1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

KHU RỪNG ĐẪM MÁU. TRẬN HURTGEN 9/1944 - 1/1945

Chủ đề trong 'Kỹ thuật quân sự nước ngoài' bởi ngthi96, 04/05/2015.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. ngthi96

    ngthi96 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    10/07/2008
    Bài viết:
    1.650
    Đã được thích:
    9.272
    Tướng Walter Weaver, người thay cho tướng Stroh làm tư lệnh sư đoàn 8 khẩn thiết yêu cầu tướng Leonard Gerow, chỉ huy quân đoàn điều quân Ranger tới hỗ trợ sư đoàn mình tiến đánh cao điểm 400. Được giao nhiệm vụ chiếm đồi là các đại đội D và đại đội F. 3 đại đội A, B, C sẽ đánh những mỏm nui lân cận, chốt chặn và yểm trợ thêm bằng hỏa lực súng cối. Trong khi đó đại đội E sẽ cùng số quân còn lại của Liên đoàn dự bị, sẽ bảo vệ Bergstein chống lại các cuộc phản kích.

    Len Lomell, 1 cựu binh của đại đội D từng tham gia cuộc đổ bộ lên bãi biển Omaha, được đề bạt lên sĩ quan trên chiến trường hồi tháng 10; cùng những lính Ranger rời khu đóng quân dã ngoại đáp xe tải vào rừng. Họ xuống xe gần Kleinhau trong cái lạnh thấu xương, lê bước trên con đường mòn đóng băng, lầy lội dưới bầu trời đêm đen kịt. Thỉnh thoáng ánh sáng của trái phá, pháo sáng lại làm lộ ra quang cảnh bị cày xới xung quanh.

    Lính tráng dừng lại ở 1 ngã tư; tinh thần họ giảm mạnh khi vị chỉ huy đáng kính là trung tá James Rudder chuyển tin báo cho biết ông sẽ chuyển qua chỉ huy trung đoàn 109 đã tơi tả của sư 28. Lomell biết tin này sau khi đi thám thính khu vực dưới chân đồi 400. 1 toán lính nhỏ của đại đội F cũng tiến hành do thám mục tiêu này.

    Sáng sớm ngày 7/12, ngày mà danh tiếng của mình đã tiêu tan hết trong rừng Huertgen, lính Ranger thuộc các đại đội D và F rời nơi trú ẩn trong các ngôi nhà đổ nát, xác xe cháy ở Bergstein tiến ra chiếm lĩnh tuyến xuất phát. Đến 7g30, dưới trận đấu pháo đang diễn ra dữ dội, quân Ranger xông lên cao điểm 400.

    Theo lời kể của Sid Salomon, đại đội C thì "Đại đội trưởng đợi đến đúng thời điểm liền hô 'Tiến lên!'. Lính Rangger gào thét, xả đạn hú họa ào ào về phía ngọn đồi, chạy hết tốc lực qua khoảng 100m đồng trống dưới hỏa lực súng máy và súng cá nhân của quân phòng ngự địch.

    Đại đội trưởng cùng người lính liên lạc đã bị thương trong khi chạy qua cánh đồng nhưng lính Ranger của đại đội D vẫn ko sờn lòng, đánh thẳng lên đồi. "Bọn địch lập tức báo động. 1 trái hỏa châu đỏ bay vọt lên trời từ các chốt tiền tiêu, hiển nhiên là để báo về cho các sở chỉ huy cấp trên. Liền sau đó 1 trận pháo kích bằng pháo binh, súng cối đã dập xuống đầu quân xung kích Ranger. Súng cá nhân, súng máy nhằm về hướng các chiến sĩ đang xốc tới. Thương vong của ta lẫn địch ngày càng cao nhưng cuộc tấn công vẫn tiếp tục. Bọn Đức ở 1 số chỗ phải rút lui nhưng những lực lượng khác thì vẫn an toàn trong công sự kiên cố. Đạn súng trường, trung liên bay vèo vèo khắp không trung. Thêm nhiều lính Ranger nữa bị thương vong vì bị pháo dập phía sau lưng. Sức đề kháng của quân thù vẫn rất mạnh mẽ."

    Cuộc đột kích tương tự như thế cũng được ghi nhận bên mũi tiến của đại đội F. Salomon kể: "1 ổ súng máy địch bố trí ở góc dưới bên trái ngọn đồi đã khiến đại đội F bị thương vong khá nhiều khi vượt qua đồng trống. Số còn lại vẫn tiếp tục tiến lên, 1 số chạy vượt lên những người khác, vừa chạy vừa bắn. Pháo của đồng minh đã ngừng bắn nhưng các pháo thủ cối địch vẫn chỉnh cối bắn theo quân Ranger đang xung phong lên đồi. Nhiều lính Đức dưới chân đồi dưới đã buộc phải tháo lui hoặc đầu hàng."

    Binh nhì William Anderson, 1 lính Ranger dạn dày trận mạc, do phạm lỗi mà bị cách chức từ trung sĩ xuống lính trơn, cùng với trung sĩ William “L-Rod” Petty, và binh nhất Cloise Manning là 3 quân nhân đầu tiên của đại đội F lên tới đỉnh đồi. Họ xông đến cánh cửa thép đang đóng của 1 boong ke địch. Từ bên trong vọng ra tiếng lính Đức. Petty đút mũi khẩu trung liên BAR vào khe hở xả hết 1 băng đạn 20 viên. Anderson tống vào trong đó 2 trái lựu đạn. Khi cả 2 lùi lại vài bước chờ lựu đạn nổ thì 1 quả pháo địch rơi xuống gần bên, khiến Anderson chết ngay. Lúc đó đại úy Otto Masney, đại đội trưởng cùng 1 số binh sĩ nữa chạy đến. Họ xông vào boong ke bắt đám địch quân đang bị choáng làm tù binh."

    Salomon kể: " Cuối cùng, cuộc đột kích thần tốc, ko ngơi nghỉ của lính Ranger đại đội D đã làm cho quân phòng ngự Đức choáng váng. Nhiều tên đã phải tháo lui trước đợt tiến công rất kiên quyết của họ." Sau 1 tiếng đồng hồ thì địch bỏ chạy; chiến thắng đã giành được nhưng với cái giá ko hề rẻ.

    Biết vùng đất cao có vai trò hết sức quan trọng, quân thù dội 1 cơn mưa chết chóc pháo, cối xuống đầu những ngưởi chủ mới. Nỗ lực đào công sự gặp rất nhiều khó khăn vì đất ở đây toàn đá và rễ cây. Nới trú ẩn duy nhất là nấp dưới gốc cây hay trong các hố đạn pháo. Số lính tả tơi còn lại của đại đội D được đại đội F chi viện ít nhiều sau khi họ chiếm xong sườn bên trái. Dù vậy rắc rối của đại đội F ngày càng trở nên nghiêm trọng hơn. Đại úy Masney định quay về yêu cầu quân tăng viện. Anh đã bàn bạc với Petty xem nên về bằng đường nào nhưng rồi lại bị lạc do đi tắt và bị quân Đức bắt sống.

    Lomell giờ là sĩ quan duy nhất của đại đội D - đại úy Mort McBride, chỉ huy đại đội, đã bị thương trong khi xung phong lên đồi và phải đưa đi sơ tán - hiện vẫn còn có thể tác chiến. Anh lên đến chỗ 1 công sự địch trên đỉnh đồi. Lomell thảy 1 quả lựu đạn rồi 1 lính Ranger dùng trung liên bắn xối xả vào trong. Theo Lomell thì: "Sống còn là điều may rủi. Chúng tôi bị oanh kích suốt. Lính tráng thương vong nằm khắp nơi mà chẳng cách nào ra sơ cứu. Lệnh bảo chúng tôi phải cố thủ chờ viện binh. Làm sao nói với 1 người đang mất máu đến chết phải cố bám trụ bây giờ?. Trời ạ, họ sẽ biết ngay là tôi đang nói láo.
  2. ngthi96

    ngthi96 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    10/07/2008
    Bài viết:
    1.650
    Đã được thích:
    9.272
    Lệnh lúc đầu bảo họ chỉ phải bám trụ đối Castle ko quá 24 tiếng đồng hồ rồi quân sư đoàn 8 sẽ lên thay vậy mà lính Ranger đại đội D đã bị vây hãm trên cao điểm đến hơn 40 tiếng rồi. Trong số 65 người ban đầu nay họ chỉ còn có 15 tay súng. Vào buổi sáng sau khi Lomell chiếm cao điểm, khi Walter Block - bác sĩ phẫu thuật của tiểu đoàn vừa rời nơi trú ẩn ra triển khai công tác sơ tán thương binh nặng thì pháo Đức dập xuống. Ông bị giết ngay tức khắc vì 1 mảnh đạn pháo.

    Trước đó, 1 quyết định của Block đã tránh cho Frank South thoát khỏi trận chiến khốc liệt trên cao điểm 400. "Trước khi tiểu đoàn tham chiến ở Bergstein 1 hôm, tôi đã bị ngất vì mất nước do bệnh tiêu hóa. Vì ko biết sẽ phải dự trận nên Block cứ ép tôi đi viện. Đến khi có thương binh Ranger đầu tiên về thì tôi mới biết việc này. Tôi liền chuồn khỏi viện, bắt xe đi nhờ về đến tiểu đoàn thì trận đánh chiếm cao điểm 400 đã chấm dứt và Block cũng ko còn. Ông là sĩ quan quân y đầu tiên và cuối cùng xứng đáng với danh hiệu lính Ranger. Tôi cứ day dứt mãi vì mình đã vắng mặt trong trận chiến ấy."

    Sid Salomon, chỉ huy đại đội Baker, tiểu đoàn 2 Ranger, người từng phải chứng kiến binh sĩ dưới quyền bị nghiền nát trong lần đầu mò mẫm trong rừng Huertgen đã đánh giá là quân mình bị sử dụng 1 cách tàn nhẫn: "Sau khi đổ bộ thì chẳng cần đến tiểu đoàn Ranger số 2 làm gì nữa. Chúng tôi được sử dụng như lính bộ binh và đem đi phối thuộc cho có lẽ là 10 sư đoàn khác nhau. Các chỉ huy thì lại chẳng biết sử dụng lính Ranger cho đúng cách. Họ toàn bắt đi đầu để cho đơn vị mình bớt thương vong. 1 Liên đoàn của sư đoàn 5 thiết giáp (thường có 3000 binh sĩ cùng xe tăng, xe bọc thép tuy đến đầu tháng 12 quân số đã bị giảm đi nhiều) đã thất bại trong việc chiếm đồi 400 vậy mà 3 đại đội Ranger (với chưa đầy 200 tay súng) lại thành công. Chúng tôi đã tiến qua những cỗ xe tăng cháy đen, xác người vẫn còn nằm vắt bên thành xe."

