1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Những người có công trong buổi đầu hình thành chữ quốc ngữ

Chủ đề trong 'Tiếng Việt' bởi fddinh, 23/08/2008.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. fddinh

    fddinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/07/2006
    Bài viết:
    2.342
    Đã được thích:
    1
  2. Khu

    Khu Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    03/03/2011
    Bài viết:
    472
    Đã được thích:
    1
  3. MrKhuKhoam

    MrKhuKhoam Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    12/04/2011
    Bài viết:
    4.334
    Đã được thích:
    1.180
    Tóm tắt Lịch Sử Chữ Quốc Ngữ

    Người Việt ta từ ngàn năm xưa đã có chữ viết riêng. Chữ Việt cổ là loại chữ tượng thanh, ghép những chữ cái thành từ. Chữ Việt có trước cả chữ Hán hàng ngàn năm và hoàn toàn khác chữ Hán. Các nhà nghiên cứu ngôn ngữ học Việt nam đã có những khám phá và còn tiếp tục truy tìm. Cùng với các nghiên cứu của nhiều nhà ngôn ngữ học Pháp, Anh, Mỹ, Tiệp và nhất là Trung Hoa (Lục Lưu, Hứa Thân, Trịnh Tiểu) đều khẳng định người Việt đã có chữ viết riêng từ trước kỷ Công nguyên (BC).
    Bộ chữ này lưu lại trong nền văn hóa tiền Việt – Mường. Trên các mặt Trống Đồng và nhiều di vật cổ xưa khác đã được khai quật ở Bắc bộ, Bắc Trung bộ và rải rác ở vùng cực bắc biên giới Việt Nam, đều có một dạng ký hiệu giống nhau, những hình con nòng nọc là những tự dạng, biểu tượng để ghi chép lại những âm thanh cấu thành từ ngữ. Đó chính là chữ Việt cổ, bộ chữ Việt cổ ấy dùng để ghi tiếng nói của người Việt từ ngàn xưa.
    [​IMG] Trống đồng Đông Sơn tại Bảo tàng Guimet, Paris, Pháp

    Tổ tiên chúng ta đã từng phải sống qua một quá trình đô hộ lâu dài của Trung Hoa, với âm mưu hủy diệt nền văn hóa Việt Nam chúng đã bắt dân ta dùng chữ Hán để bức tử, tuyệt diệt với chữ Việt cổ, với mục đích đồng hoá dân tộc. Chữ viết tiếng Việt (bộ chữ Khoa đẩu) thời bấy giờ là đối tượng bị Trung Hoa hủy diệt trước nhất, bởi nó phản ánh tư tưởng, linh hồn, văn hóa của dân tộc Việt.
    Hịch khởi nghĩa của Hai Bà Trưng kêu gọi toàn dân đứng lên chống Tàu được viết bằng chữ Khoa đẩu, chữ Việt cổ.

    Trong sách Hậu Hán thư (後漢書), quyển 14 ghi: "Dân Giao Chỉ có linh vật là trống đồng, nghe đánh lên họ rất hăng lúc lâm trận.... "

    Sách này còn viết rằng: "Mã Viện sau khi dập tắt cuộc nổi dậy của Hai Bà Trưng, đã tịch thu các trống đồng của các thủ lĩnh địa phương, một phần đem tặng, phần nấu chảy để đúc ngựa và đúc cột đồng Mã Viện."

    Sử xưa cũng ghi lại rằng: " Sau khi nước Nam Việt của Triệu Đà bị người Hán xâm chiếm, văn hóa của Việt tộc bị chính sách đồng hoá. Nhâm Diên và Sĩ Nhiếp đã bắt đốt hết sách Việt tộc, nhà nào cất giữ, lưu truyền thì bị giết hại. Các trống đồng Việt tộc bị Mã Viện tịch thu (năm 43), tiếp theo sau là cuộc cướp phá, tiêu hủy sách vở Việt tộc của nhà Minh đầu thế kỷ 15…"

    Với chính sách tận diệt văn hóa Việt như trên, chữ “Khoa Đẩu” của người Việt cổ và có thể cả chữ “tượng hình” sơ khai của thời Văn Lang, Âu Lạc, sau một ngàn năm bị đô hộ, đã bị xoá sạch, vì thế không thể phổ biến được cũng là điều dễ hiểu.
    [​IMG] Hịch khởi nghĩa của Hai Bà Trưng, viết bằng chữ Khoa Đẩu.
    [​IMG] Chữ Việt cổ trên thân Trống Đồng Lũng Cú.

    Tuy nhiên, với chí khí bất khuất của người Việt, luôn khát vọng độc lập tự do, ông cha ta từ chữ Hán tượng hình đã chế tác ra thứ chữ Nôm để sử dụng, nhằm mục đích giữ gìn nền văn hoá Việt Nam cận đại và bản sắc văn hóa thuần túy dân tộc Việt.

    Nhìn chung Việt Nam vào thời điểm lịch sử cổ, trung đại, vẫn chưa chính thức có trường lớp nào dạy nói và viết tiếng Việt. Người Việt chúng ta ngày xưa đa số được học (nói) tiếng Việt ngay từ lúc lọt lòng mẹ, trong sinh hoạt gia đình và thông qua những giao tiếp hàng ngày ngoài xã hội là chính. Ở giai đoạn này chữ viết vì chưa truyền bá phổ thông trong dân chúng nên các câu Ca Dao, Tục Ngữ,Thơ ngắn, dài
    nhờ có vần, có điệu, nên mau thuộc và dễ nhớ; là loại văn chương ca dao truyền khẩu được phổ biến rộng rãi trong nhân gian và ngày càng phong phú, súc tích.

