1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Lịch sử quân sự Việt Nam, các bác vào đây chiến tiếp nhé.

Chủ đề trong 'Giáo dục quốc phòng' bởi meo-u, 09/12/2013.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. meo-u

    meo-u Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    29/04/2011
    Bài viết:
    4.710
    Đã được thích:
    4.111
    Việc quật mộ là văn hóa của những nước ảnh hưởng Tầu. Thời xưa việc quật mộ là một thủ đoạn, một biện pháp tốt để tiêu diệt kẻ thù. Phá long mạch dòng họ người đứng đầu thì chế độ đó sớm muộn cũng sụp đổ.
    Nói chung đã thua thì phải chịu thôi. Thắt cổ cũng là chết mà phanh thây cũng là chết. Chẳng có gì nhân đạo hơn ở đây cả. Chỉ có người xem có sợ thay người chết hay không thôi. Cái đó mới là mục đích chính của người trả thù.
    lalalalalalalalala, AlpOnlySilverMoon thích bài này.
  2. OnlySilverMoon

    OnlySilverMoon Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    20/10/2012
    Bài viết:
    1.309
    Đã được thích:
    1.301
    Kể cho Mèo và các bạn nghe một câu chuyện về người viết sử:
    Lớp 5 sách viết mỗi một dòng: Mạc Đăng Dung CƯỚP ngôi nhà Lê. Và cái thái độ hơi kỳ thị của mình đối với ông ta kéo dài 8 năm, cho đến khi nghe đài VOV3 đọc tiểu thuyết Mạc Đăng Dung hàng đêm. Mình mới chợt bừng tỉnh: À, cái anh ăn cướp này cũng mang lại lợi ích cho dân cho nước không ít.
    Thế đấy! Đấy là cách một sử gia ảnh hưởng đến mọi người. Nên quan điểm của sử gia là quan trọng. Có lão nào lên báo còn hét: Sử gia nước nhà toàn chép và trích dẫn, không thể hiện quan điểm lịch sử, không hướng người đọc vào sự đúng đắn. Có thể Mèo ít đọc, nên thấy mấy lời trên không có gì hot. Chứ thực ra, khách quan như Trần Trọng Kim mình chưa thấy được mấy người!
    Mình ko chỉ muốn tranh luận và tìm dữ liệu cho topic này. Mình muốn hướng các bạn đến sự đúng đắn và khách quan, dù chỉ ở mức độ tương đối, khi nhìn nhận một nhân vật hay một dữ kiện lịch sử. Mong muốn các bạn tìm được cái gốc rễ làm nên hồn dân tộc, để các bạn không tự ti về dân tộc mình, cũng ko tự tôn theo lối ảo tưởng sức mạnh khi nói về đất nước, để thi nhau gào thét: Việt Nam vô địch!
    Mình cũng hiểu, nhiều bạn chán nản khi đọc sử, đôi khi xấu hổ về cha ông mình "nghèo nàn" quá. Mình đã trải qua, mình hiểu cảm giác đó. Rồi cứ đọc mãi, đọc mãi, rồi mình cũng hiểu cái gì làm nên yếu kém, cái lý của sự nghèo hèn, chuyện gì đáng chê, chuyện gì đáng trọng. Gạn lọc qua 1 lần như thế. Mình mới hiểu cái gì làm mình thật sự tự hào khi là người Việt Nam!

    Đôi dòng tản mạn!
    maison2510, cuchinguoc, JICKLE9 người khác thích bài này.
  3. OnlySilverMoon

    OnlySilverMoon Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    20/10/2012
    Bài viết:
    1.309
    Đã được thích:
    1.301
    Cảm ơn các bác đã quan tâm, mất công viết mà có người đọc cũng là sự an ủi nhất định!

    Tiếp theo Mun sẽ viết quan điểm để đánh giá một triều đại thông qua một cái rất căn bản: Cái ăn.

    Nghe buồn cười nhỉ! Vậy vì sao phải phân tích cái ăn? Nói đơn giản thế này này: Nước ta là nước trước đây nặng về tính tự cung tự cấp. Giao thương thì chỉ chủ yếu để giải quyết vấn đề: Hàng xa xỉ phẩm cho kẻ có tiền, hàng quân dụng: sắt, đồng, thuốc súng, thuốc thang, .....
    Còn về lương thực, thì là phương thức tự cung tự cấp. Mà no đói, nhìn chung cũng chủ yếu bởi trời. Mà nước nhà lại ko nhập khẩu lương thực, hoặc có nhập cũng ko đủ ảnh hưởng đến kinh tế thời xưa. Nên được mùa thì vui tươi, mất mùa thì nháo nhác.
    Được mùa, tốt thôi! Anh em ai cũng vui cả.
    Nhưng phải bàn đến chuyện mất mùa! Mất mùa có hệ lụy gì. Đó là cơ hội và thúc đẩy xã hội phân hóa nghiêm trọng. Dân đen mất mùa, vay nợ, sẽ dể dàng bị địa chủ cho vay cắt cổ, ép giá, chuyện mất đất, mất ruộng, mất vợ con, hay mất cả thân mình là điều khó tránh khỏi.
    Về buôn bán, đây là cơ hội vàng cho những kẻ đầu cơ: Đầu cơ lúa gạo đẩy giá gạo: thứ đã hiếm khi mất mùa, lên đến cùng cực. Do ko nhập khẩu lương thực về chữa cháy, nên tình hình càng nghiêm trọng.
    Có thể nói ko sai rằng, ko cái gì đẩy xã hội VN thời cổ đi đến loạn lạc nhanh bằng nạn đói.

    Vậy tư cách triều đại phong kiến VN sẽ được đánh giá thế nào qua thước đo này: Đó là cách họ xoay xở trong nạn đói.