    Đến 9 tháng 12 thì trung đoàn 13 bộ binh, sư đoàn 8 mới đến thay quân cho lính Ranger trên cao điểm 400. Trong quá trình bị vây hãm, tổn thất của tiểu đoàn 2 Ranger lên đến 23 tử trận, 86 bị thương, 4 mất tích.

    Được chuyển sang quân đoàn 7 dưới quyền Collins để thay cho sư đoàn 4 là sư đoàn 83 của thiếu tướng Robert C. Macon. Mục tiêu của nó là các thị trấn Gey và Strass nằm ở mặt bắc rừng Huertgen và cách sông Roer chừng 1 dặm. Nếu thành công, sư đoàn 83 sẽ kiểm soát được mạng lưới giao thông, đường xá tạo điều kiện cho xe tăng sư đoàn 5 thiết giáp quét sạch quân Đức ra khỏi vùng đất được giao cho quân đoàn chạy dọc theo con sông. Kết quả của sự phối hợp này là sư đoàn 83 và sư 5 thiết giáp sẽ kiểm soát được 1 tuyến dài khoảng 4 dặm chạy song song với sông Roer.

    Qua đó quân đoàn 7 sẽ bắt tay được với quân đoàn 5 khi đơn vị này từ phía nam đánh tới con sông. Ở địa đoạn này, tướng Gerow dự định tung 1 đơn vị mới đến, chưa qua thử thách là sư đoàn 78 tham gia chiến dịch. Xa hơn nữa về phía nam là sư đoàn 2, có sư đoàn 99 bảo vệ bên sườn phải, sẽ từ Monschau đánh đến sông Roer.

    Hồi cuối tháng 10 công binh của Tập đoàn quân số 9 đã cảnh báo rằng nếu đối phương cho xả lũ các đập trên sông, nhất là con đập lớn Schwammenauel hoặc đập Urft, thì sẽ là thảm họa. Thời điểm này, tháng 12 thì mối đe dọa trên đã trở thành nguy cơ thực sự. Gánh nặng đang đè lên vai Tập đoàn quân số 1. Thế nhưng khi xem nhật ký của thiếu tá Sylvan thì có vẻ như những phụ tá của tướng Hodges lại chẳng mấy quan tâm đến những con đập trên.

    Trong 1 quyết định cần tới sự phê chuẩn của tư lệnh tối cao là tướng Eisenhower, các nhà lập kế hoạch lại cho rằng đã đến lúc phá hủy số đập trên cho nước ngập số quân Đức nằm giữa sông Roer và quân Mỹ, triệt mọi đường tăng viện và tiếp tế của địch. Không lực Hoàng gia Anh, với hỗn danh "dam busters- bom phá đập" sẽ nhận trách nhiệm phá hủy các đập Schwammenauel, Urft, cùng con đập nhỏ hơn là Paulushof. Do thời tiết xấu nên nên kết quả của cuộc không tập rất hạn chế và chỉ gây ra thiệt hại ko đáng kể cho những công trình đồ sộ bằng bê tông kiên cố đó. Giờ thì Hodges cùng các cộng sự đành phải thừa nhận rằng nên chiếm chúng thì hay hơn.

    Theo kế hoạch đề ra của Tập đoàn quân số 1 thì sư đoàn 83 sẽ đánh mở đường dến bờ tây sông Roer, bên sườn phải sư đoàn 78, trực chỉ về hướng 2 con đập lớn nhất. Tướng Macon, tư lệnh sư đoàn 83 đã giao nhiệm vụ chiếm Strass và Gey cho các trung đoàn 330 và 331. Ngày 10/12, 2 đơn vị trên rời nơi trú đóng trong rừng, lợi dụng trời còn tối xông lên nhằm giảm bớt lợi thế hỏa lực của quân Đức phòng ngự trong công sự kiên cố khi họ vượt qua đồng trống. 2 trung đoàn đều đánh vào tới các thị trấn và tham gia những trận đánh giành giật từng ngôi nhà rất ác liệt ở đó.

    Quân địch đã chôn mìn khắp nơi dưới mặt đất. 1 số quả mìn được chôn sâu đến độ chiếc thiết giáp đầu tiên khi đè lên đã ko hề hấn gì; đến khi chiếc xe tăng đi sau chạy đúng vào vệt xích thì nó mới phát nổ. Mảnh kim loại, mảnh bom đạn nhiều quá khiến những máy dò mìn từ tính bình thường bị vô hiệu hóa. Công binh buộc phải dùng tay và lưỡi lê để xác định chỗ chôn mìn. Pháo Đức cứ nhè số lính công binh đang gỡ mìn mà giã. Nỗ lực đưa thiết giáp lên quét sạch quân địch phòng ngự đã tan vỡ vì các xe tăng ko thể nhúc nhích gì được do bị mìn làm đứt xích hoặc sa lầy.

    Lợi dụng bóng đêm, quân Đức lẻn vào đám cây bụi bao quanh con đường từ Strass đi ra nhằm cô lập các binh sĩ của trung đoàn 330. Các đơn vị thuộc sư đoàn 5 thiết giáp, bất chấp những trục trặc phía trước vẫn theo sát thời gian biểu tiến quân. Xe tăng của tiểu đoàn xe tăng số 81 và xe half-track chở lính tiểu đoàn 15 bộ binh cơ giới vật lộn trên con đường lầy lội trong khu rừng gần Kleinhau tiến đến 1 nơi có nhiều cây lớn.
  3. ngthi96

    ngthi96 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    10/07/2008
    Bài viết:
    1.650
    Đã được thích:
    9.272
    Gần đến tuyến xuất phát thì bộ binh xuống xe. 1 lần nữa binh lính Mỹ lại bị tin tình báo sai lệch phản bội. Khu vực được cho là đã an toàn này lập tức bị pháo binh và súng cối địch dập cho tan nát. Từ bên sườn phải 1 cơn mưa đạn súng bộ binh lao đến trong đó có cả những tiếng nổ của súng chống tăng panzerfaust.

    Hạ sĩ kỹ thuật Hopkins thuộc pháo đội chỉ huy, tiểu đoàn pháo binh thiết giáp số 71 lái chiếc xe tăng M4 thuộc 1 toán tiền sát pháo kể lại: "Lính tiểu đoàn 15 bộ binh cơ giới lê bước trên con đường đóng băng tiến đến điểm xuất phát. Hầu hết bọn họ chỉ mặc áo trận bình thường do phải mang quá nhiều súng ống, trang bị khác. Xe tăng tiến trên đường theo hàng 1 với tốc độ rất chậm. Đường nằm dưới tầm quan sát của tiền sát pháo địch nên thường xuyên bị pháo, cối tập kích. Bất chấp điều này cùng vô số khó khăn khác, cuộc tấn công vẫn đều đặn tiến tới.

    "Càng lúc càng vất vả. Lính xe tăng phải chiến đấu chống lại bùn lầy, pháo kích cùng đạn bắn thẳng của súng chống tăng. Rốt cục chúng tôi cũng lên tới chỗ cái đỉnh núi gần tuyến xuất phát cần phải chiếm lấy. Bọn Đức đóng trên mỏm núi cao hơn nhìn xuống chỗ chúng tôi. Cố gắng tiến xuống dốc nhưng chúng tôi lại bị các bãi mìn cản lại. Nhiều xe tăng đã bị đứt xích vì mìn. Thế là đành án binh bất động đợi cho các đơn vị bên sườn trái tiến lên. Xe tăng chiếm lĩnh vị trí phòng ngự còn bộ binh thì đào công sự giống như sẽ nghỉ vĩnh viễn ở nơi đây vậy.

    "Chúng tôi cứ ở nguyên vị trí suốt 3 ngày 3 đêm với đồ ăn nóng duy nhất là cà phê được pha bằng bếp dầu trên sàn xe gần 1 đống đạn dược rất nguy hiểm. Chỉ có thể ngủ gà ngủ gật trong vì chỗ trong xe chật hẹp đến độ ko thể nào duỗi chân hay thay đổi tư thế được. Muốn giải quyết nhu cầu tự nhiên thì phải chui ra ngoài, thò mông khỏi thành xe và liên tục cậu nguyện mong cho ko quả đạn cối nào rót trúng chỗ mình.

    "Trong khoảng thời gian ở đấy lính chết cứ như ngả rạ. Đạn cối rơi dày và chính xác đến độ ko ai có thể chịu nổi. Quân tăng viện vẫn đều đều kéo đến nhưng vẫn ko đủ bù đắp số tổn thất quá lớn."

    "Đợt tiến công tiếp theo lại bị pháo cối dữ dội cản trở vì quyết định thiếu khôn ngoan cho lính rời nơi an toàn trên xe half-track. Khi thiếu tướng Lunsford E. Oliver, tư lệnh sư đoàn thiết giáp phàn nàn vì việc đoàn xe tiếp tế của mình bị thiệt hại thì tướng Macon đã gầm lên: "Nếu đường xá cứ tắc như thế này thì ko thể nào tránh được lũ bắn tỉa đâu."

    Tướng Collins từ bộ chỉ huy sốt ruột đòi kết quả. Tướng Barton phải tung nốt đơn vị dự trữ của mình là trung đoàn 329 tiến đánh ngôi làng Gurzenich. Tuy bị cây rừng rậm rạp, đạn pháo lớn nổ trên ngọn cây, mìn bẫy khắp nơi cản trở đơn vị cuối cùng cũng đột phá được đến Gurzenich vào chiều ngày 13/12. Sang hôm sau, trung đoàn 329 xông đến Birgel; nguyên 1 tiểu đoàn quân địch ở đây đã ra hàng. Quân Mỹ được tung vào trận nhiều quá đã khiến cho sức mạnh lẫn ý chí của lính Đức trong rừng Huertgen suy sụp hẳn.