    Trong quá trình xã hội phát triển, dân tộc Việt Nam ta đã tiếp xúc giao lưu với nhiều dân tộc khác. Trong tiếp xúc trao đổi thông tin với nhau, vấn đề học hỏi và hiểu rõ ngôn ngữ của nhau trở nên nhu cầu cần thiết.

    Vào thế kỷ XV. Sứ thần Trung Quốc đã phải nhờ đến các cơ quan phiên dịch ở Trung Quốc như Hội thông quán, Tứ Di quán, Tứ Dịch quán làm nhiệm vụ phiên dịch mỗi khi giao tiếp với Việt Nam. Các cuốn từ vựng đối chiếu tiếng Hán với một số thứ tiếng khác được lần lượt biên soạn, trong đó có cuốn An Nam Dịch Ngữ (là bản từ vựng dùng cho cơ quan hành chánh (nhà Minh) đặc trách giao dịch với Việt Nam từng phải triều cống.) là cuốn từ điển dùng để đối chiếu tiếng chữ Hán với chữ tiếng Việt.

    Giai đoạn năm 939, thời Vua Ngô Quyền lập quốc, các triều đại Vua Việt Nam đã mượn chữ Hán (chữ Nho) để sử dụng trong hành chánh, học thuật. Tuy nhiên, người Việt vẫn nói tiếng Việt, không công nhận chữ Hán (chữ Nho) là quốc ngữ. Tổ tiên ta luôn tìm cách sáng tạo ra quốc ngữ riêng và đã dựa trên chữ Hán để chế ra chữ Nôm. Chữ Nôm được ghi nhận chính thức xuất hiện vào thế kỷ 13, khi quan Hình Bộ Thượng Thư: Nguyễn Thuyên, triều Trần Nhân Tông (1279-1293), làm bài văn “Tế cá sấu”
    bằng chữ Nôm. Vào thời nầy, chữ Nôm được xem là Quốc ngữ bên cạnh chữ Nho, nên tập thơ chữ Nôm của Chu Văn An (1292–1370) được ông gọi là Tiều ẩn quốc ngữ thi tập (Tập thơ quốc ngữ). Đoạn Trường Tân Thanh (Kim Vân Kiều) của thi hào Nguyễn Du, là một trong những tiêu biểu hàng đầu những thành tựu đáng kể của chữ Nôm đã đóng góp cho nền văn hoá Việt Nam cận đại.

    Tuy nhiên, chữ Nôm vì được cấu tạo trên căn bản chữ Nho, nên khi muốn học chữ Nôm thì phải biết chữ Nho (chữ Hán).Vì vậy chữ Nôm khó học, không phổ thông trong dân chúng, và ít được sử dụng rộng rãi.
    [​IMG] Đoạn Trường Tân Thanh (Truyện Kim Vân Kiều) của thi hào Nguyễn Du
    [​IMG](Sách cổ viết chữ Nôm)

    Đến giai đoạn thế kỷ 16, năm 1533. Khi các nhà truyền giáo phương Tây đến Việt nam để truyền dạy ĐạoThiên Chúa, các giáo sĩ đã nghiên cứu, và soạn ra bộ chữ từ chữ La tinh để viết và cách phiên âm tiếng Việt, dùng cho việc giảng đạo bằng ngôn ngữ Việt . Từ bộ chữ này đã trở thành Chữ Quốc Ngữ. Đây cũng là giai đoạn khởi đầu quan trọng nhất, có tính chất quyết định đã giúp cho ngôn ngữ Việt, và nền Văn Hóa Việt Nam được phát triển nhanh chóng.

    Các giáo sĩ, tu sĩ Jesuit (Dòng Tên) Người Bồ Đào Nha như Francisco de Pina, Gaspar d’Amaral, Antonio Barbosa, v.v. Sử dụng chữ cái La tinh để ghi chép, phiên âm Tiếng Việt.

    Năm 1618, linh mục Francisco De Pina cùng với linh mục Phêrô, đã dịch Kinh Lạy Cha và các Kinh căn bản khác sang tiếng Việt, có thể xem đây là khởi đầu cho việc soạn thảo chữ Quốc ngữ. Các Linh mục tương đối hoàn tất hệ thống chuyển mẫu tự La-tinh thích hợp với cách giọng phát âm và thanh điệu tiếng Việt. Nhưng giai đoạn nầy chưa được đầy đủ.

    Bản Kinh lạy Cha được viết tay năm 1632 nguyên bản như sau:
    [​IMG]

    Người hoàn thiện công trình này là Giáo sĩ Alexandre de Rhodes (Tác giả cuốn Từ điển Việt-Bồ-La , Ngữ pháp tiếng An Nam, và “Bài giảng giáo lý Tám ngày” đầu tiên xuất bản vào năm 1651.
    [​IMG] Từ điển Việt-Bồ-La
    [​IMG] Phép Giảng Giáo Lý Tám Ngày (trang đầu)
    [​IMG] Hình bìa “Sách Phép Giảng Giáo Lý Tám Ngày” - Tài liệu lưu trữ 88.3 MB dạng pdf https://www.dropbox.com/s/3eg88d2zf...T) - Cathechismvs Alexandre de Rhodes.pdf Ðây là sách giáo lý được biên soạn để giúp cho các cha truyền dậy giáo lý tại Việt nam. Cuốn sách được in bằng hai thứ tiếng: La tinh và Việt Nam.

    Trên mỗi trang sách chia làm hai, có một gạch đôi từ trên xuống dưới: Bên tay trái của người đọc sách là chữ La tinh, bên tay phải là chữ Việt.

    Ðể người đọc dễ dàng đối chiếu song ngữ. Giáo sĩ Alexandre de Rhodes - Ðắc Lộ, đặt ở đầu mỗi ý tưởng chính mẫu tự abc... cho hai phần La, Việt, rồi chính giữa trang sách cũng đặt mẫu tự abc... cho hai phần La Việt song song. Cuốn sách gồm có 319 trang.

