1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

THAM KHẢO | Tin tức, Lý luận, Phê bình Văn học nghệ thuật (NEW !!!mục lục trang 1)

Chủ đề trong 'Thi ca' bởi kienn79, 16/02/2004.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. auduongyhue

    auduongyhue Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    29/12/2009
    Bài viết:
    219
    Đã được thích:
    0
    thêm một số thông tin (sưu tầm) cho những người ai muốn hiểu thơ Xuân Diệu



    Xuân Diệu và Huy Cận
    Cặp tình nhân thời chiến​


    [​IMG]

    Huy Cận (trái) và Xuân Diệu


    Xuân Diệu là một nhà thơ lớn. Nhiều người đã viết về ông và nhiều nhất là về thơ tình của ông. Nhưng trong thơ tình của Xuân Diệu, những đối tượng nào được ông yêu thì hình như chưa có ai bàn đến. Trong khi, đó lại chính là điểm hứa hẹn nhiều chuyện thú vị.

    Chúng ta nên biết là suốt đời Xuân Diệu không có vợ, không có con. Ông sống độc thân cho đến lúc mất, vào năm 1985, lúc 69 tuổi. Trong bài 'Khung cửa sổ', Xuân Diệu tả cuộc sống của mình như sau:

    Anh có nhà, có cửa
    Nhưng không vợ, không con
    Sợ cái bếp không lửa
    Sợ cái cửa không đèn.

    Những đêm đi xa về
    Tận xa nhìn cửa đóng
    Không ánh sáng đón mình
    Chẳng có ai trông ngóng.


    Cảm giác ngậm ngùi mỗi lần nói đến chuyện tình yêu đã xuất hiện trong thơ Xuân Diệu ngay trước năm 1945, lúc Xuân Diệu còn là một thanh niên. Lúc đó, khi nhìn những người đẹp, ông đã chua chát tự nhủ thầm:

    Ta thấy em xinh khẽ lắc đầu
    Bởi vì ta có được em đâu.
    Cũng có khi ông trách móc:
    Lòng ta là một cơn mưa lũ
    Đã gặp lòng em là lá khoai.
    Mưa biếc tha hồ tuôn giọt ngọc
    Lá khoai không ướt đến da ngoài.


    Những cảm giác như vậy xuất hiện nhiều lần trong thơ Xuân Diệu. Có thể nói là mặc dù rất đa tình, Xuân Diệu ít khi được thoả mãn. Lý do chính của tình trạng này có thể làm nhiều người kinh ngạc: Xuân Diệu là một người đồng tính luyến ái.

    Ở Hà Nội, trong giới quen biết với Xuân Diệu, hình như đã có nhiều người biết chuyện này. Tuy nhiên, ít ai dám công khai nói ra, có lẽ vì sợ cái uy thế của Xuân Diệu và của Huy Cận. Người đầu tiên dám đề cập đến chuyện này một cách công khai chính là Tô Hoài trong cuốn Cát bụi chân ai xuất bản năm 1993 tại Hà Nội. Tô Hoài kể, trước năm 1945, ông được gặp Xuân Diệu vài lần, lần nào cũng diễn ra cái cảnh:

    Xuân Diệu và Huy Cận lên Nghĩa Đô, ở chơi cả buổi và ăn cơm. Dịu dàng, âu yếm, Xuân Diệu cầm cổ tay tôi, nắm chặt rồi vuốt lên vuốt xuống. Bốn mắt nhìn nhau đắm đuối. Xuân Diệu gắp thức ăn cho tôi. Cử chỉ thân thiết quá, hơi lạ với tôi, nhưng mà tôi cảm động. Tôi sướng mắt nhìn tập thơ Thơ thơ khổ rộng nhà in Trung Bắc phố Hàng Buồm. Hai chữ Xuân Diệu nét chì sắc gọn, không phải chữ gỗ dẹp đét.