    Mỹ chỉ chiếm được vùng này ngay trước khi phía Đức, nhận ra sự nguy hiểm của mấu lồi lấn sâu vào phòng tuyến mình và cũng đúng lúc họ sắp sửa tung ra 1 cuộc phản công dữ dội về phía tây nam xuyên qua vùng Ardennes. Phòng tuyến đã nhất thời bị chọc thủng ở Birgel do lính Mỹ đã hết đạn bazooka để chống lại thiết giáp địch. Macon lệnh cho pháo binh oanh kích các tuyến đường tiếp cận thị trấn nhằm tách bộ binh địch ra khỏi lực lượng thiết giáp yểm trợ. Ông trưng dụng 4 xe của tiểu đoàn tăng 774 tới chi viện cho tiểu đoàn bộ binh đang khốn đốn.

    Trung sĩ Ralph G. Neppell, khẩu đội trưởng đại liên, đại đội M, trung đoàn 329 đã tự mình diệt 20 tên địch, đánh lui 1 pháo tự hành trước khi bị 1 viên đạn bắn trúng ngay dưới đầu gối cụt chân. Dù vậy Neppell vẫn lết đến vị trí khác tiếp tục bắn súng máy. Về sau anh được tặng thưởng huân chương Danh dự. Dù rất quyết tâm nhưng quân Đức vẫn ko thể nào chiếm lại Birgel.

    Qua khỏi Grosshau và Kleinhau là thị trấn Bergstein. Đây là 1 mục tiêu của Liên đoàn Dự bị, sư đoàn 5 thiết giáp. Lực lượng chính của Liên đoàn gồm có tiểu đoàn 47 bộ binh cơ giới, tiểu đoàn xe tăng 10, tiểu đoàn pháo tự hành chống tăng số 628. Bob Herman, 1 người con của thành phố Youngstown bang Ohio, công nhân luyện thép vừa mới học xong năm thứ nhất đại học thì bị gọi nhập ngũ. Tuy được huấn luyện làm lính pháo binh, anh vẫn được điều đến tiểu đoàn pháo tự hành chống tăng số 628, 1 đơn vị có nguồn gốc từ sư đoàn 28 bộ binh kém may mắn.

    Herman nhớ lại là mình: "Chưa hề được đào tạo gì về tác chiến mà chỉ nghe qua lời của người trung sĩ trưởng xe. Anh này có vẻ có trình độ và được huấn luyện tốt. Hầu hết tiểu đoàn này đều đã được huấn luyện bên Mỹ suốt nhiều năm. Sang nước Anh chúng tôi được trang bị loại pháo tự hành chống tăng M10, với đại bác cỡ 76mm. Cỗ xe còn có thêm 1 trọng liên phòng không 50 cal gắn trên nóc tháp pháo lộ thiên. Thoạt đầu tôi làm lái phụ rồi sau chuyển sang vị trí tiếp đạn.

    "Ca tử trận đầu tiên của đơn vị chính là vị tiểu đoàn trưởng, khi chúng tôi vừa tham dự trận đột phá Saint-Lô. Thiếu tá William Gallagher, tiểu đoàn phó lên nắm quyền chỉ huy và ở vị trí đó trong suốt cuộc chiến. Ông là 1 quân nhân giỏi và sau này đã về hưu với quân hàm thiếu tướng.

    "Tôi ko tin việc huấn luyện lại đủ để ta có thể đối mặt với những thứ có trong khu rừng ấy. Thời tiết rất khó chịu, mưa rét và thỉnh thoảng có cả tuyết nữa. Do mang theo nhiều đồ hộp nên chúng tôi ko bị đói. Đường xá ngập bùn khiến giao thông rất khó khăn. Pháo binh bắn mạnh đến nỗi cây cối cành lá đều bị vặt trụi cả.
  4. ngthi96

    ngthi96 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    10/07/2008
    Bài viết:
    1.650
    Đã được thích:
    9.272
    "Khi tiến vào rừng Huertgen thì đơn vị chúng tôi tương đối đầy đủ sức mạnh. Tuy rằng cũng có thời điểm đại đội tôi chỉ còn 1 xe là hoạt động được, nhưng đến hôm sau thì con số này lại lên đến 7/15 xe. Ngay trước khi đến Huertgen, chúng tôi được nhận thêm loại xe M36 mới hơn có pháo 90 ly. Xe tôi gặp trục trặc máy móc và trong khi cố bắt kịp đội hình tiểu đoàn thì nó lại cán trúng mìn, bị hỏng phải đưa về phía sau.

    "Tuy vậy đại đội C trong ngày 6/12 đã diệt được 5 xe tăng địch. Vấn đề của xe M36 chính là ở cái tháp pháo lộ thiên. Đạn pháo nổ chụp đã gây ra rất nhiều tổn thất. Rút kinh nghiệm, trên tiểu đoàn tiến hành cải tạo lại các tháp pháo bằng cách bọc lên trên 1 lớp vỏ giáp và chúng đã tỏ ra rất hiệu quả sau này. Áo quần, giày tất chúng tôi chẳng lúc nào khô ráo cả. Tất ướt là nguyên nhân chủ yếu khiến chân tôi bị hoại tử nhẹ và phải về nằm viện ở Liége"

    1 lần nữa thị trấn Merode lại chở thành điểm nóng giao tranh. Chính tại nơi mà trung đoàn 26 bộ binh, sư đoàn 1 đã mất 165 người trong nỗ lực đánh chiếm nó thì nay nhiệm vụ trên được giao cho trung đoàn 39 bộ binh, sư đoàn 9. Tướng Craig đã tỉ mỉ lên 1 kế hoạch có vẻ hơi lạ kỳ nhằm vào lâu đài Merode, 1 dinh thự có từ thể kỷ 18 có tầm nhìn bao quát toàn bộ thị trấn cùng vùng lân cận và là 1 cứ điểm mạnh của đối phương. Việc đột kích khá khó khăn vì nó chỉ có duy nhất 1 lối vào với cái hào nước rộng hơn 6m. Craig cho tiểu đoàn 2 trung đoàn 39 tiến chồng qua trung đoàn 60. Đơn vị trên, dưới quyền trung táFrank L. Gunn, 1 cựu binh từng tham gia chuyến thám thính dọc rìa đông nam khu rừng vào đất Đức hồi tháng 9 sẽ đi song hành với trung đoàn 60 rồi từ góc bên phải đánh vào lâu đài. Phải dàn xếp như vậy vì đây là cách duy nhất để quân lính tiến ra trong khu rừng chật chội, đường xá tắc nghẽn và đầy rẫy những mìn.

    Xe tăng của sư đoàn 3 thiết giáp sẽ làm nhiệm vụ yểm trợ. Nhằm đảm bào đường tiến quân thông suốt, Gunn cho trung đội, đại đội F cùng lính công binh mang theo 200 pound thuốc nổ TNT chất lên 5 xe tăng ra con đường nhựa dẫn đến D’Horn, 1 ngôi làng nằm giữa Jungersdorf, Merode và chắn ngang tuyến đường sắt từ Aachen đi Düren. Toán quân này sẽ do trung úy Mike Wolfson chỉ huy. Nghi vấn ở đây là liệu địch đã phá hủy cái hầm đường sắt gần D’Horn chưa? Nếu nó đã bị phá thì công binh sẽ dùng thuốc nổ mở một lối đi qua đống đổ nát ấy. Toán tuần thám của Wolfson thấy đường hầm còn nguyên vẹn bèn vào đóng quân trong 1 ngôi nhà chờ đồng đội đến.

    Ngày 10/12, tướng Collins, tư lệnh quân đoàn 7 tới bộ chỉ huy của Craig chứng kiến sự phô diễn của 1 kế hoạch phức tạp khi các đơn vị thuộc trung đoàn 60 đánh bạt sức đề kháng yếu ớt của địch đi. Thấy quân mình tiến nhanh hơn dự kiến, tư lệnh sư 9 phát tín hiệu cho lực lượng dưới quyền Gunn xuất kích. Theo kế hoạch, với sườn được bảo vệ bởi trung đoàn 60, số quân này tách ra thực hiện 1 mũi tấn công vuông góc nhằm đưa họ tiến vào D’Horn dễ dàng hơn. Gunn cùng lính dưới quyền đã vào nghỉ đêm ở trong làng.

    Đến lúc này tướng Craig mới lệnh cho đại tá Van H. Bond, chỉ huy trung đoàn 39 chiếm lấy lâu đài Merode. Bond khoác lác rằng đến tối mình sẽ đặt sở chỉ huy trong lâu đài và mời Craig tới thăm. Các tiểu đoàn 1 và 2 của Bond sẽ tấn công từ 2 phía khác nhau rồi hợp điểm trong lâu đài.

    Súng bộ binh và pháo tập kích quân tiến công rất dữ dội nhưng ko giống như trường hợp của sư đoàn 1 hồi tháng 11, quân Mỹ tung ra nhiều quân và hỏa lực hơn. Lính Mỹ đã đánh bật các cuộc phản kích từng tỏ ra rất hiệu quả đối với trung đoàng 26 khi trước. Hỏa lực pháo tập trung đã san bằng và đục nhiễu lỗ thủng lớn trên tường lâu đài. Với cái giá khá đắt đỏ, lính Mỹ đã vào được mục tiêu giúp cho Bond thực hiện được lời hứa. Để chiếm được hoàn toàn thị trấn cần phải chiến đấu giành giật từng ngôi nhà thêm nhiều giờ nữa, tuy nhiên địch chết rất nhiều và đã có 190 tên ra hàng trung đoàn 39.

    Frank Randall, trung đội trưởng mới vào rừng bổ sung cho đại đội B, trung đoàn 39 bộ binh nhớ lại: "Rất nhiều tù binh của chúng tôi chỉ tầm 14, 15 tuổi. Tôi chỉ còn biết nguyền rủa tên Hitler độc ác. Sáng hôm sau chúng tôi tiếp tục tấn công nhằm giải tỏa áp lực cho 1 đại đội khác. Do đã ăn mấy củ khoai nằm chất đống trong hầm nhà nên đúng lúc chuẩn bị vào trận thì tôi lại bị tiêu chảy. Tôi bảo trung sĩ trung đội phó cầm quân tới vị trí xuất kích trước còn tôi sẽ ra sau khi 'tháo dạ' xong. Sắp bắt đầu thì 1 người lính đưa tôi 1 lá thư nhờ gửi cho vợ. Tôi duyệt, ký tên rồi nhét nó vào túi áo bên trái.