    Sách không chia ra từng chương, mà lại chia theo từng ngày học (Tám ngày), được trình bày in ấn có tính cách như một giáo trình sư phạm.
    [​IMG] Giáo sĩ Alexandre de Rhodes

    Giáo sĩ Alexandre De Rhodes (Sinh năm1591 tại Avignon, Pháp; mất năm 1660 tại Ispahan, Ba Tư). Ngài đã sang Việt Nam truyền đạo trong vòng sáu năm (1624 -1630) là người có công trong việc hệ thống hoá chữ viết tiếng Việt. Nhờ đó mà chữ Quốc Ngữ được hình thành và trở thành hệ thống có quy tắc và khoa học, dễ viết, dễ phát âm, dễ học.

    Nhìn chung, sự hình thành Quốc ngữ không phải do công sức cá nhân của một giáo sĩ, mà là công sức tập thể của nhiều giáo sĩ thuộc nhiều nước khác nhau, nhiều thế hệ khác nhau, đã đến truyền đạo tại Việt Nam. Và trong đó còn có sự đóng góp trực tiếp nhưng âm thầm của rất nhiều giáo sĩ Việt Nam và đồng bào giáo dân lúc bấy giờ.

    Chữ Quốc ngữ tuy ra đời từ thế kỉ 17 (1651) ở Việt Nam nhờ công lao tâm trí của các Tu sĩ truyền giáo, nhưng bị giới hạn chỉ dùng để giúp các Cha giảng, truyền đạo. Vì lúc ấy triều đình phong kiến Việt Nam, đàng Trong lẫn đàng Ngoài với chính sách cấm đạo, và giết hại Giáo sĩ nên chữ Quốc ngữ đã không thể phát triển, truyền bá rộng rãi.

    Quá trình hình thành và phát triển của chữ Quốc ngữ được hoàn chỉnh có thể chia làm 3 giai đoạn sau:

    (Trích đoạn trong sách Lịch Sử Chữ Quốc Ngữ - Nghiên cứu của linh mục Ðỗ Quang Chính, do nhà sách Ra Khơi xuất bản tại Sài gòn năm 1972).

    Giai Ðoạn Sơ Khởi (1620-1626):

    Các nhà truyền giáo Âu Châu đã đến Hà Tiên và Thừa Thiên từ giữa thế kỷ 16. Nhưng mãi sang đến đầu thế kỷ 17 những hoạt động truyền giáo này mới được ghi lại khá đầy đủ. Khởi đầu, các nhà truyền giáo đã đến Hội An để giúp đỡ các giáo hữu người Nhật. Hội An (Hội Phố) thời ấy là một cảng buôn bán sầm uất, với những phố riêng cho người Nhật và người Hoa.

    Theo sách cũ, người Âu Châu đầu tiên thạo tiếng Việt là linh mục Francisco de Pina, người Bồ Ðào Nha (Portugal) (3) . Năm 1620, với sự công tác của người bản xứ, các tu sĩ Dòng Tên (Jésuite) tại Hội An đã soạn thảo một sách giáo lý bằng chữ Nôm. Từ năm 1621 trở đi, các nhà truyền giáo đã bắt đầu chuyển qua mẫu tự abc những địa danh, tên tộc, và từ-ngữ Việt trong những bản tường trình cho giáo hội về hoạt động của họ.

    Dựa vào những tài-liệu viết tay còn được lưu trữ, trong giai-đoạn sơ khai của chữ Quốc Ngữ, các chữ thường được viết liền và không có đánh dấu. Thí dụ:
    - Annam = An Nam
    - Unsai = Ông Sãi
    - Ungue = Ông Nghè
    - Bafu = Bà Phủ
    - doij = đói
    - scin mocaij = xin một cái
    - Sayc Chiu = Sách chữ
    - Tuijciam, Biet = Tôi chẳng biết

    Giai Ðoạn Hai (1631-1648)

    Những tài-liệu viết tay trong giai-đoạn này, đặc biệt là của linh mục d’Amaral, cho thấy chiều hướng mới trong cách viết chữ Quốc Ngữ. Các chữ được viết cách ra và đã được bỏ dấu. Nhiều chữ được viết như ta hằng thấy ngày nay. Thí dụ như:
    · Nghệ An
    · Bố Chính

    Nhiều chữ nhìn tương tự nhưng có lối đánh vần và bỏ dấu hơi khác
    · Thính hoa: Thanh Hóa
    · oũ bà phủ: Ông bà Phủ
    · hụyen: huyện
    · sãy: sãi

    Ngoài những bản tường trình, giai đoạn này còn có ba tài-liệu quan-trọng khác. Một là biên-bản hội-nghị năm 1645 của 35 linh mục Dòng Tên tại Macao để xác nhận mô thức rửa tội bằng tiếng Việt Nam. Hai là cuốn tự-điển Việt-Bồ-La của linh mục Gaspar d’Amaral (Diccionário anamita-português-latim). Ba là cuốn tự-điển Bồ-Việt (Diccionário português-anamita) của linh mục Antonio Barbosa.

    Ðến năm 1972, biên bản cuộc hội nghị được lưu trữ tại Văn Khố Dòng Tên tại La Mã. Còn hai cuốn tự-điển kia, lúc đầu được tàng trữ tại Văn Khố Dòng Tên tỉnh Nhật Bản tại Macao, đã mất tích sau các cuộc di chuyển của văn khố này từ Macao qua Manila (Phi Luật Tân), từ Manila qua Madrid (Tây Ban Nha). Sở dĩ chúng ta còn biết đến hai cuốn tự-điển này là vì chính Ðắc Lộ, trong lời tựa của cuốn tự-điển mà ông xuất-bản năm 1651, đã viết rõ là ông đã dùng hai cuốn tự-điển trên để soạn-thảo cuốn tự-điển của mình.

