người Việt), nhưng chúng tôi sử dụng đạn lửa càn quét trên cánh đồng, thiêu rụi tất cả. Đấy là một mùa hè nóng bỏng, mọi người thường tranh thủ giữa 2 cuộc xuất kích để ngâm mình dưới các dòng sông, ao, hồ vốn đầy rẫy ở vùng này. Rồi các hoạt động tích cực trên không trung và mặt đất của chúng tôi đã mang lại kết quả, mặt trận dần ổn định trở lại, người Nga bị đẩy lùi. Nhưng họ rút lui chỗ này chỉ để thực hiện một đòn đột kích mới ở nơi khác, tại Litva chiến sự bùng phát, quân địch cố gắng thực hiện đòn thọc sườn, bao vây quân Đức ở Latvia, Estonia. Vì thế không quân chúng lại có thêm việc để làm.

    Chả mấy chốc chúng tôi lại có dịp để ăn mừng ngày tái sinh của FO Fickel. Trên khu vực mặt trận này người Nga nắm khá rõ các lực lượng trên bộ, trên không của người Đức. Ngay từ khi chúng tôi còn đang trên đường bay đến mục tiêu, họ sử dụng một thủ thuật cũ rích là chui vào tần số sóng liên lạc của chúng tôi rồi liên tục truyền đi một thông điệp. Dù không hiểu tiếng Nga nhưng những từ “Stuka” lặp đi lặp lại khiến chúng tôi chú ý. Tay phi công giỏi ngoại ngữ FO Markwardt ở trên không trung và một thông dịch viên ở trạm kiểm soát không lưu dưới mặt đất lập tức cung cấp cho mọi người một bản dịch tóm tắt:

    - Stuka tới từ phía tây. Chim ưng Đỏ chú ý! 20 Stuka với một chiếc sơn 2 dải sọc, đó chắc chắn là phi đoàn của Thiếu tá Rudel, kẻ săn xe tăng. Lệnh cho tất cả chim ưng và phòng không tập trung hỏa lực vào chiếc Stuka có 2 dải sọc.

    FO Fickel cười mát với FO Markwardt:

    - Bọn đấy mà nhắm vào số 1 thì cá rằng thế nào số 2 cũng dính đạn.

    Fickel thường bay ở vị trí số 2 cho tôi, hôm nay lời của anh có tính tiên tri.

    Trước mặt chúng tôi là những hàng dài xe cơ giới, xe kéo pháo và các trang thiết bị của địch đang hành quân trên mặt đường, hai bên đường là những khoảnh rừng lớn. Hỏa lực phòng không và tiêm kích địch đang đợi sẵn ở phía trước. Tôi ra mệnh lệnh tấn công và cuộc chiến bùng nổ, quay cuồng như một cơn lốc. Đội hình Stuka chia đôi, một nửa tấn công vào trang thiết bị nằm trên mặt đường, phần còn lại áp chế các khẩu đội phòng không đang nhả đạn. Tất cả đều phải hạ thấp độ cao, cơ động liên tục trước những đòn tấn công như sấm sét của lũ tiêm kích Airacobra từ trên không trung lao xuống, qua đó tự đặt bản thân trước nguy cơ bị mặt đất bắn hạ nhưng chúng tôi không còn cách nào khác. Rất nhanh FO Fickel trúng đạn vào cánh ngay trước khi đi vào bổ nhào, anh ta vội vã vứt bom rồi bay trở về theo đường cũ, chả mấy chốc máy bay chìm trong ngọn lửa. Sau khi ném bom xong và ở cuối giai đoạn thoát li, tôi lập tức cho máy bay leo cao, tìm kiếm bóng dáng của Fickel. Máy bay anh đang lao xuống một vùng đất rất không thích hợp cho việc hạ cánh, đầy mương rãnh, ổ gà, gốc cây và lổn nhổn các chướng ngại vật khác. Nhưng như có phép lạ, chiếc máy bay băng qua 2 con mương lớn rồi lao sầm xuống đất một cách an toàn mà không hề hấn gì. Rồi 2 người bọn họ leo ra, nhảy xuống đất sau đó nhìn lên không trung. Tình hình khá là tệ, từ trong rừng bộ binh Nga lao ra tìm cách tiếp cận máy bay, với ý định rõ ràng là tóm lấy 2 gã phi công. Tôi kêu gọi:

    - Phải có người xuống cứu Fickel. Tôi đã nhận lệnh cấm!

    Không có ai tình nguyện. Trên không trung tiêm kích địch gầm rú lăn xả xuống, dưới mặt đất có đủ các loại hỏa lực bắn lên, để giải cứu được Fickel ngoài lòng can đảm ra phải có kĩ năng tốt và vận may không bờ bến. Tôi cảm thấy thật tệ hại, nghĩa vụ quân nhân buộc tôi phải phục tùng mệnh lệnh của cấp trên nhưng nghĩa vụ của người chỉ huy với đồng đội đang nguy khốn không cho phép tôi cứ đứng đó nhìn, không làm gì cả. Tôi phải hành động thật nhanh nếu không Fickel sẽ bị bắt, hậu quả hãy tính sau. Tôi ra lệnh:

    - Phi đội 7 chặn địch tiếp cận khu vực máy bay rơi. Phi đội 8 giữ cự li ở độ cao trung bình để sẵn sàng yểm trợ cho tôi. Phi đội 9 giữ chân tiêm kích, tấn công nếu chúng bổ nhào.

    Tôi hạ thấp độ cao xuống khu vực Zero, tìm kiếm một khoảnh đất có thể hạ cánh rồi nhanh chóng ra quyết định. Mở bư.ớm ga một cách chậm rãi, điều khiển chiếc máy bay vọt qua con mương thứ hai rồi giảm ga ngay lập tức, một cú va chạm và máy bay nảy lên rất mạnh, đuôi chổng lên trời rồi máy bay từ từ dừng lại. Fickel và Bartsch cắm đầu cắm cổ chạy tới, nhảy vào bên trong, đạn của Ivan rít vèo vèo cao quá đầu bọn họ. Tôi vội vàng mở ga, cố gắng kìm nén sự phấn khích đang sôi sục trong lòng, thì thầm cầu nguyện. Chỉ cần một cú va chạm với chướng ngại vật ở giai đoạn tăng tốc là chiếc máy bay này sẽ quật xuống đất rồi vỡ tan thành từng mảnh. Chúng tôi lao thẳng tới con mương, tôi tăng tốc máy bay lên tối đa, vượt qua mương, rơi xuống, bánh máy bay chạm nhẹ với mặt đất rồi nhảy vọt lên không trung, giữ cần lái thật thẳng, máy bay không lao xuống nữa. Chúng tôi đã an toàn. Sự căng thẳng tan biến, chỉ còn cơn phấn khích tuôn trào dọc theo các mạch máu căng phồng cùng niềm vui vô bờ bến. Đội hình của phi đoàn khép chặt lại và chúng tôi quay về nhà mà không chịu một thiệt hại nào.

    Gánh xiếc lưu động của Rudel (ND: Trong thế chiến 1, Không đoàn 1 của Phi công huyền thoại Nam tước Đỏ Richthofen được gọi là Rạp xiếc Richthofen: Richthofen's Circus) được dựng lên trên cánh đồng đầy gốc rạ gần thành phố Wenden, cách biên giới Latvia – Estonia không xa. Thống chế Schoerner (ND: thời điểm giữa năm 1944 Schoerner mới là Đại tướng, tháng 4/1945 mới được phong Thống chế) đã mất rất nhiều công sức vận động, trong một thời gian dài, để có được phi đoàn tôi vào khu vực của ông ấy và thế là giờ đây chúng tôi xuất hiện tại mặt trận Courland. Ngay khi Phi đoàn hạ cánh đầy đủ trên mặt đất, những lời úy lạo của Thống chế lập tức xuất hiện dưới hình dạng một chiếc xe tăng T-34 khổng lồ làm bằng bánh ngọt, với con số 320 được phun bằng kem đường, biểu thị cho số xe tăng Nga bị tôi tiêu diệt. Từ đó trở về sau, theo lệnh ông ta, T-34 bánh ngọt thường xuyên được gửi tới đơn vị tôi, với hình dáng giống hệt nhau, chỉ khác ở mỗi con số phun lên trên mà thôi.

    Đài tưởng niệm Tannenberg mà Rudel nhắc ở trên là một khu phức hợp tượng đài ở Đông Phổ, được xây dựng để kỉ niệm chiến thắng Tannenberg trong thế chiến thứ 1 khi Tập đoàn quân số 2 của Nga bị Quân đoàn 8 của Thống chế Đức Hindenburg tiêu diệt hoàn toàn và Tướng chỉ huy Alexander Samsonov bị giết. Thi hài của Hindenburg và một loạt Hoàng đế Đức được chôn ở đây.

    [​IMG]

    Lăng mộ Hindenberg

    [​IMG]

    [​IMG]

    Khu phức hợp đồ sộ nhìn từ trên cao

    [​IMG]

    [​IMG]

    Trước khi rút khỏi Đông Phổ, quân đội Đức đặt thuốc nổ giật sập khu tượng đài, chuyển thi thể Thống chế- Tổng thống Hindenburg về nước. Sau chiến tranh, vùng đất đấy thuộc về Balan, chính quyền CS Balan san bằng những phế tích còn sót lại, lấy vật liệu để xây dựng những công trình mang tính biểu tượng của nhà nước Balan như trụ sở Đảng CS Balan, đài tưởng niệm cuộc nổi dậy khu getto Do thái ở Warsaw năm 1944.

    Đài tưởng niệm cuộc nổi dậy Warsaw được xây bằng đá lấy từ Tannenberg

    [​IMG]
    Lần cập nhật cuối: 21/12/2021
  5. ChuyenGiaNemDa

    ChuyenGiaNemDa Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    05/10/2015
    Bài viết:
    11.822
    Đã được thích:
    23.126
    Tình hình khá khó khăn, từ khu vực Tuckum chúng tôi mở một mũi đột kích nhằm khai thông đường tiếp vận với mặt trận phía Đông, nhiệm vụ được giao cho quân đoàn xung kích của Đại tá Bá tước Strachwitz danh tiếng, cuối cùng cũng thu được thành công. Tuy nhiên tại phía đông Courland quân Liên Xô vẫn không bỏ cuộc, kiên trì nhổ bỏ cái gai cắm sâu vào phòng tuyến họ nhưng những người lính Đức, với lòng dũng cảm vô song, dù bị áp đảo về quân số, vẫn trụ vững. Chính là để giải tỏa cho họ mà tướng Schoerner đã phải nhờ tới sự giúp sức của Phi đoàn chúng tôi. Từ những cuộc không thám đầu tiên, chúng tôi biết được về sự mạnh mẽ của phòng tuyến Nga, quân địch trú ẩn trong những công sự vững chắc, ngụy trang tốt, còn các khẩu đội phòng không được đưa lên ngay tuyến đầu, bắn rất tập trung. Trên bầu trời cũng không khác mấy, số lượng tiêm kích địch vượt trội hoàn toàn so với tiêm kích Đức, nguyên nhân chính là do khan hiếm nguồn cung xăng dầu.