    "Những huấn thị học từ hồi ở trường bộ binh cứ vang lên: 'Binh sĩ sẽ ko tiến lên nếu anh ko noi gương đi trước'. Tôi bèn đi lên đầu đội hình rồi ra dấu 'theo tôi'. Lên đến đồi, lính tráng bắt đầu nã đạn vào mục tiêu. Tôi quay lưng về phía địch ra hiệu cho binh sĩ bắn mạnh hơn nữa. Rồi tôi lại tiến lên; được vài bước thì bị đạn vào ngực, bụng ngã quị xuống. Tôi cố bật dậy tránh khỏi lằn đạn rồi gọi lính cứu thương của trung đội lên. Nhìn sang phải tôi thấy người lính nhờ tôi gửi thư đã bị bắn gục.

    "Tôi bảo cậu lính cứu thương lo cho anh ta trước nhưng cậu ấy đáp lời "Tiếc quá, sếp ạ. Anh ta chết rồi.' Lính dưới quyền định gỡ 1 cửa nhà ra đưa tôi đi tản thương nhưng cậu cứu thương đã nhờ người mang cáng vừa mới tự chế đến.

    "Chúng tôi chiếm được ngọn đồi và cuộc tản thương bắt đầu. Cậu lính cứu thương tiêm cho tôi 1 liều mooc phin rồi lát sau tôi đã về đến trạm xá tiểu đoàn. Thấy tôi chảy nhiều máu quá họ bèn lột trần tôi ra. Viên trung sĩ ở trạm vứt hết các thứ cất trong túi quần áo, kể cả bức thư sũng máu cùng mấy thứ đồ linh tinh khác. Ở trạm phẫu trung đoàn họ lại tiêm mooc phin cho tôi, 1 tuyên úy đến ban phước lành rồi tôi được đặt lên mui xe jeep đưa về sư đoàn."
  5. ngthi96

    ngthi96 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    10/07/2008
    Bài viết:
    1.650
    Đã được thích:
    9.272
    Quân y tiếp tục tiêm mooc phin cho Randall trong hành trình nằm cáng trên nóc xe half-track Trạm phẫu lưu động của Lục quân (Mobile Army Surgical Team (MAST - sau này ở Triều Tiên gọi là MASH). Bệnh viện Stolberg, nơi Randall cùng nhiều thương binh nặng khác điều trị lại nằm ngay trên đường tiến quân của địch trong những ngày đầu tiên diễn ra trận Bulge. Bác sĩ trưởng của Tập đoàn quân số 1 kêu gọi mọi người tình nguyện chấp nhận việc chắc chắn bị cầm tù vì ông muốn lính quân y ở lại chăm sóc thương binh ko thể di chuyển được. "Tất cả mọi người, từ bác sĩ, y tá, kỹ thuật, điều dưỡng đều tình nguyện hết. Thế là bác sĩ trưởng nói: 'Ta sẽ ở lại hết'. May thay Stolberg ko bị chiếm. Nhờ sự can đảm của các nhân viên y tế mà bọn tôi đã được cứu sống."

    Vào 1 ngày hè nóng bức trước đó 5 tháng, đại đội D, tiểu đoàn xe tăng số 81, sư đoàn 5 thiết giáp, trang bị toàn xe hạng nhẹ được đổ bộ lên bãi biển Utah. Trong đội hình Liên đoàn B, lính xe tăng của đơn vị đã ùa vào lỗ hổng Saint-Lô trong phòng tuyến quân Đức rồi tiến ngang qua nước Pháp với tốc độ vừa tiến quân vừa chiến đấu là 37 dặm 1 ngày. Voo Doo Dog (mật danh trên điện đài của đại đội) đã diễu binh qua Paris rồi giao chiến với quân thù suốt tháng 9 dọc theo phòng tuyến Siegfried. Họ dành hầu hết thời gian tháng 10 và tháng 11 trong những khu đóng quân ở Luxembourg và Bỉ với vai trò làm lực lượng dự bị.

    Ngày 10 tháng 12, cùng các đơn vị còn lại của Liên đoàn B, đại đội D cho xe tới vùng ngoại vi Kleinhau. Máy bay tiêm kích và lực lượng phòng không Mỹ đã đánh bại những đòn cắn trộm của Không quân Đức. Mọi người đều thấy sự hạn chế của xe tăng hạng nhẹ khi chống lại thiết giáp, vũ khí chống tăng địch nên chỉ dùng chúng chủ yếu với các mục tiêu đã chọn lựa như những chốt chặn trên đường, lính bắn tỉa, những trận địa súng máy lộ thiên và vận chuyển đồ tiếp tế, sơ tán thương binh.

    Bob Miller, pháo thủ của đơn vị còn nhớ rõ chuyến đi vào rạng sáng ngày 12 tháng 12 để đưa thức ăn, đạn dược, nước uống cho tiền quân. Khi trung đội 2 xe tăng tới gần đích thì gặp 1 xe tăng Sherman hỏng khiến họ phải đi vòng. Chiếc xe đi thứ 3 trong đội hình đã cán phải mìn. Trong lúc tổ lái loay hoay cố cứu binh nhì Dominick Colangelo đang bất tỉnh ra thì 2 xe tăng kia vẫn chầm chậm đi tiếp. Sau khi giao hàng cả 2 bèn quay về. Miller kể: " Họ quyết định vượt qua cỗ 2 xe hỏng kia từ phía khác hy vọng tránh được mìn. Lúc trung úy Henry Potts (đã rời xe) đang hướng dẫn xe mình đi vòng thì 1 quả mìn phát nổ. Anh ta bị chết còn hạ sĩ lái xe Peter Thauwald thì bị thương nặng." Miểng văng trúng vào 4 lính tăng vẫn đang cố cứu Colangelo ra. Trong số những người được tặng huân chương quả tim tím có cả pháo thủ Miller. Chiếc xe còn lại đành phải bỏ lại vì chuyện vượt qua cái nơi rõ ràng là bãi mìn dày đặc là 1 việc cực kỳ nguy hiểm.

    Trong suốt 9 ngày, Voo Doo Dog, làm nhiệm vụ đưa đồ tiếp tế ra tiền tuyến rồi lại mang thương binh về. Lính Đức xâm nhập vẫn tiếp tục cài những quả mìn chết chóc. Trung úy Henry V. Plass giải quyết vấn đề trên bằng cách đẩy 1 xe tải bị hỏng của công binh phía trước để làm xuổng quét mìn tạm thời. Trung đội 1 chuyển đến Strass để có thể hỗ trợ trực tiếp cho trung đoàn 330 bộ binh trong khi 2 trung đội còn lại của đại đội vẫn tiếp tục thực hiện các sứ mệnh tiếp tế, liên lạc. Khi thông tin giữa Liên đoàn B và trung đoàn 330 bị đứt, 1 chiếc xe tăng do trung úy Carlo Lombardi chỉ huy cùng lái xe là hạ sĩ Roy Rusteberg đã qua được 1 vùng đầy rẫy mìn, súng chống tăng mang điện đài đến cho những binh sĩ đang bị cô lập của trung đoàn này.

    Việc chiếm được Gurzenich, nằm đối diện với thành phố Düren bên bờ đông sông Roer, cũng như việc trung đoàn 329 làm chủ Birgel đã đem lại hơn 1000 tù binh. Mũi tiến công của sư đoàn 5 thiết giáp cùng đơn vị bạn là sư đoàn 83 đã chiếm được các vị trí nằm dọc rìa bắc khu vực trách nhiệm. Ở phía nam vẫn còn các mục tiêu là Bergheim, Winden cùng mấy thị trấn khác nằm giữa 2 bờ sông Roer.

    Trên đường tiến quân có ngôi làng Kufferath được phòng thủ rất mạnh. 1 chiến đoàn gồm có xe tăng và bộ binh cơ giới của Liên đoàn A sẽ tiến qua Gey rồi thanh toán tiếp Horm dưới hỏa lực pháo binh ác liệt cùng các bãi mìn. Tiểu đoàn xe tăng 34 nã hàng tràng đạn pháo vào đám quân địch đang cố thủ Horm trong khi pháo tự hành 75mm, đại bác 150mm và các khẩu pháo chống tăng của chúng cũng bắn ra tới tấp.

    1 quả đạn pháo xuyên vào thành chiếc tăng do trung sĩ Wilmer Doty làm trưởng xe. Vụ nổ hất Doty văng ra ngoài. Anh lại trèo vào chiếc xe đang bốc cháy để cứu lấy người pháo thủ là hạ sĩ Charles Fuller. Sau khi kéo Fuller tới nơi an toàn, 1 lần nữa Doty lại bất chấp lửa cháy vào cứu lái xe ra. 2 quả đạn nữa bắn trúng chiếc tăng đang bất động khiến người lái xe thiệt mạng và làm Doty bị thương nặng.

    Đòn công kích dữ dội của quân Mỹ đã áp đảo đám lính Đức cố thủ, khiến chúng phải đầu hàng. Sau khi bàn giao tù binh cho lính bộ binh của sư đoàn 83, chiến đoàn lại ầm ầm tiến về phía Kufferath. Ở đây họ bị pháo binh, pháo chống tăng địch tiếp đón dữ dội. Trong trận đọ sức này tiểu đoàn tăng 34 mất 5 xe tăng nhưng vẫn kiên trì tiến đến Kufferath chỉ với 3 chiếc Sherman và 1 xe tăng ủi.