    Giai Ðoạn Ba (1649-1651):

    Giai đoạn này được đánh dấu bằng sự thống nhất cách viết chữ Quốc Ngữ và việc ấn hành hai cuốn sách quốc ngữ đầu tiên của Ðắc Lộ:

    · Dictionarivm annamiticvm, lvsitanvm, et latinvm, ope Sacrae Congregationis de Propaganda Fide in lvcem e***vm. Ab Alexandro de Rhodes è Societate Iesv, ejusdemque Sacrae Congregationis Missionario Apostolico, Roma, 1651, in-4°

    · Cathechismvs pro iis, qui volunt suscipere Baptismvm, in Octo dies diuisus. Phép giảng tám ngày cho kẻ muấn chiụ phép rứa tọi, ma /beào (8) đạo thánh đức Chúa blời. Ope Sacrae Congregationis de Propaganda Fide in lucem e***us. Ab Alexandro de Rhodes è Societate Iesv, ejusdemque Sacrae Congregationis Missionario Apostolico, Roma, 1651, in-4° .(Hết phần trích dẫn)

    [​IMG] Toàn Quyền Đông Dương Martial Merlin (Bên phải hình)

    Mãi cho đến ngày 18 tháng 9 năm 1924 (Giai đoạn Pháp thuộc), toàn quyền Đông Dương Martial Merlin (1923-1925) đã ký quyết định chính thức cho dạy chữ Quốc Ngữ ở ba năm đầu cấp tiểu học, được phổ biến rộng rãi toàn quốc. Sự ra đời và truyền bá chữ Quốc ngữ mọi nơi, trong các trường học, đã giúp cho người Việt Nam, dễ dàng học hỏi, nghiên cứu khi tiếp xúc với văn hoá phương Tây qua sách báo, nâng cao nhận thức, dân trí phát triển cao hơn và nhanh hơn so với các nước trong vùng.

    Cũng nhờ từ đấy, người Việt, tiếng Việt đã thật sự hoàn toàn thoát được ảnh hưởng chính sách Hán hóa của Trung Hoa đã đô hộ nước ta trong suốt gần 1.000 năm.
    [​IMG] Học sinh trường Công giáo tỉnh Nam Định

    Tinh thần sĩ phu (Nho giáo) xưa, ít nhiều bị lệ thuộc chẳng những Nho giáo mà cả văn hóa Trung Hoa. Việc bãi bỏ Nho học và thay đổi chữ viết từ chữ Nho (chữ Hán ) sang Quốc ngữ, đã giúp Việt Nam chấm dứt vĩnh viễn giai đoạn lệ thuộc chữ Hán và văn hóa Trung Hoa.

    Vì đắm chìm lâu đời trong văn hóa Trung Hoa, nên có người lầm tưởng rằng văn hóa Trung Hoa là văn hóa dân tộc, và những anh hùng, liệt nữ Trung Hoa là khuôn vàng thước ngọc cho văn hóa Việt, lịch sử Việt. Các tác giả chữ Nho xưa thường dùng điển tích về những vua quan, anh hùng, thần thánh, phong tục, tập quán của Trung Hoa để làm mẫu mực cho người Việt.

    Nhưng từ khi có chữ Quốc ngữ, dân tộc Việt Nam thoát ra khỏi văn hóa Trung Hoa, nhiều người mới có cơ hội tìm thấy lại cội nguồn, trở lại bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam. Từ đấy, nền văn hóa dân tộc càng ngày càng được đề cao trong nền văn học Quốc ngữ, trong Sử sách giáo khoa: Hai Bà Trưng, Triệu Nữ Vương, Ngô Quyền, Trần Hưng Đạo, Trần Bình Trọng, Lê Lợi, Quang Trung mới là những anh hùng đích thực, những tấm gương sáng trong lịch sử của người Việt Nam.
  4. MrKhuKhoam

    MrKhuKhoam Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    12/04/2011
    Bài viết:
    4.334
    Đã được thích:
    1.180
    Trường dạy Quốc Ngữ đầu tiên ở Việt Nam

    Trường Trung học Adran (Collège d'Adran - Adran: Là Tước Hiệu của Phu tá Giám mục Pigneau de Béhaine - Bá Đa Lộc) Là trường dạy Quốc Ngữ đầu tiên ở Việt Nam được các linh mục mở ở Sài gòn từ năm 1861 - 1887. Trường ADRAN Sài Gòn, đến năm 1954 được chia thành 2 Trường Trung Học: Trung học Võ Trường Toản và Trung học Trưng Vương.
    [​IMG]Hình một lớp học trong buổi thực nghiệm ngoài trời.

    Chấm dứt thời kỳ của nền giáo dục chữ Hán, chữ Nôm: Lối học từ chương.
    [​IMG] Một lớp học trong giờ Địa lý.
    [​IMG]Hình Thầy đồ và các học sinh ngày xưa.
    [​IMG]Quang cảnh trường thi Nam Định khoa thi năm Nhâm Tý (1912)
    [​IMG] Giấy Khai Sinh năm 1938 còn sử dụng 4 ngôn ngữ (Hán, Nôm, Quốc ngữ và Pháp)
    [​IMG] Gia Định Báo in chữ Quốc ngữ lần đầu tiên phát hành tại Sài Gòn, ngày 15/4/1865.
    [​IMG]Trương Vĩnh Ký - Pétrus Ký (1837-1898)


    Khi nói đến chữ Quốc ngữ, và Báo Chí Việt Nam thì cũng không thể quên công lao của Ông Trương Vĩnh Ký, ông là người đầu tiên sáng lập,khai sinh nền Báo Chí Quốc ngữ của Việt Nam, ông là Tổng biên tập tờ Gia Định Báo in chữ Quốc ngữ đầu tiên: Ông Pétrus - Trương Vĩnh Ký đã viết một bài khuyến khích việc học chữ Quốc ngữ, trong đó có đoạn như sau:

    “…Thầy Ký dạy học có làm sách mẹo (văn phạm) dạy tiếng Lang Sa (Pháp), có làm ra chữ Quốc ngữ (sic) để người ta dễ học. Những người ký lục (thư ký) giỏi cùng siêng năng sẽ lo mà học chữ quốc ngữ vì có hai mươi bốn chữ và viết đặng muôn ngàn chuyện, chữ chi mắc rẻ (khó dễ) cũng viết đặng, không phải như chữ Tàu học già đời mà còn có chữ lạ viết không ra, ở đây có Phủ Tường (Tôn Thọ Tường) đã học đặng chữ Quốc ngữ, viết đặng, đọc đặng. Chữ ấy chẳng khó đâu, ra công học một đôi tháng thì thuộc hết…”


    Ông Trương Vĩnh Ký là một nhà văn, nhà ngôn ngữ học, nhà giáo dục, và chuyên khảo cứu văn hóa tiêu biểu của Việt Nam.Với tri thức uyên bác, am tường và nhiều cống hiến lớn trên nhiều lĩnh vực văn hóa cổ kim Đông Tây:
    - Tấn phong Giáo sư Viện sĩ Pháp.
    - Được nêu tên trong Bách khoa Tự điển Larousse http://www.larousse.fr/archives/pages/recherche.aspx?keyword=Truong Vinh Ky,
    - Đứng vào vị trí " Toàn Cầu Bác Học Thập Bát Quân Tử" tức là một trong 18 nhà bác học hàng đầu thế giới trong thế kỷ 19.
    - Đứng vào hàng những người biết nhiều ngoại ngữ bậc nhất trên thế giới, ông viết và đọc thông thạo 27 ngoại ngữ, một nhà thông thái biết nhiều thứ tiếng nhất ở Việt Nam...
    Ông đã để lại cho kho tàng Văn học Việt Nam hơn 100 tác phẩm về văn học, lịch sử, địa lý, từ điển và dịch thuật...
    [​IMG]
    Tượng đài lịch sử, vinh danh ông Trương Vĩnh Ký cạnh Nhà Thờ Đức Bà trước 1975.
    http://www.vietnam.ttu.edu/virtualarchive/items.php?item=VA030117
    [​IMG] Thời gian gần đây, phần tượng còn lại của ông được đem ra triển lãm trong Bảo Tàng Mỹ Thuật Tp HCM.

    Các nhà khoa bảng, trí thức, cách mạng như Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Trần Quý Cáp, Huỳnh Thúc Kháng, kết hợp với nhiều nhà trí thức cấp tiến thời đó, khởi xướng ra các phong trào Duy Tân, Đông Du nhằm vận động cải cách văn hóa, chính trị trên toàn quốc, kêu gọi bãi bỏ Nho (Hán) học, kêu gọi việc học Quốc ngữ để nâng cao dân trí, với lý do đơn giản: Quốc ngữ dễ học, dễ viết, dễ phổ cập hơn chữ Nho (Hán). Các ông đã vận động mở trường dạy quốc ngữ khắp nước, rầm rộ nhất là ở Quảng Nam (1905), Bình Thuận (Trường Dục Thanh, 1907) và Hà Nội (Đông Kinh Nghĩa Thục,1907). Trong một bài thơ khuyến khích việc học quốc ngữ của Đông Kinh Nghĩa Thục, có đoạn viết:

    “… Chữ quốc ngữ là hồn trong nước, Phải đem ra tỉnh trước dân ta, Sách các nước, sách Chi-na, Chữ nào nghĩa ấy, dịch ra cho tường…”
    [​IMG]Các sĩ phu của Trường Đông Kinh Nghĩa Thục.

    Khi phong trào Duy Tân, và Đông Kinh Nghĩa Thục ngày càng lớn mạnh, khiến cầm quyền thuộc địa Pháp lo ngại tinh thần yêu nước và chống thực dân Pháp của đồng bào Việt Nam. Việt Nam Vong Quốc Sử của nhà ái quốc Phan Bội Châu xuất hiện lúc bấy giờ là một trong những tiếng chuông thức tỉnh tinh thần dân tộc. Làn sóng yêu nước nổi lên khắp nơi, làm thực dân Pháp phải lo sợ, nên đã ngưng trợ cấp và đóng cửa một số trường.
    [​IMG] Bài mở đầu sách Việt Nam vong quốc sử, Phan Bội Châu.
    Chữ Quốc ngữ trong giai đoạn này vẫn ngày càng phổ biến, đã giúp dân chúng dễ dàng học, hiểu biết những sơ đẳng cần thiết trong đời sống, theo dõi sát các tin tức thời sự, các chuyển biến thời cuộc chính trị trong nước và thế giới qua sách báo, truyền đơn.Từ năm 1925 nhiều đảng phái chống Pháp được thành lập, truyền đơn, lời kêu gọi, sáng tác thơ văn yêu nước… đều viết bằng chữ Quốc ngữ.