    Thỉnh thoảng, Xuân Diệu lại lên nhà tôi. Vẫn nắm tay cả buổi, nhìn tha thiết. Xuân Diệu yêu tôi. (tr. 168-69)

    Cũng trong cuốn hồi ký này, Tô Hoài kể là trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, lúc ở căn cứ Việt Bắc, hằng đêm Xuân Diệu hay sang giường các bạn trai của ông để tỏ tình, âu yếm. Các bạn trai của ông rất sợ, vì vậy cứ đêm đến là họ...đi tị nạn sang các nhà khác, không ai dám ở chung với Xuân Diệu:

    Mọi công việc cơ quan lặng lẽ, nhưng cứ tối đến thì nháo lên, nháo lên một cách âm thầm. Các chàng trai trẻ vào ngủ lang trong xóm. Thằng Đại trắng trẻo, mũm mĩm thì biến là phải. Nhưng cả thằng Nghiêm Bình cao to hiên ngang thế, tối cũng lẳng lặng vác cái ghi ta đi. Bốn bên lặng lẽ như tờ. (tr. 171)

    Mặc dù Tô Hoài đã được Xuân Diệu vuốt tay và nhìn đắm đuối trước năm 1945 như ông đã kể, nhưng hình như ông cũng chưa hiểu hết mức độ nghiêm trọng của vấn đề. Cho nên đêm đầu tiên ghé lại khu văn nghệ sĩ ở căn cứ địa Việt Bắc, ông đã an nhiên ngủ lại trong căn nhà này chung với Xuân Diệu. Nửa đêm, lúc ông đang ngủ mê, thì:

    Bàn tay ma ở đâu sờ vào. Không phải. Tay người, bàn tay người đầy đặn, ấm ấm. Hai bàn tay mềm mại xoa lên mặt lên cổ rồi xuống dần xuống dần [...].
    Trời rạng sáng. Xuân Diệu trở về màn mình lúc nào không biết. Tôi he hé mắt nhớ lại những hứng thú khủng khiếp. Những cảm giác nồng nàn kích thích trong bóng tối đã trơ ra khi sáng bạch. Tôi chạy xuống cánh đồng giữa mưa. (tr. 170)

    Cuối cùng, khi chuyện vỡ lỡ, tổ chức đem Xuân Diệu ra kiểm thảo. Tô Hoài viết tiếp:

    Cuộc kiểm điểm Xuân Diệu kéo dài hai tối. Hồi ấy chưa biết phương pháp chỉnh huấn, nhưng hàng ngày chúng tôi làm việc giờ giấc nghiêm ngặt, mỗi tổ buổi chiều trước giờ tăng gia lại hội ý rút kinh nghiệm, hướng sửa chữa và công việc ngày mai của từng người. Cả cơ quan họp đến khuya. Chỉ có ông Phan Khôi lên buồng vẫn mắc màn sẵn đi ngủ từ chặp tối, bỏ ngoài tai mọi việc.

    Xuân Diệu chỉ ngồi khóc, chẳng biết Nam Cao, Nguyễn Huy Tưởng, Trọng Hứa, Nguyễn Văn Mãi, cả lão Hiến, thằng Nghiêm Bình, thằng Đại và mấy thằng nữa, có ai ngủ với Xuân Diệu không, nhưng cũng không ai nói ra. Tôi cũng câm như hến. Lúc rồ lên, trong đêm tối quyến rũ, mình cũng điên kia mà. Không nói cụ thể việc ấy, nhưng ai cũng to tiếng gay gắt “tư tưởng tư sản, phải chừa đi.” Xuân Diệu nức nở “tình trai của tôi... tình trai” rồi nghẹn lời, nước mắt lại ứa ra.

    Ít lâu sau, trong một cuộc họp ban chấp hành, Xuân Diệu bị đưa ra khỏi ban thường vụ. Và cũng thành một cái nếp kéo dài, từ đấy không ai nhắc nhở đến những việc chủ chốt trước kia Xuân Diệu đã phụ trách. Bỗng dưng, Xuân Diệu thành một người hiếm thì giờ chỉ chuyên đi viết. Mà Xuân Diệu cũng tự xa lánh mọi công tác. (tr. 171-2)

    Đó là chuyện ngoài đời. Chuyện này tuy có thể thoả mãn óc tò mò của chúng ta, tuy nhiên nó lại không đáng bàn và cũng không nên bàn nhiều. Dù sao nó cũng là chuyện riêng tư và chúng ta có bổn phận phải tôn trọng chuyện riêng tư đó. Điều đáng nói hơn là chúng ta thử tìm những biểu hiện đồng tính luyến ái trong thơ của Xuân Diệu.