    Từ trên không trung, 1 phi đoàn máy bay P-47 nhào xuống oanh kích các vị trí quân địch tại Kufferath, Bergheim và ở trong rừng. Quân sư đoàn 5 thiết giáp công kích Kufferath từ 3 mặt. Tuy nhiên địch phòng ngự rất ngoan cường. Nhiều xe tăng Mỹ bị bắn cháy. Thương vong tăng cao, trận đánh ngày càng ác liệt nên thật khó có thể dành lính ra làm công tác vận tải.
  6. ngthi96

    ngthi96 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    10/07/2008
    Bài viết:
    1.650
    Đã được thích:
    9.272
    Trong đợt tấn công cuối cùng vào Kufferath, trung sĩ Andrew Hovdestadt thuộc tiểu đoàn 46 bộ binh cơ giới xung phong dẫn đầu 1 toán trinh sát chiến đấu xông lên diệt và quét sạch địch ra khỏi nhà cửa trong thị trấn. Đang xông pha thì 1 quả pháo rơi xuống sát cạnh anh. Dù bị trọng thương, anh vẫn lết đến nơi an toàn thúc giục đồng đội tiếp tục chiến đấu và chăm sóc cho các thương binh khác trước khi tắt thở.

    Quân Mỹ lũ lượt tràn vàoKufferath, bắt được 98 tù binh. Số lính Đức bị giết và bị thương qua thống kê là 175 tên. Số vũ khí chống tăng bị phá hủy là 11. Họ thủ ở đó trong 5 hôm đợi các đơn vị sung sức khác của Liên đoàn A đến tăng viện, thay thế. Từ đây mũi tiến công lại tiếp tục hướng đến Bergheim và khu dân cư gần đó là Schneidhausen.

    Tiểu đoàn pháo binh thiết giáp số 71, đơn vị trực thuộc Liên đoàn B, sư đoàn 5 thiết giáp đóng ở ngoại vi Aachen trong suốt cuối tháng 11 và đầu tháng 12 làm nhiệm vụ bắn phá các lô cốt địch. Tiểu đoàn triển khai trinh sát pháo bằng cả máy bay 1 động cơ L-4 lẫn xe tăng M4. Ralph Hendrickson, lính pháo thủ trên cỗ pháo tự hành bánh xích M7, là người từng bị gọi vào lực lượng pháo binh ngựa kéo trước khi nổ ra trận Trân Châu Cảng. Anh là 1 trong những thành viên đầu tiên của tiểu đoàn 71 và là chứng nhân của các trận đánh diễn ra trong tuần thứ nhì của tháng 12 ở rừng Huertgen gần Grosshau. "Vừa chiếm lĩnh vị trí là chúng tôi lập tức khai hỏa. Tôi tự mình đi thám thính xung quanh pháo đội và rất muốn tìm 1 chỗ tốt hơn nữa sau khi thấy các xác chết và cây cối bị đạn bắn thủng lỗ chỗ. Tôi đi rất cẩn thận để tránh mìn. Trong khi xem xét khu vực quanh những xác chết tôi chú ý tới 1 lính Mỹ chết ngồi trong đống gỗ với tay phải giơ cao quá đầu. Tay trái anh ta đang giơ lưng chừng trong khi cái hộp đựng đồ đổ cả ra đất. Nghĩ mà thương cho anh cùng gia đình, nhưng cũng chỉ còn cách thu nhặt đồ đạc của anh ta lại rồi đưa về cho bên Chung sự. Tôi lấy poncho gói ghém số đồ đạc mang về. Các thi thể còn lại thì đều nằm trên mặt đất.

    "Sang đến ngày thứ 3 thì đội Chung sự mới tới thu nhặt các xác chết. Bọn họ làm ăn rất ẩu tả, coi thi thể con người ta như xác thú vậy. Cứ thế mà lẳng vào thùng sau xe tải cho nằm chồng chất lên nhau như đống củi. Cậu lính tôi thấy lúc trước do ko thể đặt nằm xuống nên nên họ cho ngồi lên trên cùng, ngay sau chỗ lái xe. Khi xe của đội Chung sự chạy ngang qua trận địa pháo, đường xóc quá làm cho xác anh bạn có tay phải giơ lên kia cứ lắc lư mãi. Anh ấy vẫy chào tôi mãi ko thôi cho đến khi chiếc xe đi khuất dạng. Cảnh tượng đó cứ ám ảnh tôi mãi suốt nhiều năm qua."

    Có 1 lần hiếm hoi máy bay Đức xuất hiện ở nơi tiểu đoàn 71 đóng và nhào xuống ném bom, bắn phá nhưng thiệt hại chúng gây ra ko đáng kể. Tuy nhiên cuộc không kích cũng khiến các đơn vị của Liên đoàn B gần đó bị thương vong 18 người. Cuộc sống của pháo thủ so ra thoải mái hơn nhiều những gì mà lính bộ binh vẫn phải chịu đựng. Cứ sau mỗi đợt bắn, lính pháo lại xuống nghỉ ngơi trong các những căn hầm bằng gỗ đào sâu dưới mặt đất. Báo cáo của tiểu đoàn mô tả chúng "khá thoải mái, ấm áp và rất chắc chắn". So với tiền duyên nằm trước đó mấy dặm thì pháo thủ sống sang hơn rất nhiều. Hạ sĩ James Burrell ở pháo đội A còn nhớ nhiều căn hầm được lát gỗ và nắp đắp đất rất dày. "Ko những chúng dài rộng đủ cho chúng tôi đứng thẳng mà còn dư chỗ để đặt bếp lò làm từ thùng dầu loại 5 gallon có cả ống khói và hệ thống chiếu sáng bằng đèn bin hoặc đèn xe half track treo lủng lẳng với dây điện dài. Nhiệm vụ của chúng tôi là oanh kích những mục tiêu đột xuất hoặc bắn chuẩn bị cho các cuộc xung phong. Ngoài giờ trực chiến ra đám lính lác tha hồ chơi những trò phổ biến để giết thì giờ trong quân ngũ như đánh bài, tán phét, ngủ bù..."

    Hendrickson kể do có 1 số ông nghị nhận được thư của mẹ lính than phiền về việc ít nhận được thư con trai nên "có lệnh trên đưa xuống bắt chúng tôi dù sống dù chết cũng phải viết thư về nhà. Mà mực trong bút máy thì đã đông cứng hết cả."

    Tiểu đoàn pháo binh thiết giáp 71 tham gia yểm trợ cho trận tấn công phối hợp giữa Liên đoàn B và sư đoàn 83 bộ binh nhằm quét sạch quân Đức khỏi 1 khu vực kéo dài từ Kleinhau đến Winden trên bờ sông Roer. Khi Liên đoàn B gặp khó khăn, Không quân chiến thuật phái các máy bay P-47 và P-38 tới oanh tạc 1 mỏ đá là cứ điểm mạnh của quân địch sau khi nó đã bị pháo cấp tập. Cuối cùng, sau 1 đợt công kích bất ngờ dữ dội với xe tăng có bộ binh tùng thiết, phía Mỹ đã chiếm được cứ điểm trên. Liên đoàn B đột phá thành công phòng tuyến địch và đến ngày 16/12 thì chiếm được các vùng đất cao nhìn xuống các thị trấn Winden, Untermaubach và Undingen của sông Roer.

    Đối với mấy con đập lớn Schwammenauel và Urft, Tập đoàn quân số 1 giao nhiệm vụ chiếm chúng cho đơn vị cuối cùng vào rừng đến với quân đoàn 5 là sư đoàn 78 bộ binh, 1 lính mới tò te chưa hề có kinh nghiệm trận mạc. Thiếu tướng Edwin P. Parker, Jr., tư lệnh sư đoàn "Tia chớp", tỏ ra lo ngại trước trách nhiệm nặng nề được giao cho những tân binh của mình. Tuy nhiên Courtney Hodges đã xua tan ý nghĩ trên và khẳng định: "Thời gian đã chứng minh rằng phương pháp huấn luyện ở Mỹ ko những hoàn toàn đúng đắn mà còn đủ để đánh bại bọn Boche." Cũng như nhiều đơn vị khác, sư đoàn được thành lập vào tháng 8 năm 1942 và đã đưa hầu hết số quân ban đầu của mình sang Pháp bổ sung cho những đơn vị đầu tiên tác chiến tại châu Âu. Khi nó tới rừng Huertgen thì rất nhiều thành viên của đơn vị mới từ binh chủng khác chuyển sang bộ binh. 1 số lớn được lấy từ Chương trình huấn luyện đặc biệt của Lục quân, những quân nhân được đưa đến các trường đại học để học ngoại ngữ và kỹ thuật. Số khác từ Không quân chuyển chỉ biết đến súng trường M1 khi quân chủng này tiến hành cắt giảm số lượng học viên bay.
  7. ngthi96

    ngthi96 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    10/07/2008
    Bài viết:
    1.650
    Đã được thích:
    9.272
    Ngày 13 tháng 12, trời rét căm căm cùng tuyết tan khiến đường xá rất lầy lội, các binh sĩ thuộc trung đoàn 310, sư đoàn 78 bộ binh trèo lên khỏi công sự tiến đến mục tiêu đầu tiên của mình là Rollesbroich. Sương mù che chở cho lính Mỹ cho đến khi có người vấp mìn và ánh nắng bắt đầu xuyên qua làn sương soi rõ bóng họ cho các xạ thủ Đức.

    Theo Adrian E. Sumerlin, thuộc đại đội chỉ huy tiểu đoàn 3 thì: "Khi bị bắn nhiều người trở nên tê liệt ko tài nào đứng dậy tiến lên nổi. Trung tá Harry Lutz, cựu sinh viên tốt nghiệp đại học bang Michigan và là tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 3, trung đoàn 310 cao tới gần 2m bước tới gần 1 binh sĩ hỏi "Sao vậy hả con trai? Cậu bị đóng đinh rồi ư?'. Người lính ngước nhìn rồi bật dậy xông lên trước.

    "Khi tiểu đoàn tiến vào bìa làng, 1 tên bắp tỉa nấp trong ngôi nhà lớn đã bắn bị thương mấy binh sĩ. Ông trung tá liền giật lấy khẩu súng trường của cậu lính đứng cạnh, đột kích tới ngôi nhà, đạp bung cửa vào hạ sát tên bắn tỉa đó. Thế rồi ông tiếp tục xông lên, quét sạch đám bắn tỉa cho tới khi ngôi làng an toàn." Dù trận đầu đã phải chiến đấu ác liệt giành giật từng căn nhà, nhưng những anh lính non kinh nghiệm của trung đoàn 310 vẫn chiếm được Rollesbroich với tổn thất nhẹ. Trung đoàn 309 bên sườn phải cũng đã chiếm được Simmerath. Tuy nhiên tới lúc này, sư đoàn 78 mới thật sự phải đối mặt với 1 thách thức khó vượt qua được. Thị trấn Kesternich, ở trên đỉnh 1 quả núi nhìn xuống sông Roer, kiểm soát tuyến đường tiếp cận từ phía nam đến 'phần thưởng đẫm máu - Schmidt'. 1 báo cáo phân tích sau này viết rằng: "Tầm nhìn khi trinh sát bị hạn chế vì sương mù dày đặc. Tình hình Kesternich, mục tiêu của tiểu đoàn, chủ yếu chỉ giới hạn dựa trên việc nghiên cứu các bản đồ." Đây đúng là điều mà tướng Parker lo sợ nhất.