    Chúng tôi luôn yêu cầu sự ưu tiên về nhiên liệu, bom đạn, phụ tùng thay thế để đảm bảo hoạt động yểm trợ. Và đáp trả những biệt đãi đấy bằng cách lao động nhọc nhằn, bay tới tất cả những điểm nóng trong cái “túi” Courland, tới phía đông, phía nam, tới khu vực Tuckum hay tới mũi nhọn đột kích của Nga tại Reval thông qua Dorpat. Có những phi vụ chúng tôi tiêu diệt cả một đoàn dài xe cơ giới, bao gồm cả xe tăng, khi chúng đột phá qua cổng Dorpat, qua đó chặn đứng sự phát triển của mũi tiến công địch, giúp lục quân Đức có thời gian phong tỏa và tiêu diệt bọn chúng. Thế nhưng quy mô của quân đội Nga, số lượng người và phương tiện vô tận của họ làm chúng tôi kinh ngạc. Mặc dù người Mĩ viện trợ cho Liên Xô rất nhiều, hầu hết xe tải, một số xe tăng, ví dụ như chiếc Sherman, vô số máy bay Airacobra, King Airacobra, B-25 Mitchell …. Chúng tôi thường tranh luận với nhau về mục đích thực sự của sự giúp đỡ khổng lồ này.

    Một hôm, vào lúc 2h30 phút sáng, sĩ quan tác chiến Weisbach đánh thức tôi dậy. Thường thì tôi ngắt điện thoại suốt đêm, ngủ lấy sức để sáng hôm sau còn bay sớm nhưng hôm nay người bên kia đầu dây là Thống chế Schoerner. Ông ta đi thẳng luôn vào vấn đề:

    - Anh có thể cất cánh ngay lập tức không? Bốn mươi xe tăng và bộ binh tùng thiết đã đột kích qua chiến tuyến. Lính của tôi muốn khép lỗ thủng lại vào tối nay.

    Đây là một tình huống được lặp đi lặp lại ở mặt trận này, thế nên tôi chả còn ngạc nhiên nữa. Người Nga thường tập trung lực lượng tại một vị trí rồi xuyên thủng phòng tuyến, đổ xô người và phương tiện qua đấy, tiến sâu vào hậu phương Đức, tấn công các tuyến đường tiếp liệu và phá hủy các kho bãi hậu cần. Nếu lỗ thủng đó không bị bịt lại trong thời gian ngắn thì toàn bộ phòng tuyến sẽ sụp đổ. Đây là cuộc chạy đua với thời gian giữa 2 bên, trong đó chúng tôi sẽ lĩnh nhiệm vụ khó nhằn nhất, kéo cái hạt dẻ ra khỏi đống lửa.

    Tôi cân nhắc chút ít rồi nói với Thống chế:

    - Trời vẫn đang tối, xuất kích vào thời điểm này sẽ có ít cơ may thành công vì để tấn công chính xác ở độ cao thấp cần phải có tầm nhìn tốt. Tôi sẽ cất cánh vào lúc bình minh cùng toàn bộ phi đoàn và phi đội chống tăng. Ngay khi đến khu vực mục tiêu tôi sẽ báo cáo với ngài mọi tin tức tại khu vực

    Rồi tôi thông báo cho sĩ quan hành quân:

    - Cất cánh vào lúc 5h30!

    Ngay sau đó guồng máy được khởi động. Chúng tôi xác định vị trí quân Đỏ trên bản đồ, họ đang băng qua con đường len lỏi giữa những chiếc hồ. Chúng tôi cũng thu thập thông tin khí tượng, thông báo chính xác giờ ăn sáng cho các phi công, giờ để nhân viên kĩ thuật triển khai máy bay trên đường băng …. Đây là những công việc quen thuộc mà chúng tôi đã thực hiện hàng ngàn lần trong mấy năm qua.

    Sương mù phủ dày đặc trên sân bay vào lúc sáng sớm, trần mây chỉ khoảng hơn 50m. Với hi vọng thời tiết sẽ tốt hơn ở khu vực mục tiêu, chúng tôi cất cánh, hướng về phía tây nam trong điều kiện ánh sáng yếu, tầm nhìn chỉ còn 400m. Thật may mắn là địa hình vùng này khá bằng phẳng nên nguy cơ tai nạn được giảm thiểu. Nhưng càng đến gần những cái hồ mây mù càng dày đặc, trần mây hạ thấp đến mức đội hình buộc phải chuyển sang hàng dọc, ngồi trong máy bay nhìn ra chỉ thấy các máy bay khác lúc ẩn lúc hiện trong sương mù. Với độ cao hiện tại những quả bom ném từ máy bay phía trước sẽ nổ trên mặt đất và gây sát thương cho máy bay lao xuống sau. Chỉ xuất hiện trên đầu mục tiêu mà không làm nên cơm cháo gì thì vô ích, vì thế tôi quyết định quay về, thở phào nhẹ nhõm thấy mọi người đều hạ cánh an toàn. Khi nhận được tin báo từ tôi, Thống chế trả lời rằng ông cũng nhận được báo cáo khí tượng tương tự gửi về từ tuyến đầu.

    Vào lúc 9h sáng sương mù dần tan, trần mây lên cao 400m. Tôi cất cánh với phi đội chống tăng, theo sau là phi đội số 7 mang bom bay về phía tây nam một lần nữa. Nhưng càng tiến xa mây mù càng tiến gần đến mặt đất, chả mấy lúc chỉ còn cách mặt đất có 70m, kéo tầm nhìn giảm xuống theo. Tôi bay bằng la bàn, hướng dẫn phi đội hơi lượn về phía Tây rồi mới quành về con đường uốn lượn giữa một dãy cái hồ, nơi chắc chắn người Nga đang hiện diện. Sở dĩ tôi phải đi như vậy là để trong trường hợp có bất trắc cả phi đoàn vẫn giữ được hướng và tốc độ để bay về nhà (ở hướng Tây). Tôi từ bỏ lối đánh bổ nhào quen thuộc, lựa chọn chiến thuật bay thấp trên mặt nước, tấn công vào quân địch dưới mặt đường rồi vòng ra xa, hi vọng có thể khiến quân địch bất ngờ và hỏa lực phòng không không kịp phản ứng.

    Chúng tôi hạ thấp xuống độ cao tối thiểu trên mặt nước, tiếp cận địch từ phía nam. Trời âm u mờ tối, không thể nhìn xa quá 600m. Đột nhiên trước mặt chúng tôi xuất hiện một đám đen đặc xe cộ và người đang chuyển động lúc nhúc, tôi hét to: “Tấn công!”. Phản ứng của đối phương thật kinh khủng, còn chưa kịp tiếp cận mục tiêu thì một cơn mưa đạn bắn xối xả tới trước mặt tôi. Những khẩu pháo 2 nòng, pháo 4 nòng, những khẩu súng máy cùng tất cả những gì bắn được đều đang chớp sáng trong lớp sương mù dưới mặt đất. Chúng tôi đã lao thẳng vào một tổ ong bắp cày ở độ cao chưa tới 30m. Tôi điên cuồng cơ động zic - zac trên bầu trời để tránh đạn, bắn mà không thể ngắm vì lúc này chỉ cần giữ máy bay ổn định một giây là chắc chắn chết. Nhưng rồi máy bay cũng phải đi vào tới điểm leo cao, ở ngay trên đầu những chiếc tăng và xe cơ giới, đó là thời khắc nguy hiểm nhất, giống như khi bạn bước đi trên quả trứng, chờ đợi tiếng vỡ ròn tan dưới gót chân. Đầu tôi nóng rực, như có một mảnh thép rít lên ở bên trong. Chỉ vài giây sau tất cả bùng nổ, nghe như tiếng búa tạ phang thẳng vào máy bay. Gadermann hét: “Động cơ cháy rồi!”. Tôi nhận ra ngay động cơ chỉ còn hoạt động với một phần nhỏ công suất và lửa đang liếm vào buồng lái. Tôi kêu to:

    - Ernst! Chúng ta phải nhảy dù. Tôi sẽ cố gắng lấy độ cao, tránh con đường của bọn Nga càng xa càng tốt. Đằng kia có người của chúng ta.

    Tôi đưa máy bay lên cao, không hề có một tí thông tin nào về độ cao hiện tại bởi dầu máy bắn ra từ động cơ phủ kín cả bên trong và bên ngoài cửa sổ buồng lái. Để giải phóng tầm nhìn, tôi đập tung nóc buồng lái nhưng luồng khói đen kịt phả ra từ động cơ khiến cho mọi thứ xung quanh không khá hơn là bao. Tôi thúc giục:

    - Ernst! Chúng ta phải nhảy dù thôi.

    Động cơ kêu lục cục rồi dừng lại …. lạch cạch rồi dừng lại … tiếp theo là một tràng lục cục, lạch cạch nữa. Chiếc máy bay này sắp trở thành lò hỏa táng cho chúng tôi. Phải nhảy ra ngoài ngay lập tức. Nhưng đúng lúc đó Ernst Gadermann hét lên:

    - Đừng! Chúng ta chỉ cách mặt đất có 30m thôi.

    Ở vị trí phía sau, Gadermann có thể nhìn rõ xung quanh. Anh ta cũng đã hất tung nóc buồng lái và làm đứt dây liên lạc giữa 2 người. Giờ thì chúng tôi không còn trao đổi với nhau được nữa. Thông tin cuối cùng tôi nghe thấy từ anh là “Chúng ta đang bay trên rừng”. Tôi kéo cần lái với tất cả sức lực nhưng máy bay vẫn giữ nguyên hướng cũ. Không thể nhảy dù, cơ may duy nhất còn lại là hạ cánh khẩn cấp với đôi mắt phi công bị bịt kín. Động cơ rất yếu nhưng sức kéo vẫn còn đủ để hạ cánh miễn là địa hình phù hợp.

    Tôi từ từ giảm ga, máy bay tự động lao xuống dưới. Liếc mắt sang bên, tôi thấy mặt đất đang lướt qua với một tốc độ rất lớn, độ cao giờ còn chưa tới 10m. Tôi chống tay vào bảng đồng hồ, gồng mình lên chờ đợi. Cú va chạm ập tới, tôi tắt luôn hệ thống đánh lửa trên động cơ. Ngay sau đó máy bay lao sầm xuống đất, động cơ tắt phụp. Rồi máy bay lật nghiêng và tôi không còn biết gì nữa.

    Tôi từ từ tỉnh lại, cảm nhận được sự tĩnh lặng của thế giới xung quanh, biết rằng mình vẫn còn đang sống. Cố gắng phân tích tình hình hiện tại: tôi đang nằm trên mặt đất, tôi muốn đứng dậy nhưng không thể, có một cái gì đó đang đè lên người, chân và đầu tôi đang rất đau. Rồi sực nhớ tới Gadermann, tôi kêu to:

    - Cậu đang ở đâu? Tôi đang bị mắc kẹt.

    - Chờ một chút! Chúng ta sẽ giải quyết được nó. Ngài có bị thương nặng không?

    Một lúc sau Gadermann mới tập tễnh xuất hiện, kéo, gạt, nhấc những mảnh vụn kim loại rách bươm để với được tới tôi. Giờ tôi mới nhìn thấy cái gì khiến mình đau đến vậy, một miếng kim loại dài vỡ từ phần đuôi máy bay xuyên sâu vào đùi tôi, đồng thời nó cũng đè lên người khiến tôi không cử động được. Việc tuân thủ quy trình xử lí khi máy bay gặp nạn giúp chúng tôi tránh được một đám cháy, nếu không thì tôi chỉ còn nước nằm im chịu chết.

    Đầu tiên Gadermann kéo mảnh kim loại khỏi chân tôi, sau đó lôi tôi ra khỏi đống đổ nát. Anh mất rất nhiều sức lực cho công việc đó. Tôi hỏi:

    - Có nhìn thấy bọn Nga quanh đây không?

    - Tôi không biết.

    Tôi thử đứng dậy quan sát xung quanh. 4 bên đều là rừng và cây bụi, những mảnh vụn máy bay nằm rải rác trong một diện tích 200m2, động cơ nằm phía trước, sau đó là khoang điều khiển súng máy của Gadermann, cánh nằm bên kia, bên này mới là buồng lái của tôi. Vậy là máy bay sau khi húc đổ những thân cây ở bìa rừng đã bị ném xuống một khoảnh đất pha cát, rồi vỡ tung thành nhiều mảnh. Bởi vì cả tôi và Gadermann đều đã tháo dây bảo hiểm nên thật khó tin là chúng tôi vẫn còn sống sau cú va chạm. Nhìn chung vụ tai nạn này cho thấy ngôi sao số mệnh của tôi vẫn còn lớn lắm.