    Trong đoạn hồi ký trên, Tô Hoài có nhắc đến chi tiết: Xuân Diệu nức nở nói về 'tình trai' của mình. Tình trai là tình giữa hai người con trai với nhau. Chữ 'tình trai' gợi cho chúng ta nhớ, trong tập Thơ thơ, tác phẩm đầu tay xuất bản năm 1938 của Xuân Diệu, có một bài thơ nhan đề là ‘Tình trai’ như sau:

    Tôi nhớ Rimbaud với Verlaine
    Hai chàng thi sĩ choáng hơi men
    Say thơ xa lạ, mê tình bạn
    Khinh rẻ khuôn mòn, bỏ lối quen.
    ...
    Kể chi chuyện trước với ngày sau
    Quên ngó môi son với áo màu
    Thây kệ thiên đường và địa ngục
    Không hề mặc cả, họ yêu nhau.


    Bài thơ viết về chuyện hai nhà thơ Rimbaud và Verlaine của Pháp nhưng qua đó ngụ ý của Xuân Diệu là nói đến chuyện của mình. Yêu bạn trai, ông quên cả chuyện “ngó môi son với áo màu”, tức là phụ nữ. Mối tình trai này tha thiết đến độ “Thây kệ thiên đường và địa ngục / Không hề mặc cả, họ yêu nhau.”

    Cũng trước năm 45, Xuân Diệu có bài thơ nhan đề là ‘Tặng bạn bây giờ’:

    Ta biết ngày mai em có vợ
    Đi làm hai bữa, tối về thăm
    Cơm xong, chén nước chờ bên cạnh;
    Em bế thằng con được mấy năm.

    Chỉ mấy năm thôi, đủ phận chồng
    Chàng trai tơ mởn đã thành ông
    Không còn mộng dễ ngày tươi trẻ
    Mắt sáng phai rồi, má hóp không.

    Em ngồi trông vợ thấy nàng tiên
    Là một người thôi, mộng hão huyền
    Ta bước bên đường kêu gọi mãi
    Nhớ người bạn cũ thuở anh niên.

    Em nghe tê tái dưới hàng mi
    Tiếc thuở say nồng, nhớ bạn si
    Khép mắt buồn xa, em sẽ bảo:
    - Có chàng Xuân Diệu thuở xưa kia...



    Từ trước đến nay, đọc bài thơ trên, ít ai chú ý đó là bài thơ tả mối tình của một người đồng tính luyến ái. Người được tác giả gọi bằng em một cách tha thiết lại là một người con trai. Nhà thơ yêu người con trai đó và ghen tức trước viễn tượng là một ngày kia người con trai sẽ lấy vợ “Ta biết ngày mai em có vợ.”

    Sau này, có thời gian Xuân Diệu sống hẳn với một thanh niên tên là Hoàng Cát. Ông làm bài ‘Đời anh em đã đi qua’ tả lại quãng đời hạnh phúc này:

    Đời anh em đã đi qua
    Sáng thơm như một luồng hoa giữa đời
    Hiểu làm sao hết, em ơi
    Bốn năm kỳ diệu đất trời nhờ em
    Ngôi nhà, cánh cổng, trái tim
    Khóm cây, con mắt ngày đêm đón mừng.

    Em đi, anh ngóng trông chừng
    Anh về, miệng đã gọi lừng: em ơi !
    Bữa ăn thành một hội vui
    Có em gắp với, rau thôi cũng tình
    Cảnh thường cũng hoá ra xinh
    Có em, anh hết nghĩ mình bơ vơ ...



    Khi Hoàng Cát đi bộ đội rồi phải rời Hà Nội vào chiến trường miền Nam, Xuân Diệu làm bài thơ đưa tiễn đầy nước mắt nhan đề là ‘Em đi’ với lời đề “Tặng Hoàng Cát” như sau:

    Em đi, để tấm lòng son mãi
    Như ánh đèn chong, như ngôi sao.
    Em đi, một tấm lòng lưu lại
    Anh nhớ thương em, lệ muốn trào.

    Ôi Cát! Hôm vừa tiễn ở ga
    Chưa chi ta đã phải chia xa !
    Nụ cười em nở, tay em vẫy
    Ôi mặt em thương như đoá hoa.

