1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Asean, Trung Quốc, Biển Đông và Việt Nam

Chủ đề trong 'Giáo dục quốc phòng' bởi MMichelHung, 27/06/2010.

  1. 9 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 9)
  1. silentlove87

    silentlove87 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    07/05/2009
    Bài viết:
    1.848
    Đã được thích:
    8
    CHữ ri rít như này đọc xong chắc mù mắt luôn!=))
    Bài này có lâu lắm rồi! Lần sau bạn chỉ cần làm đường link thôi![r23)]
  2. congtubl

    congtubl Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    30/11/2006
    Bài viết:
    5.067
    Đã được thích:
    2.540
    Đô đốc Mullen đã được mời thăm trụ sở của quân đoàn pháo binh số 2 của Trung Quốc vào hôm chủ nhật 10/7/2011.

    Tại trụ sở của quân đoàn pháo binh số 2, ông đã có buổi gặp gỡ và trao đổi với chỉ huy của quân đoàn này tướng Jing Zhiyuan.

    Tướng Jing đã giới thiệu cho đô đốc Mullen đôi nét về sự hình thành và quá trình phát triển của quân đoàn pháo binh số 2.

    Đây là một trong những nỗ lực của Bắc Kinh nhằm công khai minh bạch về các chương trình phát triển quân sự của mình. Đô đốc Mullen hy vọng rằng sẽ có nhiều hơn nữa sự hợp tác giữa lực lượng tên lửa chiến lược của hai nước.

    Trong khi đó, tướng Jing cũng hy vọng hai bên nghiêm túc thực hiện sự đồng thuận , gia tăng đối thoại và trao đổi thông tin nhằm duy trì quan hệ quân sự tốt đẹp giữa hai nước.

    Trong biên chế của quân đội giải phóng nhân dân Trung Quốc, lực lượng tên lửa chiến lược được gọi một cái tên khá khiêm tốn “quân đoàn pháo binh số 2”.

    Sự phát triển, cơ cấu tổ chức, vũ khí trang bị của lực lượng này vẫn là một ẩn số đối với thế giới.
    [​IMG]Phòng điều khiển của "Vạn lý trường thành" trong lòng đất (ảnh: Clubchina)

    Căn cứ ngầm cho lực lượng tên lửa

    Theo một số thông tin rò rỉ trên các trang mạng quốc phòng Trung Quốc, nước này đã hoàn thành xây dựng một “Vạn lý trường thành” trong lòng đất cho quân đoàn pháo binh số 2.

    “Vạn lý trường thành” trong lòng đất này vừa là kho cất giữ và bảo quản các tên lửa đạn đạo liên lục địa mang đầu đạn hạt nhân của Trung Quốc. Cũng là nơi đặt các giếng phóng cố định trong lòng đất.

    Cơ sở trong lòng đất này đủ khả năng để chịu đựng một cuộc tấn công bằng hạt nhân của đối phương. Đây sẽ là điểm tựa để Trung Quốc tiến hành một cuộc đáp trả lại đợt tấn công bằng hạt nhân của đối phương.

    Đường hầm này được xây dựng bên trong lòng núi tại khu vực Bắc Trung Quốc. Đây được coi là một “mê cung trong lòng đất”. Đến nay, số lượng tên lửa được triển khai tại đây vẫn là một ẩn số vô cùng lớn.
    [​IMG]Cơ sở trong lòng đất này đủ sức chịu đựng một cuộc tấn công hạt nhân của đối phương (ảnh: Clubchina)

    Theo báo cáo được đăng tải bởi Nti.org, lực lượng tên lửa chiến lược Trung Quốc có khoảng 400 thiết bị phóng, cùng với khoảng 100 đầu đạn hạt nhân. Tầm tác chiến của đơn vị này đủ sức "vươn tới mọi nơi" trên toàn thế giới.

    Cùng ngày, Trung Quốc cũng công bố bản danh sách đầu tiên của các nhà cung cấp thiết bị quân sự cho quân đội Trung Quốc. Nhằm thể hiện sự cạnh tranh trong đấu thầu cung cấp trang thiết bị vũ khí cho quân đội.

    Tổng cộng có hơn 1.600 nhà thầu nằm trong danh sách. Đây cũng là một nỗ lực nữa của Trung Quốc nhằm "minh bạch hóa" hơn các chương trình mua sắm quân sự đúng vào dịp người bạn Mỹ tới thăm. Các chương trình lâu nay vẫn là một ẩn số với thế giới.
    [​IMG]Đường hầm được thiết kế cho cả xe lửa và xe cơ giới hoạt động (ảnh: Clubchina)

    Sự úp mở, không công khai và thiếu thông tin về các chương trình mua sắm quốc phòng của Trung Quốc vốn làm cộng đồng quốc tế, đặc biệt là các nước trong khu vực không khỏi lo lắng.

    Tuy nhiên, vấn đề được quan tâm ở đây là liệu các dự án mua sắm quốc phòng lớn của Trung Quốc có được công bố cách công khai và minh bạch như các dự án mua sắm quốc phòng của Mỹ hay không. Bởi đến nay, sự phát triển các hệ thống vũ khí của Trung Quốc đều được thực hiện theo “chiều dọc” tất cả đều nằm dưới sự chỉ đạo từ phía nhà nước.


    http://quocphong.baodatviet.vn/Home...an-cu-ten-lua-Trung-Quoc/20117/154665.datviet
  3. silentlove87

    silentlove87 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    07/05/2009
    Bài viết:
    1.848
    Đã được thích:
    8
    Có cái clip này buồn cười quá! Mà không biết chèn clip youtube lên ttvnol! :((

    Trung quốc xin lỗi Việt Nam! Các bác xem có nên tha thứ cho nó không nhá?

    Xem đoạn 0.47-0.48 bạn Vương lực Hoành cầm cái gì nhá?=))
  4. DamSearch

    DamSearch Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    29/04/2004
    Bài viết:
    430
    Đã được thích:
    0
    Đâu có thiếu đâu, NC đứng thứ 11 nên ko đủ chỗ in thôi\:D/
  5. amtechvn1

    amtechvn1 Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    10/09/2007
    Bài viết:
    113
    Đã được thích:
    9
    Một bài rất hay

    http://tuanvietnam.vietnamnet.vn/2011-07-10-de-chien-luoc-bien-khong-con-nam-tren-giay

    Để chiến lược biển không còn nằm trên giấy

    Tác giả: Huỳnh Phan



    "Làm gì để chiến lược Biển không chỉ nằm trên giấy" là chủ đề cuộc bàn tròn giữa nhà báo Huỳnh Phan và hai vị khách mời, PGS.TS Chu Hồi, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Biển và Hải đảo, Bộ Tài nguyên và Môi trường, TS Trần Đình Thiên, Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam.

    Tháng 2/2007, Hội nghị Trung ương 4 thông qua nghị quyết về "Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020", được đánh giá như một bước đột phá về tư duy trong chiến lược phát triển đất nước: đó là tư duy vượt thoát khỏi "tư duy đất liền", mở ra "tư duy đại dương" trong thời đại kinh tế mở và hội nhập toàn cầu. Chiến lược này lại càng trở nên quan trọng khi mà Biển Đông, khu vực lợi ích sát sườn của Việt Nam sẽ trở thành tâm điểm của cuộc cạnh tranh địa chiến lược và tranh giành "không gian sinh tồn" của nhiều quốc gia.

