1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

U-boat

Chủ đề trong 'Kỹ thuật quân sự nước ngoài' bởi datvn, 25/01/2010.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. datvn

    datvn Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    10/04/2002
    Bài viết:
    2.981
    Đã được thích:
    1
    Trong chiến tranh thế giới thứ II, những chiếc Uboat của Đức là nỗi kinh hoàng của tàu Anh Mỹ trên Đại tây dương. Nhưng tài liệu về nó ít quá. Các bác nào có tài liệu thì share cho mọi người với
  2. 314159

    314159 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    21/01/2010
    Bài viết:
    79
    Đã được thích:
    4

    Đây này: http://www.thanhnien.com.vn/news/
    Cuộc chạm trán kinh điển giữa tàu phóng lôi và khu trục hạm
    61 tàu phóng lôi Đức tấn công 78 khu trục hạm Anh có nhiệm vụ bảo vệ đội hình gồm 73 tàu chiến, tàu sân bay các loại. Trận đánh kéo dài từ chiều đến đêm 31.5.1916 giữa hạm đội Grand (Anh) và High Seas (Đức) tại North Sea, gần Jutland, Đan Mạch, được ghi nhận là chưa từng có trong lịch sử.
    250 chiến hạm hai bên vào trận đánh dữ dội ngày 31.5.1916. Hải lực Hoàng gia Anh huy động 78 khu trục hạm giữ nhiệm vụ vừa tấn công vừa bảo vệ 28 chiến đấu hạm và 1 tàu sân bay(*) dưới quyền chỉ huy của Đô đốc Sir John Jellicoe. Đức huy động 61 tàu phóng lôi tác chiến cùng 16 chiến đấu hạm và 6 thiết giáp hạm do Phó đô đốc Reinhard Scheer chỉ huy.
    Do kém quân số nên Reinhard áp dụng chiến thuật vừa đánh vừa nhử nhằm phá thế kiểm soát của hải lực Anh, mở đường cho thương thuyền Đức tái hoạt động trên North Sea. Trái lại, quân Anh ỷ vào thế đông, sẵn sàng giáp lá cà nhằm loại tầm ảnh hưởng của hải quân Đức trên vùng biển mình kiểm soát
    Mỗi bên đều thực hiện ý đồ của mình. Đức triển khai 5 tuần dương hạm nhỏ, nhẹ, hiện đại do Phó đô đốc Franz Hipper chỉ huy tiến lên khiêu chiến. Nhiệm vụ của Hipper là nhử liên đội tuần dương hạm của Anh dưới quyền Phó đô đốc David Beatty ra xa và lọt vào tầm bắn tàu ngầm để tiêu diệt. Tuy nhiên, phía Anh nhận được nhiều tín hiệu cho thấy đây không phải là cuộc chạm trán đơn thuần của vài chiếc tuần duyên mà là cuộc triển khai của cả một hạm đội. Do đó, ngày 30.5, Sir Jellicoe đã nhanh chóng điều chiến thuyền đến án ngữ "điểm hẹn" trước khi tàu ngầm Đức có mặt. Chiều 31.5, hải đội hai bên chạm trán nhau sớm hơn dự kiến. Tuy chiến thuật câu nhử phá sản, song Hipper vẫn kéo được người Anh rơi vào thế gọng kìm của hạm đội nhà. Mười chiến đấu hạm do Beatty chỉ huy bị 5 chiến đấu hạm của Hipper bắn chìm mất hai, buộc phải tháo chạy. Tuy nhiên, màn rượt đuổi sau đó của hải đội Đức đã mở đầu cho cuộc đọ súng lớn nhất đệ nhất thế chiến. Từ 18 giờ 30 đến khi trời tối hẳn, 2 hạm đội hùng mạnh với tổng cộng 250 tàu chiến các loại giao tranh ác liệt. 14 tàu Anh và 11 tàu Đức bị bắn chìm với con số thương vong khủng khiếp. Trước khi mặt trời lặn, Sir Jellicoe tận dụng thế đông đã triển khai chiến thuật cắt đường rút lui của quân Đức với hy vọng tiếp tục giao tranh vào sáng hôm sau. Tuy nhiên, màn đêm đã giúp người Đức thoát khỏi sự tầm nã để về căn cứ an toàn.
    Sau cuộc giao tranh, cả hai bên đều tuyên bố chiến thắng. Thực tế phía Anh chịu thiệt hại nặng nề: 6.094 quân tử vong, 510 bị thương, 177 bị bắt làm tù binh, trong khi Đức có 2.551 binh sĩ thiệt mạng và 507 người bị thương. Sir Jellicoe và Beaty bị công luận chỉ trích nặng nề về năng lực cầm quân dù hải quân Anh vẫn giành được quyền kiểm soát North Sea.