    Gadermann vừa băng bó vết thương cho tôi xong thì bụi cây trước mặt lay động, có ai hoặc một cái gì đó đang di chuyển. Chúng tôi nín thở chờ đợi rồi thở phào nhẹ nhõm khi người lính Đức đầu tiên xuất hiện. Họ đã nghe thấy tiếng súng và nhìn thấy một chiếc máy bay Đức bốc cháy nên tìm đến. Mọi người thúc giục chúng tôi phải nhanh lên.

    - “Không còn ai quanh đây nữa đâu, ngoài kia toàn là bọn Nga thôi”. Người lính mỉm cười, ngắm nghía đống đổ nát rồi nói thêm: “Mà cái đấy chắc mấy ngài cũng biết rồi”.

    Chúng tôi cùng mấy người lính trèo lên chiếc xe tải, rồi tăng hết tốc độ chạy về hướng tây bắc.

    Đến đầu giờ chiều thì chúng tôi về tới đơn vị. Không ai nhìn thấy vụ hạ cánh bắt buộc của chúng tôi vì thời điểm đấy mọi người đều tập trung hết tinh thần vào trận chiến với mặt đất. Họ cũng chả thèm lo lắng, có lẽ quá quen với việc tôi thường xuyên phải hạ cánh sau phòng tuyến vì hỏa lực phòng không của đối phương, sau đó gọi điện về nhà yêu cầu cử máy bay đến đón. Thường người ta sẽ đợi điện thoại của một phi công mất tích trong khoảng 4 giờ, sau đó mới bắt đầu tổ chức việc tìm kiếm. Ở căn cứ tôi gọi điện thông báo tình hình cho Thống chế, ông ta chúc mừng sự trở lại của tôi. Không cần phải nói là theo truyền thống, tối đấy một chiếc bánh ngọt to tướng bị chén sạch để mừng ngày tôi thoát chết, một lần nữa.

    Cách tấn công xe tăng của Rudel, sau trở thành đường bay tiêu chuẩn cho cường kích tấn công mặt đất. Lợi thế ở đây là ngay cả khi bị bắn trúng trong lúc bổ nhào thì máy bay vẫn giữ được hướng và tốc độ để bay về phía phòng tuyến quân nhà.

    [​IMG]
    huytop, viagraless, kuyomuko1 người khác thích bài này.
  6. ChuyenGiaNemDa

    ChuyenGiaNemDa Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    05/10/2015
    Bài viết:
    11.822
    Đã được thích:
    23.126
    Ngày hôm sau bầu trời chuyển sang một màu xanh lam rực rỡ, không còn một chút vết tích sương mù. Tôi báo cáo với Thống chế về kế hoạch cho một cuộc tấn công mới. Giờ không còn lí do gì để biện minh cho sự trì hoãn nữa, chỉ có một người chiến thắng trên con đường kia, hoặc người Nga hoặc chúng tôi, đó là quy luật của chiến tranh. Viên bác sĩ quân y mà quân đoàn gửi tới thông báo rằng tôi bị chấn động não, còn Gadermann bị gãy 3 xương sườn. Bản thân tôi cảm thấy mình không được khỏe lắm nhưng thời gian để chặn người Nga giờ không còn nhiều. Tôi họp lần cuối với các phi công, chốt lại kế hoạch, phân công mục tiêu cụ thể cho từng người. Rồi tất cả cùng cất cánh.

    Chúng tôi tiếp cận mục tiêu ở độ cao 1.800m, lần này theo hướng tây bắc để đặt đối phương vào thế ngược hướng với ánh sáng mặt trời, làm các xạ thủ phòng không lóa mắt. Bọn họ không tiến công tiếp, đang trong tư thế phòng thủ, chờ thêm quân tiếp viện tới. Chúng tôi lượn vòng trên đầu quân địch, thỉnh thoảng cơ động thấp rồi vọt lên ngay, khiêu khích hỏa lực phòng không bộc lộ vị trí. Từ vị trí cao nhất trong đội hình tôi xác định tất cả những điểm đặt súng phòng không, một phần đặt trên xe ngựa di chuyển liên tục, phần còn lại trong công sự dưới mặt đất. Tôi thông báo cho các đồng đội rồi theo đúng kế hoạch thống nhất từ trước từng máy bay lần lượt lao xuống, dập tắt các ổ đề kháng bằng bom. Những cột khói khổng lồ bùng lên, những vòi lửa bắn văng tung tóe, đến lúc đó những chiếc J87 chống tăng mới sà thấp xuống săn tìm tụi T-34. Phòng không địch câm bặt, bây giờ mảnh văng từ những vụ nổ trên mặt đất mới là mối nguy lớn nhất cho chúng tôi bởi hết chiếc xe bồn này đến chiếc xe chở đạn khác nổ tung. Đơn vị đột kích Nga đã bị giã vụn, tan tành trên mặt đất. Chúng không bao giờ có thể tiến sâu thêm vào đất Đức được nữa. Rốt cuộc món nợ của tôi ngày hôm qua đã được trả đủ.

    Chúng tôi quay trở về nhà, hài lòng vì đã đóng góp lớn vào trận chiến đang diễn ra để thanh toán lỗ thủng trên mặt trận. Đêm đó Thống chế gọi điện tới, thông báo rằng cuộc phản công cuối cùng đã thành công, số địch quân xâm nhập còn sót lại đã bị bao vây và tiêu diệt sạch sẽ, đồng thời nhân danh cá nhân tuyên dương công trạng của đơn vị chúng tôi. Sáng hôm sau tôi chuyển thông điệp của ông tới các đồng đội. Đối với các phi công cường kích, không có điều gì tự hào hơn là được nghe cánh bộ binh xác nhận tầm quan trọng của họ đối với thành công của các trận đánh trên bộ.

    Chả bao lâu sau những cảnh báo vang lên từ Latvia cho thấy Liên Xô đang tiến vào Rumani. Ngay trong đêm chúng tôi nhận lệnh chuyển tới thành phố Buzau nằm ở phía bắc Bucharest, thủ đô Rumani. Lộ trình bay là Đông Phổ - Krakau – Debrecen, băng ngang bầu trời Đông Âu tỏa ánh nắng vàng rực rỡ của những ngày hè muộn. Các nhân viên Không đoàn đi cùng với phi đoàn 3, phi đoàn 2 dừng lại ở Warsaw. Chúng tôi quyết định dừng lại nghỉ qua đêm ở Debrecen rồi sáng hôm sau mới bay vượt dãy núi Carpathian để tới Rumani bởi trời đã muộn, sẽ không an toàn nếu bay tiếp. Tối đó chúng tôi tận hưởng một buổi tắm suối nước nóng tự nhiên, một đặc sản địa phương, ngắm nhìn và tán gẫu với những người phụ nữ đang thư giãn trong bồn tắm công cộng. Đây là một cảnh tượng thần kì so với những gì chúng tôi từng biết về thứ “nữ tính” của nước Nga xa xôi kia.

    Sáng hôm sau chúng tôi cất cánh đi Klausenburg với tâm trạng thơi thới, nhẹ nhàng. Đó là một thị trấn cổ xinh xắn, nơi người Đức Transylvanian đã định cư cách đây hàng thế kỉ, ở đó toàn bộ cư dân đều nói tiếng Đức. Dừng lại trong một thời gian ngắn để tiếp nhiên liệu, chúng tôi quan sát chiếc máy bay trinh sát Hoa Kì bay qua ở độ cao 6.000m, sau đó lại bay tiếp. Thời tiết đẹp, khung cảnh núi non Carpathian hiện ra rực rỡ dưới cánh máy bay khiến mọi người say sưa ngắm không chán mắt. Rồi thành phố Buzau cũng xuất hiện, ngày trước nơi đây chỉ là một trạm trung chuyển không quan trọng trên con đường tiến ra mặt trận phía bắc, giờ trở thành căn cứ hoạt động chính. Vậy chuyện gì đã xảy ra với phòng tuyến vững chắc Jassy – Targul – Frumols và với … Husti???

    Sân bay nằm trên một vùng đất trống trải, không có khả năng ngụy trang, cách đấy không xa là Ploesti, trung tâm hóa dầu của Rumani - cũng có nghĩa là của cả Đế chế - đang bị tấn công bởi những không đoàn máy bay ném bom chiến lược Hoa Kì. Được bảo vệ bởi máy bay tiêm kích mà số lượng trong một phi vụ xuất kích áp đảo hoàn toàn tổng số máy bay tiêm kích Đức trên toàn mặt trận, lũ oanh tạc cơ Mĩ đó thừa sức di nát sân bay chúng tôi, nếu chúng cảm thấy ngứa mắt.

    Từ trên không trung, chúng tôi nhìn xuống những con đường, chạy ngang qua sân bay, chật ních những dòng xe cộ và người của quân đội Rumani rút chạy về phía nam, chỉ dừng lại ở những chỗ tắc nghẽn. Đó là một thảm kịch, tất cả các quân binh chủng Rumani đang rút lui mà không kháng cự, và người Nga bám sát gót phía sau. Các đơn vị Đức vẫn đang cố gắng trụ vững nhưng các lỗ hổng mà người Rumani bỏ trống trên mặt trận chỉ khiến họ liên tục bị vu hồi, bao vây và bắt làm tù binh. Với người Đức, thật khó để tin rằng một dân tộc sẽ không kháng cự, chấp nhận sự xâm lược của người Nga với tất cả những hậu quả thảm khốc kèm theo nó.

    Chúng tôi nhanh chóng báo cáo tình trạng sẵn sàng chiến đấu với Bộ tư lệnh Không đoàn. Họ chúc mừng đồng thời cam đoan rằng ở đây chúng tôi sẽ không thiếu việc để làm. Xe tăng Nga đã tiến tới Foscari, cố gắng chiếm Ploesti và Bucharest. Xa hơn nữa, về phía Bắc, các đơn vị Đức vẫn đang chiến đấu trong Cụm tập đoàn quân Nam.

    Chúng tôi cất cánh bay về phía bắc đến Foscari. Còn 6 dặm nữa mới đến nơi thì một cột bụi khổng lồ xuất hiện. Đấy có phải là những chiếc xe tăng không? Chính xác! Chúng tôi lao xuống tấn công, xua chúng ra khỏi con đường và đuổi chúng chạy tán loạn trên đồng trống. Bọn họ quá đông, bắn không xuể. Chúng tôi bay về căn cứ sau đó quay trở lại với những chiếc máy bay đầy bom đạn chỉ để gặp một đội hình đông đảo giống hệt như lúc trước, đang hành quân trên đường. Đây là bằng chứng thuyết phục nhất cho thấy những nhà lãnh đạo của chúng tôi đã đánh giá quá thấp năng lực sản xuất và nguồn dự trữ nhân lực Liên Xô. Ngày hôm đó chúng tôi chiến đấu đến kiệt lực, từ lúc bình minh đến tận hoàng hôn, đấy là nhịp điệu quen thuộc trong suốt mấy năm qua.