    Thế nhưng, 5 năm đã trôi qua nhưng việc triển khai Chiến lược Biển vẫn chỉ nhúc nhích vài bước. Trong khi đó, người láng giềng khổng lồ của Việt Nam thì ngày càng leo thang trong những bước đi khiêu khích, thậm chí gây hấn nhằm việc thực hiện tham vọng độc chiếm Biển Đông thành ao nhà của mình.

    Nhận thức mới dừng ở cấp độ học giả

    Nhà báo Huỳnh Phan:
    Chúng ta đã có chiến lược biển 5 năm rồi, vậy mà đến mùa hè năm ngoái chúng ta mới làm Diễn đàn đầu tiên về kinh tế biển tại Hải Phòng. Tại sao lại chậm trễ như vậy?

    PGS-TS Trần Đình Thiên:
    Thực ra thì cũng đã có nhiều hội thảo khoa học về biển, rồi diễn đàn về biển. Tôi nhớ đã từng tham dự hội thảo khoa học "Tầm nhìn kinh tế biển và phát triển thủy sản", do Viện Khoa học Xã Hội Việt Nam phối hợp với Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn tổ chức năm 2007. Tôi và anh Chu Hồi đảm trách đồng tổ chức. Diễn đàn về kinh tế biển năm ngoái tại Hải Phòng là do Hiệp hội Doanh nghiệp Đầu tư nước ngoài, Thành phố Hải Phòng và Bộ kế hoạch Đầu tư tổ chức. Và vừa rồi là chuỗi diễn đàn và hội thảo ở Nha Trang nhân Tuần lễ Biển và Hải đảo Việt Nam (5-8/6). Chúng ta đã tổ chức liên tục với ý thức ngày càng rõ ràng hơn về việc cụ thể hóa chiến lược biển mà Hội nghị Trung ương 4, khoá 10, đã đề ra.

    Nhà báo Huỳnh Phan:
    Tiếp sau hội thảo đầu tiên của Viện khoa học xã hội Việt Nam và Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn mà không nhiều cơ quan truyền thông biết đến lắm, từ diễn đàn kinh tế biển lần I ở Hải Phòng đến diễn đàn lần II ở Nha Trang chúng ta đã tiến thêm được những bước nào?

    PGS-TS Nguyễn Chu Hồi:
    Hội thảo năm ngoái mà anh nhắc đến, có thể nói là diễn đàn đầu tiên được tổ chức rộng rãi và đạt được mục đích tạo điều kiện để không ít người được nói. Tuy nhiên, cũng nhiều người lại nói nhiều hơn là nghe người khác nói.
    Cho nên, năm nay chúng tôi đã rút kinh nghiệm. Về tổ chức, tại diễn đàn kinh tế biển lần thứ 2 ở Nha Trang, trước diễn đàn chính, chúng tôi đã mở cuộc họp bàn tròn để nghe các chuyên gia và nhà hoạch định chính sách cao cấp liên quan đến biển nói về những kết quả nghiên cứu, tư duy lâu nay về vấn đề tài nguyên và phát triển kinh tế biển, cũng như một số giải pháp còn chưa đi sâu luận bàn ở các khu kinh tế ven biển,...

    [​IMG]
    Nhà báo Huỳnh Phan và hai vị khách mời, PGS.TS Chu Hồi, TS Trần Đình Thiên. Ảnh: Lê Anh Dũng

    Chính nhờ cuộc họp bàn tròn này, những kết quả đưa ra ở đầu diễn đàn chung đã gây được ấn tượng. Đó là một bản kiến nghị của tập thể các chuyên gia cao cấp nhìn về kinh tế biển từ những khía cạnh khác nhau. Nhờ thế diễn đàn có điểm nhấn, và đạt hiệu quả cao hơn, đồng thời thời lượng của diễn đàn cũng được rút gọn. Thứ hai là lần này, về mặt tổ chức, cũng thu hút được thêm nhiều nhà quản lý, nhà hoạch định chính sách, kể cả đại biểu ************ vừa trúng cử. Họ cũng đã chia sẻ ý kiến của mình từ cuộc họp hẹp đến diễn đàn rộng. Họ đã đóng góp góc nhìn về kinh tế biển từ giác độ của cơ quan hoạch định chính sách, trong tình hình biển hiện nay.

    Chẳng hạn, có một câu hỏi được nhấn mạnh là, với chiến lược biển lâu dài thì thể chế quản lý nhà nước, với quy mô một số tổng cục và một số đơn vị nhỏ lẻ rải rác lâu nay, vẫn chơi riêng sân chơi của họ, liệu có cần một thiết chế quản lý ở tầm quốc gia đủ mạnh "để quản lý tổng hợp và thống nhất về biển và hải đảo", theo đúng tinh thần của chiến lược, hay chưa?

    Hay, thiết chế đó có cơ quan chịu trách nhiệm trực tiếp với Chính phủ hay không; quy trình xử lý
    các vấn đề về tình huống, chẳng hạn về an ninh và an sinh, có trực tiếp, hay phải bẩm báo, xin ý kiến vòng vo?

    Ví dụ, như có đại biểu ở TP HCM cho rằng Tổng cục Biển và Hải đảo Việt Nam nằm ở Bộ Tài nguyên và Môi trường là một bộ đa ngành quản lý 7 lĩnh vực. Mà đã là bộ đa ngành thì tuy "cái bánh kinh phí" có to hơn một chút, nhưng "nhà con đông" thì mảng biển vẫn phụ thuộc rất nhiều vào việc chia miếng bánh đó trong nội bộ như thế nào. Nếu bây giờ nói vấn đề biển cần được ưu tiên, thì về cấp độ thẩm quyền hiện nay, bộ này không thể chỉ ưu tiên cho biển mà còn phải lo chia sao cho đều. Tức là về khả năng chịu trách nhiệm trực tiếp trước Chính phủ, trước Nhà nước và Nhân dân về vận mệnh và sự nghiệp phát triển biển đảo, là không rõ, không đúng tầm của yêu cầu nhiệm vụ mới.

    Vì thế mọi người phải nghĩ đến việc rằng, trên một đất nước "tam sơn, tứ hải, nhất phần điền", ba phần Tổ quốc là biển mà lại không có một thể chế đủ mạnh, mấy chục Bộ, ngành chỉ tập trung chủ yếu vào quản lý một phần Tổ quốc trên đất liền thì nếu có một "Bộ quản lý biển" thì có gì là không thể!


    Năm 2009, khi nói chuyện với Công đoàn viên chức Việt Nam về quản lý nhà nước về biển, tôi đã nói: "Đất nước ta có ba phần là biển như vậy, mà ngay ở Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia, nơi đào tạo ra những cán bộ lãnh đạo, quản lý đất nước này, lại không có môn học nào về biển. Từ 2009 mới bắt đầu có các buổi thuyết giảng thử cho lớp chuyên viên cao cấp, và 2010 bắt đầu có các buổi thuyết giảng chính thức, tất nhiên cũng chỉ dưới dạng các buổi nói chuyện chuyên đề trong phạm vi một nửa ngày về biển, có tính chất khơi động nhận thức thôi.

    Thứ ba là cái khác lớn nhất là vai trò của truyền thông. Tức là các anh chị cơ quan truyền thông đã vào cuộc, và nhờ thế tác động của diễn đàn lan tỏa nhanh. Các anh chị đã khai thác những ý tưởng mới của các chuyên gia, anh Trần Đình Thiên, anh Võ Đại Lược hay anh Trần Du Lịch,... Nhờ thế sau diễn đàn, những tư tưởng, những kết quả của diễn đàn vẫn sống được. Chính điều này đã tăng khả năng hấp dẫn đối với lĩnh vực tư nhân, khi nhiều doanh nghiệp tư nhân đã tham dự và lắng nghe.

