1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Lịch sử Việt Nam: Bao nhiêu năm Bắc thuộc? Và hiểu thế nào về vấn đề này?

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi chauphihwangza, 26/02/2007.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. Lacabon

    Lacabon Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    15/10/2010
    Bài viết:
    22
    Đã được thích:
    0
    Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 st1\:-*{behavior:url(#ieooui) } /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt; mso-para-margin:0cm; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-fareast-font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Sử cũ coi nhà Triệu là một triều đình của Việt Nam nên chỉ tính thời kỳ Bắc thuộc từ khi Hai Bà Trưng thất thủ (năm 43) nên mới có câu:
    Nước ta từ thủa thuộc người,​
    Khởi từ Đông Hán đến thời Ngô vương.​
    Trong toàn bộ tiến trình lịch sử Việt Nam, đây là một trong những thời kỳ vận mạng dân tộc trải qua một thử thách cực kỳ hiểm nghèo, người Việt phải đóng sưu thuế cho triều đình phía bắc. Ngoài số thuế của nhà nước, một số quan cai trị địa phương vì ở xa nên cũng bòn vét thêm của dân. Đúng là:
    Dân ta chịu những chiến trường,​
    Cấy cày chẳng được, muôn đường khó khăn.​
  2. nguoiquacau

    nguoiquacau Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    24/10/2010
    Bài viết:
    46
    Đã được thích:
    0
    Các câu thơ này không thể ra đời trước thời Bắc thuộc được , thơ Lục Bát chỉ mới bắt đầu vào đời Đường ! Các nhà sử học thời xưa , đâu phải ai cũng công nhận Triệu Đà là vua nước ta , bạn đọc sách của Ngô Thì Sỹ chưa ??
  3. sohtrop

    sohtrop Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/12/2010
    Bài viết:
    146
    Đã được thích:
    0
    thử
  4. Lacabon

    Lacabon Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    15/10/2010
    Bài viết:
    22
    Đã được thích:
    0
    1. Về nhà Triệu (赵氏, 207 tCn-111 tCn) và nước Nam Việt 南越 cho rằng quốc hiệu này là của người Việt bởi “Triệu Vũ Đế đánh bại An Dương Vương, sáp nhập Âu Lạc vào Nam Việt là chuyện nội bộ tộc Việt, nhà Triệu là triều đại chính thống của Việt Nam. Nhà Triệu mất là khởi đầu thời kỳ Bắc thuộc”, được ghi nhận bởi các học giả: Lê Văn Hưu, Ngô Sĩ Liên, Nguyễn Trãi, Lê Tắc, Quang Trung, Trần Trọng Kim.

    Quan điểm phủ nhận Nam Việt từng là quốc hiệu của Việt Nam vì cho rắng: Triệu Đà là kẻ ngoại bang đến xâm lược nước Âu Lạc. An Dương Vương mất nước là mở đầu thời kỳ Bắc thuộc là do các bậc trí giả nêu ra: Ngô Thì Sĩ, Đào Duy Anh, và hiện nay. Như vậy các bậc cao minh còn chưa thống nhất nhau trong đánh giá, nữa là. Ý tôi chỉ là tham gia thảo luận cùng tìm hiểu.

    2. Về phân đoạn lịch sử, không hiểu nên chia theo cách nào, mặc dù các sử gia đã chia rồi, đây là ý thảo luận của “sử lều”:

    - Chia theo triều đại trung ương bên Bắc quốc . Ta biết trong thời kỳ này bên chính quốc cũng luôn lọan lạc phân, hợp liên miên nên Việt Nam (Giao Chỉ 交趾, Giao Châu 交州, An Nam 安南, Tĩnh Hải 靖海) bị đặt dưới quyền cai trị của nhiều triều đại khác nhau. Các triều đại phong kiến Phương Bắc đô hộ nước ta thời kỳ này kế tiếp nhau là: Tây Hán (西漢,111 tCn-24 sCn); Đông Hán (東漢, 25-220); Đông Ngô (東吳, 222-280); Tấn (晉,265-420); Nam Bắc triều (南北朝,420-579); Đường (唐朝, 618 – 907 và Nam Hán (南漢朝, 907-939).