    Trung sĩ William Ryan, tiểu đội trưởng, nhớ lại: "Đấy là 1 cuộc tập kích định đánh bất ngờ quân Đức. Đơn vị tôi ở mũi bên trái con đường. Do không có lệnh 'lên đạn - lock and load’ nên súng ai cũng trống rỗng." Đây là biện pháp phòng ngừa việc súng bị cướp cò làm đánh động bọn địch."Đến khi có lệnh 'lắp lê' thì chúng tôi bắt đầu tiến lên. Chẳng thấy cấp chỉ huy nào bảo lên đạn hết. Vừa lúc đó từ phía trước mặt và chếch về bên trái, pháo sáng Đức vọt lên chiếu sáng cả 1 vùng trời."

    "Tôi nghe tiếng kêu cứu đâu đó ở bên trái. Lúc đó tôi nghĩ pháo sáng mà bắn lên thì 'tính bất ngờ' cũng chẳng còn. 'Vậy là đại đội F khổ rồi' và tôi bèn cầu nguyện chúa che chở.

    "Trời đang tối bỗng sáng bừng vì pháo sáng rồi lại tối xuống 1 chút và lại bừng sáng trở lại khi quả pháo kế tiếp bắn lên. Tới gần 1 cây cầu đá thì tôi nhìn thấy đằng trước, cách chừng 50m có 1 tòa nhà đen thui. Qua khỏi tòa nhà thì đường sẽ bắt đầu rẽ qua trái. Lúc đó tôi nghĩ chắc khu này đã bị địch canh sẵn tọa độ rồi. Thấy tòa nhà có vẻ hắc ám quá nên tôi quay lại bảo đám lính phía sau 'Tản ra! Chuẩn bị nếm đòn nhé!". Đến lúc này thì Ryan mới nhét 1 kẹp đạn vào súng.

    "Ngay sau đó trên đường đi bỗng chẳng hiểu vì sao tôi ngoái nhìn lại. Chẳng nhớ có nghe thấy tiếng nổ nào ko nữa nhưng trong bóng tối tôi thấy 1 đám cầu lửa bùng lên trên đường giữa 2 mũi tiến quân. Súng cối của bọn Đức đã khai hỏa; làm cho đại đội F bị thương vong nặng.

    "Tôi chạy sang trái rời xa con đường, vòng ra sau tòa nhà. Chẳng biết số người đi theo có đông không nhưng ở đó có 1 cái gò đất. Chạy vượt qua gò đất thì ra tới cánh đồng. Bỗng tôi thấy mình bị lọt vào 1 bãi mìn. Mặt đất đã đóng băng và có tuyết. Tôi nhìn thấy trên mặt đất nhô lên ba cái chấu. Tôi tránh khỏi, đi chếch về tay phải được chừng 30 thước thì có 1 ánh chớp lóe sáng sát mặt đất, ngay phía trước 3 cậu lính cùng đại đội. Chắc do vô ý nên họ đứng túm tụm với nhau và đã bị ánh chớp kia (có thể là đạn pháo 88 ly) xơi gọn.

    Tôi đã mất tập trung khi thấy 1 vật hình chữ T rít lên bay về phía mình như 1 cái boomerang vậy. Đó là nguyên cánh tay còn nắm chặt khẩu súng trường của 1 trong 3 người lính. Chính khoảnh khắc thiếu tập trung ấy, chân phải tôi đạp mìn nổ tung. Chân trái của tôi cũng bị nhiều vết thương nghiêm trọng.

    "2 chân tôi giờ phơi ra hoàn toàn, vải từ ống quần cho đến tận mông đã bay mất. Do đó tôi có thể dễ dàng thấy được thương tích của mình. Cũng chẳng cần phải băng bó vì chân phải ko thấy chảy máu còn máu từ những lỗ thủng ở chân trái hình như đã đông cứng lại mất rồi. Cảm giác của tôi lúc ấy ko hề đau và cũng chẳng hề hoảng hốt.

    "Thấy 3 người kia vẫn chưa chết, tôi bèn bảo họ sẽ có lính quân y lên cứu. Chắc họ cũng chưa biết mình bị thương nặng đến mức độ nào và có vẻ ko ai cảm thấy đau lắm. Nhưng sau chừng 1 tiếng đồng hồ thì chẳng thấy ai cục cựa gì nữa."

    Ryan nằm đó mấy giờ liền, trong khi những binh sĩ khác, có cả người tiểu đội phó, người đã dừng lại hỏi thăm vài câu, toàn đi ngang qua. Tới tận hoàng hôn, sau khi rất nhiều giờ nằm trên đồng, viên trung sĩ mới nhờ được 1 lính đại đội F chịu đi gọi người tới cứu thương binh. Dẫu lời nhắn có được chuyển đi hay ko thì hôm đó Ryan cũng phải qua đêm trên bãi mìn.

    "Qua hôm sau, thấy đằng trước có người, tôi liền gọi nhờ cứu giúp. Thoạt đầu thấy họ có vẻ do dự tôi đã nghĩ họ làm đám lính 'tụt, tạt' như rồi rốt cục cũng có 1 người chịu quay lại kêu người tới cứu. Cứu hộ chính là chiếc xe ủi đất từ tuyến sau tiến vào bãi mìn. Có lái xe và 1 người lính đang lần theo vệt xích đi phía sau, những người khác thì đứng hết bên ngoài. Chiếc xe ủi tiến thẳng đến chỗ tôi, cán lên mìn chống bộ binh gây ra nhiều tiếng nổ. Khi xe gần tới, lái xe ủi bảo tôi nghiêng người đặt mũ sắt ra che sau đầu. Sau đó anh mới cho xe tiến tới gần bên trái tôi chừng 1m rồi dừng lại.
  8. ngthi96

    ngthi96 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    10/07/2008
    Bài viết:
    1.650
    Đã được thích:
    9.272
    "Người lính đi sau trèo lên, đứng trên băng xích, khom người xuống kéo tôi lên. Tôi sử dụng khẩu súng trường như 1 cái gậy chống, giúp anh ta nâng mình lên. Anh đặt tôi nằm trên mui trước xe. Tài xế sau đó định đưa tôi trở ra nhưng tôi năn nỉ anh đi tiếp để nhặt thêm mấy thương binh khác. Tôi nhớ lúc đó nhìn thấy bản xích xe vốn rộng chừng 50cm đã bị bay mất 1 nửa mà lòng cứ hy vọng xe vẫn chạy tiếp được, ko bị bung xích ra

    "Chiếc xe ủi đi tiếp với người lính đi theo vệt xích và tôi nằm trên mui, trong khi mìn vẫn nổ đều đều. Chúng tôi an toàn tới chỗ cậu lính kế tiếp. Sau khi cậu được kéo lên và đặt trên mui xe thì tất cả quay lui thoát khỏi bãi mìn. Cậu này bị cụt chân trái, mắt phải thì lòi ra ngoài. Từ trán xuống hốc mắt là 1 dãy lỗ thủng nhỏ do sức nổ đã hất dây đạn quật lên mặt, móc trúng mắt."

    Vết thương và cơn sốc đã khiến Ryan ko còn nhớ những gì xảy ra sau đó. Anh chỉ còn lờ mờ nhớ tới việc người ta cố gắng mãi mới tìm thấy ven để tiêm cùng việc 1 cha tuyên úy đến làm lễ vì tưởng anh sắp chết. Thế nhưng Ryan vẫn sống sót và khi đến bệnh viện ở Anh thì phát hiện người ta coi anh là 1 trong số những lính Đức mặc quân phục Mỹ xâm nhập vào phòng tuyến quân nhà. Ryan, bị cụt 1 phần chân phải, đã thoát khỏi kiếp tù binh đầy tủi nhục nhờ sự xuất hiện của 1 người bạn. Người trung sĩ này cùng đại đội F với anh và cũng bị thương. Anh này đã khẳng định Ryan là lính Mỹ.

    Những người cứu Ryan thuộc tiểu đoàn 303 công binh sư đoàn. Theo cuốn sử của đơn vị này thì :" Bãi mìn chống bộ binh lớn được ngụy trang khéo léo nằm chặn đường tiến đến 1 trận địa súng máy đã làm bộ binh bị mất 3 người. 2 lính cứu thương lên cứu các binh sĩ trên cũng bị vấp mìn. Người ta kêu gọi công binh tình nguyện lên cứu họ ra. Đại úy Woodrow Dennison thuộc trung đội 1, đại đội A lên dò mìn và nhanh chóng bị mìn nổ bị thương ở mặt. Sau đó hạ sĩ Raymond Sporenkel cùng với binh nhất Arthur Reynolds của trung đội 3 quân y, đã thử lái xe ủi vượt bãi mìn đến chỗ thương binh. Cứ gặp người nào là Arthur Reynolds lại trèo ra cứu." 2 binh sĩ dũng cảm trên đã được tặng thưởng huân chương sao đồng.

    Xe tăng Sherman của tiểu đoàn tăng 709 đưa lính đại đội E vào trận đã ko thể tiến lên nổi do tuyết quá dày lại còn bị súng chống tăng quất túi bụi. Nhiều lính bộ binh đã rời khỏi thiết giáp đánh vượt qua làn đạn của đại liên, súng cối, súng cá nhân, mìn đến được khu nhà nằm ở ngoại vi thị trấn. Do xe tăng đi sau vẫn chưa lên được, lại ko có điện đài nên số lính Mỹ nhỏ nhoi chẳng sao liên lạc về sở chỉ huy tiểu đoàn được.