    Sau một tuần, Ban Tổ chức diễn đàn có buổi họp lại, có doanh nghiệp đã sẵn sàng hỗ trợ tài chính đủ để công tác chuẩn bị cho diễn đàn lần thứ III triển khai sớm và chu đáo. Nhờ có thêm nguồn hỗ trợ như vậy nên lần tới dự kiến sẽ mời các chuyên gia nghiên cứu riêng theo chủ đề và đào sâu hơn. Tức là diễn đàn tổ chức vào năm 2012 sẽ có phần nghiên cứu trước nhiều tháng, và tại diễn đàn các kết quả nghiên cứu sẽ được dẫn ra, chứ không chỉ là ý tưởng "có sẵn" như vừa rồi. Như thế sẽ hy vọng có những phát hiện mới, thực tế và thu hút hơn.

    Nhà báo Huỳnh Phan:
    Xin được hỏi thêm là giới lãnh đạo và giới hoạch định chính sách đã thực sự quan tâm chưa? Hay điều này mới dừng lại ở mức độ học giả, và phần nào đó là giới truyền thông?

    PGS-TS Trần Đình Thiên:
    Lịch sử quan tâm đến biển của ta, theo ý nghĩa tầm nhìn lớn, thì thật sự còn ít. Đến chiến lược biển được đưa ra trong Hội nghị Trung ương 4, khóa 10, cũng chỉ mới bắt đầu thể hiện một tầm nhìn gắn với thời đại mở cửa. Đấy là một chiến lược mang định hướng chung. Còn để làm một chiến lược mang tính hành động thật sự thì phải xác định thành từng tuyến, từng mảng cụ thể, và phải gắn vào tư duy phát triển mới. Còn chiến lược biển đề xuất bằng văn bản chỉ là những vấn đề mấu chốt và đặt một dấu mốc thôi.
    Với các hội thảo, diễn đàn về biển vừa rồi, các nhu cầu, các ý tưởng phát triển kinh tế biển, những vấn đề liên quan đến chiến lược biển tổng thể bắt đầu được định hình.
    Cái cách phát triển cứ túm tụm ở đất liền không thể chấp nhận được nữa.
    [​IMG]
    Ảnh: Lê Anh Dũng
    Và điều này xuất phát từ một nhu cầu thực tiễn: Cái cách phát triển cứ túm tụm ở đất liền, tư duy phát triển cứ vẫn là khai thác tài nguyên thô, là không thể chấp nhận được nữa. Bây giờ vấn đề biển đặt ra cả hai áp lực - phải tiến ra biển và phải theo cách thức phát triển mới. Lại thêm cả vấn đề tranh chấp Biển Đông lúc này cũng là một áp lực để chúng ta phải nhìn nhận vấn đề biển một cách nghiêm túc, bài bản, có tầm nhìn và trên những cơ sở thực tế hơn.

    Tôi rất đồng ý với anh Nguyễn Chu Hồi là tại diễn đàn ở Nha Trang vừa qua chúng ta đã tập hợp được rất nhiều ý kiến tốt để tiếp cận đến tư duy hành động. Nhưng cũng phải nói rất thực tế là tất cả những cái đó, ngay cả vấn đề phát triển biển gắn với thực tiễn, vẫn đang là những mảnh rời rạc, và tư duy của ta cơ bản vẫn là tư duy phát triển "tiểu nông - đất liền". Chưa phải là một tầm nhìn khác, một cách tiếp cận mới đối với một đối tượng còn rất mới.

    Do đó chúng ta còn phải quyết liệt hơn rất nhiều. Sự quyết liệt đầu tiên phải từ Nhà nước, từ cách nhìn tổng thể quốc gia và phải coi đó là một ưu tiên sống còn. Phải thấy là chúng ta đã xuất phát rất chậm trong vấn đề này, và, vì vậy, phải cố đẩy nhanh lên.

    Không thể tiến ra biển với tư duy "tiểu nông - đất liền"


    Nhà báo Huỳnh Phan:
    Xin hỏi cả hai vị khách mời là tư duy biển khác tư duy đất liền như thế nào?

    PGS-TS Nguyễn Chu Hồi
    : Khác thì nhiều cái khác. Từ góc độ khoa học, trước hết khác về mặt môi trường sinh thái. Nếu muốn coi biển như một môi trường sống của con người, như ở các nước hiện nay đã coi lòng biển (ở dưới lớp nước của các vịnh ven bờ) là nơi du lịch, nghỉ cuối tuần,... thì phải nhớ rằng môi trường đó rất "thụ động" về mặt sinh thái so với môi trường trên đất liền. Và đó là môi trường sống của các sinh vật biển mà đời sống tự nhiên của các loài không gắn với nơi sinh ra nó, sống "kiếp phù du".
    Vì thế, đối với quản lý sinh vật biển và nguồn lợi hải sản, chúng ta không trực tiếp quản lý loài sinh vật cụ thể, mà quản lý nơi cư trú của sinh vật đó. Ví dụ như con rùa đẻ ở Ninh Thuận thì không phải là rùa ở đó mà là rùa từ nơi khác đến. Ở đó, có bãi rùa đẻ rất thuận lợi, ta phải giữ được khu vực đó cho rùa khắp nới về đẻ,... Hay đối với quản lý việc khai thác cá biển, chúng ta sẽ không quản lý con cá, mà quản lý phương tiện và người đánh bắt cá,...
    Một cái khác nữa là tiềm năng. Tiềm năng của biển lớn hơn tiềm năng tài nguyên đất liền, vì biển là kho dự trữ cuối cùng về tài nguyên thiên nhiên của loài người, trong khi, trên đất liền, những tài nguyên "mắt thấy, tai nghe" thì đã khai thác cơ bản cạn rồi. Giờ chỉ còn nhìn xuống biển, mà ở biển thì có nhiều dạng tài nguyên, kể cả sinh vật và phi sinh vật (khoáng sản,...) không có trên đất liền. Có nhiều loại khoáng sản quý, mà người ta thường gọi là "món ăn của công nghiệp quốc phòng", phần lớn lấy từ đáy biển, như Niken, Lithium, Coban,..., và các nguyên tố hiếm.
    [​IMG]
    PGS.TS Chu Hồi: Vấn đề biển bây giờ là vấn đề lợi ích. Ảnh: Lê Anh Dũng

    Gần đây có mối quan tâm đến băng cháy (một dạng khí hydrate mêtan, hình thành trong điều kiện áp suất cao, nhiệt độ thấp, trông ngoài như miếng cồn khô), được coi là một nguồn năng lượng mới từ đại dương mà đến cuối 2010 quốc tế đánh giá trữ lượng gấp đôi trữ lượng các dạng năng lượng hóa thạch như than, dầu khí,... đã biết cho đến nay. Và Biển Đông là một trong 4 khu vực trên thế giới được xem là giàu tiềm năng về loại tài nguyên này. Các nước cũng đã tiến hành nghiên cứu, kể cả Trung Quốc. Chúng ta mới có chương trình và đang chuẩn bị hợp tác để điều tra, khảo sát về tiềm năng băng cháy ở vùng biển và thềm lục địa Việt Nam. Hẳn các nước quanh Biển Đông có điều kiện công nghệ hơn ta cũng đã tìm thấy rồi.