    Khu trục hạm: từ kẻ chịu đòn đến tìm và diệt
    Việc người Anh huy động đến 78 khu trục hạm (destroyer) tham chiến tại Jutland cho thấy tầm quan trọng của thế hệ tàu nhỏ, cơ động nhưng hiệu quả trong phòng thủ và nguy hiểm trong tấn công. Lịch sử khu trục hạm gắn liền với quá trình phát triển của ngư lôi (torpedo), vốn xuất hiện từ thập niên 60 của thế kỷ 19. Lúc này, khu trục hạm có tên gọi là torperdo boat (tàu phóng lôi), được chế tạo nhỏ gọn, trọng tải chỉ từ 50 - 100 tấn, tốc độ di chuyển cao, được trang bị súng bắn nhanh và các ống phóng lôi.
    Thoạt đầu, nhiều ý tưởng cho rằng các hạm đội chỉ có thể bị tấn công khi đang neo đậu. Tuy nhiên, sự phát triển của các tàu phóng lôi với khả năng tấn công nhanh hơn, tầm bắn xa hơn đã đẩy các hạm đội vào thế lúng túng. Mức độ nguy hiểm của khu trục hạm được ghi nhận lần đầu tiên trong cuộc chiến Nga - Nhật năm 1904. Ba tàu phóng lôi của Nhật dám tấn công cả một hạm đội Nga tại cảng, phóng tổng cộng 18 quả ngư lôi làm tổn thương nặng 2 chiến đấu hạm Nga.
    Trước hiểm họa tàu phóng lôi, nhiều cường quốc đã lên kế hoạch chống đỡ. Năm 1884, Tây Ban Nha bổ nhiệm Navio Fernando Villaamil làm tư lệnh phó hải quân và giao nhiệm vụ thiết kế một thế hệ tàu chiến mới có thể đánh chặn tàu phóng lôi. Villaamil chọn hãng đóng tàu J&G Thomson ở Scotland và ngày 19.1.1887, chiếc Destructor được bàn giao với sự hồ hởi của cả cộng đồng hải quân châu Âu. 24 giờ sau, Destructor về đến Tây Ban Nha với trọng tải rẽ nước 380 tấn, được trang bị 1 khẩu Hontoria 90 mm, 4 khẩu Nordenfelt 57 mm, 2 pháo Hotchkiss 37 mm, 3 ống phóng lôi Schwarzkopf và tốc độ chạy thử đạt 22,5 knot (41,3 km/giờ). Và Destructor được xem là tàu đánh chặn (torpedor boat catcher) đầu tiên được chế tạo .
    Vai trò thoạt đầu của Destructor là chạy nhanh, đón đầu và sẵn sàng chịu đòn nhằm phá thế công của đối phương. Sau đó, người ta phát hiện tại sao lại chỉ để Destructor "đánh chặn" khi hộ tống các hạm đội mà không phát triển thêm về kích cỡ lẫn hỏa lực để tấn công lại các tàu phóng lôi của đối phương. Từ đây, Destructor chính thức có tên gọi torpedo boat destroyer - tàu diệt ngư lôi đỉnh, sau gọi ngắn là destroyer (khu trục hạm).
    Với khả năng hộ tống, hoạt động dài ngày trên biển, khu trục hạm dần trở thành các tàu chiến nổi lớn nhất, được trang bị hỏa lực mạnh, đủ khả năng tìm diệt và phòng thủ, hỗ trợ tấn công trên bờ.
    Hải quân Mỹ hiện sử dụng thế hệ khu trục hạm Arleigh Burke để hộ tống các hạm đội, yểm trợ các chiến dịch trên bờ và đổ bộ. Các khu trục hạm này được trang bị hệ thống hỏa tiễn tự tìm mục tiêu có khả năng chống tàu ngầm, phi cơ và tấn công đối phương trên mặt biển.
    Trong khi đó Nga đang sở hữu thế hệ khu trục hạm Sovremenny tấn công bằng hỏa tiễn sử dụng cho nhiều mục đích khác nhau. Tàu được trang bị hỏa tiễn hải đối hải SS-N-22, hải đối không SA-N-7 Gadfly và pháo hai nòng 130 mm bắn nhanh điều khiển bằng tia laser. Sovremenny còn có bệ phóng lôi 533 mm và bệ phóng phi pháo RBU-6000 để săn tàu ngầm. Trong các trận hải chiến, các hệ thống phóng lôi và tháp pháo có tác dụng rất hữu hiệu trong các cuộc cận chiến
    Tàu ngầm và cuộc chiến marathon trên Đại Tây Dương
    Đây là trận đánh kéo dài từ ngày khởi đầu đến ngày kết thúc Đệ nhị thế chiến. Hơn 1.100 tàu ngầm Đức tấn công hải lực Hoàng gia Anh mạnh gấp 10 lần mình, đánh đắm hơn 2.900 chiến thuyền và hơn 14 triệu tấn hàng tiếp vận cho dù chiến thắng chung cuộc không thuộc về họ.
    Cha đẻ của ?obầy sói? là Karl Donitz - nhà chiến thuật hàng đầu của hải quân Đức, nguyên hạm trưởng tàu ngầm thời Đệ nhất thế chiến. Năm 1935, sau khi xé bỏ Hiệp ước Versaille quy định hạn chế hải quân Đức, Hitler bổ nhiệm Karl Donitz làm tư lệnh, tập trung phát triển lực lượng tàu ngầm.
    Không như các tư lệnh khác ở Bộ chỉ huy hành quân, chỉ có mỗi mình Donitz nhận định rằng: Đức chỉ có thể cậy vào tàu ngầm mới mong thủ thắng được trận Đại Tây Dương, từ đó giúp Đức sớm kết thúc thế chiến. Các tư lệnh khác phản bác quan điểm này. Theo họ, chỉ có các chiến hạm không thể bị đánh chìm, được trang bị đại bác lớn mới là yếu tố chính kiểm soát vùng biển.
    Thực tế đã nghiêng về nhận định của Donitz. Những thiết giáp hạm khổng lồ ?okhông thể bị đánh chìm? của Đức như Bismarck và Graf Spee hạ đốc không bao lâu đã trở thành tít lớn trên báo chí do ?obị hải quân Anh săn lùng và tiêu diệt?. Trong khi tại Đại Tây Dương, lực lượng tàu ngầm Đức liên tục khiến quân đồng minh khốn đốn bởi ?obầy sói?.