    Tôi nhớ một kỉ niệm xảy ra vào cuối tháng Tám khi cất cánh vào lúc sáng sớm, chuẩn bị tiến vào vùng hoạt động của quân Đỏ ở phía bắc. Còn đang ở độ cao 50m thì đột nhiên súng phòng không bảo vệ sân bay xả đạn vào tôi. Luồng đạn đến từ một đơn vị phòng không Rumani. Tôi cơ động, nhìn lên bầu trời, lo ngại sự xuất hiện của những chiếc máy bay ném bom Anh hoặc Mĩ nhưng trên đó không có gì lạ cả. Chả nhẽ tôi là đích bắn của họ sao? Chính xác! Luồng đạn tiếp tục truy đuổi theo tôi ngay cả khi tôi đã hạ độ cao. Không còn nghi ngờ gì nữa, đây là hành vi cố ý. Tôi thông báo với mặt đất rồi dẫn đầu phi đoàn bay về phía Husi-Barlad-Foscari theo như kế hoạch ban đầu.

    Khi quay trở về mọi người đều chuẩn bị sẵn tinh thần cho mọi chuyện có thể xảy ra. Kiểm soát không lưu thông báo rằng Rumani đã tuyên chiến với nước Đức và sự việc buổi sáng không phải là một sự cố đơn lẻ. Chúng tôi tiến vào hạ cánh ở độ cao rất thấp, một lần nữa chứng kiến những viên đạn của cựu đồng minh bắn xối xả về phía mình. Ngay khi rời khỏi máy bay tôi lao vào phòng kiểm soát yêu cầu nối máy với Tư lệnh không quân Rumani Jonescu, người mà tôi biết rất rõ hồi còn ở Husti. Tôi kể với ông ta mọi chuyện và yêu cầu sự giải thích. Ông trả lời rằng đó là hành động trả đũa cho việc tiêm kích Đức bắn hạ một máy bay vận tải Rumani, lờ tịt đi tình trạng chiến tranh đang diễn ra giữa 2 nước. Tôi gạt phăng mớ lí sự của ông, thông báo rằng giờ tôi phải đi tấn công người Nga ở phía bắc Ramnicu Sarat nhưng trước hết, để đảm bảo an toàn cho người của mình, tôi sẽ cho Stuka san bằng các vị trí pháo phòng không Rumani đang đóng quanh sân bay, sau đó sẽ là trụ sở bộ tư lệnh của ông ta, địa điểm mà chúng tôi biết rất rõ. Vị tướng, người từng được tặng thưởng Huân chương Chữ thập hiệp sĩ của Đức, cuống quít thanh minh:

    - Vì chúa, xin đừng làm vậy. Chúng ta luôn là bạn tốt, tôi sẽ không chịu trách nhiệm về các hành động của chính phủ chúng tôi. Giờ tôi đề nghị thế này, chúng tôi sẽ án binh bất động, kệ cụ mấy lời tuyên chiến kia. Sẽ không có một viên đạn nào chống lại Stuka của các ngài nữa.

    Và thế là tình bạn giữa 2 chúng tôi được nối lại. Một thỏa thuận bí mật giữa 2 người được kí kết. Có một điều làm tôi thắc mắc, tôi đang ở đây cùng với các thành viên trong đơn vị, đóng quân giữa lòng một đất nước đang có chiến tranh với đất nước tôi, cách không xa 2 sư đoàn Rumani đầy đủ quân số và trang bị, vậy điều gì ngăn cản họ bao vây và xử lí chúng tôi gọn ghẽ chỉ sau một đêm? Có lẽ chính họ cũng hoang mang trong một tình huống chính trị tế nhị, khi mà đồng minh và kẻ thù lại tráo đổi vai trò cho nhau một cách nhanh chóng đến vậy. (ND: Tháng 8 năm 1944, Rumani tuyên chiến với Đức, đứng về phía đồng minh với Liên Xô. Chỉ sau một ngày, họ sát cánh với kẻ thù cũ để chống lại đồng minh từng chiến đấu cùng họ 4 năm qua).

    Dự trữ nhiên liệu, đạn dược của Phi đoàn dần cạn kiệt, tiếp vận là không thể có giữa lòng đất nước Rumani thù địch. Khôn ngoan nhất là thành lập một phòng tuyến mới ở bên kia dãy núi Carpathian với tàn quân rút về từ Rumani và lực lượng dự bị điều động từ Đức. Vũ khí hạng nặng buộc phải bỏ lại, chúng có thể thay thế, nhưng những người lính Đức đang chiến đấu trong vòng vây thì không. Vì sự phản bội của người Rumani mà họ đang phải chiến đấu để giành sự sống cho chính mình. Để các nhân viên mặt đất của phi đoàn vượt đèo Bazau bằng đường bộ, chúng tôi dành những giọt xăng dầu cuối cùng tiến công sâu vào trong phòng tuyến của người Nga, hỗ trợ quân đội Đức. Chúng tôi đã chứng kiến những cảnh tượng đầy tuyệt vọng, khi các đơn vị Đức sau khi bắn hết những viên đạn pháo cuối cùng, đã sử dụng những viên đạn súng trường và súng lục cuối cùng lao vào phòng tuyến quân Nga nhằm thoát khỏi vòng vây. Họ chỉ có 2 con đường, tấn công hay là chết. Đấy chính là một Stalingrad thu nhỏ.
    viagraless, kuyomuko, huytop1 người khác thích bài này.
  7. ChuyenGiaNemDa

    ChuyenGiaNemDa Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    05/10/2015
    Bài viết:
    11.822
    Đã được thích:
    23.126
    Giờ đây hết sạch nhiên liệu và đạn dược, chúng tôi rời bỏ Rumani bay về phía tây của dãy núi Carpathian, đến đóng quân tại Sachsisch-Regen của Hungary. Đó là một thị trấn nhỏ đẹp như tranh vẽ nép mình giữa một dãy đồi xen kẽ với những khoảnh rừng lớn, thời xa xưa được xây dựng nên bởi người Đức Transylvania. Ở đó toàn bộ cư dân đều nói tiếng Đức, có nhà thờ Đức, trường học Đức, đi dạo trên đường phố có cảm giác như đang ở giữa quê nhà. Sân bay của chúng tôi nằm trên một vùng bình nguyên, bao bọc bởi rừng cây rậm rạp. Từ đó chúng tôi bay về phía đông dãy Carpathian để ngăn chặn các lực lượng Nga tràn sang. Địa hình ở đây rất dễ phòng thủ, với điều kiện phải có đủ người và phương tiện. Nhưng vì các vũ khí nặng phải bỏ lại ở Rumani nên giờ đây những người lính Đức chỉ còn mỗi chủ nghĩa anh hùng trong tay để chống giặc.

    Chúng tôi tấn công địch ở các đèo Oitoz, Gymnoz, điểm hội tụ của các tuyến đường từ phía bắc. Các thung lũng ở đây rất hẹp, dốc, thắt lại dưới đáy khiến máy bay không thể lượn vòng ở độ cao thấp. Những con đường quanh co, khúc khuỷu được khoét sâu vào các sườn núi hiểm trở, ở đó xe tăng và cơ giới địch có thể thình lình xuất hiện trên đầu bạn, ngay sau một khúc ngoặt bất ngờ. Hoặc tệ hơn nữa bạn có thể va phải một đội hình máy bay Đức trong sương mù, bởi tất cả đang cùng tấn công một mục tiêu nhưng lại từ 2 góc khác nhau. Người Nga cũng bố trí pháo phòng không tại nhiều địa điểm hiểm hóc với các độ cao và góc bắn có thể hỗ trợ cho nhau một cách hiệu quả. Mặt khác chúng tôi cũng ít gặp tiêm kích dù đối phương sở hữu một loạt sân bay tại Buzau, Roman, Tecuci, Bakau và Silistea, có lẽ họ muốn tránh hoạt động ở vùng địa hình quá hiểm trở, nơi tai nạn chắc chắn gây thiệt hại cho các phi công Nga còn nhiều hơn người Đức chúng tôi.

    Vào thời gian này tôi nhận được quyền chỉ huy Không đoàn, qua đó phải từ bỏ vị trí của mình tại Phi đoàn 3. Tôi bổ nhiệm Đại úy Lau vào chỗ trống. Ông từng chiến đấu rất nổi bật ở Hy lạp chống lại hạm đội Anh, chiến đấu ở Nga một thời gian rồi được biệt phái sang nhiệm vụ tham mưu và giờ quay trở lại mặt trận. Tôi tiếp nhận cương vị mới không chút khó khăn, các nhân viên ở bộ tư lệnh Không đoàn luôn chuẩn bị sẵn những loại máy bay cần thiết để tôi có thể dẫn đầu một hoặc nhiều đơn vị đi làm nhiệm vụ.

    Vào một ngày đầu tháng Chín đẹp trời, tôi cất cánh vào lúc sáng sớm cùng Phi đoàn 3, Phi đoàn 2 làm nhiệm vụ hộ tống. Tôi bay trên chiếc Ju 87 G-2 đến đèo Oitoz tìm kiếm những chiếc xe tăng. Tình hình khu vực không sáng sủa cho lắm, tôi quyết định bay về rồi quay trở lại trên chiếc FW 190. Trong khi những phi công khác còn phải chờ thợ máy chăm sóc máy bay thì tôi đã ở trên không trung với FO Hofmeister bay phía trước làm nhiệm vụ xích hầu.

    Ở Oitoz 2 chúng tôi ném bom, bắn phá vào các mục tiêu rồi lượn một vòng kiểm tra tất cả các con đèo vượt Carpathian, đặc biệt các vị trí đỉnh đèo. Sau khi nắm rõ tình hình chiến sự khu vực chúng tôi quay trở về, đâm sầm vào một đội hình 40 chiếc máy bay sáng loáng đang bay theo chiều ngược lại. Ở cùng một độ cao, 2 đội hình máy bay lướt qua nhau sát sạt. Không còn nghi ngờ gì nữa, cả 40 chiếc máy bay kia đều là loại P-51 Mustang của Mĩ. Trong tình trạng cả xăng dầu và đạn dược đều cạn kiệt, chúng tôi không có nhiều lựa chọn, tôi gọi ngay cho Hofmeister: “Hạ cánh ngay lập tức!” rồi mở càng bánh xe, hạ cánh tà đưa máy bay lao thẳng xuống đất. Ở phía sau, đội hình Mustang mở rộng vòng lượn, quay trở lại và lao vào tấn công.

    Máy bay tôi tiếp cận đường băng, đang trong giai đoạn chuẩn bị hạ cánh. Đây là thời điểm nguy hiểm vì với tốc độ thấp và quỹ đạo dễ đoán, tôi dễ dàng trở thành con mồi cho kẻ địch có ưu thế về tốc độ và độ cao. Hofmeister đã biến mất còn tôi thì đã chạm bánh trên đường băng, giơ lưng lên với trời, căng mình ra chờ đợi. Ngoài kia bọn Mustang lao đến với tốc độ kinh khủng, một chiếc hướng thẳng tới tôi. Liếc nhìn đồng hồ tốc độ thấy khoảng 30km/h, tôi tung nóc buồng lái máy bay leo ngay ra ngoài cánh rồi thả mình lăn xuống đường băng. Chỉ vài giây sau những khẩu súng 12.7mm trên chiếc Mustang rít lên và chiếc PW 190 bùng cháy ở cách tôi vài trăm mét. Thật mừng khi giờ này không còn ngồi trong chiếc máy bay đấy nữa.

    Chúng tôi không có một đơn vị phòng không nào để bảo vệ sân bay, nguyên nhân là không ai lường tới khả năng phải rút lui về tới Hungary. Mặt khác nguồn lực cũng đã giảm đến mức không phải sân bay Đức nào cũng được trang bị các hệ thống phòng không. Không quân Anh – Mĩ với nguồn lực không giới hạn đã tiêu diệt không thương tiếc các đơn vị phòng không và chúng tôi chả thể làm gì để chống lại. Bọn Mustang tản ra khắp sân bay, tiến hành bắn mục tiêu y như trong huấn luyện. Dưới đất đậu đầy máy bay cường kích đang sửa chữa cùng những chiếc máy vận tải chở xăng dầu, bom đạn. Chúng lần lượt vỡ tung ra trong những quả cầu lửa khổng lồ, tạo ra hàng loạt tiếng nổ chói tai. Tôi đứng bất lực nhìn khung cảnh như ngày tận thế, phẫn nộ trước tiếng súng máy bắn như máy khâu của máy bay quân thù đang bay lượn trên trời cao. Giờ tôi chỉ muốn nhắm mắt ngủ một giấc, ao ước đến khi tỉnh dậy mọi chuyện đã kết thúc, tất cả chỉ là một giấc mơ mà thôi.