    Biển Đông có điều đặc biệt là hiện diện một "cấu trúc nước sâu kiểu đại dương với độ sâu trung bình khoảng 3500m, chiếm diện tích khoảng 66% tổng diện tích Biển Đông. Ở vùng nước sâu này lại có các rãnh sâu, và điểm sâu nhất khoảng 5000m. Sự hiện diện của cấu trúc nước sâu này cho phép chúng ta nghĩ đến khả năng có bùn khoáng, năng lượng địa nhiệt và kết hạch đa kim,... Riêng về triển vọng khoáng sản như vậy đã kích thích khát vọng của rất nhiều quốc gia. Một khi họ đã có tham vọng và lại có điều kiện, thì họ phải đi trước, hành động trước, từng bước giành giật, tìm cách độc chiếm. Về mặt an ninh chủ quyền, ngầm hiểu đây chính là vấn đề rất lớn.

    Quan sát trên bình đồ Biển Đông, chúng ta thấy yêu sách về đường lưỡi bò của Trung Quốc cơ bản vẽ theo rìa cấu trúc nước sâu đó. Chỉ có điều phần cuối của đường lưỡi bò liếm xuống tận vùng thềm lục địa Tư Chính của ta và thếm lục địa Mã Lai, là vùng chắc chắn đã tìm thấy các mỏ dầu khí. Ngày xưa, các cụ nói vui là "chiến tranh chỉ vì đàn bà và miếng ăn". Ở cấp độ quốc gia, đó chính là vì "miếng ăn". Chẳng đời nào mà tốn kém bao nhiêu con tàu, bao nhiêu vạn người, như 5 lực lượng chấp pháp trên biển của Trung Quốc chẳng hạn, xưng hùng, xưng bá chỉ để "diễu võ dương oai" mà không thu được một cái gì!

    Tài nguyên sinh vật ở biển khơi cũng rất khác với sinh vật đất liền, chúng rất sạch và có giá trị kinh tế cao, đặc biệt là nhóm sinh vật bơi lội. Ví dụ như cua bơi thì có giá trị hơn cua bùn. Và càng những sinh vật ở ngoài xa thềm lục địa thì càng sạch. Vậy thì ở khu vực cấu trúc nước sâu nói trên, chính là khu vực có giá trị kinh tế rất lớn về nguồn lợi sinh vật biển. Và nó còn để ngỏ rất nhiều quy luật, quá trình đối với các nhà nghiên cứu khoa học biển Việt Nam. Ví dụ như loài cá ngừ đại dương, đâu phải từ ngoài quá xa của Thái Bình Dương vào vùng biển của ta, mà chính là ở ngay trong khu vực nước sâu kiểu đại dương đó.

    Vì thế, cấu trúc nước sâu này chính là câu chuyện về "chủ quyền", mà Mỹ cho rằng phần giữa cấu trúc nước sâu này không thuộc chủ quyền của bất kỳ quốc gia nào. Cho nên "quyền tự do hàng hải và các quyền tự do khác", nếu theo quan điểm và tuyên bố của Mỹ, thì đó là phần mà chúng ta gọi là vùng biển cả (High Sea) trong Công ước Luật biển 1982 của Liên Hiệp Quốc. Và đã là vùng biển cả thì có 6 quyền tự do và không quốc gia nào được ngăn cản Mỹ và đồng minh của Mỹ thực hiện quyền tự do đó.
    Thế nên, vấn đề biển bây giờ là vấn đề lợi ích. Không chỉ là lợi ích của các nước khu vực Biển Đông, đặc biệt là Việt Nam và Trung Quốc, mà có cả lợi ích các nước ngoài khu vực Biển Đông. Vị trí "ngã ba đường" của nó như thế, tài nguyên Biển Đông giàu có như thế, khiến cho khu vực này lâm vào cảnh tranh chấp kéo dài và nhiều bên. Về góc độ pháp lý quốc tế cũng có thể thảo luận được một số vấn đề, tuy nhiên cũng có không ít điều còn chưa rõ ràng, thậm chí vô lý do "sự áp đặt" nào đó. Cho nên, đòi hỏi phải được giải quyết theo cách tiếp cận đa phương, các nước phải có thiện chí, củng cố lòng tin và cùng nhau nhìn lại vấn đề một cách nghiêm túc.

    Biển đòi hỏi văn hoá chinh phục ở một tầm nhìn khác hẳn


    Nhà báo Huỳnh Phan:
    Ý ông nói rằng trước đây chúng ta cũng chưa có cách tiếp cận nghiêm túc?

    PGS-TS Nguyễn Chu Hồi:
    Tôi không có ý nói rằng vừa rồi chúng ta không nghiêm túc. Nhưng tôi cho rằng nhiều lúc anh em mình vẫn còn "mải chơi", nghiên cứu chưa được hệ thống đâu, đừng chủ quan. Hơn lúc nào hết lúc này rất cần sự "nhất quán về chủ trương và kỷ cương về hành động" đối với các vấn đề liên quan tới Biển Đông và biển Việt Nam. Ta không có ý so sánh với nước láng giềng, nhưng phải hiểu rằng, trong bối cảnh mới chúng ta cần nhất quán hơn, phải xem xét việc tổ chức lại "đội hình" ra biển với tính liên kết cao hơn, tính hiện đại hóa cao hơn,...
    Giống như anh Trần Đình Thiên nói, chủ trương thì hay rồi, ít nhất về mặt lịch sử, đó cũng là một dấu mốc. Nhưng cái đó chỉ đưa ra một cái khung chiến lược, một mảng vấn đề chung thôi. Muốn trở thành một chiến lược hành động cần triển khai khác hơn. Nhưng nếu nhận thức chưa đến tầm, đặc biệt là nhận thức của các cấp, các ngành lớn, kể cả bên Chính phủ và bên *******, thì đó chính là sự chưa nhất quán.

    Có thể là sang năm tổng kết việc thực hiện chiến lược ta sẽ thấy. Có những chương trình làm hàng chục năm, do nó có gắn chữ "biển" nên ta cứ gắn vào chương trình hành động thực hiện chiến lược biển mà thôi. Lẽ ra, ta phải xác định những hành động mới để làm rõ tư tưởng chiến lược mới này là ở điểm nào, và với chương trình đó ta giải quyết được điểm mới nào trong chiến lược, sản phẩm cụ thể của nó là gì và được đánh giá theo "bộ chỉ số" nào,... Phải xác định hành động đó bắt đầu từ sau chiến lược ban hành vào năm 2007.
    Nói như vậy để thấy chúng ta nhận thức chưa đủ và chưa sâu sắc về tư tưởng của chiến lược. Đâu đó, nếu cần xem lại để điều chỉnh chiến lược thì cũng là cần thiết trong bối cảnh mới, nhằm thực hiện tốt nhất quyết tâm chính trị, tư tưởng chỉ đạo của *******, Nhà nước và ý chí của toàn dân tộc ta về chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020.

    PGS-TS Trần Đình Thiên:
    : Con người ở đâu cũng muốn mạo hiểm. Nhưng biển đòi hỏi văn hóa chinh phục ở một tầm nhìn khác hẳn. Chúng ta tiếp cận biển là chuyển sang cấp độ văn hóa rất khác. Chúng ta là quốc gia có đường bờ biển rất nhiều, nhưng văn hóa chinh phục, phong cách mạo hiểm chưa thực sự rõ. Lý do? Vì chúng ta chú trọng khai thác đất liền, như anh Nguyễn Chu Hồi đã nói. Bây giờ để đòi hỏi tạo lập sự phát triển biển thì chúng ta phải mạo hiểm và mạnh dạn hơn.
    [​IMG]
    Nếu không thực sự hiểu bản chất, thì mơ ước chinh phục biển vẫn chỉ là mơ ước. Ảnh: Lê Anh Dũng
    Lại cũng như anh Nguyễn Chu Hồi nói, thiên nhiên của biển rất khác, một đối tượng phong phú và khó khai thác hơn đất liền rất nhiều nên trình độ và phương thức khai thác càng phải khác hẳn. Tức là phải khôn, phải mạnh, phải có điều kiện cơ sở vật chất kỹ thuật, có công nghệ cao. Và phải can đảm.