    [​IMG]
    Nền văn học Việt Nam vào năm 1933 chuyển biến mạnh, xuất hiện một thể loại Văn mới, là Văn xuôi viết bằng chữ Quốc ngữ do ông Nguyễn Tường Tam, bút hiệu Nhất Linh và nhóm văn sĩ thành lập lấy tên: Tự Lực Văn Đoàn, với 10 năm sáng tác và hoạt động báo chí, khai sinh nên dòng văn học lãng mạn Việt Nam. Nổi trôi trong những diễn biến lịch sử bất lợi, khó khăn của thời cuộc đất nước lúc bấy giờ, nhưng nhóm Tự Lực Văn Đoàn đã cống hiến nhiều vào sự phát triển Văn Học của Việt Nam trong giai đoạn đầu thế kỷ 20.
    [​IMG]
    Lễ khai giảng Trường Đại học Quốc gia Việt Nam ngày 15 tháng 11 năm 1945, khóa đầu tiên dưới chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa

    [​IMG]
    BÌNH DÂN HỌC VỤ: phong trào xoá nạn mù chữ trong toàn dân được Chính phủ phát động sau Cách mạng tháng Tám (sắc lệnh 19/SL và 20/SL ngày 8/9/1945), cùng với sự thành lập Nha bình dân học vụ (18/9/1945), nhằm giải quyết "giặc dốt" - một trong các vấn đề cấp bách nhất của Việt Nam lúc bấy giờ, chỉ sau "giặc đói", tạo điều kiện để nâng cao dân trí (đọc được sách báo, mở mang kiến thức về thường thức khoa học, chính trị, văn hoá, v.v).
    [​IMG]
    Lớp học bình dân học vụ tại huyện vùng cao Đà Bắc. ảnh: T.L


    Khoá huấn luyện cán bộ BDHV đầu tiên mang tên Hồ Chí Minh mở tại Hà Nội. Phong trào nhanh chóng lan rộng khắp cả nước. Người đi học được miễn phí. Giáo viên không nhận lương. Mỗi tỉnh phải tự túc giáo viên. Khi ngân sách còn eo hẹp, các lớp bình dân học vụ dùng phấn hay gạch để viết xuống đất thay cho bút và giấy.
    [​IMG]
    Diễu hành cổ động phong trào Bình dân học vụ năm 1946. (Trung tâm Lưu trữ Quốc gia III, Tài liệu ảnh Phông Bộ Ngoại giao,KH: 3373, 3379)

    [​IMG] Lớp học Mẫu giáo trong giờ Tập Viết, miền Nam trước 1975
  5. MrKhuKhoam

    MrKhuKhoam Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    12/04/2011
    Bài viết:
    4.334
    Đã được thích:
    1.180
    Năm 1945, khi Việt Nam giành được độc lập, 95% dân Việt Nam mù chữ, đây là một trong các quốc nạn đối với một quốc gia mới giành độc lập.

    [​IMG]

    Điều 15, Hiến pháp Việt Nam Dân chủ Cộng hòa 1946 ghi: "Nền sơ học cưỡng bách và không học phí. ở các trường sơ học địa phương, quốc dân thiểu số có quyền học bằng tiếng của mình. Học trò nghèo được Chính phủ giúp. Trường tư được mở tự do và phải dạy theo chương trình Nhà nước."

    Tại phiên họp đầu tiên của Chính phủ ngày 3 tháng 9 năm 1945 tại Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đề nghị mở chiến dịch "Chống nạn mù chữ", vì "Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu".

    Viện Đại học Đông Dương (tiếng Pháp: Université Indochinoise) phải đóng cửa nhưng rồi tái khai giảng vào cuối năm 1945 với tên mới: Trường Đại học Quốc gia Việt Nam với hơn 1.100 sinh viên ghi danh, trường có năm ban: Y khoa, Khoa học, Văn khoa, Chính trị xã hội, và Mỹ thuật.

    Trong Thư gửi các học sinh nhân ngày khai trường đầu tiên dưới chế độ dân chủ cộng hoà, tháng 9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Ngày nay các em được cái may mắn hơn cha anh là được hấp thụ một nền giáo dục của một nước độc lập, một nền giáo dục nó sẽ đào tạo các em nên những người công dân hữu ích cho nước Việt Nam, một nền giáo dục làm phát triển hoàn toàn những năng lực sẵn có của các em... Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các em

    Khoá huấn luyện cán bộ BDHV đầu tiên mang tên Hồ Chí Minh mở tại Hà Nội. Phong trào nhanh chóng lan rộng khắp cả nước. Vì nhà nước non trẻ ngân sách thiếu thốn, phong trào dựa vào sức dân là chính. Ngân quỹ được chỉ dụng cho chương trình chỉ trả lương được tối đa 1.000 giáo viên, trong khi số giáo viên cần thiết tối thiểu là 100.000.

    Người đi học được miễn phí. Giáo viên không nhận lương. Mỗi tỉnh phải tự túc giáo viên. Khi ngân sách còn eo hẹp, các lớp bình dân học vụ dùng phấn hay gạch để viết xuống đất thay cho bút và giấy.

    Phong trào nhanh chóng lan rộng khắp cả nước. Các lớp học bình dân được mở khắp nơi, trong nhà dân, đình chùa, miếu mạo, chỉ cần mấy chiếc ghế băng, ghế tựa đặt quanh bàn, quanh chiếc phản, cánh cửa, tấm ván mộc làm bảng đã thành lớp học.

    Các đội Nhi đồng cứu vong khua trống ếch cổ động người dân đi học.

    Tại các nơi nhiều người qua lại, như các ngõ xóm, điếm canh, cổng đình, cổng làng, người ta treo nong, nia, mẹt, phên cốt, trên viết các chữ cái bằng vôi để ai đi qua cũng có dịp nhẩm, ôn các chữ đã học.