    Để cô lập và loại Anh quốc ra khỏi cuộc chiến, Donitz tính toán lượng hàng hóa của nước này cần phải bị đánh chìm hằng ngày trên Đại Tây Dương. Như vậy, nền kinh tế Anh sẽ lụn bại và đường tiếp vận của quân đồng minh cũng bị phong tỏa. Từ tính toán trên, Donitz phác thảo cơ số tàu ngầm Đức cần có để thực hiện chiến dịch. Nắm rất vững những thông số cần thiết, lên chiến thuật và với tiềm năng của nước Đức lúc bấy giờ, Donitz khẳng định Đức có thể mở một cuộc chiến năm ăn năm thua với hải quân Hoàng gia Anh dù đối phương có thực lực mạnh hơn cả chục lần. Donitz tin rằng hải quân hoàng gia với những chiến đấu hạm được trang bị đại bác lớn sẽ hoàn toàn ?ođề-mốt? trước chiến thuật hiện đại của tàu ngầm - được chế tạo nhỏ nhưng cơ động trên mặt nước và lặn nhanh xuống biển.
    Để có thể phong tỏa Anh quốc như theo tính toán, Donitz cần ít nhất khoảng 300 tàu ngầm để tung vào trận. Tuy nhiên, ông chỉ có trong tay 57 chiếc trong thời gian khởi đầu cuộc chiến.
    Do chỉ có 1/5 cơ số tàu ngầm so với tính toán, Donitz đã vận dụng ?obầy sói? đánh vào các hải đoàn tiếp vận của quân đồng minh cùng đoàn chiến hạm hộ tống theo nó. Chiến thuật này yêu cầu các tàu ngầm Đức hoạt động độc lập, khi phát hiện mục tiêu lập tức báo cáo về bộ chỉ huy để điều thêm tiếp viện - như một bầy sói vây quanh con mồi, nhằm đảm bảo có cơ số luôn lớn hơn đối phương, sau đó lợi dụng trời tối để nổi lên mặt nước tấn công bất ngờ.
    Anh quốc khủng hoảng
    ?oĐiều duy nhất khiến tôi lo sợ trong suốt cuộc chiến là hiểm họa tàu ngầm?. Winston Churchill thú nhận sau Đệ nhị thế chiến
    Dù với cơ số nhỏ, nhưng tàu ngầm Đức nhanh chóng thành công ngay trong tháng đầu xung trận. Ngày 17.9.1939, tàu U-29 phát hiện hàng không mẫu hạm HMS Courageous với sự hộ tống của 2 khu trục hạm đang tuần tra cách Ireland 320 km về hướng tây nam. Trung úy hạm trưởng Otto Schuhart ra lệnh cho U-29 luồn qua 2 chiếc khu trục hạm, phóng 3 quả ngư lôi từ cự ly 3.000 mét. Hai quả trúng mục tiêu, chiếc hàng không mẫu hạm đầy kiêu hãnh bị nhấn chìm chỉ trong 17 phút kéo theo 518 sinh mạng. HMS Courageous trở thành tổn thất đầu tiên của hải quân hoàng gia trong cuộc chiến. Dính đòn đau, hải quân Anh quyết định rút toàn bộ hàng không mẫu hạm ra khỏi những vị trí có khả năng bị tấn công từ phương tây. Bốn năm liền sau đó, người ta không thấy bất kỳ hàng không mẫu hạm nào xuất hiện trên vùng biển này
    Không lâu sau, tàu ngầm Đức lại ghi được một chiến công lớn hơn ở cảng Scapa Flow bằng lối đánh táo bạo. Đây là nơi các chiến hạm hùng mạnh nhất của Anh thả neo và được bảo vệ khá kỹ. Máy bay Đức chụp được một serie ảnh về hệ thống phòng thủ của Scapa Flow. Cửa vào cảng rất hẹp và bị bịt kín bởi hàng rào tàu chiến bị chìm có tác dụng chặn luôn tàu ngầm địch. Để vào được cảng không còn cách nào là phải di chuyển trên mặt nước. Nhưng Donitz phát hiện có một lối vào hẹp, mực nước cạn và chảy xiết. Ông chọn hạm trưởng tàu U-47 Gunther Prien thực thi nhiệm vụ. Ngày 8.10, U-47 xuất phát đi Scapa Flow. Khuya 13.10, lợi dụng đêm không trăng, U-47 vượt qua hàng rào bảo vệ tiến vào cảng. Hai loạt bắn tổng cộng 6 ngư lôi tạo nên 3 tiếng nổ lớn. Chiến đấu hạm lẫy lừng Royal Oak bị chìm trong vòng 10 phút, kéo theo 833 sinh mạng. U-47 lẻn nhanh ra không bị phát hiện và trở về được chào đón như người hùng. Sau trận này, Hitler tấn phong Donitz lên chuẩn đô đốc.
    Ngày 10.5.1940, Đức xua quân tiến chiếm Pháp. Ngày 22.6.1940, Pháp đầu hàng. Donitz tiếp quản nhiều hải cảng quan trọng và thu ngắn được hải trình đến Đại Tây Dương. Và với ?obầy sói?, từ tháng 7 đến tháng 10.1940, tàu ngầm Đức đánh chìm thêm 220 tàu thuyền của quân đồng minh.
    Đợt tấn công đầu tiên của bầy sói được ghi nhận vào ngày 21.9.1940, bốn tàu ngầm Đức tấn công Hải đoàn HX72 hộ tống 42 thương thuyền. Kết quả: 11 thuyền của quân đồng minh bị đánh đắm, 2 thuyền bị thương; trong đó riêng chiếc U-100 đánh chìm một lúc 7 chiếc thuyền.
    Ngày 5.10.1940, đoàn SC7 gồm 34 thuyền được hộ tống rời Ontario đi Liverpool bị 7 tàu ngầm Đức vây đánh tại Rockall Bank, gần Scotland. 22 thuyền bị đánh chìm và các tàu còn lại lúng túng không biết làm gì ngoài việc tìm vớt các nạn nhân. Chỉ 12 chiếc lết về
    được đến cảng. Ba ngày sau, thêm một đoàn thuyền 49 chiếc khác được hộ tống bị 5 tàu ngầm Đức đánh chìm mất 12 chiếc
    Với chiến thuật ?obầy sói?, chỉ trong 3 tháng - từ 2.9 đến 2.12.1940, 157 tàu thuyền các loại của quân Đồng minh đã bị đánh chìm với tổng lượng hàng tiếp vận là 847 ngàn tấn trong khi Đức chỉ tổn thất 3 tàu ngầm. Tỷ lệ đánh đổi là 1:52. Những tổn thất liên tiếp khiến lượng dầu mỏ nhập cảng vào Anh giảm hẳn một nửa và chỉ đáp ứng được 2/3 nhu cầu. Kinh tế Anh bắt đầu rơi vào khủng hoảng đến nỗi Thủ tướng Winston Churchill phải thú nhận ông sợ nước Anh sẽ thua ở trận hải chiến Đại Tây Dương và như vậy, Anh sẽ mất luôn sức chiến đấu trong Đệ nhị thế chiến.
    Được 314159 sửa chữa / chuyển vào 09:25 ngày 26/01/2010
    Được 314159 sửa chữa / chuyển vào 09:25 ngày 26/01/2010
  3. 314159