    Khi đã biết vậy, ta phải có cách tiếp cận triệt để. Đây là cuộc chơi của tương lai, nếu không bắt đầu ngay bây giờ, thì sẽ rất khó bắt đầu. Vì một khi các nước mạnh hơn, giàu hơn, khôn hơn đã đi trước rồi, thì chúng ta sẽ phải đối mặt với nhiều thách thức hơn và khó hơn.

    PGS-TS Nguyễn Chu Hồi:
    Một cái khác nữa là đối với biển ta phải có cái nhìn dài hơi. Suất đầu tư vào biển rất lớn, trong khi môi trường biển thì rất khắc nghiệt. Không thể ra biển với công nghệ "lẹt đẹt" được. Tiêu chí của thế giới là muốn thành cường quốc đại dương thì phải có công nghệ cao, hiện đại và bằng sức mạnh của công nghệ.
    Với công nghệ lạc hậu mà ra biển thì thế giới không ai thừa nhận, mà sự thực là anh chẳng thể khai thác được gì đáng kể từ biển. Anh chỉ khai thác được những cái nhìn thấy thôi. Trong khi thế giới họ đang khai thác những thứ không nhìn thấy được. Ví dụ, Mỹ làm giầu từ nghề cá biển giải trí, Hàn Quốc có máy lọc Lithium từ nước biển để làm chất bán dẫn. Lọc được chất này từ nước biển thì không biết đến đời thủa nào mới hết, có thể coi là một nguồn tài nguyên "vĩnh cửu".

    Nói như thế để khẳng định rằng mình mơ ước là đúng, có nguyện vọng chinh phục biển là chính đáng. Nhưng nếu không thực sự hiểu biết bản chất của nó thì tư duy, cách nhìn, lựa chọn phương thức tiếp cận và phương pháp giải quyết vấn đề (đầu tư) đều sẽ vướng.
    Nhà báo Huỳnh Phan: Nhiều người nói thực ra chúng ta không có truyền thống chinh phục biển bằng thuyền buồm lớn. Nhưng, như người ta nói, đi chinh phục biển quan trọng nhất là xác định tọa độ và sự phối hợp nhịp nhàng, cố kết, kết giữa các thành viên của hải đoàn.
    Chúng ta đang cố tiến ra biển. Có thể ở đây sự so sánh có thể chưa thật khớp, nhưng tôi vẫn cứ mạnh dạn nêu ra. Thứ nhất về toạ độ, đó là hành lang pháp lý. Thứ hai, về sự phối hợp nhịp nhàng, cố kết, đó là một cơ quan nhà nước đủ thẩm quyền để phối hợp các cơ quan, bộ phận liên quan tới biển, với nhau.
    Khi chúng ta đề ra chiến lược biển, đây đó người ta có nói tới việc thành lập một bộ kinh tế biển. Vậy mà sao lâu nay lại chưa thực hiện được?

    PGS-TS Nguyễn Chu Hồi: Về thiết chế tổ chức có hai mối quan hệ.
    Thứ nhất là quan hệ theo cấu trúc dọc, tức là việc chịu trách nhiệm trực tiếp, hoặc giải quyết nhanh chóng và trực tiếp không lòng vòng qua các khâu trung gian khi có những tình huống, sự việc cần xử lý ngay.
    Thứ hai là mối quan hệ theo cấu trúc ngang, trong đó cơ chế phối hợp quản lý liên ngành trở thành yếu tố động lực. Đối với biển, hiện nay chúng ta có tới khoảng 15 bộ, ngành có trách nhiệm quan tâm đến quản lý biển. Đó là chưa kể các lĩnh vực đi kèm, các dịch vụ cho nó, cũng có thẩm quyền trong phạm vi nhiệm vụ được giao, gắn với việc khai thác biển, quản lý nó bằng cả chính sách và luật pháp.
    Việc quản lý như thế, trên thế giới gọi là quản lý theo ngành, và hạn chế của nó là tồn tại những mâu thuẫn về lợi ích trong quá trình khai thác, sử dụng biển, hải đảo và vùng ven biển.
    [​IMG]
    Ảnh Lê Anh Dũng
    Vì hệ thống tài nguyên biển là hệ thống tài nguyên chia sẻ, không của riêng ai. Ví dụ như vịnh Hạ Long, hay vịnh Nha Trang, ta không thể nói là vịnh thuộc Bộ ngành nào mà thuộc rất nhiều Bộ ngành. Như vậy cái "nồi cơm Thạch Sanh" và cái mâm cơm này nhiều người cùng ngồi ăn, ta phải làm sao cho mọi người cùng được ăn mà không hết. 15 bộ ngành quản lý biển, nhưng lại chưa có bộ ngành nào thay mặt Nhà nước quản lý tổng hợp và thống nhất vấn đề đó.


    Chính vì thế, cần phải có một cơ quan nhà nước đủ mạnh, thì cơ quan đó có phải là cấp Cục hay Tổng cục như hiện nay không? Tác động ngang của các ngành đòi hỏi phải có một thiết chế theo trục dọc nữa để chịu trách nhiệm trực tiếp hơn, đủ sức mạnh và uy lực giải quyết các mối quan hệ ngang như vậy. Ví dụ, thực tế hiện nay, Tổng cục Biển và Hải đảo Việt Nam của chúng tôi không có quyền nói bên Tổng cục Thuỷ sản và các ngành liên quan đến biển khác nghe theo được. Nhưng nếu bây giờ có một tổng cục, hoặc là một bộ, trực thuộc Nhà nước, có thể ra chính sách, pháp luật,..., thì mới giải quyết các vấn đề một cách hiệu quả thực sự được. Chẳng hạn, ở Trung Quốc Tổng cục Đại dương (SOA) là cơ quan trực thuộc Quốc vụ viện.
    Còn ở Việt Nam ta, hễ cứ động đến vấn đề gì lại phải chờ, phải hỏi. Ngay như cấp tổng cục bây giờ là cơ quan quản lý nhà nước, nhưng muốn tiếp cận những thông tin ngoài thông tin mình tự làm ra cũng là rất phức tạp. Nếu cơ chế phối hợp không tốt thì hiệu quả hoạt động sẽ rất bị hạn chế. Đây là do cấp độ thể chế, nhất là biển là vấn đề phức tạp.