    Em hỡi! Đường kia vướng những gì
    Mà anh mang nặng bước em đi
    Em ơi, anh thấy như anh đứng
    Ôm mãi chân em chẳng chịu lìa.

    Nhưng bóng em đi khuất rồi,
    Đứa lìa khúc ruột của anh thôi!
    Tình ta như mối dây muôn dặm
    Buộc mãi đôi chân, dẫu cách vời.

    Em hẹn sau đây sẽ trở về
    Sống cùng anh lại những say mê
    Aùo chăn em gửi cho anh giữ
    Xin gửi cùng em cả hẹn thề!

    Một tấm lòng em sâu biết bao
    Để anh thương mãi, biết làm sao!
    Em đi xa cách, em ơi Cát
    Em chớ buồn, nghe! Anh nhớ, yêu...

    (Đêm 11/7/1965, 23 giờ 30)



    Hoàng Cát đi rồi, Xuân Diệu buồn vô cùng. Trong bài ‘Đời anh em đã đi qua’, còn có một đoạn cuối nói đến nỗi buồn trống vắng người yêu của Xuân Diệu:

    Từ đây anh lại trong đời
    Bữa ăn ngồi với một đôi đũa cầm
    Giường kia một bóng anh nằm
    Phòng văn một sách đăm đăm sớm chiều.


    Xin nhắc lại là Hoàng Cát, người được Xuân Diệu gọi là 'em', em Cát,người em có khuôn mặt như đoá hoa, là một người con trai. Và chúng ta thấy, dù người yêu là con trai thì tình cảm của Xuân Diệu vẫn dạt dào và nồng cháy. Nếu chúng ta đừng để ý đến chuyện đồng tính luyến ái của nhà thơ thì đây là một bài thơ tình rất mực đằm thắm. Nó góp một tiếng nói tương đối đẹp vào kho tàng thơ tình vô cùng giàu có của Xuân Diệu.

    Một vấn đề khác cũng rất quan trọng là: ai cũng biết người bạn thân nhất của Xuân Diệu là Huy Cận. Chúng ta không thể không thắc mắc: nếu Xuân Diệu là người đồng tính luyến ái, vậy thì Huy Cận là người như thế nào?

    Chúng ta nên biết là Huy Cận có hai đời vợ, mà người vợ trước không ai khác hơn là chính em gái ruột của Xuân Diệu. Tuy nhiên, cái chuyện Huy Cận có vợ, một hay hai đời vợ cũng vậy, không có ảnh hưởng gì đến cái kết luận có thể có: ông cũng là một người đồng tính luyến ái, hoặc ít nhất là lưỡng tính luyến ái (bi***ual).

    Một điều nữa chúng ta cũng cần biết là suốt đời, lúc nào Xuân Diệu và Huy Cận cũng ở bên nhau, như hình với bóng. Từ giữa thập niên 30, họ đã chơi thân với nhau, khi cả hai còn là học sinh trung học. Lúc nào họ cũng cặp kè bên nhau. Trừ khoảng thời gian Xuân Diệu phải đi làm việc ở Mỹ Thọ, họ sống chung với nhau một nhà. Có thời gian, từ năm 1939 đến 1940, Xuân Diệu và Huy Cận sống tại số 40 phố Hàng Than, Hà Nội. Hai người sống trên gác, phía dưới là vợ chồng nhà thơ Lưu Trọng Lư. Rồi đến thời kháng chiến chống Pháp, họ cũng quanh quẩn với nhau ở chiến khu Việt Bắc. Sau năm 1954, họ sống với nhau trong căn nhà ở số 24 Cột Cờ, sau đó đổi thành đường Điện Biên Phủ ở Hà Nội. Huy Cận và vợ con ở trên gác, Xuân Diệu sống phía dưới. Trong một bài thơ, Huy Cận tả:

    Đêm đêm trên gác chong đèn
    Cận ngồi cặm cụi viết dòng thơ bay
    Dưới nhà bút chẳng ngừng tay
    Bên bàn Diệu cũng miệt mài trang thơ
    Bạn từ lúc tuổi còn thơ
    Hai ta hạt chín chung mùa nắng trong
    Ánh đèn trên gác, dưới phòng
    Cũng là đôi kén nằm trong kén trời
    Sáng ra gõ cửa: “Diệu ơi,
    Nghe dùm thơ viết đêm rồi xem sao”.
    Diệu còn ngái ngủ: “Đọc mau!
    Nghe rồi, xem lại từng câu mới tường”.
    Dưới nhà trên gác thông thương
    Dòng thơ không dứt giữa luồng tháng năm...