    314159 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    21/01/2010
    Bài viết:
    79
    Đã được thích:
    4
    Tìm cách chống trả, Anh cầu cứu Mỹ
    Trước sức tấn công kinh hoàng của tàu ngầm Đức, hải quân Anh phải lên chiến lược chống trả, đồng thời đích thân Thủ tướng Winston Churchill bay sang Washington cầu cứu viện trợ Mỹ.
    Để giành lại thế chủ động trên Đại Tây Dương, hải quân Anh đã liên tục nhóm họp và đề ra hàng loạt chiến lược đối phó với ?obầy sói? của Karl Donitz đang được phát triển với cơ số tăng rõ rệt. Việc đầu tiên Anh quốc phải làm là gia tăng lượng tàu hộ tống. Họ quyết định rút một số đông khu trục hạm đang giám sát khả năng xâm lược của người Đức sang hộ tống các đoàn tàu hàng. Chưa an tâm, Anh quốc bổ sung thêm các tàu hộ tống nhỏ cùng chiến đấu hạm tải trọng dưới 1.000 tấn gia nhập đội quân ?obảo kê? này. Cùng lúc, Anh quốc đã đàm phán và mượn được 50 khu trục hạm của Mỹ. Tuy đây là số tàu thế hệ cũ song cũng giúp được Anh phát triển lượng tàu hộ tống trên biển.
    Việc phải làm thứ hai, hải quân Anh bắt đầu thành lập những hải đội hộ tống chuyên nghiệp. Điều này khác hẳn quan niệm cũ: cứ hễ là tàu chiến thì đương nhiên đủ sức hộ tống tàu hàng. Giờ đây, các hải đội hộ tống cùng thủy thủ đoàn được huấn luyện đặc biệt, đảm bảo có thể tác chiến đồng đội, biết cách săn lùng và nắm vững được cách thức tiêu diệt tàu ngầm mới được tung đi làm nhiệm vụ.
    Việc tăng cường trang thiết bị, vũ khí cho các hải đội hộ tống cũng là mấu chốt cơ bản của chiến lược chống trả. Tàu hộ tống được trang bị thêm radar và vô tuyến số cự li ngắn. Radar thời này tuy chưa đủ nhạy để dò ra tàu ngầm mỗi khi trồi lên mặt nước nhưng cùng với vô tuyến số, các hạm trưởng có thể định vị được vị trí của tàu hàng, các tàu hộ tống khác, liên lạc được với nhau và với các chiến đấu cơ, đặc biệt là khi phối hợp tấn công tàu ngầm.
    Cuối cùng, sau tròn một năm tham chiến, người Anh nhận ra rằng mật mã cũ Naval Cypher No.3 đã lộ nên quyết định thay bằng Naval Code Number 1. Việc thay thế này khiến sức tấn công của tàu ngầm Đức giảm hẳn. Bộ phận giải mã B-Dienst của Đức ?ođiếc đặc?, không thể tiếp tục cung cấp thông tin tình báo về đường đi nước bước của đối phương. Phía Đức hy vọng bẻ được mã khóa mới trong 6 tuần lễ. Tuy nhiên, điều này đã không xảy ra.
    Bên cạnh đó, Winston Churchill bắt đầu tìm kiếm sự ủng hộ của nước Mỹ. Vị Thủ tướng Anh lúc bấy giờ tin rằng sự trợ giúp của Mỹ sẽ đóng vai trò quyết định trong việc đánh bại người Đức. Washington đã nắm đầy đủ thông tin về những tổn thất kinh hoàng của Anh quốc trên Đại Tây Dương và nhận định rằng: việc người Anh thua trận chỉ còn là vấn đề thời gian. Ngoài ra, Washington bắt đầu cảm thấy Mỹ La-tinh cũng đang chịu sự đe dọa của trục ba Berlin ?" Roma ?" Tokyo, nhất là khi Hiệp ước ba bên Đức, Ý, Nhật được ký vào ngày 27.9.1940 tại Berlin. Một liên minh tối mật giữa Anh và Mỹ đã được lên kế hoạch và trong chuyến thăm London tháng 1.1941, trợ lý của Nhà Trắng ?" Harry L.Hopkins - nói với Churchill: ?oNgài tổng thống (Mỹ) đã quyết tâm rằng chúng ta sẽ cùng nhau thắng trong cuộc chiến này?.
    Trước công chúng, Tổng thống Mỹ Franklin D.Roosevelt vẫn một mực khẳng định nước này sẽ không tham chiến. Tuy nhiên, ?odestroyer deal? ?" bản hợp đồng cho Anh quốc mượn 50 chiếc khu trục hạm đã chứng minh Mỹ chính thức giúp Anh một tay