    Về phòng nạn đói: Cụ thể nhất là đắp đê. Phúc cốp khi nói về một chính quyền tốt bằng một định nghĩa rất đẹp: "chính quyền đắp đê". Đọc trong sử, các bạn sẽ dễ nhận thấy nhất vấn đề đắp đê được chính quyền tốt thực hiện rất bài bản, từ cắt quan coi sóc, đôn đốc nhân dân đắp đê.
    Ngoài đắp đê, thì khẩn hoang, và khuyến khích nông nghiệp bằng các biện pháp khác, thời nào thịnh trị, đều áp dụng. Đây là cách tốt phòng chống nạn đói.
    Nói chung, về phương cách khuyến nông, sử gia đua nhau chép. Mun cũng chả rỗi mà ngồi bới lại. Các bạn tự google về các triều đại thịnh trị, sẽ thấy cả đống. Nhưng về chống nạn đói, thì mấy sử gia ăn sẵn lại chả ông nào chép cho trẻ con hiểu. Nên ta sẽ đi sâu về vấn đề này!

    Về chống nạn đói: Đói no là việc của trời, với kiểu canh tác xa xưa, dù là triều đại tốt hay xấu, thì nạn đói vẫn xảy ra. Các bạn đừng nhầm thời thịnh trị không có nạn đói. Thời nào cũng có, đói to còn có là đằng khác! Nhưng khác với triều đại thối nát, kệ mẹ dân chúng muốn ra sao thì ra. Thời thịnh trị thường có những phương thức sát sườn để ổn định tình hình!
    Thực ra, cả thời thịnh và thời loạn. Dân đói thì chỉ có thời loạn trầm trọng mới kệ hẳn. Còn loạn vừa thì vua chúa cũng phải lo cứu gọi là cho có. Thường thì cứu đói sẽ theo hình thức: Phát chẩn theo kiểu nhỏ giọt, và phát tiền ( thực ra biện pháp này chó vãi, vì đói thì vật giá leo thang, phát tiền càng thêm loạn chứ được cái đếch gì đâu! ). Nếu tốt tí nữa, thì tha tô thuế một mùa, toàn phần hoặc một phần. Hết vị. Nhưng những biện pháp đấy, hầu như không cứu vãn được tình hình. Ta hãy xem họ Trịnh cứu dân:
    Theo Nguyễn Lương Bích:
    "
    Về kinh tế, nạn đói diễn ra liên tiếp. Năm 1776, mất mùa, nạn đói rất nghiêm
    trọng. "Người sang trọng phải nhòm từng cửa để xin làm thuê hoặc vay mượn mà
    cũng không đắt, họ họp nhau ăn cắp ăn trộm..." [1].
    Năm sau, 1777, nạn đói lại diễn ra, và đặc biệt nghiêm trọng là ở vùng Nghệ An.
    Chúa Trịnh phải cho đem tiền, đem gạo vào phát chẩn và thi hành nhiều biện pháp
    cứu đói khác.
    Năm sau nữa, 1778, lại đói to: "Giá gạo cao vọt, một chén nhỏ gạo trị giá một
    tiền, đầy đường những thây chết đói" [2].
    ----------------------------------------
    1. Việt sử thông giám cương mục, Bản dịch, t. XIX, tr. 51.
    2. Bản dịch đã dẫn, tr. 60.
    "

    Nếu đọc đến đây, các bạn sẽ à lên, Họ Trịnh tốt phết, còn cứu dân đói kìa! Nhưng bản chất, chiến tranh liên miên, họ Trịnh chỉ hời hợt cứu dân phần ngọn, 3 đồng cứu trợ chết đói đó ko giải quyết gốc rễ. Một triều đại ung nhọt, giặc cướp liên miên, dân xiêu tán ( Chính vì điều này mà Huệ phải định ra sổ bộ, bắt đeo thẻ bài để quản dân - một biện pháp khắt khe bắt dân chúng phải lao động, để nuôi họ, và nuôi chính quyền trong giai đoạn khó khăn ). Nếu các bạn tìm đọc danh tướng VN của Nguyễn Khắc Tuấn quyển 3, sự xiêu tán của dân chúng đến độ kinh hoàng được Lê Quý Đôn chép lại.( Quyển đấy mình đang để nhà bác. Ai muốn hỏi mai có cho xem ). Xẩu hổ hơn, trong cả quyển sách Lịch Triều Tạp Kỷ, Ngô Cao Lãng mình chưa đọc được đoạn nào có 2 chữ "đắp đê". Tệ hơn nữa, họ Trịnh không quản được "những kẻ làm phần ngọn", tức thương lái. Thương lái thời đói khát chính là kẻ đẩy tình thế xấu hơn bao giờ hết. Họ đầu cơ đôn giá lên cao, làm loạn thì trường. Thế nên trong tình hình cụ thể, đôi khi chẹt chết thương lái chính là biện pháp mạnh tay, nghe như kiểu "ăn cướp", nhưng nó chính là thứ cứu sống cả một xã hội. Riêng vài dòng "Giá gạo cao vọt, một chén nhỏ gạo trị giá một tiền, đầy đường những thây chết đói", đặc tả nên sự rối loạn do thương lái gây ra trong nạn đói đương thời.