    - Chia theo sự gián đoạn của việc cai trị. Lịch sử ghi nhận rằng: Trong thời kỳ Bắc thuộc dân Việt vẫn ngoan cường tinh thần độc lập, lợi dụng tình hình loạn lạc bên Tầu mà ta cũng có vài thời gian độc lập ngắn ngủi như thời kỳ Hai Bà Trưng (徵側và 徵貳, 40-43), thời kỳ Lý Bí (李畚, 503-548, là người Thái Bình, phủ Long Hưng, Sơn Tây) với nước Vạn Xuân ((萬春, 544-602), 541-602); Mai Hắc Đế (梅黑帝; ?–722); Phùng Hưng (馮興; 761-802); Dương Thanh (819-820). Đó là những anh hùng tạo nên thời thế, bởi:
    Nước lã mà vã nên hồ,
    Tay không mà nổi cơ đồ mới ngoan.

    3. Nói công bằng thì việc xâm lấn, xâm lược thời nào chẳng có, đấy là “cá lớn nuốt cá bé”. Dân Việt suốt các triều từ Đinh, Tiền Lê, Lý, Hậu Lê, Trần, Nguyễn đều từng ‘mang gươm đi mở cõi” ! Chính vì thế mà từ các gốc Văn Lang ở Trung du miền núi Bắc bộ, đến thế kỷ XIX chúng ta mới có dải đất hình chữ S thân thương như ngày nay.

    4. Trong những năm đô hộ nước ta, mưu đồ của các triều đại phong kiến phương Bắc không phải chỉ dừng lại ở chỗ thủ tiêu chủ quyền quốc gia,chia nước ta thành các quận, huyện,bóc lột nhân dân, vơ vét của cả, mà còn tiến tới đồng hóa vĩnh viễn dân tộc Việt, sát nhập đất đai vào Trung Quốc cho di dân Hán sang ở lẫn với dân Việt, lấy vợ Việt. Tuy vẫn duy trì những Lạc tướng hay Lạc hầu thế tập giữ quyền cai trị các bộ lạc nhưng chỉ là chân rết của quan Thiên triều. Chính sách đồng hóa là một đặc trưng nổi bật của chủ nghĩa bành trướng Đại Hán, đã được thực hiện từ thời Hán 漢 và đẩy mạnh tới nhà Đường 唐. Trong toàn bộ tiến trình lịch sử Việt Nam, đây là một trong những thời kỳ vận mạng dân tộc trải qua một thử thách cực kỳ hiểm nghèo.
    Nhưng xét ra, trong số các Thái thú 太狩 Bắc triều, cũng có một số quan cai trị nghiêm minh, đứng đắn, nhưng số này có thể ít hơn. Nền văn minh Trung Quốc cũng du nhập vào Việt Nam thời kỳ này. Đáng kể là 3 Thái thú Tích Quang (錫光,Giao Chỉ), Nhâm Diên (壬延,Cửu Chân), Sĩ Nhiếp (士攝, 137-226). Hoặc có nhiều người Trung Quốc đã di cư đến Việt Nam, họ ở lại, dần dần kết hôn với người Việt và hòa nhập vào xã hội Việt Nam, và con cháu trở thành người Việt Nam và có đóng góp nhất định cho sự phát triển chung của nước ta. Điển hình là Hồ Hưng Dật 胡興逸 vốn là người thuộc tộc Việt Triết Giang sang làm Thái thú Diễn Châu đời Hậu Hán (947-950) rồi định cư ở Nghệ An, trở thành Thủy tổ của dòng họ Hồ danh giá Việt Nam. Sự lan nhiễm văn mình Tầu nên nhiều phong tục, tập quán, quan niệm sống của người Việt và Hán tương tự nhau.