    Đến tháng 3.1941, những chiến lược hoạch định đã cho hiệu ứng bước đầu. Chỉ trong tháng này, Đức đã mất đến 3 tàu ngầm cự phách nhất trong lực lượng của mình. Niềm tự hào Scapa Flow ?" hạm trưởng Gunther Prien cùng 45 thủy thủ đoàn mất tích trên chiếc U-47 (*) ngày 7.3 tại bờ Rockall, Scotland. Nguyên nhân mất tích do bị khu trục hạm Anh HMS Wolverine tiêu diệt hay bị tai nạn ngư lôi đến giờ vẫn chưa rõ. Mười ngày sau, ách chủ bài thứ nhì của Donitz - chiếc U-100 - bị radar của khu trục hạm Anh HMS Vanoc phát hiện phía đông nam Iceland (**).
    Chiếc Vanoc được khu trục hạm Walker hỗ trợ đã bủa vây và truy sát khiến 38 thủy thủ trên U-100 thiệt mạng, bao gồm hạm trưởng Joachim Schepke. Trong Đệ nhị thế chiến, chiếc U-100 đã đánh đắm tổng cộng 25 tàu các loại của quân Đồng minh và làm hỏng 5 tàu khác. Cũng trong trận chiến này, chiếc U-99 của hạm trưởng Otto Kretschmer cũng bị HMS Walker gây áp lực phải lặn đến độ sâu không chịu nổi, rốt cuộc phải trồi lên chịu hàng. 40/43 thủy thủ đoàn sống sót trên tàu bị bắt làm tù binh.
    Giai đoạn ?ohappy time? đã kết thúc đối với tàu ngầm Đức
    Từ tháng 4 đến tháng 12.1941, Đức tiếp tục gia tăng cơ số tàu ngầm trên Đại Tây Dương. Đối lại, quân đồng minh chống trả bằng những tiến bộ trong kỹ thuật ứng chiến tàu ngầm.
    Ba yếu tố đem lại thế quân bình cho người Anh
    Đầu tiên phải kể đến công lao phát triển hệ thống thiết bị định vị cao tần (HD/DF) và trang bị chúng cho các khu trục hạm. Chỉ cần bắt được tín hiệu chuyển phát trong 20 giây, thiết bị này có thể xác định được vị trí tàu ngầm đang hoạt động và họ lập tức triển khai các khu trục hạm đánh chặn. Tàu ngầm Đức bắt đầu rơi vào thế khó khăn do mất lợi thế ?oxuất kích từ bóng đêm?. Họ không tiếp cận được mục tiêu và cũng không triển khai chiến thuật bầy sói. Nhiều tàu phải chấp nhận thà bỏ mồi còn hơn bị khu trục hạm tiêu diệt.
    Tiến bộ thứ hai của quân Đồng minh là phát minh ra radar ASV giúp không quân phát hiện mục tiêu trên mặt biển. Từ năm 1941, các chiếc U của Donitz bắt đầu cảm thấy bị bất ngờ vì cứ mỗi lần trồi lên mặt nước để tấn công thì lại bị chiến đấu cơ oanh tạc. Mối đe dọa từ trên không buộc tàu ngầm Đức phải ngụp lặn thường xuyên hơn, giảm sức tấn công và không còn tự do lộ diện trên Đại Tây Dương như trước.
    Cuối cùng, quân đồng minh thu được ưu thế quan trọng khi bắt sống được tàu ngầm U-110. Sau nhiều màn rượt đuổi, ba chiếc khu trục hạm HMS Aubretia, Bulldog và Broadway đánh rách vỏ chiếc U-110 và hỏng hệ thống pin bên trong. Nước biển rò rỉ vào, hòa trộn với khí độc chlorine buộc hạm trưởng phải cho tàu trồi lên mặt nước đầu hàng. Hai ngày sau, U-110 chìm trong lúc bị kéo về cảng. Tuy nhiên, quân đồng minh đã thu được máy mã hóa và giải mã ENIGMA cùng nhiều loại tài liệu tối mật bên trong. Những tài liệu này đã giúp quân đồng minh giải mã được các thông tin tình báo của đối phương, định vị chính xác địa điểm tàu ngầm hoạt động và thay đổi hải trình của các đoàn tàu hàng. Lượng hàng tiếp vận thiệt hại bắt đầu giảm đáng kể.