    Thậm chí còn đặc tả hơn cái nạn "Thương lái", Tạ Chí Đại Trường viết:
    "
    Lịch sử chính thống không ghi rõ có một “thương ban” bên cạnh văn, võ và
    giám ban của họ Trịnh, chịu chức tước củng cố hay quấy đảo triều Chúa. Nhưng
    những nhân chứng thời đại đã cho ta thấy họ Trịnh và võ quan ủng hộ đám dân
    Thanh, Nghệ đi buôn bán trở nên giàu có hơn, cũng như họ đã ban đặc quyền cho ưu
    binh Tam phủ để bảo vệ cơ nghiệp nhà Chúa vậy.
    Lúc thái bình người ta không chú ý để ghi nhận sự có mặt của lái buôn vì họ ở
    dưới bậc chót của giai tầng xã hội. Nhưng họ vẫn kiên nhẫn làm giàu không kể câu
    “vi phú bất nhân” vì người ta lúc nào cũng cần tiền và chứng tỏ, lúc bình thời, người
    ta mua chuộc họ bằng quan tước, khi hoạn lạc, người ta tha hồ cướp bóc họ. Đám
    thương nhân “các lái” của Trịnh đã trải qua như vậy chuyến loạn ở Thăng Long, lúc
    Tây Sơn ra Bắc:
    “Đám các lái rất phè phỡn trong thời đói kém, vì lợi dụng được lúc thiếu gạo để
    bán mắc... và để cho những người nghèo khổ chết đói dọc đường. Đám các lái mất
    hết, thuyền, thóc, tiền sạch cả. Ở đây, chúng tôi thấy họ đi qua, trần truồng để trở về
    xứ Thanh”.
    Đám các lái đó không phải buôn bán loanh quanh xóm chợ làng quê mà thôi. Vị
    trí tập trung và số lượng của họ cho biết tầm hoạt động rộng lớn của họ: họ ở“gần
    cửa Bạng, nơi hòn Biện Sơn, nhân số lên tới gần 3.000 người”
    2
    .
    Nguồn lợi tức của họ không tuỳ thuộc vào đất ruộng nên họ có gia tư, sản
    nghiệp lớn, trong lúc đám nông dân đói kém sạt nghiệp và trong lúc đám sĩ phu xuất
    thân từ đồng quê cũng hoảng hốt trước tình cảnh thảm thương xảy ra chung quanh
    nên đâm ra chán đời, bi quan
    3
    . Họ sống sung túc rồi muốn danh vọng. Nguyễn Hữu
    Chỉnh cũng ở trong số đó
    4
    "

    Vậy đấy! Họ Trịnh tay này cứu dân bằng ba đồng chết đói, nhưng tay kia dùng tay chân vơ vét tận xương dân chúng giữa lúc lầm than cơ cực nhất để vun đắp cho cơ đồ nhà mình. Sự việc Tây Sơn cướp đến nỗi thương lái sạch bách như chùi cũng là dễ hiểu. Ai nói Tây Sơn nhũng nhiễu nhân dân cũng đúng, :D, vì chả nhẽ ko tính bọn này là "dân". Nhưng cái tôn chỉ "cướp của nhà giàu, chia cho người nghèo" cũng là thứ kéo dân chúng đến gần Tây Sơn. Sử không chép một dòng về chuyện Tây Sơn có chia một hạt gạo nào cho dân chúng Bắc Hà hay không! Giờ vẫn còn là một dấu hỏi to đùng! Ai giải đáp nổi thì hoan nghênh quá!

    Vậy, nguyên nhân đói khát và sự vơ vét của họ Trịnh làm cho dân chúng điêu tàn, sự bạc nhược trong cai trị, cũng như không bảo vệ nổi yên ổn cho dân chúng làm ăn là cái tội lớn chứ không phải bình thường. Thế nên các bạn chê lũ ăn cướp Tây Sơn, kêu gào thuế nặng sưu cao. Nhưng ở cái thời loạn này, dân chúng có kêu gào gì, thì bản chất việc họ được nai lưng ra làm lụng kiếm cái bỏ mồm một cách bình yên đã là hạnh phúc lớn lao! Tất nhiên, nhờ ơn Nhạc mà chỉ dân chúng quanh vùng Phú Xuân nơi lực lượng chủ lực của Huệ đồn trú là được hưởng cái "phúc" này. Còn lại thì Bắc Hà cứ việc lao vào chém giết và chết đói.

    Dưới thời Tây Sơn, buôn bán được khuyến khích. Một chuyện nữa là việc khiên chế thương lái ra sao? tiếc là đến giờ Mun chưa tìm được một dòng ghi chép. Nhưng Mun ước đoán Huệ cũng sẽ rất rắn tay với họ, cũng như đã rắn tay bắt dân chúng phải về quê mà làm lụng lấy cái ăn, ko được xiêu tán rồi xoay ra nghề ăn cướp! Một số bạn sẽ tự vấn vì sao dân chúng lại kêu ca Huệ? Thực ra thì thời này loạn, cơ sở kinh tế ọp ẹp, dân làm thì ít, dân cướp thì nhiều. Nếu không nặng tay răn đe thì còn lâu mới vào khuôn khổ. Cái nữa là thuế cũng ko nhẹ, vì nước có chiến tranh. Cả Huệ và Ánh, hai người giỏi xây dựng lại cơ sở kinh tế trong vùng ảnh hưởng, đều phải thu thuế rất nặng. Nhiều nhợn ở đây vì muốn tỏ ra "khác người" thường nếu ra sự thu thuế nặng nề của Tây Sơn với dân chúng. Nhưng về điểm này Mun đánh giá cao ông Trường về sự khách quan khi viết, Ánh cũng như vậy, chả kém cạnh! Có điều bóp méo cái ý ông Trường viết, nói lên sự tàn hại của chiến tranh trong cả nước, lũ nhợn giấu nhẹm chuyện của Ánh, bới mỗi chuyện của Huệ, thế là vui!
    Còn một chuyện nữa sưu thuế Tây Sơn so với thời trước thế nào, cái này Mun chưa so sánh được, ai thích tự hào về khả năng "nghiên cứu lịch sử", xin mời, nó hữu ích hơn cái việc các bạn đang "nghiên cứu" trên đây hiện nay đấy!

    Viết một lúc rồi chả ra đâu vào đâu, nhưng mấy cái râu ria kia cũng chẳng thừa. Trên đây thì túm cái váy lại Mun đã nêu bật lên được, họ Trịnh ko lo phòng đói, lúc đói lại ko bình ổn được thị trường, làm cho dân loạn vì vật giá. Những điều trên càng làm cho họ Trịnh - vốn ko ổn định được an ninh trong nước Bắc Hà, càng dắt tay nhân dân của mình đến chỗ khốn đốn!

    Gián tiếp nói thêm về bất đồng trong nạn đói, tuy ko trực tiếp ghi lại trong sử thời gian này, nhưng nó gần như chắc chắn sẽ ảnh hưởng đến xã hội thời này, mình xin trích phương pháp bình ổn xã hội trong nạn đói thời bà Ỷ Lan:

    "...."