    5. Quá khứ là quá khứ. Nhưng bài học của tiền nhân thì không bao giờ cũ!

    Mấy dòng lượm lặt, mạo muội lạm bàn!
  5. CoDep

    CoDep Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/09/2004
    Bài viết:
    9.559
    Đã được thích:
    11
    Tôi không cho các học giả là cao minh, mà chỉ cho là họ có công nghiên cứu thôi.
    Mình không có công nghiên cứu, thì coi các công trình nghiên cứu của họ, chứ
    đâu phải họ nói cái gì cũng cho là phải, là đúng. Thật ra, trong tầm mắt bây giờ
    các học giả đó hiểu biết thật là ít ỏi, còn suy nghĩ thì cũng lệch lạc.
    *
    Triệu Đà có xâm lược đất Việt hay không, cũng chưa có tài liệu nghiên cứu nào
    đưa ra chứng cớ rõ ràng. Tuy vậy, rõ ràng Triệu Đà không thể coi là vua nước
    Việt nam chúng ta được. Nước ViệtNam có khi nào được coi là có Lĩnh Nam không?
    Chắc bạn dù có muốn nhận Triệu Đà là vua nước Việt đến mấy, cũng thấy điều đó
    quá lố, phải không?
    *
    Xưa nay, lịch sử ViệtNam theo truyền thống, vẫn chỉ bó hẹp trong vùng đồng bằng
    sông Hồng thôi, mấy ai nghĩ đến Quảng Tây, còn nói chi đến Quảng Đông? Chỉ gần
    đây mới rộ lên phong trào Triệu Đà sáng lập nước ViệtNam, và Quang Trung muốn
    đòi lại 2 tỉnh Quảng Đông Quảng Tây. Dần dần lại thêm Hai Bà Trưng không ở Việt
    Nam mà lại ở Lưỡng Quảng. Có lẽ bài Nam quốc sơn hà nam đế cư cũng sáng tác và
    đọc ở sông Châu, gần hồ Động Đình thôi? Còn Đinh bộ Lĩnh thì đóng đô ở Quảng Châu
    hay gần Thượng Hải?
    *
    Mặc dù lịch sử nhào nặn theo từng thời, nhưng cũng nên biết cái thời bành trướng
    được lên 2 tỉnh Quảng, và chiếm cả Vạn Lý Trường Thành cũng còn xa xôi lắm . Vả
    lại, lúc ấy Bí thư Đảng không còn là người Tày nữa, mà lại quê ở tận Sơn Đông kia.
    Bởi thế, cái nước ViệtNam nó thăng trầm ra sao, vua hay bí thư đảng quê ở đâu, vẫn
    không quan trọng bằng cái giống người Việt lưu lạc tận đâu, và ở quê họ, người ta
    nói tiếng Bạch Thoại, Quan Thoại hay tiếng ViệtNam?
    *
    Ngày xưa, Tây Tạng không phải Trung Quốc, vì nó có thủ đô mà dân thủ đô không nói
    tiếng Hán . Bây giờ thì Tây Tạng là một miền của Trung Quốc, và dân La Sha chủ yếu
    nói tiếng Bắc Kinh. Chẳng mấy ai biết hay nhớ Tây Tạng ngày xưa nữa .
    *
    Ngay bây giờ người Hà Nội còn nói tiếng Việt, mà lịch sử đã cho thủ đô của nó ở
    Quảng Châu rồi, thì đến lúc người Hà Nội toàn nói tiếng Bắc Kinh, thì mấy ai còn
    nhớ Hà Nội đã từng là thủ đô, và có tiếng nói khác?
    *
  6. manhdung2k5

    manhdung2k5 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    12/09/2006
    Bài viết:
    135
    Đã được thích:
    0
    Nản cái bọn tây tạng có mỗi cái nước mà không giữ được. Mà mới đâu xa hồi sáu mươi năm trước thôi mà không làm gì được mới đau chứ. Bảo bị đồng hoá một k năm thì không nói làm gì.
    Theo em nghĩ nguyên nhân chủ yếu là thằng Tây Tạng quá ít dân mà lại chiếm một diện tích quá lớn luôn. Nếu cố co rút về miên biên giới Trung Ân bây h thì may ra giữ lại được tên nước.
  7. CoDep