    Trước các ưu thế thu được, quân đồng minh bắt đầu tìm lại thế cân bằng trong cuộc chiến. Một trong những chiến công Anh quốc thu được xuất phát từ mệnh lệnh của Winston Churchill: tìm diệt cho được thiết giáp hạm Bismarck! Phía bên kia, Donitz tổng hợp thông tin tình báo cho thấy người Anh đang có âm mưu truy tầm Bismarck. Ông nhanh chóng triển khai toàn bộ số tàu ngầm có thể để hỗ trợ Bismarck đồng thời gài bẫy ở những điểm có khả năng xảy ra chạm trán. Tuy nhiên, nhiều tàu ngầm lúc này đang ở quá xa trong khi các tàu ngầm khác ở gần Bismarck thì lại hết ngư lôi. Chiếc U-556 của Wohlfarth là một ví dụ. Ngày 26.5.1941, hai chiến hạm HMS Ark Royal và HMS Renown của Anh lọt vào tầm bắn của U-556 ở Vịnh Biscay mà không hề có khu trục hạm hộ tống. Lẽ ra U-556 có thể đánh đắm cả hai song không thực hiện được vì ?ohết đạn?. Nhiều tàu ngầm khác nhận lệnh cũng quy tụ về đây, song chỉ có thể từ xa nhìn những cột khói, những tia chớp và những tiếng nổ mà không thể trợ giúp gì cho Bismarck. Đến 10 giờ 40 sáng 27.5, các chiến hạm King George V, Rodney cùng hai tàu tuần duyên hạng nặng Dorsetshire và Norfolk ?oquần? Bismarck một trận tơi tả. Sau 2 giờ chống cự, niềm kiêu hãnh của người Đức chìm sâu dưới đáy biển kéo theo thủy thủ đoàn gần 2.300 người.
    Mất Bismarck, quân Đức gỡ lại bằng cuộc chạm trán khác vào ngày 13.11.1941. U-81 là một trong 6 chiếc tàu ngầm được lệnh cắt đường tiếp vận của quân Đồng minh đến Tobruk, Libya. Qua kính tiềm vọng, hạm trưởng Guggenberger phát hiện 2 chiếc HMS Ark Royal và HMS Malaya và ra lệnh cho U-81 bắn tổng cộng 4 quả ngư lôi vào 2 mục tiêu. Hai quả bắn hụt chiếc Malaya nhưng một quả trúng giữa mạn chiếc Ark Royal. Một tiếng nổ lớn vang lên kéo theo vô số ngọn lửa không thể kiểm soát được. 16 giờ sau, chiếc Ark Royal lật úp và chìm hẳn. Một số thủy thủ đoàn được cứu sống, song 27 chiến đấu cơ trên boong đã nằm hẳn dưới đáy Đại Tây Dương.
    Các cuộc chạm trán trên Đại Tây Dương vẫn tiếp diễn, và dù có tăng cường thêm các đợt tấn công trên Địa Trung Hải song Donitz vẫn thất vọng với kết quả thu được. Ngoại trừ việc đánh đắm chiếc Ark Royal, Donitz cố gắng tìm cách giúp lượng tàu ngầm của mình thoát khỏi viễn cảnh u ám đang bao phủ. Nhưng ông ta không phải đợi lâu khi cả một cuộc săn lùng quy mô lớn bắt đầu xuất hiện, không phải dành cho người Đức.
    Ngày tàn của U-boat
    Với năng lực tấn công bị hạn chế so với đà leo thang của chiến tranh , thế hệ tàu ngầm U-boat của Đức trở nên lạc hậu trước đà phát triển về phương tiện, vũ khí và phương tiện truyền thông của quân Đồng minh chuyên trách săn tàu ngầm. 725 chiếc U-boat bị đánh chìm cùng với gần 29.000 thủy thủ trong 6 năm tham chiến. Tuy nhiên, thất bại của người Đức đã mở ra một trang mới cho tàu ngầm hiện đại ngày nay.
    Năm 1942, công suất đóng tàu của các nước Đồng minh đạt đến đỉnh điểm. Anh, Canada và Mỹ có đủ lượng tàu hộ tống an toàn các đoàn tàu hàng từ đầu đến cuối. Sự ?odư dả? của phe Đồng minh giúp khu trục hạm không còn đơn thuần giữ nhiệm vụ bảo vệ. Trái lại, cùng với sự phát triển của vũ khí và radar, khu trục hạm bắt đầu phối hợp với không quân (phi cơ trang bị rocket) triển khai săn lùng ngay sau khi phát hiện sự có mặt của tàu ngầm.
    Đến tháng 1.1943, các cuộc chạm trán giữa ?obầy sói? và các đoàn tàu hàng không còn đem lại kết quả vui vẻ cho người Đức. Một hải đội gồm 5 tàu ngầm vây đánh đoàn tàu HX224 bao gồm 57 chiếc nhưng chỉ đánh đắm được 3 trong khi bị tổn thất mất 2. Tháng 2.1943, 16 tàu ngầm Đức vây đánh đoàn tàu SC118 gồm 63 chiếc trong trận chiến Donitz ?" lúc này đã được tấn phong Đại đô đốc, gọi là ?otrận đánh khó khăn nhất trong suốt cuộc chiến?, với kết quả Đức đánh chìm 12 tàu Đồng minh song cũng thiệt hại mất 3 tàu ngầm và 2 tàu khác bị hư hỏng nặng. Đây không phải là tỷ lệ đánh đổi có lợi cho hải quân Đức