    Mỏi tay vờ lờ, tí viết tiếp!
  4. OnlySilverMoon

    OnlySilverMoon Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    20/10/2012
    Bài viết:
    1.309
    Đã được thích:
    1.301
    Mình xin được viết tiếp!

    Xấu hổ quá, mình nhớ nhầm. Thôi mệt rồi, mình chỉ xin tóm lược cho anh em thế này:

    Nạn cường hào thời nào cũng có, chúng luôn nhân lúc đói kém cho vay lãi, hoặc mua ép giá rẻ mạt. Vô phúc mà triều đình ko giãn tô thuế, thì dân bị thúc tiền nong bởi triều đình, càng bị cường hào ép giá đến cùng khốn. Chuyện chị Dậu của Ngô Tất Tố phần nào để phản ánh rằng cái nạn ấy, đến thế kỉ 20 nó vẫn còn nguyên!
    Nạn bán ruộng đất, vợ, con hay bán mình dẫn đến những mâu thuẫn xã hội sâu sắc.
    Chính quyền với những nhà lãnh đạo thông minh giải quyết vấn đề ấy thế nào:

    Thời Ỷ Lan, bỏ tiền ra chuộc người phụ nữ bán mình. Gả cho người ko đủ tiền cưới vợ, để giúp họ bảo nhau làm ăn.
    Một số thời khác, bắt minh bạch hóa văn tự bán thân, tránh nạn cường hào lừa gạt ép chết bần nông.
    Thời Thánh Tông lại có chuyện vua sai thừa tuyên Nghệ An lấy tiền công đong thóc ở Nghệ An đem ra kinh đô, vì cớ kinh đô gạo đắt, còn Nghệ An gạo rẻ. ( chuyện này làm ta liên tưởng tới chính sách vua Hán áp dụng trong thiên Bình Chuẩn Thư của Tư Mã Thiên trong Sử Ký! )
    Một số thời khác, như thời Trịnh Cương ( ông này là vị chúa Trịnh rất có lòng với dân chúng, thời ông ta cai trị dân chúng được hưởng những cải cách mới khá có lợi, ông nội Trịnh Khải thì phải, lưu ý thêm anh em Hà Nội, Nguyễn Quý Đức là 1 trong những bề tôi của ông này, anh em ra đường Nguyễn Quý Đức nhậu cũng tạm hiểu tên ông Đức này sống vào thời nào rồi nhé! :cool::cool: ) Cấm bán ruộng công, tất nhiên biện pháp này phải đi kèm với những chính sách cứu trợ từ nhà nước mới phát huy được hiệu quả!

    Đấy, mệt rồi nên ví dụ vài chính sách cho anh em thấy, một thời đại vì nước vì dân sẽ có những sách lược cụ thể cho phù hợp với tình hình lúc đó. Nhằm cứu vãn sự mâu thuẫn xã hội đương thời, ko hẳn cứ đọc "cứu trợ, cứu trợ", hay "thu thuế, thu thuế" là đánh giá hết được một triều đại đâu!

    Khi tìm hiểu sâu hơn về Tây Sơn, thì 2 bài viết trên sẽ phần nào lý giải những chính sách của Huệ. Vì sao có lợi cho dân chúng, vì sao dân chúng chê Tây Sơn, đều phải từ đó mà so sánh với các dẫn chứng cụ thể, tìm ra bình diện chung giữa các thời phong kiến để so sánh. Chứ không phải dăm cái thư giáo sĩ, dăm cái lời ta thán của dân cày, là nói hết tầm vóc của một thời đại đâu!

    Vì chưa viết kiểu chuyên khảo này bao giờ, văn lủng củng anh em thông cảm nhé! Chí ít ra Mun cũng đóng góp thêm cho anh em vài thông tin để so sánh, xem ra cũng ko đến nỗi vô dụng đâu.
  5. OnlySilverMoon

    OnlySilverMoon Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    20/10/2012
    Bài viết:
    1.309
    Đã được thích:
    1.301
    Năm mới, chúc tất cả các mem 2 box Giáo dục quốc phòng và Kỹ thuật quân sự nước ngoài, bất kể phe phái pro Nga, Mỹ, giả Tàu giả Khựa, trẻ trâu ông già, mem mới mem cựu ... tất cả đều vui vẻ hạnh phúc nhé! :):):):):):):):):):):):)
  6. tuanquynh123

    tuanquynh123 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    06/08/2006
    Bài viết:
    340
    Đã được thích:
    134
    Chúc Mừng Năm Mới 2014 - An khang Thịnh Vượng.
    lalalalalalalalala, Malogs, Alp2 người khác thích bài này.
  7. Alp

    Alp Thành viên gắn bó với ttvnol.com Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    01/09/2012
    Bài viết:
    2.260
    Đã được thích:
    597
    Thay mặt anh em Vicodo Giáo, chúc anh em Vệ Phủ một năm mới an lành, nhiều niềm vui và may mắn nhé!
    ducly, su_30, VasilyTran1 người khác thích bài này.
  8. OnlySilverMoon

    OnlySilverMoon Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    20/10/2012
    Bài viết:
    1.309
    Đã được thích:
    1.301
    Tết nhất chả vật nhau làm gì, chỉ xin trích vài dòng thư Huệ gởi quân dân Quảng Ngãi, Quy Nhơn.
    Chú ý dòng tô đậm nhé, đôi khi vài câu cầu ơ như thế nói lên suy nghĩ của 1 con người đấy.