    Nhưng ở đời không phải lúc nào cũng cầu được ước thấy. Tên phi công người Mĩ lái chiếc Mustang quay vòng trở lại, có lẽ gã đã nhìn thấy tôi nhảy khỏi máy bay trước khi bắn cháy nó. Hết lần này đến lần khác hắn điều khiển máy bay lao xuống bắn xối xả vào tôi, còn tôi thì nằm dán chặt thân mình xuống mặt đất, chỉ hé mắt qua vai quan sát bầu trời. Mặt đất quanh tôi bị cày nham nhở, tung tóe đất cát và mảnh vụn vì những viên đạn 12.7mm. Giờ mà đứng lên chạy trốn thì chỉ có chết nên tôi vẫn tiếp tục nằm im không nhúc nhích, chịu đựng cuộc tra tấn tinh thần tưởng như bất tận. Còn gã phi công kia thì cẩn thận vòng lại đến 2 lần để kiểm tra kết quả, lướt trên đầu tôi ở độ cao chỉ từ 3-4m, sau đó mới chịu rời đi. Tất cả bọn chúng tập hợp đội hình trên không phận sân bay rồi biến mất.

    Tôi từ từ nhổm dậy giữa khung cảnh tan hoang, đổ nát. Việc đầu tiên là tìm kiếm Trung úy Hofmeister. Máy bay anh ta nằm cách xa khoảng 300m, chắc bị bắn hạ khi đang trên đường tiếp đất. Hofmeister bị thương nặng, về sau sẽ phải cắt cụt một bàn chân. Hơn 50 máy bay bị phá hủy, chỉ có một phần nhỏ để trong hangar ngụy trang trong rừng là thoát nạn. Các nhân viên mặt đất của Không đoàn sử dụng MP-40, súng trường, súng máy và cả súng ngắn ổ quay bắn hạ 4 chiếc Mustang Mĩ, kết quả không tồi nếu so với bọn lính phòng không chuyên nghiệp. Vài ngày sau những khẩu đội phòng không được cử đến, ngăn chặn thành công những cuộc đột kích tương tự trong tương lai.

    Trong khu vực chúng tôi phụ trách bắt đầu xuất hiện những chiếc máy bay Đức do người Rumani lái, đấy là hàng viện trợ cho họ ngày trước với tư cách đồng minh, giờ được sơn màu cờ và phù hiệu của quân đội Rumani, chiến đấu bên cạnh người Nga. Vì biết quá rõ các căn cứ của bọn họ nên chúng tôi bỏ ra 2 ngày để tấn công vào các sân bay ở Karlsburg, Kronstadt và Hermannstadt, tiêu diệt khoảng 150 máy bay trên mặt đất và một lượng nhỏ trên bầu trời, chủ yếu thuộc loại máy bay huấn luyện và vận tải. Như một sự trớ trêu của số phận, chúng tôi đóng đúng vai trò của bọn Mustang mấy hôm trước nhưng lần này nạn nhân lại là cựu đồng minh Rumani của chúng tôi.

    Cuộc chiến ở Rumani kết thúc. Quân đội Liên Xô tràn ngập khắp đất nước, cố gắng tìm kiếm một điểm đột phá để tiến vào Hungary. Hàng đoàn xe dài dằng dặc của quân đội Đức rút lui qua đèo Roter-Turm theo hướng Hermannstadt. Các cuộc xuất kích yểm hộ họ gặp rất nhiều khó khăn vì vấp phải hỏa lực vững vàng của các hệ thống phòng không di động. Có một lần chiếc FW 190 của tôi bị đạn 40mm bắn bay nắp buồng lái, các mảnh vụn bay tung tóe mà không gây thương tích gì cho người ngồi bên trong.

    Buổi tối hôm xảy tai nạn hi hữu đó, sĩ quan tình báo báo cáo với tôi về sự hiện diện của một đài phát thanh tuyên truyền bằng tiếng Đức của người Nga, nội dung tập trung vào bôi nhọ người lính Đức, kích động sự nổi dậy của cư dân địa phương. Sau khi hỏi ý kiến từ Quân đoàn, chúng tôi lập kế hoạch tấn công vị trí đặt đài vào ngày hôm sau. Toàn phi đoàn cất cánh từ lúc rạng đông, tiến thẳng tới Kronstadt, một khu định cư cũ của người Saxon ở Transylvania. Chỉ một lúc sau cả thị trấn hiện ra lung linh dưới những làn sương mờ ảo đang sáng lên, lấp lánh dưới những tia nắng mới. Chúng tôi nhận ra ngay trạm phát sóng với hai cột ăng ten cao ngất nằm trên một con đường nhỏ cách thị trấn 5 dặm về phía đông bắc. Khi tiến lại gần, một chiếc ô tô lao vọt ra khỏi tòa nhà trung tâm, phóng như bay vào một khu rừng bên cạnh. Kể ra nếu biết chắc chắn hành khách trên xe là những nhân viên cao cấp của đài thì cũng bõ công đuổi theo đấy, tôi tiếc rẻ quay lại, điều khiển máy bay đi vào bổ nhào, thận trọng tránh xa những đường dây cáp chằng chịt kết nối giữa 2 cột ăng ten. Tòa nhà mục tiêu đã nằm trọn trong máy ngắm, tôi ấn nút, kéo cần lái về sau rồi khéo léo lượn vòng quanh chờ xem kết quả vụ nổ và đợi các phi công khác hiệu chỉnh mục tiêu. Một trong những quả bom 35 lb của tôi phang trúng đỉnh một cột ăng ten, bẻ cong nó thành một góc vuông. Những quả bom còn lại nhanh chóng biến tất cả thành một đống gạch vụn. Chúng tôi quay trở về, hài lòng vì những lời lẽ xấu xa kích động hoạt động du kích ở hậu phương sẽ bị tắt ngấm trong một thời gian dài.

    Áp lực của Liên Xô lên các con đèo qua Carpathian ngày càng gia tăng, cho thấy những hậu quả nặng nề từ sự sụp đổ của Rumani. Họ băng qua Hermannstadt một khoảng xa, tiến gần tới Thorenburg và đang cố gắng chiếm Klausenburg. Các đơn vị phòng ngự khu vực này chủ yếu là sư đoàn thiết giáp số 1 và số 2 của quân đội Hungary, trong khi nguồn lực dự bị từ Đức là không đáng kể. Các cuộc tấn công của người Nga cũng đẩy lùi các đơn vị Đức trấn giữ Carpathian, buộc họ phải lùi xa hơn về phía bắc, mở toang cánh cửa tiến vào vùng đồng bằng Hungary rộng lớn. Với việc bị mất quyền kiểm soát dãy núi non hiểm trở hùng vĩ Carpathian, pháo đài tự nhiên trấn giữ một dải biên giới rất dài giữa 2 nước, cùng với việc quân đội Đức đã quá suy yếu, báo trước những ngày tháng sắp tới sẽ vô cùng khó khăn với chúng tôi.

    Chúng tôi chuyển tới một sân bay ở phía tây Sachsisch Regen trong một thời gian ngắn, từ đó liên tục xuất kích tấn công vào khu vực Thorenburg. Ở đó chúng tôi cham trán bọn cường kích II-2, những người quen cũ đã lâu lắm rồi chưa gặp lại. Lần này sử dụng một đội hình bay xen kẽ, với Phi đoàn 3 ném bom bằng Ju 87 còn tôi bay cùng Phi đoàn 2 trên những chiếc FW 190, chúng tôi đã bắn hạ một lượng lớn II-2 và tiêm kích của kẻ địch. Người có thành tích tốt nhất là Đại úy Kennel, chỉ huy Phi đoàn 2, một phi công tài năng trên chiếc FW 190 từng được tặng thưởng Lá Sồi. Về mặt lí thuyết công việc chính của chúng tôi vẫn là hỗ trợ mặt đất nhưng tham gia vào các cuộc không chiến, đánh bại kẻ địch, giành quyền kiểm soát trên không trung cũng là một cách rất tốt để động viên tinh thần và làm giảm lượng bom đạn rơi xuống đầu những người lính bộ binh nơi tiền tuyến. Nó cũng cho thấy những chiếc Ju 87 vẫn chưa đến mức vô dụng hoàn toàn và chúng tôi sẽ còn gắn bó lâu dài với nó.

    Tháng 9 năm 1944, những trận chiến bắt đầu nổ ra giữa vùng đồng bằng Hungary. Tôi vừa được thăng quân hàm Trung tá, cùng với cả bộ tư lệnh Không đoàn trú đóng tại Tasnad, phía nam Tokay. Phi đoàn 1 và phi đoàn 2 đóng phía nam và phía đông Tasnad, phi đoàn 3 chuyển tới Miskolcz, nơi mà những cơn mưa xối xả biến cả khu vực thành một đầm lầy khổng lồ.

    Những chiến công được sơn trên một chiếc P-41 Mustang Mĩ

    [​IMG]

    Một phi đội P-51 Mustang bay trên bầu trời Italia

    [​IMG]
    kuyomuko, huytop, viagraless1 người khác thích bài này.
  8. ChuyenGiaNemDa

    ChuyenGiaNemDa Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    05/10/2015
    Bài viết:
    11.822
    Đã được thích:
    23.126
    Chúng tôi chỉ ở đấy trong một thời gian ngắn, tập trung vào nhiệm vụ trinh sát, thỉnh thoảng mới tham chiến trực tiếp trong khu vực Grosswardein-Cegled-Debrecen. Người Nga tiến rất nhanh vào ban đêm, ban ngày dừng lại ngụy tranng và ẩn náu trong các ngôi làng, cánh rừng hoặc cánh đồng ngô ven đường. Tàn quân Đức rút về từ Rumani và những đơn vị cóp nhặt từ hậu tuyến ở Hungary được lắp ghép vội vã với nhau thành một phòng tuyến rất mỏng và yếu. Mỗi đơn vị được xây dựng bởi những người lính xuất thân từ đủ các quân binh chủng, họ là những gì còn sót lại của các tên tuổi lừng danh một thời: những trung đoàn bộ binh giàu truyền thống, các sư đoàn thiết giáp lừng danh, các trung đoàn SS thiện chiến …. Nhiều trong số đó là bạn bè, người quen cũ đã từng chia ngọt sẻ bùi với tôi trong những năm tháng chiến đấu gian khổ ở Nga. Tôi biết hầu hết những sĩ quan chỉ thị mục tiêu cho không quân của các đơn vị ấy, thậm chí có thể nhận ra từng người qua giọng nói. Nhờ có sự hướng dẫn của họ mà chúng tôi biết rõ về mặt đất chẳng kém bầu trời, còn bọn họ thì luôn biết cách lao lên quét sạch những gì còn sót lại của kẻ thù sau các đợt oanh tạc của chúng tôi. Nhưng ưu thế về quân số của người Nga lớn đến mức thành công lớn nhất của chúng tôi chỉ còn mang tính cục bộ tạm thời, bọn chúng luôn sẵn sàng tạo thành những mũi vu hồi sâu vào 2 bên sườn, buộc các đơn vị Đức phải rút lui để bảo vệ đường tiếp vận phía sau lưng.