    Lúc bắt đầu xuất kích thì trung tá Wilson L. Burley, Jr, chỉ huy tiểu đoàn 2, ngồi trên xe tăng nhưng sau đó khi gặp 1 hố đạn pháo nằm dọc đường dẫn vào thị trấn thì ông bỏ xe đi bộ. Ông ko nắm được vị trí lính dưới quyền cũng chẳng có thông tin gì về đối thủ đang phòng ngự. Cuối cùng, khi đã liên lạc được với chỉ huy của 2 đại đội phía trước, ông lệnh cho họ rút về vị trí khác an toàn hơn. Vị tiểu đoàn trưởng quyết định thân chinh đi điều nghiên Kesternich. Đây là 1 quyết định tai hại. 1 thời gian sau đó xác ông được tìm thấy. Do tiểu đoàn phó cũng đã mất tích, quyền chỉ huy đơn vị giờ được chuyển sang đại úy Douglas P. Frazier, đại đội trưởng đại đội H.

    Tiểu đoàn 3 trung đoàn 309 cũng tham dự trận công kích Kesternich. Ray T. Fortunato, là sinh viên trường Penn State được 1 học kỳ được gọi đi học sĩ quan rồi về chỉ huy 1 trung đội thuộc đại đội I. "Vào ngày 13/12, bọn tôi xung phong qua 1 cánh đồng trồng trải có nhiều đống rơm rạ. Ngay khi vừa xông là chỗ trống thì chúng nó khai hỏa, hóa ra mấy đống rơm đều là lô cốt địch cả. Chúng tôi bắn trả rất mãnh liệt khiến cho địch trong lô cốt phải phất cờ trắng xin hàng. Tuy nhiên khi địch lò dò chui ra hàng thì 1 số binh sĩ quân ta, do quá căm giận khi thấy đồng đội bị tổn thất, đã nổ súng bắn. Vậy là, chẳng cần nhiều lời, chúng cất cờ đi và chiến tiếp.

    "Tôi bị đạn súng máy vào háng. Tổng cộng có 4 lỗ đạn trên quần nhưng thực tế chỉ có 1 viên là gây thương tích. Nó xuyên thấu chân tôi. Tôi cứ nằm trên chiến trường cho đến khi có lính cứu thương lên băng bó.

    "Anh ta bảo tôi tự mình quay về trạm xá. Thế là tôi bò lổm ngổm về phía sau. Thoạt đầu tôi được đặt nằm trong hầm nhà cùng mấy thương binh khác cùng đại đội và cứ bị pháo kích suốt. Hôm sau tôi được chuyển về trạm xá tiểu đoàn, rồi về trạm quân y trung đoàn và sau rốt được đưa đến bệnh viện ở Liége, Bỉ." Anh chỉ trở về đơn vị khi chiến tranh gần kết thúc.

    Không hài lòng vì thất bại ở Kesternich, tướng Hodges trì triếtmãi về sự rối loạn và công tác quân báo kém cỏi. Ông ta mắng Gerow và nhắc ông này nhớ lại thảm cảnh của sư đoàn 28. Tình thế nguy hiểm của tiểu đoàn 2, trung đoàn 309 khiến đã buộc tướng Parker phải lệnh cho tiểu đoàn 2, trung đoàn 310, dưới quyền trung tá Byron W. Ladd, từ phía đông đánh đến Kesternich. Rủi thay, quân của Ladd chẳng biết tí gì về khả năng phòng thủ và ổ súng máy bố trí trong 1 boong ke ngụy trang kín đáo đã đánh tan tác đám lính khờ khạo kia. Quân Mỹ tản ra thì lại trúng vào bãi mìn dày đặc và cứ nằm đó chịu đựng hỏa lực pháo binh và súng máy. Mức thương vong mà lực lượng của Ladd phải chịu là 25% và cũng chẳng có mũi đột kích nào có thể thực hiện để chi viện cho lính trung đoàn 309. Quân số còn tác chiến được của đại đội E giảm xuống chỉ còn chừng 40 người, xe tăng vẫn ko thể tham chiến vì bọn họ còn bận cãi nhau xem nên đi trước hay đi sau số xe ủi dọn đường.
  9. ngthi96

    ngthi96 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    10/07/2008
    Bài viết:
    1.650
    Đã được thích:
    9.272
    Hạ sĩ Clete Henriksen, chỉ huy phó khẩu đội cối 81 ly của đại đội H, trung đoàn 310, tham chiến ngày 13/12 đã kể lại thời khắc đơn vị mình tiến lên rơi vào 'cơn giông bão'. "Bầu trời u ám còn thời tiết thì tương đối lạnh. Đúng là 1 ngày điển hình của tháng 12. Có tuyết trên mặt đất. Dù hôm đó trời khá lạnh, nhưng vẫn thích hợp để hành quân đường trường. Càng đi người sẽ càng ấm lên, nhất là khi mang vác nặng như bọn tôi. Tất cả đều hành quân rất trật tự, lặng lẽ. Trên bảo đội hình phải dãn cách mỗi người vài mét do vậy mà muốn kháo chuyện với những người đi trước hay sau cũng khó mà nói được. Nói chuyện với cậu lính đi bên kia đường còn dễ dàng hơn.

    "Tôi bắt đầu cảm nhận mình sắp ra tới tiền duyên khi thấy xa xa chỗ đường chân trời có khói bốc cao. Ngoài ra còn có thể nghe thấy tiếng ùng ục chắc là của pháo hay súng bắn. Thoạt đầu tiếng nổ chỉ vừa đủ nghe và rất là rời rạc. Cuộc hành quân mất thêm nhiều thời gian do phải đi vòng vèo trên đường đồi qua vùng thôn dã với nét đẹp rất tự nhiên. Tuy nhiên chẳng ai còn tâm trạng gì để mà thưởng ngoạn."

    Đã thấy những dấu tích ghê rợn của chiến tranh; những thân cây rách nát, gãy đổ; những mẩu kim loại và gỗ tung tóe. Những mảnh trang bị, khí tài bị phá hủy - như cảnh chiếc xe jeep bị lật úp hoặc cái mũ sắt nằm trên bờ đất - đã phá hỏng hoàn toàn cảnh đẹp yên bình vùng thôn quê. Mùi xác ngựa chết cùng tiếng người rên la đau đớn phát ra từ cánh đồng gần đó khiến cho ai cũng cảm thấy rất lo lắng.

    Đoàn quân tiến tới 1 bãi Răng rồng dẫn vào thị trấn Simmerath. Tại đây, các binh sĩ được nếm mùi pháo kích lần đầu tiên: "Trung đội tôi đang tiến đến 1 nơi giống như là trung tâm thị trấn. Vừa mới đi vòng qua góc nhà thì, chúa ơi! có 2 xác lính Đức nằm cách đó chưa đầy 1m.

    "Bình minh ngày 14/12 vừa ló dạng, chúng tôi đã sẵn sàng, có lệnh là khai hỏa ngay nhưng người ta lại bảo khoan bắn. Sau này mới biết các tiền sát viên bất tài, thiếu kinh nghiệm đã ko thể nào xác định được vị trí quân địch cũng như sợ bắn lầm phải quân nhà. Chúng tôi được cho biết các đại đội bộ binh đang xông lên tấn công 1 hệ thống cứ điểm kiên cố gọi là Kesternich. Đạn pháo 88mm lại rót xuống thị trấn. Có tin đồn nói Simmerat vẫn còn lính bắn tỉa Đức dù thị trấn cơ bản đã được quân Mỹ kiểm soát.

    "Lính trung đội cối sốt ruột đi lang thang khắp Simmerath. Cứ chốc chốc họ lại dùng súng trường bắn lên cửa sổ tầng cao của những ngôi nhà đổ nát để phòng hờ lính bắn tỉa. Khi họ đang nhấm nháp đồ hộp thì có lệnh củng cố vị trí phòng trường hợp địch phản kích. "Cuối buổi chiều, chúng tôi bị sốc khi nghe tin trung sĩ Raymond Kaster, người tiểu đội trưởng giỏi giang của mình, đã bị 1 tên địch bắn chết. Trung sĩ Kaster đã quá tin tưởng là tên lính Đức kia sẽ ra hàng vậy mà hắn đã sát hại người đồng đội dũng cảm ấy của chúng tôi." Chính vì việc này là mà Henriksen phải lên chỉ huy tiểu đội.

    Sáng sớm ngày 15/12, Kesternich bị tấn công bởi 1 đòn phối hợp giữa xe tăng, pháo binh và bộ binh kết hợp với lực lượng của các tiểu đoàn 2 thuộc cả 2 trung đoàn. Sau hồi giao tranh ác liệt, 1 số xe tăng và bộ binh đã lọt vào thị trấn và bị cuốn vào 1 trận đánh đẫm máu, tàn khốc, giành giật từng ngôi nhà một. Rủi thay,công tác chỉ huy lại rất tồi. Nhiều binh sĩ rất cần để chống địch phản kích lại phải giải tù binh về tuyến sau. Số lính khác vào ẩn nấp trong những căn nhà đổ, nơi mà các trung đội trưởng, tiểu đội trưởng chẳng tài nào liên lạc được với họ.

    Henriksen kể: "Chúng tôi được lệnh khai hỏa chi viện theo kịch bản đã chuẩn bị từ trước. Do trận đánh rất hỗn loạn, chẳng ai báo cho chúng tôi biết liệu tiến độ có đúng hay chậm so với kế hoạch hay ko? Lệnh bảo khai hỏa và chúng tôi cứ thế mà thi hành dù rất mù mờ về tình hình thực tế. Dù vậy khi thấy lệnh nói bắn chặn ở cự ly 700 thước rồi sau đó lại thấy bảo là 600, thì có thể đoan chắc là đối phương đang xông đến và tình hình hiện rất gay go.

    "Cối vừa mới khai hỏa được 1 lát thì địch ở Simmerath phản ứng. Chúng tôi bắt đầu bị pháo kích; đạn rơi xuống rất gần vị trí. Hôm đó 1 quả pháo 88 ly đã rơi trúng 1 ụ cối của đơn vị tôi, giết chết ngay binh nhì Dorn và làm 1 thành viên khác của khẩu đội bị thương nặng. Nhiều quả pháo khác rơi xuống sát công sự của chúng tôi. 1 quả rơi gần đến độ làm nóc hầm của chúng tôi bị tốc. Tin từ tuyến đầu cho biết đang có giao tranh rất ác liệt và 2 khẩu đội đại liên của trung đội hỏa lực, đại đội H đều đã bị thương vong hết. Tin tức thật là buồn."