    "
    HỊCH TRUYỀN QUAN LẠI, QUÂN DÂN CÁC PHỦQUẢNG NGÃI, QUY NHƠN[1]
    (1792)
    Tất cả các người, lớn nhỏ, từ hơn hai chục năm nay, đều luôn luôn chịu ân đức
    của nhà Tây Sơn ta.
    Sự thật, trong mấy chục năm qua, trẫm đã chiến thắng khắp cả trong Nam, ngoài
    Bắc. Trẫm nhận rằng có được những chiến thắng ấy chính là nhờ có sự phù trợ hết
    lòng của nhân dân hai phủ[2]. Hai phủ cũng đã tiến cử lên trẫm nhiều người trung
    dũng, hiền tài để giúp rập triều đình. Trẫm đem quân tới đâu, quân thù đều phải thất
    bại hoặc tan rã. Trẫm mở rộng chiến trận tới đâu, quân Xiêm và quân Thanh tàn bạo
    đều phải khuất phục. Còn bọn dư đảng bỉ ổi của cựu triều [3], thì từ hơn ba chục năm
    nay trẫm chưa từng thấy chúng làm nổi trò trống gì. Trẫm đã đánh chúng hàng trăm
    trận, sĩ tốt của chúng phải tan tác, tướng lĩnh của chúng phải bỏ mạng, xương tàn của
    chúng tràn đầy đất Gia Định. Những điều trẫm nói đây, các người đều biết rõ, nếu
    mắt các người chưa được trông thì tai các người cũng đã từng nghe thấy.
    Như tên Chủng [4] đê hèn kia, đã phải lẩn trốn sang những nước tầm thường ở
    phương Tây [5], thì có gì là đáng kể.
    Còn như đám dân ươn hèn Gia Định [6], nay dám ngóc đầu dậy, mộ binh, tại
    sao các người sợ hãi chúng như vậy, tại sao tinh thần các người khiếp đảm đến thế?
    Quân thủy bộ của chúng tới đánh chiếm các hải cảng của các người như thế nào, các
    người không cảnh giác như thế nào, Hoàng đại huynh [7] đã có thư cho trẫm rõ cả
    rồi. Trẫm thấy sở dĩ chúng đánh chiếm được đất và giữ được đất của các người cho
    tới ngày nay, không phải vì chúng tài giỏi gì, mà chính là vì quan quân và dân chúng
    hai phủ đã không giám đánh nhau với chúng. Bộ binh của các người đã hèn nhát bỏ
    trốn [8].
    Bây giờ, theo lệnh Hoàng đại huynh, trẫm sẽ thân chinh cầm đại quân theo hai
    đường thủy bộ vào dẹp giặc. Trẫm sẽ đập tan bọn giặc cựu Nguyễn dễ dàng như đập
    tan một cành củi khô, một thanh gỗ mục. Còn nhân dân hai phủ, các người đừng lo
    âu, đừng sợ giặc. Các người hãy để mắt nhìn, để tai nghe, xem trẫm sẽ làm gì. Các
    người sẽ thấy rằng trẫm chỉ đánh một trận là Bình Khang, Nha Trang, những mảnh
    xương tàn của cái thây ma Gia Định, cũng như Phú Yên đã từng là trung tâm chiến
    trường và suốt một dải từ Bình Thuận vào tới Chân Lạp, sẽ tức khắc được thu phục.
    Như thế để ai nấy hiểu rõ rằng trẫm và Hoàng đại huynh là hai anh em ruột, là cùng
    chung một dòng máu. Trẫm không bao giờ quên điều đó.
    Trẫm kêu gọi nhân dân, lớn nhỏ, hai phủ, hãy ủng hộ hoàng gia, trung thành với
    Hoàng đại huynh, chờ đợi quân ta vào quét sạch miền Gia Định, lấy lại đất về ta.
    Tiếng thơm hai phủ các người sẽ mãi mãi lưu truyền sử sách.
    Các người chớ quá nhẹ dạ cả nghe những lời phao đồn về bọn người Tây dương.
    Tài giỏi gì hạng người đó? Mà chúng là mắt rắn xanh, chúng chỉ là những xác chết
    trôi từ biền Bắc giạt về đây, các người nên hiểu như thế. Những tàu bằng đồng,
    những khinh khí cầu [9] của chúng thì có gì là kỳ lạ mà phải đệ trình lên trẫm biết.

    Để cho đại quân của ta tiến vào được dễ dàng, các xã dân hai phủ ở dọc bên
    đường hành quân hãy kíp sửa sang cầu cống.
    Lệnh này truyền tới, nhân dân hãy vâng theo ý trẫm.
    Khâm thử
    Quang Trung năm thứ năm, ngày mồng l0 tháng Bảy [10]
    (ngày 27 tháng 8 năm 1792, tức 20 ngày trước khi Nguyễn Huệ mất - tác giả chú)
    ----------------------------
    1. Bài hịch này, hiện nay, chưa tìm thấy nguyên văn, không rõ viết bằng chữ Hán hay chữ Nôm. ở
    đây, chúng tôi dịch lại theo bản dịch tiếng Pháp của giáo sĩ De la Bissachère trong sách Etat
    actuel du Tonkin, de la Cochinchine et des royaumesde Cambodge, Laos et Lac-tho xuất bản
    năm 1812. Bản dịch tiếng Pháp này còn trích in trong hai sách khác: 1. trong sách của Al.
    Faure: Les Francais en Cochinchine au XVIIIe siècle.Mgr Pigneau de Béhaine, évêque d'
    Adran, xuất bản năm 1891, ở đây chỉ trích dẫn một số đoạn, không in toàn văn - 2. trong sách
    của C.B. Maybon: La relation sur le Tonkin et la Cochinchine de Mr de la Bissachère, xuất bản
    năm 1920. Trong sách này trích in toàn văn bản dịch tiếng Pháp, nhưng ở đôi chỗ: lời, ý và
    cách viết chữ có khác với bản in trong tập sách xuất bản năm 1812 của De la Bissachère.
    2. Bản dịch tiếng Pháp viết là tỉnh, nhưng thời bấy giờ Quảng Ngãi và Quy Nhơn chỉ là hai phủ
    của dinh Quảng Nam.
    3. Cựu triều: chỉ tập đoàn chúa Nguyễn ở Đàng trong.
    4. Chủng là tên tục tức tên thường gọi của Nguyễn Ánh.
    5. Không rõ nguyên văn là gì mà bản dịch tiếng Pháp viết là Europe (châu âu). Có thể là bản tiếng
    Pháp dịch sai. Nguyễn Ánh không trốn sang châu âu mà chỉ trốn sang Xiêm và các đảo ở phía
    vịnh Xiêm La, chắc chắn Nguyễn Huệ biết rõ điều đó. Xiêm và các đảo thuộc vịnh Xiêm La
    cũng là ở phía tây Gia Định.
    6. Chỉ bọn ********* tay sai của Nguyễn Ánh ở Gia Định.
    7. Hoàng đại huynh (notre frère l'Empereur) tức vua anh, chỉ Nguyễn Nhạc.
    8. Theo bản dịch trong sách của Maybon thì câu này viết khác, đại ý là: "Quân của các người đã
    hèn nhát bỏ trốn, bộ binh trốn một nơi, thủy binh chạy một nẻo". Chưa rõ ý trong bản nào đúng
    với nguyên văn.
    9. Khinh khí cầu là một thứ quả bóng tròn, lớn, làm bằng vải, cho hơi đốt hoặc khinh khí vào trong,
    có thể đưa bóng lên cao trên không được. Hai anh em Mông-gôn-phi-ê (Montgolfier), người
    Pháp đã sáng chế ra khinh khí cầu và đưa ra thí nghiệm lần đầu tiên ngày 5 tháng 6 năm 1783.
    Cách mấy năm sau, khoảng 1790 Boa-xơ-răng, một giáo sĩ Pháp theo Bá Đa Lộc sang giúp
    Nguyễn Ánh, đã làm thí nghiệm thả những khinh khí cầu lên trời để lòe bịp nhân dân Gia Định,
    Quy Nhơn về phép lạ của người Pháp. Nhưng sự lòe bịp ấy không có hiệu quả. Năm 1797, tên
    Boa-xơ-răng đã bỏ mạng ở Nha Trang, sau trận đi đánh Đà Nẵng trở về.