    Tháng 5.1943 có thể xem là điểm xoay của cuộc chiến. Ngày 4.5, đoàn tàu ONS5 đi thẳng vào khu vực ?obầy sói? kiểm soát. Cuộc đọ súng kéo dài 3 đêm liền, 41 tàu ngầm Đức vây đánh đắm 12 tàu của quân Đồng minh, song đổi lại, họ cũng trả giá bằng 7 tàu ngầm bị đánh chìm và 3 chiếc khác bị hỏng. Ngày 11.5, hải quân Đồng minh chủ động mở đợt tấn công, lần này đoàn tàu HX237 đánh chìm 3 tàu ngầm Đức mà không hề có tổn thất. Trong tháng này, thêm 4 đoàn tàu bị ?obầy sói? tấn công, song phía Đồng minh chỉ mất 3 tàu trong khi họ tiêu diệt được 5 tàu ngầm đối phương.
    Chung cuộc, chỉ trong tháng 5.1943, Đức mất đến 41 tàu ngầm và hơn 1.000 thủy thủ đoàn - một tỷ lệ đáng báo động. Nhiều người trong số họ là những sĩ quan kỳ cựu đầy kinh nghiệm, không thể thay thế trong một sáng một chiều. Bản thân con trai vị đô đốc cũng mất mạng chung với chiếc U-954 trong trận đánh đoàn tàu SC130 ngày 19.5. Ngày 24.5, Donitz thú nhận: ?oChiến thuật dùng ?obầy sói? tấn công các đoàn tàu trên Đại Tây Dương giờ đây không còn hiệu quả?. Ông quyết định rút lượng tàu ngầm còn lại về vùng biển an toàn và chỉ giữ lại một cơ số ít để nghi binh xem như vẫn còn sự hiện diện của ?obầy sói? trên Đại Tây Dương. Lúc này, Donitz vẫn chưa tin thắng bại đã phân và cho rằng tàu ngầm Đức cần phải cải tiến thêm kỹ thuật mới cạnh tranh nổi với sự vượt trội của quân Đồng minh. Ông giành được sự ủng hộ để phát triển một thế hệ tàu ngầm mới có tên gọi là Elektroboat, có khả năng hoạt động nhiều tuần liền dưới mặt nước, được trang bị những vũ khí và phương tiện truyền thông ưu việt hơn và đặc biệt là có khả năng tấn công khai hỏa ngay trong lòng biển. Elektroboat được xem là phiên bản đầu tiên của các thế hệ tàu ngầm hiện đại ngày nay
    Tuy nhiên, nước Đức không còn thời gian để triển khai phát minh mới của mình. Tháng 6.1944, quân Đồng minh tiến chiếm Pháp, buộc tàu ngầm Đức ở các hải cảng phải tháo chạy về căn cứ ở Đức hoặc Na Uy. Nhiều tàu Elektroboat bị đánh đắm ngay tại cảng. Một số chạy thoát được, song cơ số quá ít, không đủ để tạo khác biệt để xoay chuyển cuộc chiến. Chiến công cuối cùng được ghi nhận của ?obầy sói? là trận đánh từ tháng 6 đến tháng 8.1944 tại biển Normandy. 5 chiến đấu hạm, 12 tàu hàng và 12 tàu đổ bộ của quân Đồng minh bị đánh chìm trong kế hoạch tiến chiếm bờ biển này trong khi phía Đức cũng thiệt hại mất 20 tàu ngầm.
    Từ đây, khả năng thủ thắng của ?obầy sói? trên Đại Tây Dương được xem là vô vọng. Họ không thể cứu vãn nước Đức. Hồng quân Liên Xô và quân Anh, Mỹ như hai gọng kìm tiến về Berlin từ hai hướng đông, tây. 15 giờ 14 phút ngày 4.5.1945, Donitz lên đài phát thanh kêu gọi đầu hàng. Tất cả tàu ngầm Đức được lệnh treo cờ đen, cập cảng gần nhất của quân Đồng minh để đầu hàng. Tuy nhiên, có đến 7 tàu ngầm cập cảng trung lập và 221 tàu ngầm bỏ trốn.
    Nhìn toàn cuộc, 1.155 tàu ngầm Đức được tung vào cuộc chiến, trong đó có 725 chiếc bị đánh chìm. Trong 6 năm, hơn 35.000 thủy thủ Đức lao vào cuộc chiến sống còn trên biển và 28.744 người không bao giờ trở về - tỷ lệ thiệt mạng 82% được xem là cao nhất trong lịch sử chiến tranh hiện đại.
  4. To_lai_nd