    Phương thức quản lý tổng hợp ra đời cần hiểu là sẽ không thay thế quản lý của các Bộ, ngành, nhưng quản lý mọi vấn đề khai thác, sử dụng biển thì phải thống nhất trên mọi phương diện, có thế mới có kỷ cương.
    Vấn đề khác là cần tổ chức lại không gian kinh tế biển theo cách gọi là "phân vùng và quy hoạch sử dụng không gian theo chức năng". Từ chức năng, thấy rằng, trên đất liền chỉ việc phân chia quỹ đất cho các ngành quản lý, nhưng nguồn tài nguyên theo không gian biển thì lại chồng lớp theo cấu trúc "hình hộp", không chỉ tài nguyên lớp bề mặt biển, mà còn theo tầng nước, bề mặt đáy biển và lòng đất dưới đáy biển. Từng giai đoạn phát triển sẽ xác định lộ trình ưu tiên cho ngành nào sử dụng loại tài nguyên nào để phát triển trước, ngành nào phát triển sau, nó đảo chiều phù hợp để thực hiện chiến lược.
    Ví dụ như ở nước Úc, tại Công viên biển quốc tế dài khoảng 2000 km, rộng mấy chục km, mà tại đây họ phát hiện dầu mỏ, nhưng ở thời điểm hiện tại họ chỉ khai thác thế mạnh du lịch sinh thái biển thôi, họ giữ gìn những rạn san hô. Họ thành lập cơ quan quyền lực quản lý khu vực này như một "tỉnh ở dưới biển", và lãi ròng từ việc khai thác du lịch sinh thái này hàng năm lên tới hàng tỉ đô-la. Nhưng không có nghĩa là ngành dầu khí không phát triển, khi nào cần họ sẽ phát triển dầu khí.
    Hay nước Mỹ đến giờ họ cũng đã khai thác dầu khí đâu. Họ có công nghệ khai thác ngoài khơi và ra khai thác ở những chỗ "chung" thuộc đại dương trước, để hạn chế người khác ăn trước. Lúc nào hết, họ mới quay về biển nhà để khai thác.
    Như vậy, vấn đề thiết chế tổ chức không phải là vấn đề thích mạnh hay không về quyền lực hành chính giống như một nắm đấm, mà phải là vấn đề khoa học, bắt đầu từ cơ sở khoa học. Nếu không thì sẽ không thể đảm bảo hài hòa lợi ích giữa các ngành và càng không thể đảm bảo sử dụng đa mục tiêu, đa ngành được. Một hệ thống tài nguyên biển đa ngành như thế thì ai quản lý? Nếu tự các ngành đến chia "miếng ăn" đó thì không ai chịu, cần có một trọng tài, và đó chính là một cơ quan quản lý nhà nước đủ mạnh, ở cấp độ quản lý trực tiếp, để quản lý tổng hợp và thống nhất về biển.

    PGS-TS Trần Đình Thiên: Để thực hiện chiến lược biển thì đại thể có thể nói như vậy. Vấn đề là tại sao cấu trúc quản lý biển của chúng ta còn nhiều bất cập? Ngay cả đối những hoạt động đất liền "quen thuộc" của chúng ta, phương thức quản lý cũng phải thay đổi, không nên nặng về hành chính và phải tăng cường sự phối hợp với các bộ.
    Phương thức quản lí không thể nặng về hành chính, nặng về chia cắt. Mỗi bộ là là cả quốc gia, nhưng được giao phụ trách một lĩnh vực nhất định, trong sự phối hợp với các bộ khác. Thế mới gọi là bộ. Nhưng ở ta, tính cát cứ mạnh quá, ở từng bộ, chứ chưa nói đến từng địa phương. Chẳng hạn, như ông làm thép phải phối hợp với ông môi trường, bộ trưởng phụ trách ngành thép là phải tính đến môi trường, chứ không phải cứ lẳng lặng đi làm thép không đếm xỉa gì đến môi trường, rồi để ông môi trường kêu trời kêu đất lên.
    Chính vì vậy, ta muốn ra biển, muốn quản lý biển, thì phải thay đổi cả tư duy quản lý biển. Đây là quản lí nhà nước đối với biển, chứ không phải ngành nào do ông "chủ quản" ngành đó tự tung tự tác trên biển như ngày xưa.
    Thứ hai đây là biển, chứ không phải đất liền. Chúng ta đang nói đến một không gian phát triển khác, một tầm nhìn khác. Khi đó phải phối hợp giữa quản lý quốc gia thống nhất với từng tầng không gian một, từng lĩnh vực một. Tôi cho đã là tư duy mới cấu trúc lại nên có thể đầu tiên có thể có một bộ về biển, nhưng sau này trong thời gian phát triển, sẽ còn điều chỉnh rất nhiều. Nhưng đây phải là cách quản lý nhà nước theo kiểu hoàn toàn khác.


    Để mà làm được việc đó, cần nhấn mạnh điều kiện để làm là gì. Khái niệm tọa độ là khái niệm chủ quyền. Câu chuyện chủ quyền nóng lên ở chỗ xưa nay công nghệ không có, kinh tế còn yếu, chẳng nước nào thò chân ra biển, nhưng bây giờ thấy như thế là hay quá, xông pha lội ra cả. Thế là tranh chấp nhau, thậm chí có nước còn vẽ những đường biên chủ quyền bất chấp lịch sử, bất chấp luật lệ quốc tế.
    [​IMG]
    Ảnh Lê Anh Dũng.
    Điều kiện tiên quyết để giải quyết vấn đề chủ quyền là bằng cách nào đó, các nước phải thỏa thuận với nhau, chứ không thể choảng nhau mãi được. Tất nhiên lúc ông mạnh ông hà hiếp người khác được, nhưng không hẳn trong chuyện đó cứ mạnh là chơi được yếu. Nhưng ở đây tôi muốn nói về chủ quyền. Chứng cứ lịch sử khẳng định chủ quyền là một chuyện, nhưng quan trọng không kém là thực lực thực thi chủ quyền, kể cả về mặt bảo vệ lẫn khai thác. Chứ nói biển của ta mà chẳng có tàu nào của ta chạy, không thấy lá cờ nào phấp phới trên biển thì yếu quá. Năng lực hiện diện như vậy là thấp. Rõ ràng các nước rất chú trọng đến sự hiện diện, đến thực lực hiện diện trên biển.
    Ta đã chuyển hướng tư duy, bàn mãi ngành đóng tàu và Vinashin. Vì câu chuyện Vinashin có vấn đề, có ý kiến nghi ngờ luôn nhu cầu và khả năng phát triển ngành đóng tàu và ngành hàng hải của Việt Nam. Nhưng đây là hai việc khác nhau. Hạm đội hàng hải Việt Nam hiện diện trên biển là phải rất mạnh, đánh cá phải rất tốt. Còn Vinashin thì ta xử lí mặt thể chế. Chứ vì câu chuyện Vinashin mà "quên" luôn câu chuyện hàng hải là nhầm lẫn đối tượng, và chỉ đạt tầm nhìn cục bộ, không hướng tới lợi ích tổng thể.

    "Vì Tổ quốc ta" mà đặt luật cho đàng hoàng

    Nhà báo Huỳnh Phan: Tôi muốn đặt vấn đề cụ thể đến Luật biển, và Luật tài nguyên & môi trường biển cho ông Nguyễn Chu Hồi. Bởi tôi được dự một cuộc hội thảo về dự thảo Luật tài nguyên và môi trường biển, và nghe ông khi đó phàn nàn về việc chưa có Luật biển.
    Trên thực tế, Trung Quốc đã áp đặt chế tài dựa trên Luật Biển của họ đối với một số hoạt động khai thác của chúng ta, nhất là liên quan đến ngư dân.