    [​IMG]

    Diễu hành cổ động phong trào Bình dân học vụ năm 1946. (Trung tâm Lưu trữ Quốc gia III, Tài liệu ảnh Phông Bộ Ngoại giao,KH: 3373, 3379)

    Các câu văn vần miêu cả các chữ cái được sử dụng để người học dễ thuộc:

    "T, T (tờ), có móc cả hai.
    I ngắn có chấm, T (tờ) dài có ngang;
    E, Ê, L (lờ) cũng một loài.
    Ê đội nón chóp, L (lờ) dài thân hơn"

    hay:

    " O tròn như quả trứng gà,
    Ô thời đội nón, Ơ thời thêm râu"

    hay:

    "Huyền ngang, Sắc dọc, Nặng tròn,
    Hỏi lom khom đứng, Ngã thời nằm ngang"

    Bài văn vần này do Giáo Sư Hoàng Xuân Hãn đặt ra đã được Hội Truyền bá Quốc ngữ sử dụng từ trước cách mạng tháng Tám, đồng thời còn xuất hiện nhiều ca dao, hò vè cổ động cho phong trào Bình dân học vụ:

    "Hôm qua anh đến chơi nhà.
    Thấy mẹ dệt vải thấy cha đi bừa.
    Thấy nàng mải miết xe tơ.
    Thấy cháu "i - tờ" ngồi học bi bô.
    Thì ra vâng lệnh *****.
    Cả nhà yêu nước "thi đua" học hành".

    Vào những năm 1950, lại có dĩa hát " Cô Tú":

    "Ai về chợ huyện, huyện Thanh-Vân,
    Hỏi thăm, hỏi thăm cô Tú đánh vần được chưa.
    Đánh vần năm ngoái, năm xưa.
    Năm nay quên hết nên chưa biết gì.
    Lưng trời tiếng sáo vu-vi,
    Vẳng nghe ai học chữ i, chữ tờ."

    I Tờ, Tờ i Ti. Le a La, Me er Mer, La Mer. Nguyễn Vĩnh-Tráng

    Để thúc giục người dân học chữ, một số nơi còn dựng "cổng mù" ở đầu chợ. Người muốn vào chợ phải thử đọc chữ, ai đọc được thì được đi cổng chính, ai chưa đọc được thì phải qua "cổng mù" để vào chợ.

    [​IMG]
    Lễ khai giảng Trường Đại học Quốc gia Việt Nam ngày 15 tháng 11 năm 1945, khóa đầu tiên dưới chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa

    Tính đến cuối năm 1945, sau hơn ba tháng phát động, theo báo cáo chưa đầy đủ của các tỉnh Bắc bộ gửi về Bộ Quốc gia giáo dục thì đã mở được hơn 22.100 lớp học với gần 30 nghìn giáo viên và đã dạy biết chữ cho hơn 500 nghìn học viên mà tổng chi phí xuất từ ngân sách trung ương là 815,68 đồng, còn lại đều do các địa phương và tư nhân chi trả.

    Đến cuối năm 1946, Bộ Quốc gia giáo dục báo cáo có 74.975 lớp với 95.665 giáo viên, riêng ở Bắc Bộ và Trung Bộ đã có 2.520.678 người biết đọc, biết viết.

    Nỗ lực của thập niên 1940 và 1950 cũng là phải xóa nạn mù chữ với sự đóng góp của Nha Bình dân Học vụ.

    Vào trước năm học đầu tiên của nước Viêt Nam Dân Chủ Cộng Hòa độc lập, Chủ tịch Chính phủ đã ra SẮC LỆNH:

    SẮC LỆNH SỐ 46 VỀ ĐẶT NHỮNG NGUYÊN TẮC CƠ BẢN CỦA NỀN GIÁO DỤC MỚI CỦA CHỦ TỊCH CHÍNH PHỦ VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HOÀ SỐ 146 NGÀY 10 THÁNG 8 NĂM 1946

    CHỦ TỊCH CHÍNH PHỦ VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HOÀ

    Chiểu theo Sắc lệnh số 119 ngày 9-7-1946 tổ chức Bộ Quốc gia Giáo dục;

    Chiểu theo Sắc lệnh số 44 ngày 10-10-1945 thiết lập Hội đồng Cố vấn Học chính;

    Chiểu theo lời đề nghị của Bộ trưởng Bộ Quốc gia giáo dục

    Sau khi đã trình Ban thường trực Quốc hội và Hội đồng Chính phủ đã thoả hiệp,

    RA SẮC LỆNH:

    Điều thứ 1Nền giáo dục nước Việt Nam dân chủ cộng hoà là một nền giáo dục duy nhất, đặt trên ba nguyên tắc căn bản: đại chúng hoá, dân tộc hoá, khoa học hoá, và theo tôn chỉ phụng sự lý tưởng Quốc gia và dân chủ.

    Điều thứ 2Nền giáo dục ấy được phân phát, sau bậc giáo dục ấu trĩ, trong ba cấp học là:

    Đệ nhất cấp: bậc học cơ bản

    Đệ nhị cấp: có hai ngành: ngành học tổng quát và ngành học chuyên môn

    Đệ tam cấp: bậc đại học.

    Điều thứ 3Bậc ấu trĩ nhận giáo dục trẻ con dưới 7 tuổi và sẽ tổ chức tuỳ theo điều kiện thuận tiện do Bộ Quốc gia giáo dục ấn định sau.

    Điều thứ 4Bậc học cơ bản dậy những điều thường thức cần thiết và luyện những tập quán tốt cho các trẻ con từ 7 tuổi. Hạn học là 4 năm. Học sinh học hết năm thứ tư sẽ thi lấy bằng giáo dục cơ bản. Bậc học cơ bản sẽ là bậc học cưỡng bách bắt đầu từ năm 1950. Sự cưỡng bách ấy sẽ tuỳ theo tình trạng kinh tế và xã hội trong nước mà thi hành dần làm nhiều thời kỳ, theo thủ tục do nghị định Bộ trưởng Bộ Quốc gia giáo dục ấn định sau.