    Tình huống đó cứ lặp đi lặp lại cho đến khi chúng tôi lùi vế đến Theiss, được xây dựng như một tuyến phòng thủ mới. Đây là một con sông hẹp, với trình độ kĩ thuật quân sự hiện thời thì nó không phải là một trở ngại. Người Nga nhanh chóng xây dựng được một đầu cầu tại Szeged bất chấp mọi nỗ lực cản phá, rồi từ đó thọc lên theo hướng tây bắc tới Kecskemet. Không đoàn tôi nhanh chóng được điều động trở lại Farmos, phía tây của Szolnok, trên tuyến đường sắt từ Szolnok đến Budapest. Sân bay nhanh chóng trở thành địa điểm viếng thăm thường xuyên của các máy bay ném bom 4 động cơ Mĩ bởi từ trước đến nay chúng vẫn thường oanh tạc vào cây cầu đường sắt ở Szolnok, ngay bên cạnh chúng tôi.

    Khẩu phần ăn ở đây được đảm bảo nhờ tài bắn súng của Niermann. Mỗi chiều anh ta mang về một túi to thỏ rừng, thứ vốn sinh sôi nảy nở tràn lan trong khu vực. Mọi người xơi chúng nhiều đến mức chỉ cần nhìn thấy thỏ là Fidolin lên cơn buồn nôn. Thời tiết cũng đã bắt đầu se lạnh, chả mấy chốc mùa đông sẽ ập đến, mỗi khi thực hiện một cuốc chạy băng đồng vào buổi tối ở khu vực lân cận Farmos, tôi vẫn thường kinh ngạc và thán phục trước vẻ đẹp của vùng đồng quê. Đấy là vẻ đẹp hoàn toàn khác biệt với khung cảnh núi non hùng vĩ mà một vận động viên leo núi như tôi thường được chiêm ngưỡng.

    Những cuộc oanh tạc của chúng tôi giờ nhắm cả vào 2 bên bờ sông Theiss bởi Liên Xô đã thiết lập được một số đầu cầu bên bờ tây. Cũng giống như các lần ngăn địch vượt sông trước kia, chúng tôi ném bom vào điểm tập trung người và phương tiện, thiết bị bên bờ sông cũng như các con đường nối liền với chúng. Quân địch đối phó bằng cách liên tục xây thêm các cây cầu mới, huy động tối đa các phương tiện để vượt sông. Chúng vơ vét từ khắp mọi nơi, mang về những chiếc bè, thuyền buồm cũ, thuyền đánh cá, tàu du lịch để băng qua mặt sông Theiss, tập trung ở đoạn Szeged và Szolnok, sau đó mở rộng về phía bắc. Để thủ tiêu điểm tập kết nguy hiểm này, cùng với sự yểm trợ của chúng tôi từ trên không, lục quân Đức tung một đòn đột phá vào khu vực Szolnok -Mezotuer-Kisujzalas-Turkewe, thu được kết quả rất khả quan. Hoạt động của người Nga trên sông Theiss bị chậm lại, các con đường tiếp vận phía bắc bị tàn phá. Nhưng họ nhanh chóng mở rộng đầu cầu ở Szeged rồi nối chúng với một đầu cầu khác nhỏ hơn và xa hơn về phía bắc.

    Vào cuối tháng Mười, người Nga đã chuẩn bị xong và bắt đầu tấn công, từ hướng đông – đông nam đánh thẳng vào bắc – tây bắc của Kecskemet. Mục tiêu rất rõ ràng, đó là đập tan tuyến phòng thủ Đức trên sông Theiss, nhanh chóng băng qua vùng đồng bằng trống trải tiến thẳng tới thủ đô Hungary và sông Danube. Trên không trung, từ các sân bay trong vùng Debrecen, bọn họ tung ra những làn sóng máy bay áp đảo hoàn toàn Luftwaffe về số lượng. Chúng tôi không được bổ sung máy bay cho những thiệt hại gây ra bởi phòng không và tiêm kích Nga, trong khi lượng cung ứng nhiên liệu và đạn dược cho chiến đấu không đủ. Nguyên nhân là vì các tuyến đường sắt, các đầu mối giao thông bị máy bay chiến lược Anh - Mĩ ném bom dữ dội, đó còn là chưa kể đến các hoạt động tuần tiễu của bọn cường kích Mĩ.

    Với số máy bay ít ỏi còn lại trong không đoàn cùng với phi đội chống tăng, tôi thường thực hiện các phi vụ oanh tạc xuống đông nam của Kecskemet. Có lần một mình tôi bay Stuka với 4 chiếc FW 190 hộ vệ, tìm kiếm bọn thiết giáp Nga. Chúng xuất hiện thành một hàng dài trên con đường chạy về phía bắc Kecskemet với bọn tiêm kích hộ vệ lơ lửng trên đầu giống như một chùm nho to, dày đặc. Chúng tôi nhanh chóng dò ra tần số sóng liên lạc của người Nga, một sĩ quan trên chiếc FW 190 nhanh chóng dịch những tiếng la hét chói tai sang tiếng Đức:

    - Chim ưng Đỏ chú ý! Một chiếc Stuka đơn độc với 2 dải sọc dài xuất hiện, con lợn đấy sẽ tấn công xe tăng của chúng ta. Tập trung bắn hạ chiếc Stuka, không phải bọn Focke đi cùng.

    Làn sóng tấn công của địch ập đến, tôi bổ nhào xuống mục tiêu phía dưới, một chiếc tăng địch bùng cháy. Trên đầu tôi 2 chiếc FW 190 cố gắng ngăn cản bọn Lag lăn xả vào, 2 chiếc FW 190 còn lại bám sát ngay đằng sau, chiến đấu không để đối phương tách rời tôi ra xa. Dưới mặt đất, tên sĩ quan kiểm soát không lưu Nga gào lên điên loạn như một con lợn bị chọc tiết: “Tiếp tục! Tiếp tục! Tiếp tục! Bắn hạ con lợn Quốc xã ngay. Các anh không thấy một xe tăng bị bắn cháy hay sao?”. Hơn 20 chiếc tiêm kích Lavochkin và Yak 9 bâu xung quanh, lần lượt lao vào công kích. Tôi liên tục ngoặt gấp, tận dụng khả năng cơ động tốt ở tốc độ thấp của Stuka khiến kẻ tấn công lao trượt sang một bên rồi nhanh chóng vòng ra ngay sau lưng hắn bắn liền 2 phát đạn 37mm. Dù khoảng cách có xa, dù rất tiếc những viên đạn quý giá nhưng tôi vẫn buộc lòng phải bắn, uy hiếp tinh thần kẻ địch bằng những quả cầu lửa lướt sát sạt buồng lái của hắn. Radio tiếp tục truyền đến những đoạn hội thoại: “Coi chừng! Cẩn thận! Con lợn Quốc xã bắn trả đấy”. Chiến thuật của chúng tôi làm bọn họ bối rối. Rồi tên tốp trưởng của không quân Nga ra lệnh:

    - Chúng ta phải dùng cách khác. Tất cả tập hợp tại ngôi làng đằng kia!

    Bọn họ bỏ đi, lập thành một đội hình vòng tròn phía xa. Điều này không những khiến chúng tôi mà cả người Nga dưới mặt đất cũng bị bất ngờ. Vẫn đang đứng nghển cổ lên trời theo dõi cuộc không chiến với niềm tin vững chắc về chiến thắng, giờ họ phải chứng kiến chiếc máy bay Đức sà thẳng xuống đầu, khạc lửa. Trong phút chốc 4 xe tăng Nga nữa bùng cháy. Tên sĩ quan dưới mặt đất rú lên, tuôn ra hàng tràng những lời chửi rủa. Lúc này những chiếc tiêm kích Nga sau một hồi họp bàn trao đổi về chiến thuật đã quay trở lại, cùng một lúc lao tới tấn công từ nhiều góc độ khác nhau. Quá muộn rồi. Máy bay đã bắn hết sạch đạn vào các mục tiêu dưới đất, mồ hôi tôi chảy ròng ròng dưới chiếc áo lông thú. Phải rút lui ngay nếu không cả đội sẽ bị bắn rơi. Chúng tôi quay trở về một cách chật vật dưới sự đeo bám quyết liệt của đối phương. 2 sĩ quan Biermann và Kinader cố gắng che chắn cho máy bay tôi, không sợ bị bắn hạ bằng việc tôi gặp nguy hiểm. Rồi cũng đến lúc các tiêm kích Nga phải bỏ cuộc. Một lúc sau chúng tôi vẫn còn nghe thấy mặt đất và không trung Nga cãi lộn, đổ lỗi cho nhau.

    Đó là chút ánh sáng hiếm hoi trong tình hình u ám chung trên toàn mặt trận, chúng tôi vẫn tiếp tục rút lui, vá víu các lỗ thủng bằng những đơn vị thành lập vội vàng từ lính không quân, lính phòng không và các sắc lính kĩ thuật khác. Luôn không có đủ người và phương tiện quân sự. Lòng can đảm, những chiến thắng mang tính cục bộ không thể san bằng được ưu thế về nguồn lực khổng lồ của kẻ thù. Mặt trận trên sông Theiss tan vỡ, phòng tuyến tiếp theo của chúng tôi sẽ là sông Danube. Nhưng giờ sự chú ý của tôi dồn về phía cực Nam, nơi mà các dấu hiệu cho thấy Liên Xô sẽ tấn công xuyên Fiinfkirchen về hướng Kaposvar, tạo thành một vùng nguy hiểm mới. Chả bao lâu sau nỗi lo đó sẽ biến thành hiện thực.

    Rudel bay trở về sau một chuyến săn tăng ở Hungary - Tháng 11 năm 1944. Người bay phía sau là Trung úy Anton Korol. Korol nhận được huân chương Chữ thập hiệp sĩ cho thành tích tiêu diệt 99 xe tăng Nga.

    [​IMG]

    Anton Korol đầu hàng quân Mĩ cùng với chiếc Ju 87 G-2 ngày 8 tháng 5 năm 1945

    [​IMG]
    Lần cập nhật cuối: 27/12/2021
    huytop, kuyomuko, viagraless1 người khác thích bài này.
  9. ChuyenGiaNemDa

    ChuyenGiaNemDa Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    05/10/2015
    Bài viết:
    11.822
    Đã được thích:
    23.126
    15. Chiến đấu cho Hungary

    Giờ đã là những ngày cuối cùng ở Farmos. Người Nga tung một mũi nhọn xe tăng về hướng dãy núi Matra, tiến vào vùng ngoại ô Goengjes. Quân đội chúng tôi bị vu hồi vào bên sườn, loay hoay tìm cách khôi phục tình thế và khép lại lỗ hổng. Thời tiết rất xấu, đặc biệt là khi địa hình phần này của đất nước có rất nhiều đồi, còn trần mây thì thấp một cách đáng kể so với nhiều nơi khác. Chúng tôi bay vòng qua bên trái Budapest, chả mấy chốc dãy núi Matra hiện ra phía trước, đằng sau là thành phố Goengjes. Phía nam có nhiều đám cháy, là nơi chúng tôi phải đến nếu muốn tìm thấy đối phương. Chúng kia rồi! Một hàng xe tăng chạy trên đường, đó phải là xe tăng Nga, không thể khác được. Ngay khi tôi cho máy bay quét một vòng rộng để có một cái nhìn toàn cảnh về chiến trường thì những luồng chớp mãnh liệt lóe sáng và những khẩu pháo phòng không tầm trung khạc lửa. Chúng tôi bay vòng tròn quanh nhóm tiên phong địch ở độ cao thấp. Ngay phía trước mấy chiếc tăng T-34 và IS là một kiểu tăng tôi chưa bao giờ nhìn thấy, nó cũng không phải loại xe do Mĩ chế tạo. Tôi quyết định xử lí anh chàng này trước, sau đó mới đến mấy chiếc kia. Chiếc tăng thứ 5 bốc cháy cũng là lúc máy bay hết đạn. Phi đội săn tăng đã hoàn thành nhiệm vụ.