    CoDep Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/09/2004
    Bài viết:
    9.559
    Đã được thích:
    11
    Xưa nay đã bao nhiêu nước, bao nhiêu dân tộc bị mất rồi,
    nhưng Tây Tạng là mới nhất, xảy ra sờ sờ trước mắt ta.
    *
    Khi Trung Quốc chiếm Tây Tạng, thủ lĩnh là Đạt Lai Lạt Ma
    chủ trương hoà bình, tránh nạn thảm sát cả một dân tộc .
    Bây giờ dân tộc ấy cũng đang bị tiêu biến, không có cách gì
    cứu được.
    *
    Về vật chất, dân Tây Tạng còn giữ được bộ gien di truyền lại
    trong người Trung Quốc. Về tâm linh, đạo Tây Tạng còn truyền
    đời đời kiếp kiếp . Về Lịch Sử, Tây Tạng còn lại 1 số Zero .
    Đời sau, người có gien Tây Tạng cũng không hề biết có nước
    có dân và có lĩnh tụ bao giờ.
  8. Oliver_Reis

    Oliver_Reis Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    03/11/2006
    Bài viết:
    416
    Đã được thích:
    0
    Hồi trước em đọc bài bên VNEquation, có bác Phó Thường Nhân nói rằng một trong những điều kiện cần thiết để bị đồng hóa là số dân nhập cư phải đủ lớn để áp đảo dân số bản địa, làm thay đổi tính chất dân cư. Giờ nhìn lại ví dụ Tây Tạng thấy cũng đúng thật.
  9. linhthuydanhbo

    linhthuydanhbo Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    12/07/2006
    Bài viết:
    2.045
    Đã được thích:
    4
    http:// http:// http://diendan.svvn-dresden.org/showthread.php?t=292Từ lúc theo dõi chuyên mục này đến giờ tôi thấy một vấn đề vô cùng bứcc xúc và nực cười mà chỉ thấy cười ra nước mắt thôi! Thứ nhất là sự nhầm lẫn của một số bạn lại khiến một số bạn khác hiểu lệch lạc về vấn đề chúng ta đang bàn tới điều này lại càng khiến nó rối rắm đến khó giải quyết.
    Thứ nhất người đầu tiên tôi góp ý là bác CODEP, bác là người khá mơ hồ về kiến thức lịch sử nên có những nhầm lẫn tai hại. Bác nghĩ rằng người Việt chỉ là trong lãnh thổ hiện nay thôi thì quá ư nông cạn. Nông cạn hơn là bạn không thể phân biệt được cái gọi là "dân Bách Việt". Bách Việt dùng để chỉ chung các dân tộc Việt, chữ Việt này được bắt nguồn từ dụng cụ quen thuộc của những người dân sống tại lưu vực Nam sông Trường Giang trở xuống mà ngày nay ta gọi là rìu. Vì sao lại như vậy? Là vì từ khu vực đó về Nam thì khí hậu nóng ấm hơn, cây cối rậm rạp hơn mà cư dân Việt cổ lại lấy săn bắt, hái lượm là chính nên luôn có sẵn một cái rìu để chặt cây dọn đường, đẽo gọt công cụ bắt cá ở sông, suối, ao hồ... vô cùng tiện dụng. Ngoài ra khi gặp kẻ thù thì nó lại lá thứ vũ khí lợi hại. Ban sẽ hỏi rằng tai sao không phải đao kiếm hay thứ gí khác mà lại là những lưỡi rìu - lưỡi Việt ấy? Thì xin thưa nó là thứ công cụ gọn, nhẹ, đa dụng nên trong tất cả các điểm khảo cổ đều tìm được lưỡi rìu này.
    Trong các tộc người Việt thì có người Âu Việt, Lạc Việt, Việt Thường,...sống cạnh nhau, giao thoa văn hóa với nhau dần tạo ra hình thái nhà nước sơ khai cũng trong giai đoạn này một bộ phận những tộc người này di cư xuống phía Nam và định cư tại vùng đất thuộc Quảng Đông, Quảng Tây, Khu vực Đông Bắc Bộ và Đồng bằng sông Hồng ngày nay sinh sống xen lẫn với người bản địa dần dần thành lập nhà nước đầu tiên gần giống kiểu nhà nước La Mã đó là nhà nước Văn Lang chủ yếu và mạnh nhất là tộc người Âu Việt. Một kiểu nhà nước thứ hai cũng được xây dựng gần với nhà nước Trung Ương tập quyền hơn đó là Nhà Thục, nhà Thục này không phải nhà Thục thời Tam quốc mà là khu vực tương ứng với Vân Nam và khu vực Tây Bắc nước ta hiện nay với chủ yếu là người Lạc Việt. Vùng đất đảo Hải Nam ngày nay và bán đảo Lôi Châu cũ thuộc về người Nam Việt. Trong cuộc đấu tranh với nhà Tần, để gia tăng sức mạnh chống lại kẻ thù chung hai tộc người Lạc Việt và Âu Việt đã hợp nhất làm một với tên gọi ÂU LẠC như ta đã biết.
    Bức xúc quá mà viết ra có gì sai sót hay không phải mong các anh em thông cảm và giúp tôi sửa chữa! Mọi người có thể tham khảo thêm qua tài liệu tôi gửi kèm!
  10. vieetvnam