    10. Bản trích dẫn trong sách của Al. Faure viết sai là ngày 10 tháng Năm âm lịch.
    "

    Mun xin lạm bàn vài dòng: Thời đấy, có lẽ sự ảnh hưởng của công nghệ Tây Phương đối với nước ta rất sâu rộng, nên nhìn chung công nghệ chiến tranh cũng như những phát kiến mới không xa lạ với Tây Sơn là bao. Tuy chắc chắn Tây Sơn không thể có những "cố vấn kỹ thuật" Tây lông giúp đỡ "tận tình" như Gia Định, thì họ vẫn bằng cách này hay cách khác, cập nhập những tiến bộ phương Tây cho lực lượng của mình!
    Bản thân Huệ và Ánh đều chú trọng xây dựng lực lượng theo hướng hiện đại hóa hết sức có thể. Huệ theo trường phái "tân cổ giao duyên", tìm cách ứng dụng khéo léo thành tựu Tây Phương kết hợp với những kinh nghiệm sẵn có của dân tộc. Và thực tế chứng minh rất thành công. Ánh, xem ra bế tắc khi liên tục thua Huệ, cố gắng xây dựng một lực lượng theo chuẩn phương Tây ở mức độ cao hơn, nhằm tạo dựng sự chênh lệch của chất lượng quân lính có lợi cho phía mình - dù Mun thấy chắc cũng chả thành công lắm. Nói chung Mun thấy ngay từ cách ông ta xây dựng lực lượng quân sự nhìn chung có vẻ có vấn đề. Sự rập khuôn xem chừng có phần máy móc đó sau này ông ta lại một lần nữa đem ra trị nước.

    Anyway, dù sao Mun thấy thời này sự gần gũi văn minh phương Tây diễn ra sâu hơn bao giờ hết. Nó là cơ hội để chúng ta mở cửa tiếp thu những cái mới. Và sự chênh lệch văn minh Tây Đông nó cũng chưa khác biệt đến nỗi vua chúa nhà Nguyễn sau này ko tin có "bóng đèn thắp ngược" mà vẫn sáng. ( dẫn chứng này nói cho có thôi, Mun cũng ứ chắc :P ).....
  9. atlas02

    atlas02 Thành viên gắn bó với ttvnol.com Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    25/10/2011
    Bài viết:
    1.255
    Đã được thích:
    843
    “Người Hà Lan... qua thử nghiệm với kết quả tai hại đã nhận ra rằng những loại thuyền ấy (những loại thuyền chèo tay của người An Nam) có thể tấn công và giành được lợi thế trước những chiếc tàu to lớn của họ, mà trước đây với những chiếc tàu ấy họ từng là những kẻ làm bá chủ trên mặt biển” - Giám mục De Rhodes.
    >> Kỳ 1: Từ thủy quân đến hải quân

    Theo tài liệu bí truyền trong hoàng tộc Nguyễn, tàu hơi nước dù rất hiện đại, nhưng cũng chỉ dùng để vận tải, không dùng làm tàu chiến. Ngay cả các thủy sư người Pháp phục vụ cho hải quân nhà Nguyễn, trong trận hải chiến lừng danh là trận Thị Nại, họ cũng chỉ làm nhiệm vụ tải lương, tức là chỉ đóng vai hậu cần. Bởi vậy mà theo Barrow, trong số 26.800 lính hải quân, chỉ có 1.200 người phục vụ trên các tàu đóng kiểu châu Âu.



    [​IMG]
    Tái hiện thao diễn thủy binh thời Nguyễn tại Festival Huế 2010 - Ảnh: Bùi Ngọc Long

    Tàu thuyền chạy bằng buồm cũng vậy. Dù có kết cấu hết sức linh hoạt, vỏ tàu có 3 lớp, tàu lớn tải trọng có thể trên 40 tấn, có 22 khoang, mỗi khoang đều có phao làm bằng thao tằm, có trụ trung tâm điều khiển cột buồm bằng con quay để giữ thăng bằng và bảo đảm quan sát được 4 hướng, dưới chân cột buồm có dàn xạ tiễn bắn tự động để đối phó mỗi khi bị tàu địch tấn công. Tàu buồm này chịu được sóng gió cấp 5. Tuy nhiên, tàu chạy bằng buồm cũng chỉ được dùng làm tàu vận chuyển và... nghi binh mà thôi.