    Điều thứ 5Sau bậc học cơ bản, có lớp dự bị hạn học một năm mục đích ngoài sự ban phát cho học sinh một cái học phổ thông đại cương, còn chú trọng đến khuynh hướng và khả năng của chúng để chọn lọc và đưa chúng vào ngành học tổng quát hay ngành học chuyên môn ở đệ nhị cấp. Lớp dự bị sẽ tổ chức khi nào xét ra có điều kiện thuận tiện về nhân viên và dụng cụ. Chi tiết tổ chức lớp này do nghị định Bộ trưởng Bộ Quốc gia giáo dục ấn định.

    Điều thứ 6Ngành học tổng quát ban phát cho các trẻ em một cái học phổ thông và một cái học chuyên khoa để dự bị chúng lên bậc đại học. Ngành này gồm hai bậc:

    1) Bậc phổ thông, hạn học là 4 năm , có sự hướng dẫn và tuyển trao đưa trẻ sang ngành học chuyên nghiệp hay lên bậc chuyên khoa để dự bị vào học. Hai năm đầu dậy theo một chương trình duy nhất hoàn toàn phổ thông năm sau theo một chương trình phân hoá ở những lớp dự bị chuyên nghiệp, dự bị chuyên khoa chia ra làm 4 ban: ban Văn học, ban Khoa học cho lớp dự bị chuyên khoa, ban Vạn vật và ban Kỹ thuật cho lớp dự bị chuyên nghiệp.

    2) Bậc chuyên khoa dành cho học sinh đã học quá các lớp dự bị cho chuyên khoa và chia ra là 3 ban: ban Toán-lý-hoá, ban Vạn vật và ban Văn (?). Hạn học 3 năm. Học sinh học hết năm thứ 3 sẽ thi lấy lấy bằng học thuật (?) quát để vào các ban đại học hay vào các trường Cao đẳng chuyên môn.

    Điều thứ 7Ngành học chuyên môn ban phát ngoài cái học phổ thông và một cái học chuyên môn và thực hành để đào tạo những người làm ruộng thợ, đi buôn lành nghề và những cán bộ thực tiễn đủ năng lực để điều (???) các cơ quan xã hội, kinh tế v.v... ngành này gồm hai bậc:

    1) Bậc thực nghiệm dành cho học sinh sau một năm hướng dẫn tuyển (??) tỏ ra có năng khiếu và khuynh hướng về thực nghiệm để luyện chúng thành những nông gia, thương gia và công nhân thành nghề. Có nhiều ban dạy nghề và hạn học từ một năm đến ba năm tuỳ từng ban. Những học sinh đỗ tốt nghiệp ưu hạng ở bậc học thực nghiệm có thể xin học lớp dự bị chuyên nghiệp để thi vào các trường chuyên nghiệp.

    2) Bậc chuyên nghiệp dành cho học sinh đã theo các lớp dự bị chuyên nghiệp chia ra nhiều ban và mục đích huấn luyện các cán bộ thực tiễn về phần học lý thuyết và thực hành để giúp việc kiến thiết Quốc gia về các ngành kinh tế xã hội. Hạn học ít nhất là 3 năm và bằng tốt nghiệp là bằng kỹ sư. Những sinh viên đã đỗ kỹ sư vào ưu hạng có thể xin vào học các trường Cao đẳng chuyên môn bậc đại học mà không cần có bằng thuật học tổng quát.

    Điều thứ 8Bậc đại học gồm các ban Văn khoa, Pháp lý theo sơ đồ từng môn và những trường Cao đẳng chuyên môn, học theo chương trình đã định và niên hạn nhất định là 3 năm (Y học, Dược học, Mỹ thuật, Thương mại, Nông lâm, Kiến trúc, Điện học, Khoáng sản. v.v...) Sinh viên tốt nghiệp bậc Đại học sẽ có bằng Đại học sĩ hoặc Bác sĩ.

    Điều thứ 9Ngành học sư phạm mục đích đào tạo giáo viên cho các bậc học và chia ra làm 3 cấp:

    1) Sư phạm sơ cấp đi song hàng với các lớp dự bị chuyên khoa và chuyên nghiệp, hạn học 2 năm để đào tạo giáo viên dạy ở các lớp cơ bản.

    2) Sư phạm trung cấp, hạn học 3 năm đi song hàng với bậc chuyên nghiệp và chuyên khoa, và chia làm hai ban để đào tạo giáo sư dạy văn chương khoa học ở các lớp phổ thông hay thực nghiệp.

    3) Sư phạm cao cấp, chuyên luyện cho các người đã có bằng đại học văn khoa (văn học hay khoa học) để thi lấy bằng sư phạm ở ban văn khoa đại học. Có bằng này mới được bổ giáo sư thực thụ các lớp chuyên khoa và chuyên môn.

    Điều thứ 10Cách tổ chức đại cương và các môn dạy trong chương trình bậc học sẽ có sắc luật định riêng. Còn các chi tiết tổ chức và chương trình học các bậc học sẽ do nghị định của Bộ trưởng Bộ Quốc gia giáo dục ấn định. Sự tổ chức và chương trình các bậc học trong thời kỳ chuyển tiếp cũng nghị định của Bộ trưởng Bộ giáo dục ấn định.

    Điều thứ 11Ở tất các bậc học học sinh không phải trả học phí, và các kỳ thi tốt nghiệp, học sinh cũng không phải nộp một phí khoản nào.

    Điều thứ 12Học sinh xuất sắc mà nghèo sẽ được học bổng của Chính phủ. Thể lệ cấp học bổng sẽ do nghị định của Bộ trưởng Bộ Quốc gia giáo dục ấn định.

    Điều thứ 13Ông Bộ trưởng Bộ Quốc gia giáo dục chiểu Sắc lệnh thi hành.




    Huỳnh Thúc Kháng

    (Đã ký)
  6. dangkhoa885

    dangkhoa885 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    25/10/2014
    Bài viết:
    0
    Đã được thích:
    0
    Cái chủ đề này hay quá ạ.:-)

Chia sẻ trang này