    vieetvnam Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    28/07/2007
    Bài viết:
    628
    Đã được thích:
    1
    Theo em thì bác linhthuydanhbo có nhầm lẫn về việc di cư của các tộc người từ nam Trường Giang xuống khu vực miền bắc Việt Nam bây giờ để lập nhà nước sơ khai. Rất tiếc là nhà nước sơ khai mà ta vẫn gọi là Văn Lang (thực ra thời đó các cụ có gọi thế đâu) là sản phẩm của nền văn minh bản địa, tất nhiên các tộc người gần nhau thì có ảnh hưởng này, kia nhưng nó mang tính bản địa rõ rệt, ngay cả dân cư cũng không có xáo trộn gì nhiều vào thời gian này, nói vậy có nghĩa là các cộng đồng đã định hình ở thời kỳ đó rồi, ít nhất là tại miền bắc Việt Nam ngày nay.

    Sự thực là có những tương đồng văn hóa, sinh hoạt, tín ngưỡng giữa các cộng đồng người ở nam Trường Giang, nhưng đó vẫn có nhiều khác biệt, đặc biệt là nhận chủng và ngôn ngữ, đính chính thêm là "Bách Việt" chỉ là cách gọi trong lịch sử Trung Quốc (vào thời điểm đó tạm gọi là văn minh vùng sông Hoàng Hà, bắc Trường Giang), thậm chí là gọi bừa các tộc người phía nam mà trên thực tế có khi học chẳng giống nhau về khía cạnh văn hóa nào cả, bởi có cả trăm, nghìn cộng đồng người, "bách" chỉ là cách nói ước lệ mà thôi.

    Chứ "Việt" có nhiều cách viết trong tiếng Hán, có biến đổi qua nhiều thời kỳ, giải thích của bác cũng là 1 trong các giả thuyết, không sai nhưng nó không đúng cho hầu hết các nền văn hóa thời đó, những cái tên như Âu Việt, Việt Thường, Lạc Việt là kết quả của 1 quá trình dài ngôn ngữ bị ảnh hưởng bời ngôn ngữ ngoại lai, khác rất nhiều với âm ban đầu, tất nhiên vì thời kỳ đó đã quá xa xôi, ta dần chấp nhận nó như 1 phần văn hóa. Thêm nữa là nhiều nghiên cứu xác định là chẳng có nhà Thục nào hết, không có ông vua nào họ "Thục" tên là "Phán" cả (các chữ này được phiên âm, biến đổi phức tạp trong lịch sử, được ghi chép và đi vào văn hóa trong tiến trình lâu dài, giống trường hợp của các từ Lạc, Việt), vua nước Thục cả. Đó là thủ lĩnh của một cộng đồng khác, cạnh tranh với "nhà nước Văn Lang" thôi. Thêm nữa việc chống Tần của người Âu Lạc thực sự cũng ... chả có vì quân Tần có bao giờ vào đến đây đâu.

    Sự nhầm lẫn ở đây là: các tộc Bách Việt (không phải tất cả) đã đứng lên chống Tần, các cộng đồng khác ở nam Trường Giang "bị" coi là Bách Việt tuốt (hay ho là có các cụ nhà mình trong đó) thế là cũng được vinh hạnh chép trong sử sách la đã chống Tần (mặc dù quân Tần chỉ tiến đến Quảng Đông là kịch) Tiếc là giờ nhiều sách kiến thức phổ thông vẫn cứ ghi cái vụ chống Tần này vào.

Chia sẻ trang này