    Chúng tôi quay trở về sân bay, giữa đường bị bọn tiêm kích Yak 9 tập kích nhưng không có tổn thất. Vượt qua chiến tuyến và còn cách căn cứ 10 phút bay thì một câu hỏi bật lên trong đầu tôi: Sẽ ghi thế nào về chiếc xe tăng lạ trong bản báo cáo? Liệu máy ảnh tự động có chụp được một bức ảnh đủ rõ để xác định loại tăng mà tôi vừa bắn hạ không? Điều quan trọng là các sĩ quan tham mưu phải được thông báo về mẫu mã hoặc chủng loại vũ khí mới vừa xuất hiện trên mặt trận. Vì thế tôi phải biết rõ hơn về chiếc xe tăng đó. Tôi yêu cầu phi đoàn trưởng Phi đoàn 3 chỉ huy đơn vị hạ cánh rồi mở rộng vòng lượn, quay trở lại nơi mình vừa rời đi.

    Đến nơi, tôi giảm b.ướm ga một chút, vòng 4-5 lần trong bán kính hẹp ở độ cao 3-5m, quan sát cẩn thận con quái vật thép vẫn đang bốc cháy ở cự li gần. Ngay bên cạnh nó là chiếc IS, nằm một cách thảnh thơi, giống như vừa từ hậu phương mò đến xem chuyện gì đang xảy ra. Ở vòng lượn cuối cùng tôi phát hiện ra một tốp người Nga đang lúi húi phía dưới tấm xích bảo vệ của chiếc IS, trước mặt họ là một khẩu súng phòng không 13mm được đặt trên giá 3 chân. Nép mình sát chiếc xe tăng, đầu cúi thấp, tất cả đều đang nhìn về phía tôi còn khói thì phụt ra từ họng khẩu súng máy. Vậy là họ đang nhằm bắn vào tôi. Tôi nhẩm tính, ở khoảng cách 50-60m với những vòng lượn thay đổi liên tục về độ cao thì bọn họ phải được đào tạo bài bản và rất giàu kinh nghiệm mới có thể bắn trúng được máy bay tôi. Vừa mới nghĩ được đến đấy thì 2 tiếng động chói tai vang lên rồi đùi trái vụt đau nhói. Trời đất xung quanh tối sầm lại, một dòng chất lỏng ươn ướt chảy tràn trên chân tôi. Tôi vội vã thông báo với Gadermann nhưng anh ta bất lực, không thể làm gì để giúp đỡ. Tôi cũng không mang băng cá nhân, địa hình phía dưới không thích hợp cho việc hạ cánh bắt buộc, dù xuống được dưới đất tôi vẫn có thể bị chảy máu đến chết trước khi có được sự trợ giúp y tế. Bởi thế tôi buộc phải bay thêm 25 phút nữa để tìm về Budapest.

    Tôi có thể cảm thấy sức lực đang chảy tràn theo dòng máu ra ngoài cơ thể. Đầu lâng lâng, như thể nó không còn là đầu tôi nữa nhưng tôi vẫn phải bay, cố kiểm soát các giác quan của mình. Tôi bật công tắc liên lạc nội bộ, hỏi Gadermann:

    - Theo cậu thì tôi sẽ ngất xỉu luôn …. hay cứ thế mà lịm dần đi?

    - Ngài sẽ không về được đến Budapest…..Chắc chắn thế! …….Nhưng cũng không bất tỉnh nhân sự ngay đâu.

    Có lẽ anh ta thêm mấy từ cuối vào để không làm tôi thất vọng. Tôi quả quyết:

    - Vậy thì tôi sẽ tiếp tục … chúng ta vẫn còn cơ hội.

    Tôi tiếp tục đẩy tay ga về phía trước …. Những giây phút căng thẳng cứ thế trôi qua ….Tôi sẽ không bỏ cuộc …. Tôi sẽ không … Sân bay quân sự Budapest kia rồi …. Hạ cánh tà … Giảm tay ga …. Tôi đang lao xuống …. Và thế là hết! …..

    Tôi tỉnh dậy trên bàn phẫu thuật của một bệnh viện tư, vây quanh bởi các y tá đang nhìn chằm chằm một cách hiếu kì. Ngay đằng sau giáo sư Fick – bác sĩ phẫu thuật – là Gadermann đang đứng lắc đầu. Sau đó anh ta kể rằng những lời lẽ tôi lảm nhảm trong khi hôn mê không được lịch sự với nữ giới cho lắm. Tôi chỉ còn biết cười trừ. Giáo sư Fick giải thích rằng tôi bị trúng 2 viên đạn 13mm vào chân, trong đó một viên đã được lấy ra còn viên kia xuyên qua bắp thịt bay ra ngoài từ trước. Tôi bị mất rất nhiều máu, chân phải bó bột bằng thạch cao và sẽ được gửi đến một nhà điều dưỡng ở hồ Balaton để tĩnh dưỡng. Tôi hỏi bao lâu nữa mình có thể đi bộ, hoặc ít ra là bay nhưng ông trả lời một cách khá mơ hồ, chắc có lẽ được Gadermann cảnh báo trước về bản tính thiếu kiên nhẫn của tôi với các vị đại diện của ngành y.

    Fidolin mò đến, hết lời nguyền rủa tôi vì đã để thói tò mò lôi vào rắc rối nhưng biểu hiện của anh ta như thể là: “Tạ ơn chúa vì mọi chuyện đã không tồi tệ hơn”. Anh ta cũng báo cáo rằng đơn vị chuyển về khu vực Stuhlweissenburg, sau đó sẽ là Boergoend. Rồi bọn họ ấn tôi vào chiếc máy bay tải thương Storch, bay đến Hevis bên hồ Balaton nơi tôi được tống vào viện điều dưỡng của bác sĩ Peter. Gặp ông, tôi nài nỉ ông tháo băng cho mình, đồng thời hỏi rằng sẽ phải nằm ở đây trong bao lâu. Ông từ chối tháo băng, đồng thời thông báo không chút úp mở:

    - Nếu vết thương không nhiễm trùng thì ngài sẽ phải nằm ngửa trong 6 tuần.

    Lời lẽ của ông làm tôi chán nản kinh khủng. Tôi phải nằm ở đây tới một tháng rưỡi trong khi ngoài kia mọi người đàn ông khỏe mạnh đều đang chiến đấu. Ý nghĩ đấy làm tôi phát điên. Tôi sẽ không bao giờ cảm thấy thoải mái tại nơi này, dù có được chăm sóc tốt đến đâu chăng nữa. Hàng ngày Fidolin từ Boergoend bay đến thăm, mang theo một cặp đầy giấy tờ mà tôi phải kí cùng một kho chuyện mà tôi phải lắng nghe, giải quyết các thắc mắc và đòi hỏi từ các thuộc cấp chuyển lên. Tôi cũng biết không đoàn đang đóng trên một sân bay ở Veces, ngoại ô Budapest, điều kiện thời tiết tháng 11 rất tệ hại, đến mức dù tình hình chiến sự đang nguy ngập nhưng chỉ có rất ít phi vụ được thực hiện.

    Tôi nằm viện đến ngày thứ 8 thì Fidolin mang đến tin tức Liên Xô mở chiến dịch tấn công Budapest, đã vượt sông Danube và thiết lập được một đầu cầu ở bờ bên này. Tệ hại hơn, đòn tấn công thứ hai từ phía Nam nhằm tới hồ Balaton của họ sẽ thiết lập được một cái nêm giữa các phòng tuyến Đức. Với tôi thế đã là quá đủ. Tôi đứng bật dậy ra lệnh chuẩn bị, tôi sẽ đi cùng với anh quay trở lại đơn vị. Fidolin phản đối:

    - Nhưng …..!

    Rồi anh ta im bặt, hiểu rõ rằng có nói gì cũng vô ích. Tiếng thu dọn đồ đạc ầm ầm của Fidolin thu hút sự chú ý của y tá. Nàng ta thò đầu vào xem xét rồi nhanh chóng biến mất. Một lúc sau bác sĩ Peter tìm đến, chỉ để thấy tôi đã sẵn sàng cho việc xuất viện. Tất nhiên là ông không đồng ý nhưng 2 đứa tôi không cần đến sự cho phép từ ông. Chúng tôi cứ thế lên xe, chả cần giấy má gì hết, lái thẳng một mạch ra sân bay. Một tiếng sau chiếc máy bay cất cánh chở tôi về với Không đoàn.

    Đơn vị đang đóng quân trong làng, giống như ở Farmos. Dân chúng chào đón người Đức, hi vọng chúng tôi ngăn chặn được người Nga và giải phóng phần đất nước bị chiếm đóng của họ. Dahlmann, người lính cần vụ, đã dọn dẹp và sưởi ấm một căn nhà nhỏ, nơi ban đầu định dành làm phòng bệnh. Tôi phải cần tới sự giúp đỡ trong ngày đầu tiên trở lại làm việc, cái chân bó bột rất khó cử động nhưng tôi sẽ quen nhanh thôi. Thời tiết chỉ tốt được vài ngày, sau đó là những cơn mưa xối xả, biến sân bay trở thành bãi lầy của bùn và tuyết. Chúng tôi chuyển sân bay đến Varpalota, nơi địa hình cao ráo và có thể cất cánh bất kì lúc nào trong ngày.

    Cuối cùng cũng đến lượt Phi đoàn 3 chuyển loại sang bay FW 190. Việc rút cả phi đoàn về hậu tuyến trong điều kiện chiến sự ác liệt là không khả thi nên tôi lần lượt chuyển 1-2 phi công về biên chế Không đoàn. Ở đó, giữa các phi vụ xuất kích tôi dạy họ về loại máy bay mới, sau đó là bay chuyển loại, số lần nhiều hay ít tùy theo năng lực tiếp thu của từng người. Tôi kết thúc khóa học bằng cách lấy họ bay số 2 trong khoảng 10-15 phi vụ chiến đấu. Họ rồi sẽ quay trở lại phi đoàn, nhường chỗ cho các học viên khác. Bởi đa phần các phi công đã có kinh nghiệm lâu năm nên quá trình này diễn ra suôn sẻ. Bằng cách này cả Phi đoàn 3 bay chuyển loại thành công mà hoạt động chiến đấu vẫn không bị gián đoạn.

    Một xe tăng IS-2 với khẩu DShK 12.7mm trên nóc.