    PGS-TS Nguyễn Chu Hồi: Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển năm 1982 bao trùm và tạo ra cán cân pháp lý cho các quốc gia ven biển và quốc đảo. Thậm chí, công ước ấy, để bảo đảm công bằng, còn tạo ra quyền hưởng dụng cho các quốc gia không có biển, thông qua việc thuê các cảng biển, hay đăng ký hành nghề trên biển,...
    Nhưng quan trọng là mặc dù có công ước chung đó của Liên Hiệp Quốc, nhưng mỗi quốc gia đều phải có luật cơ bản. Nhật Bản từ trước đến nay say sưa ra đại dương nên năm 2005 chỉ được xếp vào nước có trình độ kĩ thuật khai thác đại dương sớm, nhưng chưa hoàn thiện hệ thống chính sách biển. Nhật Bản chủ trương xuống biển, lúc mọi người rủ nhau lên trời. Như đi đánh cá tuyết ở Nam cực, hay khai thác cá voi ở Nagoya là khu vực gần như truyền thống...Thế nhưng, do không để ý khai thác biển nhà, nên Nhật Bản không chú ý đến luật pháp, và mãi đến năm 2007, họ mới ban hành Luật Đại dương Cơ bản, tương ứng với Luật biển mà Việt Nam đang chuẩn bị.
    Trung Quốc cũng ra luật biển rồi, và họ cũng phải chuẩn bị từ trước. Mình đòi, bảo vệ chủ quyền, nhưng phải bằng thực lực trên biển, nhưng mạnh nhất phải là khung pháp lý. Trung Quốc chuẩn bị rất kỹ, có năm dồn dập ra đến 1-2 chính sách và luật mới, nhất là từ khi ra luật quản lý đảo là họ bắt đầu đảy mạnh hành động.
    Còn chúng ta khai thác vẫn cứ khai thác, chiến lược ra vẫn khai thác, nhưng chưa đặt trọng tâm gì, ngoài việc thực hiện chiến lược này, ngoài cụ thể hóa các chương trình, những hành động cụ thể như anh Trần Đình Thiên đã nói. Theo tôi, việc chuẩn bị cơ sở pháp lý được ưu tiên hàng đầu. Bây giờ, muốn cả chiến lược thành công, thì phải biết cái gì là cốt lõi để dẫn đường đến năm 2020 đạt được mục tiêu trở thành một quốc gia mạnh và giàu.


    Có phải là mười năm khu chế xuất không? Hay mười năm khu kinh tế ven biển, hướng biển? Chúng ta bằng lòng với cái đó, và cho đó là cơ bản, là "đột phá", nhưng ngay cả khu kinh tế ven biển cũng không đủ cơ sở pháp lý và thể chế đủ mạnh, chưa nói là cả vùng biển cho đến nay không có luật. Nói như vậy để thấy luật biển dù ai đó (bên ngoài - NV) phản đối, nhưng là lợi ích quốc gia của ta, ta vẫn phải kiên quyết làm. Trong luật biển người ta cho phép có những điều áp dụng nguyên công ước luật biển LHQ 1982, nhưng cũng có những điều tùy theo lợi ích quốc gia mà được quyền cân nhắc áp dụng.
    Như vậy, Luật biển là luật cơ bản, là nền tảng để luật ngành và luật chuyên ngành ra đời. Nếu không tự các ngành sẽ mâu thuẫn nhau. Luật Tài nguyên và Môi trường biển đang soạn, đến dự thảo thứ mấy rồi, nhưng vướng nhiều. Tôi phân tích cái đó để thấy thời điểm nào thông qua luật biển là chuyện quốc sách, phụ thuộc vào chất lượng, nhưng không thể không có Luật biển quốc gia, vì được thông qua mới có công cụ pháp lý bảo vệ được lợi ích quốc gia.

    Nhà báo Huỳnh Phan: Chính vì như thế nên cái gọi là Luật Tài nguyên và Môi trường biển của bên ông cũng bị chậm trễ theo?

    PGS-TS Nguyễn Chu Hồi: Bây giờ chẳng nhẽ lại đưa ra thông qua trước? Còn soạn thì chúng tôi cứ chủ động soạn, vì soạn luật cũng không dễ dàng, cần thời gian. Cách tiếp cận của Luật Tài nguyên và Môi trường biển thì sẽ soạn theo cách tiếp cận làm sao đưa yếu tố quản lý tổng hợp và thống nhất vào. Làm thế nào để thống nhất bây giờ, trong lúc kể cả có một cơ quan quản lý thống nhất dưới dạng tổng cục, hay sau này là bộ, thì vẫn tồn tại các ngành sản xuất như vậy? Bản chất của việc quản lý nhà nước về biển chính là quản lý các họat động/hành vi khai thác, sử dụng biển, đảo và vùng ven biển. Để khai thác, sử dụng thì bối cảnh của nó đương nhiên như anh Trần Đình Thiên nói là vấn đề tọa độ biển. Anh phải có thực lực bảo vệ, tạo bối cảnh và môi trường pháp lý cho các hoạt động khác.

    Nhà báo Huỳnh Phan: Ông Trần Đình Thiên có thấy cần bổ sung gì thêm không?

    PGS-TS Trần Đình Thiên: Tôi nghĩ rằng cách tiếp cận như của ta, trong đó có hoạt động xây dựng khuôn khổ pháp lý, là chậm. Việc này phải được nghiêm túc nhìn nhận. Luật cơ bản xong mới đến luật thực thi - đó là trình tự làm luật. Còn ở ta nhiều khi là mạnh ông nào ông nấy làm, không thiết kế theo hệ thống, rồi sau đó phải sửa, sửa cả tầm nhìn quán xuyến từ trên xuống theo hệ thống.
    Để làm luật, nếu không có một luật biển cơ bản thống nhất trước, mà các luật ngành cứ thế tự ra là "choảng nhau", thậm chí "vô hiệu hóa" lẫn nhau. Vì mỗi bộ, mỗi ngành, đều có lợi ích riêng, quyền hạn riêng, được giao trách nhiệm riêng, nên cứ hoàn thành xuất sắc phần việc của mình là được, không cần tính đến lợi ích của các mảng khác, của tổng thể. Quốc hội kỳ tới phải coi chuyện này là chuyện "Tổ quốc ta", tương lai của Việt Nam, là câu chuyện sống còn của dân tộc, mà đặt ra luật cho đàng hoàng.

    Nhà báo Huỳnh Phan: Trong trường hợp này, câu nói "sinh con rồi mới sinh cha" là chuẩn không cần chỉnh.

    Vùng trũng nước sâu và khái niệm "biển công"

    Trước khi sang vấn đề khu kinh tế ven biển, xin phép được hỏi câu cuối cùng. Như PGS Nguyễn Chu Hồi đã nhận xét rằng vùng nước sâu ở Biển Đông gần như trùng với "đường lưỡi bò" của Trung Quốc. Tại sao từ thời Tưởng Giới Thạch họ đã nghĩ ra đường này, mặc dù sau đó Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa đã nhiều lần thay đổi.

    PGS-TS Nguyễn Chu Hồi: Việc cắt khúc, rồi uốn nắn bỏ bớt một hai khúc trong vịnh Bắc Bộ đi, vì để cái đó nó vô lý. Vịnh ấy rõ ràng chỉ có lợi ích của hai quốc gia, quốc gia thứ ba chắc chẳng vào đó để xí phần. Tôi nghĩ vì thế họ cắt đi, mà khi cắt đi thì họ lại điều chỉnh dài ra, liếm xuống thềm lục địa phía Nam một tí, trước khi cho công bố chính thức. Mặc dù có sự nắn chỉnh hình học, nhưng nền của nó chính là rìa vùng trũng nước sâu kiểu đại dương nói trên, nên, theo tôi, lý do chính đây là họ muốn lợi dụng lợi thế nước lớn và theo đuổi tư tưởng "chân lý thuộc về kẻ mạnh".
    [​IMG]
    Ảnh Lê Anh Dũng.
    Vùng nước này Trung Quốc phải biết thừa rằng nó cũng chẳng phải của họ. Nhưng đến nay, họ đang sử dụng lợi thế như vậy. Nhưng giả sử về phương diện pháp lý và lịch sử, những yêu sách của Trung Quốc không đạt được, tôi cho rằng câu chuyện Biển Đông sẽ phức tạp, sẽ chuyển sang kịch bản 02 là "không ăn được thì đạp đổ". Và lúc đó dễ dàng "xoay sang chuyện khác" cũng từ sự hiện diện của cấu trúc nước sâu này,...