    Các tiểu đoàn trưởng Lutz và Ladd , được giao việc tổ chức cố thủ. Số quân đã vào Kesternich được lệnh phải bám trụ 'bằng mọi giá'. Tới chiều thì địch gia tăng cường độ bắn phá. Đạn pháo của chúng đã phá hủy hệ thống đường dây điện thoại trong khi xe tăng ko thể lên chi viện được vì trời đã tối.

    Từ 1 cánh rừng cách thị trấn chừng 300m, rất đông quân địch thuộc sư đoàn 274 Volksgrenadier (Bộ binh xung kích) đang xông đến dưới sự yểm trợ của pháo tự hành. Đối phương lợi dụng bóng đêm ra phản kích khiến cho các tiền sát viên của sư đoàn 78 ko thể xác định mục tiêu cho pháo bắn. Chẳng ai nghĩ tới việc chuẩn bị trước phần tử cả thế nên trọng pháo đành phải bắn mò. Đại đội trưởng đại đội E, trung đoàn 310 báo cáo: quân Đức đông 'ko đếm xuể' có cả xe tăng hoặc pháo tự hành đi kèm.

    Anh lính Sol Lederman, thuộc đại đội F, trung đoàn 310 là 1 trong số những người nhảy khỏi hàng rào cây chạy qua cánh đồng tiến đánh Kesternich. "Mới tiến được chừng 100 thước, chúng tôi đã bị hỏa lực địch ghìm chặt. Bỗng, người lính ở cách tôi nửa mét bị dính đạn. Hỏi thì anh ta trả lời là bị đạn bắn trúng bụng. Tôi bảo anh bò về chỗ con đường đợi quân y tới cứu.
  10. ngthi96

    ngthi96 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    10/07/2008
    Bài viết:
    1.650
    Đã được thích:
    9.272
    "Tôi phát hiện đạn địch đều được bắn ra từ những cây rơm nằm bên tay phải cách đó chừng 50-60m. Tôi liền bắn vào 1 cây rơm, súng địch ngưng bặt. Sau khoảng thời gian dài tưởng chừng vô tận thì có lệnh tiếp tục tiến về phía mục tiêu. Chạy hết khu đồng trống thì vào tới Kesternich. Bọn địch ở đây đã chuồn sạch. Có lệnh đào công sự phòng thủ sườn núi nhìn về phía khu rừng. Tôi cùng trung sĩ Suskind, tiểu đội trưởng, bắt đầu đào hố chiến đấu. Thế rồi tôi bỗng thấy mắc tè, thế nhưng khi xong việc thì ngón tay tôi do lạnh quá đã tê cóng. Chẳng thể nào cài nổi quần lại. Mà cũng đâu cần phải cài kia chứ?

    "Lát sau, quân thù bắt đầu dùng pháo 88ly giã xuống vị trí bọn tôi. 1 quả đạn nổ tung chỉ cách hố của tôi khoảng 2m. Tôi cảm thấy mũ sắt của mình đã bị đẩy xuống vai. Thốt nhiên có cái gì ươn ướt, nóng hổi chảy xuống mặt, vai và chân mình. Đến lúc này tôi mới nhận ra là mình đã dính mảnh. Tuy nhiên tôi vẫn hoạt động được. Đến khi tiểu đội được lệnh vào chiếm lĩnh 1 hầm nhà để cố thủ thì trời đã sụp tối. Trong khi đó các tiểu đội khác tới đóng trong vị trí lúc trước của bọn tôi nhìn xuống khu rừng bên dưới.

    "Bọn tôi quét sạch hầm nhà rồi bố trí 1 người gác ở cửa ra vào để đề phòng quân địch. Thình lình cậu lính gác nói có bọn Đức đang tiến về phía ngôi nhà của bọn tôi. Tôi hỏi xem có chắc ko thì anh ta khẳng định và còn bảo là bọn chúng đều mặc áo khoác dài cả. Lệnh trên đã bắt chúng tôi phải cởi bỏ hết áo khoác dài do vậy nếu thấy ai mặc kiểu đồ trên thì phải giết ngay.

    "Bọn Đức bao vây ngôi nhà và ném lựu đạn xuống hầm. May mà tất cả bọn tôi đều lên khỏi cầu thang nên ko ai bị thương cả. Lúc này trời đã tối nên chúng chẳng thể đoán được trong nhà hiện có bao nhiêu người. Bọn tôi lập tức bố trí 1 người nữa bên kia cửa ra vào. Vậy là mỗi bên cửa có 1 người. Còn tôi thì ở sâu bên trong chừng 3m, mặt hướng ra ngoài.

    "Lính Đức bắt đầu hô: 'Kammen ze rause - Ra ngoài!'. 1 người lính tên Beldegay bắt đầu hoảng loạn bảo: 'Đừng đánh nữa, ra hàng đi! Tôi còn 1 vợ và 2 con nhỏ.' Nhưng lại có 1 rắc rối lớn là cậu lính Hirshmann, người thủ súng trung liên BAR, từ Đức nhập cư sang Mỹ năm 1939 lại là dân Do Thái. Bọn tôi rất lo cho tính mạng của cậu ấy. Đúng lúc đó có 2 thằng Đức xông vào bếp. Ngay khi chúng vừa nhảy vào thì tôi cùng người lính đứng cạnh cửa liền nổ súng, hạ sát cả 2. 1 tên khác nhảy vào từ hông nhà. Vừa thấy bóng hắn tôi liền xả súng. Chắc là trúng vì thấy hắn phục xuống ko cục cựa gì nữa.

    "Quân Đức tiếp tục gọi hàng. Vẫn có thể giết thêm nhiều tên nữa vì bọn tôi vẫn còn lựu đạn nhưng rồi Hirshmann lại bảo nên liều ra hàng thử xem sao. Giờ lại có vấn đề là ai sẽ bước quan xác 2 thằng Đức ra ngoài cửa bếp trước. Tôi bảo Beldegay đi đầu vì anh ta là người cứ nhất quyết muốn đầu hàng. Anh ta từ chối, bọn Đức rất bực hét lên bắt chúng tôi phải hàng ngay nhưng chẳng ai muốn là người đầu tiên bước qua xác địch ra ngoài cả.

    "Tôi đành quyết định mình sẽ ra đầu tiên. Việc này thật là đáng sợ. Tôi cầu nguyện xin cho chúng đừng giết mình. Tôi bỏ khẩu súng trường M1 lại căn bếp tối tăm, tay đặt sau đầu bước qua 2 xác lính Đức ra ngoài. Bọn Đức lập tức đẩy tôi dựa vào tường. Tôi nghĩ chắc là toi rồi nhưng thấy chúng cũng làm vậy với những người còn lại của tiểu đội. Bọn chúng lục soát lấy mất của tôi trái lựu đạn lân tinh. 1 tên bắt đầu cầm nó nghịch. Tôi cố gằng nói 1 thôi 1 hồi rằng hắn ta đừng có nghịch nữa vì nó có thể 'bùm'. Rốt cục hắn cũng hiểu được những điều tôi nói và thôi ko 'chơi' với nó nữa.

    "Sau đó lính Đức hành quân về phòng tuyến của mình. Đến 1 trạm cứ thương thì dừng lại. Bọn chúng bảo ai bị thương thì vào đó mà băng bó. Thế là tôi bước ra và được bọn chúng dẫn vào vào hầm. Bên trong tôi gặp 1 vị đại tá quân ta cùng mấy trung úy cùng trung đoàn. 1 lính cứu thương Đức xem xét các vết thương rồi rắc loại bột chắc là bột sulfa lên đó. Tay tôi bị lạnh cóng. Hắn ta kéo nó tới gần bếp lò. Thật là đau quá thể! Khi hắn ta hỏi thì tôi nhận đang cất mấy cuộn tất trong áo và thế là hắn lấy luôn 6 đôi. Rồi sau bọn chúng cho tôi đeo thẻ. Khi đó là 11g30 tối 15/12/1944."

    Khi đối phương xông đến thì vẫn còn khá nhiều lính Mỹ đóng dưới các hầm nhà. Họ đã trụ ở dưới đó suốt đêm nhưng rồi cũng phải đầu hàng trước sự áp đảo về hỏa lực của địch. Có 56 binh sĩ ra hàng, trong đó đa số là lính của đại đội F, trung đoàn 310.

    Phát điên lên vì nỗ lực tổ chức chi viện cho số quân bị vây hãm, tiểu đoàn trưởng liền tung đại đội G ra. John C. Wagner cùng đi với trung đội đại liên của đơn vị xấu số này kể lại: "Chúng tôi chỉ có khoảng 20 người kể cả trung tá Ladd, tiểu đoàn trưởng, cùng 4 sĩ quan nữa chốt trong căn nhà nhỏ chuẩn bị đánh lui bọn địch phản kích. Đầu tiên là mấy tay lính bên kia đường (thuộc đại đội E), sau khi bị dập tơi tả, chui ra lúc nghe tiếng thét 'Ra ngoài! Giơ tay lên!' của đám Krauts đang vênh váo. Rồi đến lượt chúng tôi bị vây kín. Thật là nhục vì chúng tôi đã dễ dàng đầu hàng ngay. Chẳng biết việc ko chịu tử chiến có phải là hành vi phản bội không chứ tôi lúc đó đã quá kiệt quệ. Tôi còn nhớ mình đã bảo tiểu đoàn trưởng là "làm thằng tù sống còn hơn là anh hùng chết.'

    "Thế là cả 100 người bọn tôi bị gom lại, lục soát và cho uống nước. Trong khi khám xét, bọn chúng chẳng lấy của tôi thứ gì ngoài mấy viên đạn và 1 lon đồ hộp. Tôi đã ném khẩu súng lục 45 vào góc phòng trước khi ra ngoài. Tôi nhìn khắp các đồng đội, hỏi thăm tình trạng các thương binh rồi lôi hết thuốc ra hút liền vì sợ sẽ bị bọn gác tịch thu mất. 2 thanh sô cô la cũng ra đi nhanh chóng tương tự như vậy."
    DepTraiDeu, caonam_vOzfilber70 thích bài này.

Chia sẻ trang này