    Tàu chiến của nhà Nguyễn toàn bộ làm bằng tre và chỉ dùng mái chèo. Nghe thì tầm thường, nhưng sự vô song chính là ở đó. Tuy dùng bằng mái chèo nhưng có thể lướt sóng với tốc độ nhanh hơn tàu chạy bằng hơi nước, lại linh hoạt hơn và cơ động thiện chiến hơn nhiều. Vì sao vậy?

    Để khỏi mang tiếng tự đề cao dân tộc mình, xin hãy nghe “Tây” nói về những chiếc thuyền chiến bé nhỏ của ta đánh thắng hạm đội Hà Lan trước đã. Tường thuật lại trận hải chiến năm 1643, trong cuốn Những người châu Âu ở nước An Nam, Charles B. Maybon, một học giả người Pháp viết:

    “Ba tàu dưới sự chỉ huy của Pierre Baeck được phái đi từ Jambee (Sumatra) vào cuối năm 1643. Đến ngang tầm “Bốn mũi” (Quatre Caps), người Hà Lan phải chịu đựng đòn tấn công của chừng 60 thuyền chiến Đàng Trong, mà theo Thực lục là dưới quyền chỉ huy của Thế tử, tức Hiền Vương sau này. Tàu đô đốc, là chiếc nặng nhất và chậm nhất trong số 3 tàu đó, bị bốn thuyền chèo tay đuổi kịp, đánh gãy mất bánh lái, đánh đổ cột buồm và bám vào hai bên mạn tàu; viên thuyền trưởng Hà Lan không hy vọng chạy thoát được nữa, cho châm lửa vào kho thuốc súng và tự đốt cháy tàu. Hai chiếc tàu kia, theo lời của Jean Gobyn, phải rất chật vật mới tìm được một chỗ trú ở đảo Ngọc (Ile de Perles). Theo cha De Rhode, một trong hai tàu ấy do bị người Đàng Trong đuổi đánh đã va phải đá ngầm vỡ tan, còn chiếc kia chạy thoát được...”. (Bạn đọc có thể tìm hiểu thêm về trận đánh này trong bài Tàu to súng lớn vẫn thua, Thanh Niên số ra ngày 4.8.2011).



    Người ta cũng nhầm tưởng hải quân nhà Nguyễn thường dùng vũ khí là đại bác và súng ống phương Tây. Các thủy sư đô đốc nhà Nguyễn hiểu rằng bắn đại bác từ tàu chiến chỉ để thị uy chứ ít chính xác, nên hải quân nhà Nguyễn sử dụng chủ yếu 3 loại vũ khí: súng phun lửa, nỏ liên châu và ống phóng hơi cay. Súng phun lửa có thể sử dụng khi cận chiến cự ly 15m. Nỏ liên châu thì một phát bắn ra 20 mũi tên có thể trúng chính xác ở cự ly trên 100m. Khi xung trận, đầu tàu có thể biến thành đuôi tàu và ngược lại nên cơ động trong mọi tình huống.

    Maybon dẫn lời nhà truyền giáo De Rhodes kết luận về trận hải chiến này như sau: “Người Hà Lan... qua thử nghiệm với kết quả tai hại đã nhận ra rằng những loại thuyền ấy (những loại thuyền chèo tay của người An Nam) có thể tấn công và giành được lợi thế trước những chiếc tàu to lớn của họ, mà trước đây với những chiếc tàu ấy họ từng là những kẻ làm bá chủ trên mặt biển”.

    Theo tài liệu lưu giữ trong gia đình ông Ưng Viên, tàu chiến (gọi chính xác là thuyền chiến) nhà Nguyễn, loại lớn nhất dài 30m, ngang 12m; loại nhỏ nhất dài 3m, ngang 1,2m. Vỏ tàu có 3 lớp, tất cả làm bằng tre trét bằng dầu rái và vài loại thực vật khác, các khoang tàu cũng có phao làm bằng thao tằm giống như tàu chạy buồm.

    Toàn bộ thủy quân chỉ có một soái hạm, dài 50m, ngang 12m. Người phương Tây rất muốn quan sát được chiếc soái hạm này nhưng chưa bao giờ họ nhìn thấy, vì nó có cấu tạo đặc biệt, chỉ xuất hiện trong những tình huống cần thiết, trong điều kiện bình thường nó được tách ra thành những chiếc tàu chiến nhỏ.

    Tàu chiến lớn có 12 tay chèo, chia thành 3 cụm, mỗi cụm có 4 tay chèo, 1 cụm bố trí ở mũi tàu, 2 cụm bố trí ở khoảng 1/3 thân tàu tính từ phía sau. Điều thú vị là các tay chèo này không phải dùng mái chèo tác động xuống nước để đẩy thuyền đi như thuyền chèo thông thường mà việc “chèo” này là để làm quay một hệ thống ròng rọc nối liền với các quạt nước, chính những cái quạt nước này vừa nâng tàu lên vừa đẩy tàu đi giống như tàu máy hiện đại nhưng linh hoạt hơn nhiều. Mỗi cụm tuy có 4 tay chèo, nhưng chỉ có 3 quạt nước nối với 3 tay chèo thông qua ròng rọc, tay chèo còn lại có vị trí độc lập, nhiệm vụ của anh ta là điều chỉnh để cân bằng hệ thống, việc của anh ta nhẹ nhàng hơn 3 anh kia, nhưng khi gặp sự cố, một mình anh ta sẽ làm chạy một lúc 3 cái quạt nước, do mái chèo của anh ta gắn với sự chuyển động đồng thời của 3 cái quạt này.