    Nhà báo Huỳnh Phan: Thế quan niệm rằng vùng nước sâu là "biển công", hay "biển cả", theo ông, có vai trò gì ở đây?

    PGS-TS Nguyễn Chu Hồi: Phần trục chính của cấu trúc nước sâu, ngoài vùng đặc quyền kinh tế của các nước (200 hải lý), thuộc về cái gọi là "biển công", hay "biển cả". Yêu sách của Trung Quốc dường như xoay quanh cái lý lẽ rằng hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa mà họ đòi chủ quyền, được chia 12 hải lý lãnh hải và một vùng đặc quyền kinh tế rộng 200 hải lý. Thực ra, điều này chỉ đúng với những vùng xem như là "một mảnh quốc gia", nhưng có thực thể chính trị, pháp lý phù hợp Công ước luật biển 1982 của LHQ.


    Khi Trung Quốc công bố đường lưỡi bò ra rồi thì đó là cách tiếp cận không gian, thế thì cái gì (kể cả quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam) nằm trong đường lưỡi bò họ cho là của họ hết và họ đẩy cái gọi là "khu vực tranh chấp biển" vào sát biên giới biển của các nước khác quanh Biển Đông.


    Quan niệm khu vực tranh chấp biển của Trung Quốc như thế rất nguy hiểm, khiến cho không quốc gia liên quan nào đồng ý với quan điểm "gác tranh chấp, khai thác chung" do Trung Quốc đưa ra. Bởi khái niệm khu vực chồng lấn và khu vực tranh chấp khác nhau và cả hai đều phải được xác định theo Công ước luật biển 1982 của LHQ. Trung Quốc vẽ và tuyên bố vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý của hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam cũng là để tìm cách "lấp đầy", để hợp lý hóa "không gian lưỡi bò" mà thôi.
    Điểm thứ hai là, nếu như thế, ngoài vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý và thềm lục địa 350 hải lý, Việt Nam còn có hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Vì vậy, khi đề cập đến vùng biển Việt Nam trong khu vực Biển Đông chúng ta không bao giờ được quên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cùng với vùng lãnh hải rộng 12 hải lý của các quần đảo này.

    PGS-TS Trần Đình Thiên: Tôi thấy chuyện mà Trung Quốc vẽ, mà lại thường xuyên điều chỉnh đường biên lưỡi bò do mình tự vẽ, đã cho thấy rằng căn cứ pháp lý của họ là rất không chuẩn. Đó là chưa kể cách hành xử như vậy vi phạm nguyên tắc luật pháp quốc tế. Cần nhớ rằng mình vẽ thì nước khác người ta cũng vẽ được chứ, tại sao chỉ có ông vẽ là nó thành của ông? Không thể cứ nói tôi vẽ là tôi được, rằng tôi vẽ thế nào là tôi được thế đó. Đó không phải là cách hành xử văn minh, càng không phải là cách hành xử với tư thế nước lớn.

    Nhà báo Huỳnh Phan: Ta quay trở lại câu chuyện tranh cãi năm ngoái Asean 2010. Ngay hội thảo Biển Đông, tại diễn đàn an ninh khu vực ở Hà Nội, thì câu chuyện Trung Quốc luôn chỉ trích Việt Nam muốn quốc tế hóa vấn đề Biển Đông. Quan điểm của nhiều người, trong đó đa số học giả, đều cho rằng bản thân Biển Đông đã là biển quốc tế rồi, nên cái gọi là "quốc tế hoá" là thừa.
    Chính những điều PGS Nguyễn Chu Hồi vừa nêu ra về khái niệm "biển cả", hay "biển công", liệu có biến thách thức về "đường lưỡi bò" của Trung Quốc thành cơ hội để những nước khác có liên quan nhận được sự ủng hộ nhiều hơn từ bên ngoài?

    PGS-TS Nguyễn Chu Hồi: Nói như vậy để thấy rằng lợi ích của Biển Đông là lợi ích của nhiều bên. Các nước quanh Biển Đông đương nhiên có lợi ích trực tiếp theo quy định của Công ước luật biển 1982 của LHQ, nhưng các nước ngoài khu vực cũng có những lợi ích khác. Mà các lợi ích khác cũng không phải đơn giản chỉ liên quan đến "một vài ông đầu to", mà đằng sau là một loạt lợi ích của các đồng minh của họ. Đụng vào những lợi ích ấy cũng không đơn giản. Do vậy, chắc Trung Quốc cũng không phải là không tính đến. Nhưng hiện nay họ đang mải mê sử dụng lợi thế nước lớn.


    Nên chính hội thảo của CSIS vừa rồi ở Wasington DC đã tập trung vào hai vấn đề. Vấn đề đầu tiên bàn về lợi ích ở Biển Đông, và người ta chứng minh rằng Biển Đông chứa đựng lợi ích của nhiều bên và cách giải quyết phải khác. Ẩn ý đằng sau tôi cho rằng Trung Quốc phải nhận thức được. Vì GS. Duton đã nói rất hay rằng: Trung Quốc đừng làm cái điều mà mình phải làm, khiến cho các nước khác phải làm những điều họ có thể làm.
    Có lần sang Trung Quốc công tác, khi trả lời một cán bộ của Trung Quốc hỏi về chiến tranh, tôi đã nói với bà ta là "quy luật chung là một nước lớn gây khó cho một nước nhỏ, chỉ là cách đẩy nước nhỏ nhanh chóng chơi với các nước lớn khác".
  6. giacnamkha

    giacnamkha Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/09/2007
    Bài viết:
    514
    Đã được thích:
    0
    Chúng ta đang nhét chữ vào mồm họ đấy à :))
  7. chelsea0351

    chelsea0351 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    27/05/2011
    Bài viết:
    73
    Đã được thích:
    0
    chứ còn sao nữa
  8. ninjavn2007

    ninjavn2007 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    10/12/2007
    Bài viết:
    853
    Đã được thích:
    219
    http://vnexpress.net/gl/kinh-doanh/2011/07/petrolimex-dam-phan-mua-xang-dau-trung-quoc/
    Petrolimex đàm phán mua dầu TQ...
    MK... bao nhiêu chổ mua dầu không mua, mua dầu của thằng béo? ... để nó vừa có $ mà vừa có thế mạnh, như Nga mỗi lần muốn "đàm phán" cái gì thì doạ cắt khí đốt với bọn phụ thuộc nó, vd Ukraine, thằng U tím mặt ... giờ mình cũng thành vậy sao? quát đờ phở? ...???
  9. MMichelHung

    MMichelHung Thành viên rất tích cực Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    14/12/2009
    Bài viết:
    7.599
    Đã được thích:
    7
    bác Ninja phải nghĩ khác mới được, động thái mua dấu này cho thấy tình hình BD đang căng đó bác ạ.:)>-
  10. Spyderreload

    Spyderreload Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    31/05/2011
    Bài viết:
    182
    Đã được thích:
    0
    nếu tính GDP sức mua thì VN ngang ngửa U đấy bạn ợ [:D]

Chia sẻ trang này