    To_lai_nd Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    22/02/2007
    Bài viết:
    1.214
    Đã được thích:
    21
    Em cũng thích chủ đề này lắm nếu có thêm mấy bài phân tích về quá trình thiết kế phát triển cũng như so sánh ưu/nhược điểm, đặc tính kỹ thuật của đàn Sói với các loại tàu ngầm khác cùng thời thì tuyệt
  5. Condor

    Condor Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    21/02/2003
    Bài viết:
    2.311
    Đã được thích:
    0
    Bác nào muốn tìm hiểu về tàu ngầm và lịch sử phát triển của tàu ngầm từ chiếc tàu ngầm đầu tiên đến các tàu ngầm trong chiến tranh lạnh...thì download cuốn "SUBMARINE WAREFAE" về xem. Sách xuất bản 1998.
    Link để download: http://www.scribd.com/doc/24129270/Submarine-Warfare
  6. DepTraiDeu

    DepTraiDeu Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    30/01/2004
    Bài viết:
    296
    Đã được thích:
    8
    Em cám ơn anh Condor nhiều nhiều! :D
  7. jemand

    jemand Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/07/2007
    Bài viết:
    3.081
    Đã được thích:
    0
    Nước Đức chỉ có tàu ngầm mang tến U-boot thôi. Nói vui thôi.
    Tài liệu này tìm trên google hàng đống. Nhưng tiếc là chỉ toàn tiếng Đức. Nếu bác tích thì tôi gửi cho.
    Mấy forum quân sự bằng tiếng đức nó cũng nói nhiều về U-boot. Không những của Đức mà còn của các nước khác.
    Được jemand sửa chữa / chuyển vào 12:56 ngày 28/01/2010
  8. P20

    P20 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    02/11/2006
    Bài viết:
    5.619
    Đã được thích:
    203
    Tối thứ 2 nào kênh National Geographic cũng chiếu loạt Military Monday, dạo này đang chiếu war on Atlantic gì đó, em quên tên rồi, nhưng tất nhiên là về đề tài này rồi
  9. jemand

    jemand Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/07/2007
    Bài viết:
    3.081
    Đã được thích:
    0
    Hê Hê.
    Trang này có cả tiếng anh. Bác chủ topic thích thì vào đây tìm hiểu nhé:
    http://www.u-boot-zentrale.de/eng/start.htm
  10. datvn

    datvn Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    10/04/2002
    Bài viết:
    2.981
    Đã được thích:
    1
    Dạo này nghe quảng cáo tàu lớp Kilo của Nga là "êm nhất thế giới". Nhưng mà em không có tin, từ trước đến nay, người Nga có giỏi đóng tàu ngầm đâu!

Chia sẻ trang này