    [​IMG]
    Thuyền mông đồng (hai đáy) khắc trên Chương đỉnh - Nguồn: COVATHUE.COM

    Khi 3 cụm chèo đồng thời được nâng lên bởi tay chèo điều chỉnh hệ thống, lập tức tàu chạy lướt trên mặt nước, nghệ thuật lướt này nhờ vào 2 tay chèo số 4 phía sau điều chỉnh cho bánh lái không ghì đuôi tàu xuống, đồng thời giữ thăng bằng khi tàu lướt sóng. Vì vậy mà tàu chiến có thể vượt qua được mọi điều kiện thời tiết, với tốc độ và sự linh hoạt khiến cho đối phương phải kinh ngạc, sợ hãi và tuyệt vọng.

    Điều đặc biệt là toàn bộ chất liệu làm tàu chiến không dùng đến sắt thép, kể cả cánh quạt, đinh, chốt, vít. Các liên kết đều dùng mộng, các chốt liên kết làm bằng một loại gỗ tên là gỗ xây cực kỳ bền chắc. Hy vọng từ những tài liệu nói trên kết hợp với các tài liệu khác có thể tìm được, các nhà nghiên cứu và chế tạo có thể tái tạo những chiếc tàu để xác nhận tính năng của nó.

    Tàu chiến của hải quân nhà Nguyễn là niềm tự hào của quân dân ta. Khi vua Gia Long đưa thủy quân ra Bắc, lúc đội tàu chiến tiến đến Nam Định, dân chúng nhìn tàu lướt trên sóng đã thán phục gọi là “thần binh”
    halosun, duclyOnlySilverMoon thích bài này.
  10. OnlySilverMoon

    OnlySilverMoon Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    20/10/2012
    Bài viết:
    1.309
    Đã được thích:
    1.301
    Mèo từng nói, thời nội chiến này, pháo lớn chưa có khả năng đẩy lui hay bẻ gãy lực lượng tấn công hiệu quả. Dẫn chứng cũng khá tốt.
    Mun thì thấy ngay quân đội Gia Định cũng không chống nổi sự ào ạt của Tây Sơn khi họ tấn công đồn Bến Nghé.
    Nếu nói trận chiến mà pháo binh trên thuyền đủ sức đẩy bạt đối phương đi một vài đợt tấn công là trận Thi Nại: Quân Tây Sơn đẩy lùi được vài đợt tấn công của quân Gia Định bằng pháo thuyền. Nhưng vì xuôi dòng nước, quân Gia Định vẫn đánh sạch bách tàu thuyền Tây Sơn tại Thi Nại: Không phải bằng pháo, mà bằng hỏa công!
    Thời này, tàu đồng bị đốt bởi Tây Sơn cũng vài cái. Và công nghệ súng đạn Tây Lông chưa đủ sức áp đảo so với những vũ khí tạo nên bởi truyền thống của người Việt Nam: Tây Sơn và nếu như theo bài viết này là cả Gia Định. Chính những phát kiến không giống ai của người Việt Nam + sự chưa áp đảo của công nghệ Tây Phương đưa quân đội Việt Nam thời kỳ này lên một tầm cao chưa thời nào sánh nổi. Huệ đá thêm một bước nữa, xây dựng một thủy quân to lớn, dùng thêm rất nhiều pháo, đưa sự lớn mạnh của thủy quân lên một quy mô lớn hơn!
    Tất nhiên, thay đổi quân đội về trang bị chuyên nghiệp hơn, ko có nghĩa là thắng lợi nằm trước mắt. Trận Thi Nại, với sự kém cỏi của người chỉ huy, đã làm cạn vốn quân Tây Sơn!
    Và sự chững lại không canh tân của Nguyễn Ánh đã đưa quân đội vốn quá mạnh mẽ, từ trang bị đến kinh nghiệm, trở thành một đội quân bạc nhược khi Pháp xâm lược!
    Cái này không phải ngày xưa mới gặp. Ngay thời nay thôi, ngồi với bác lính già, bác ấy bảo: "tao *** hiểu sao bây giờ lại là: Quân đội ta là lực lượng ... Từng Bước Hiện Đại. Thời tao đi lính làm *** gì có chữ Từng Bước.....". Sự kéo lùi của yếu tố kinh tế xã hội, đã đẩy quân đội VN thế kỉ 20, từ một đội quân thắng Mỹ, thành một viện bảo tàng đồ cổ của thế kỉ 21. Đấy là cái ví dụ dễ hiểu nhất!

    Mun cũng chú thêm rằng, Thi Nại 1801 thua, phần không nhỏ là do gió mùa không thuận cho Tây Sơn. Nghe hai chữ gió mùa có vẻ nhẹ nhàng, nhưng chính vì nó không như ý mà năm 1792 Nguyễn Huệ vẫn không thể tiến công ngay. Tài năng của Huệ cái đầu tiên phải dạy cho đời nay là ko giống lớp trẻ trâu, ông tận dụng mọi ưu thế, chứ ko ảo tưởng sức mạnh! Đánh không chắc thắng thì ở nhà cho khỏe! :cool:

    Tản mạn thêm vài dòng trước khi có thời gian viết tử tế: Khi các bạn tìm hiểu thêm về thủy chiến Việt Nam thời kỳ này, phải phân định rõ hai hình thức chiến tranh: Thủy chiến trên sông và bờ biển gần, với hải chiến trên vùng biển xa đất liền!
    Nghe thì cùng là đánh dưới nước, nhưng hai hình thái chiến đấu này lại phải đưa ra những chiến thuật khác nhau để áp dụng. Khi tìm hiểu thêm về Huệ và phương thức xây dựng thủy quân của ông, các bạn sẽ thấy ông không đơn thuần là chỉ muốn tấn công Nguyễn Ánh, mong muốn của ông rất có thể là từng bước xây dựng một đội quân biển xa đầu tiên trong lịch sử dân tộc! Đấy mới là thứ làm nên cái khác biệt của ông.
    Lần cập nhật cuối: 02/02/2014
    JICKLE, nguhayuo, ducly2 người khác thích bài này.

Chia sẻ trang này