    [​IMG]
  10. ChuyenGiaNemDa

    ChuyenGiaNemDa Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    05/10/2015
    Bài viết:
    11.822
    Đã được thích:
    23.126
    Những phi vụ chiến đấu đầu tiên của các tân phi công FW 190 rất khó khăn, ngày trước họ điều khiển Ju 87 với nửa bán cầu không gian phía sau được xạ thủ súng máy quan sát, cảnh báo và bảo vệ, bây giờ họ phải đảm nhiệm hết trên chiếc FW 190 một chỗ ngồi, trong điều kiện không quân và phòng không Nga ngày càng tăng cường về lượng và chất. Tôi nhớ tới FO Stahler, anh ta bị phòng không Nga bắn trúng ngay lần đầu xuất kích trên chiếc máy bay mới, phải hạ cánh bắt buộc sau chiến tuyến. Tôi cũng nhớ tới FO M, chuyến bay tốt nghiệp đầu tiên của anh suýt biến thành thảm họa. Đó là một ngày tháng 12 lạnh giá, chúng tôi cất cánh đuổi theo bọn II-2 ở độ cao 500m. Trong điều kiện nhiệt độ thấp, động cơ thường phải chạy một lúc lâu mới đạt tới công suất tối đa nhưng hôm nay các thợ máy sử dụng một loại nhiên liệu đặc biệt để bỏ qua quá trình này. M không biết điều đó, anh ta vẫn giữ công suất động cơ ở mức độ thấp và tụt lại phía sau. Chả mấy chốc tôi vượt qua chiến tuyến, bắt kịp bọn II-2 ở khoảng cách 800m. Dù chỉ có một mình nhưng với chiếc FW 190 này tôi không hề sợ hãi các kĩ năng bay của bọn phi công lái Lag hay Yak Nga. Đột ngột động cơ máy bay hộc lên, bắn dầu tung tóe ra khắp buồng lái. Chỉ trong nháy mắt tôi không còn nhìn thấy phía trước và hai bên của máy bay. Phải mất một lúc mới nhận ra nguyên nhân trục trặc ở phần pittong động cơ chứ không phải do bị bắn trúng. Tiếng ồn động cơ cho thấy nó có thể ngừng hoạt động bất cứ lúc nào, phải hạ cánh ngay lập tức. Tôi hạ độ cao, quay về phòng tuyến quân nhà một cách nhanh nhất, biết rằng mình không thể nhảy dù với một chân bó bột. Vượt qua phòng tuyến, tôi nhìn ra đằng sau buồng lái, cố gắng tìm kiếm một ví trí có thể hạ cánh, nó phải đủ gần sân bay nhà để tôi không mất thời gian quay về. Không có! Một tháp chuông nhà thờ lướt vụt qua cửa sổ buồng lái. Lạy chúa! Xin Người đừng đón con theo cách thức như thế này.

    Cuối cùng tôi cũng nhìn thấy một con đường đất phía dưới cánh máy bay. Thận trọng điều chỉnh hướng, tôi kéo cần lái, hi vọng động cơ vẫn còn duy trì đủ sức kéo, máy bay ngóc đầu lên rồi hạ cánh. Chạm nền đất đóng băng cứng ngắc, nó trượt song song với một con mương nước rộng, rất lâu sau mới dừng lại. Cái chân, mối quan tâm lớn nhất của tôi, vẫn an toàn. Tôi trèo ra khỏi buồng lái, ngồi trên cánh máy bay, liếc nhìn động cơ đang bốc khói nghi ngút rồi cứ thế nhìn ngắm khung cảnh mùa đông yên ả thanh bình giáp ngày Giáng sinh. Từ phía tiếng đạn pháo đang nổ ì ầm một chiếc xe ô tô xuất hiện, trên đó có 2 người lính. Đầu tiên họ thận trọng quan sát để chắc chắn tôi không phải người Nga bởi máy bay Nga thường xuyên bị bắn hạ và rơi sau phòng tuyến Đức, sau khi lót ván trên mặt mương đóng băng, họ chạy băng qua rồi thận trọng mang tôi quay trở lại ô tô. Chỉ một giờ sau tôi có mặt trên sân bay, sẵn sàng cho một phi vụ xuất kích mới.

    Ngay ngày hôm sau, trong khi đang nằm nghỉ ngơi giữa 2 phi vụ thì ngoài xa có tiếng động cơ máy bay vọng đến. Doanh trại chúng tôi nằm cách sân bay vài dặm ở ngoại ô thành phố Varpalota, nhưng với phi công quân sự thì tiếng động cơ máy bay còn dễ nhận biết hơn cả tiếng mẹ đẻ. Đấy chắc chắn không phải là máy bay Đức. Tôi lao ngay ra ngoài cửa sổ nhìn lên bầu trời, ở độ cao 400m là những chiếc B-25 Mitchell của người Nga đang tiến đến. Chúng lao xuống, rít lên và nhả ra những quả bom. Cái chân tôi không còn nằm trong bột bó nữa, nó như được lắp thêm motor, giúp tôi nhào xuống sàn nhà với tốc độ ánh sáng. Một quả bom nổ tung cách cửa sổ 15m, biến chiếc ô tô BMW của tôi thành các mảnh vụn. Sóng xung kích quật tung cửa sổ, ném cái khung cửa vòng quanh cổ Dahlmann, người cần vụ đang chạy vào từ phía đối diện nhằm cảnh báo cho tôi. Tuy không bị thương nhưng người lính trẻ đó bị shock nặng. Kể từ đó dáng diệu, khuôn mặt cậu ta thay đổi hẳn, chiến tranh in hằn lên đó dấu vết của nỗi lo và sự sợ hãi. Chúng tôi không khỏi buồn cười pha chút thương cảm mỗi khi nhìn thấy bóng dáng cậu ta.

    Với sự đóng góp của chúng tôi từ trên không trung, chiến sự tại hồ Balaton tạm lắng. Nhưng người Liên Xô vòng qua Budapest tiến tới sông Gran ở phía bắc Danube, các đầu cầu phía nam tuy bị quân Đức đẩy lui nhưng từ đấy họ hợp nhất với một mũi tấn công khác theo hướng Tây bắc để tấn công. Vòng vây của Liên xô quanh Budapest khép lại bởi cuộc tấn công tiếp theo từ rìa phía đông của dãy núi Vecec thuộc khu vực phía bắc Stuhlweissenburg. Chúng tôi xuất kích và trút bom xuống vùng này, một số phi vụ thậm chí đi xa hơn về phía đông, cố gắng gây trở ngại cho các tuyến tiếp vận đang vận hành ngày đêm của họ. Tình hình chiến sự biến đơn vị tôi trở thành một không đoàn đa năng, đáp ứng tất cả yêu cầu của các cấp trên, vừa là máy bay trinh sát đồng thời là máy bay ném bom bổ nhào, là máy bay cường kích kiêm luôn nhiệm vụ của máy bay tiêm kích.

    16. Giáng sinh năm 1944


    Chúng tôi chuyển sân bay tới Kememed St. Peter thuộc khu vực Papa, tham gia vào cuộc chiến khốc liệt nhằm giải vây cho Budapest. Còn chưa kịp ổn định chỗ ăn ở thì Fidolin lao ào vào như một cơn lốc: “Ê, còn 2 ngày nữa là Giáng sinh đấy”. Tất cả mọi người ồ lên, nhìn lịch rồi nhìn nhau. Đã lâu rồi cuộc sống của chúng tôi mang nhịp điệu của một cái máy, cất cánh – oanh kích – hạ cánh – cất cánh – oanh tạc – hạ cánh … Ngày nối ngày, tháng nối tháng, năm nối năm, hết nóng rồi lạnh, hết ngày phải đến đêm, hết mùa đông sẽ phải đến mùa hè. Chúng tôi không còn lưu giữ nhiều cảm xúc, chỉ quan tâm đến một vài vấn đề rất nhỏ: “xuất kích à?”, “đến đâu?”, “chống lại bọn nào?”, “thời tiết ra sao?”, “bố trí phòng không thế nào?”. Khi cuộc chiến khốc liệt giờ đây trở thành một cuộc đấu tranh sinh tồn, mọi nhu cầu cá nhân của người lính trở thành thứ yếu. Một câu hỏi luôn lởn vởn trong đầu mọi người, từ lính tới sĩ quan, “chúng ta cứ tiếp tục như thế này được bao lâu nữa đây?”

    Vậy là chỉ một ngày trước Giáng sinh, Fidolin cùng một nhân viên tham mưu lái xe đến Bộ tư lệnh Quân đoàn lấy thư. Các đơn vị lớn trong quân đội đều gửi thư mừng Giáng sinh tới “Immelman Circus” (ND: Immelman là tên Không đoàn SG2 của Rudel, còn Circus là gánh xiếc, mang hàm ý tôn vinh năng lực chiến đấu vì ngày xưa Không đoàn của Nam tước đỏ Richthofen được gọi là Richthofen’s Circus). Chúng tôi quay về sau chuyến xuất kích cuối cùng vào lúc 5h chiều ngày 24/12, cả căn cứ chìm ngập trong không khí lễ hội, vui nhộn pha lẫn ấm cúng như ở nhà. Tôi ghé thăm lần lượt từng sở chỉ huy phi đoàn, mỗi nơi đều trang hoàng theo phong cách riêng, phản ánh cá tính của người chỉ huy đơn vị. Sau đó quay về bộ tư lệnh Không đoàn, được trang trí bằng rất nhiều cây ô rô, tầm gửi và nến, giữa phòng là 2 cây thông lớn, gốc chất đầy quà. Nó làm tất cả chúng tôi nhớ về tuổi thơ, về cha mẹ, vợ con, cùng những người thân khác trong gia đình. Cuối cùng mọi người cũng quay trở về với thực tại, cùng nhau hát Stille Nacht, Heilige Nacht và các bài hát Giáng sinh khác. Những giai điệu nhẹ nhàng, bay bổng thần thánh được hát lên bởi chất giọng trầm khàn của những người đàn ông chai sạn với bom đạn và cái chết. Nó làm dịu tâm hồn, đưa chúng tôi thoát khỏi suy tư u ám thường ngày. Khi dư âm của những bài hát tan đi, tôi đứng lên nói vài lời với các đồng đội, với tư cách của một người bạn chiến đấu chứ không phải một chỉ huy. Sau đó mọi người ngồi vui vẻ với nhau trong một hoặc hai giờ. Rồi đêm Giáng sinh kết thúc.

    Sáng hôm sau đúng là ngày lễ mà Thánh Pedro dành cho lính không quân, trời đầy sương mù dày đặc. Ngoài kia người Nga đang tiến quân đấy nhưng thời tiết này không thể bay được. Tôi chơi một trận khúc côn cầu trên băng với đồng đội, đứng canh gôn trong đôi ủng lông mềm, vụng về gạt bóng, ngã sấp ngã ngửa vì vết thương 5 tuần tuổi không cho phép giữ thăng bằng trên mặt băng trơn trượt. Buổi chiều tôi mời một số đồng nghiệp đi săn, đây là thú vui phổ thông mà tôi không biết nhiều lắm. Mọi người dàn hàng ngang, lội trong tuyết lạnh, càn vào những bụi rậm để xua lũ thỏ. Nhưng chúng luôn nhanh nhẹn tìm được đường thoát khỏi vòng vây. Đột nhiên tôi liếc thấy một con thỏ vọt qua ngay bên cạnh. Xoay người, vung khẩu súng như một thợ săn bẩm sinh, tôi nheo mắt bóp cò ….. Bang! Một cơ thể lăn tròn trên mặt tuyết, đó không phải là con thỏ, đấy là Trung sĩ Bohme, lái xe của tôi, nãy giờ vẫn đi bên cạnh mà tôi quên khuấy mất. Anh ta chồm lên khỏi đống tuyết, phủi tuyết, gương mặt thất thần nhìn tôi với vẻ chê trách: “Thật là vãi lái, thưa ngài!”. Phản xạ tuyệt vời của Bohme khi nhìn thấy động tác bất thường của tôi đã cứu anh thoát chết. Viên đạn trượt qua anh ta và trúng vào con thỏ. Phải mất một lúc tôi mới thoát khỏi cơn hoảng sợ. Thật đúng là một Giáng sinh nhớ đời.

    Ngày 28 tháng 12 năm 1944, Hungary rời khỏi phe Trục, tuyên chiến với nước Đức. Cuộc chiến giành quyền kiểm soát Budapest đã tàn phá tan hoang thủ đô. Cây cầu treo Elisabeth nổi tiếng bắc qua sông Danube bị quân đội Đức giật sập. Một sự kiện mà người Hungary sẽ nhớ rất lâu.

    [​IMG]

    Trước chiến tranh

    [​IMG]
    Lần cập nhật cuối: 29/12/2021
    huytop thích bài này.

Chia sẻ trang này