    Trong bài thơ, Huy Cận dùng chữ ‘hai ta’, ‘Hai ta hạt chín chung mùa nắng trong’. Người Việt Nam không ai dùng chữ ‘hai ta’ hay ‘đôi ta’ để chỉ hai người bạn cùng phái. Cách xưng hô như vậy rất lạ. Trong bài ‘Nửa thế kỷ tình bạn’ in trong tập Xuân Diệu, con người và tác phẩm xuất bản tại Hà Nội năm 1987, Huy Cận kể tỉ mỉ hơn về mối quan hệ giữa ‘hai ta’ đó như sau:

    Tựu trường năm 1936, chúng tôi gặp nhau lần đầu tiên ở trường tú tài Khải Định, Huế. Anh Diệu học năm thứ ba, tôi vào học năm thứ nhất. Hai đứa đọc thơ cho nhau nghe, và ‘đồng thanh tương ứng’, kết bạn với nhau gần như tức khắc... Tựu trường 1937, anh Diệu ra Hà Nội học trường Luật và viết báo Ngày nay, tôi học năm thứ hai ban tú tài... Anh Diệu và tôi viết thư cho nhau hàng tuần... Năm 1938, tôi ra sống với Diệu ở chân đê Yên Phụ. Ở đó Diệu viết ‘Truyện cái giường’, một số bài thơ, còn tôi thì viết ‘Buồn đêm mưa’, ‘Trông lên’, ‘Đi giữa đường thơm’ và mấy bài khác... Tựu trường năm 1939,... hai chúng tôi cùng sống ở gác 40 phố Hàng Than, Hà Nội... Cuối năm 1940, Diệu đi làm tham tá thương chánh ở Mỹ Tho... Chúng tôi tạm sống xa nhau, buồn đứt ruột, hàng tuần viết thư cho nhau, có tuần hai, ba lá thư... Hè 1942, tôi đậu kỹ sư canh nông và cuối năm bắt đầu đi làm ở Sở nghiên cứu tầm tang. Diệu điện hỏi tôi: ‘Diệu từ chức được chưa?’, tôi điện trả lời: ‘Từ chức ngay! Về ngay Hà Nội!’. Chúng tôi sống trên gác Hàng Bông (số nhà 61), tiếp tục làm thơ.

    Xuân Diệu và Huy Cận sống với nhau, gắn bó với nhau đến nỗi nhà xuất bản họ lập ra hồi đó cũng mang tên là Huy-Xuân, tức là ghép hai chữ đầu của tên hai người lại với nhau, như tên của một tình nhân hay một cặp vợ chồng trẻ. Rồi trong bài ‘Mai sau’, Huy Cận lại giới thiệu Xuân Diệu như người bạn thân thiết, hay đúng hơn, như một tình nhân thân thiết của mình:

    Người ta bảo bà mẹ chàng hay khóc
    Chia gia tài cho con quí: lệ đau
    Chàng là con một bà mẹ hay sầu
    Nên trọn kiếp mắt chàng thường đẫm lệ
    [...]
    Chiều nay đây nửa thế kỷ hai mươi
    Viết dăm câu tôi gửi lại vài người
    Những thế hệ mai sau, làm bè bạn
    Hỡi ai đó, có nhớ lòng Huy Cận
    Gọi gió trăng mà thỏ thẻ lời trên
    Rất thương yêu, xin nhớ gọi giùm tên
    Rất an ủi của bạn chàng: Xuân Diệu.


    Bài thơ trên đã công khai bày tỏ tình cảm của Huy Cận đối với Xuân Diệu. Ngoài ra, bài ‘Vạn lý tình’ rất nổi tiếng của Huy Cận cũng hé lộ một số chi tiết rất đáng chú ý:

    Người ở bên này, ta ở đây
    Chờ mong phương nọ, ngóng phương này
    Tương tư đôi chốn, tình ngàn dặm
    Vạn lý sầu lên núi tiếp mây
    Nắng đã xế về bên xứ bạn
    Chiều mưa trên bãi, nước sông đầy
    Trông vời bốn phía không nguôi nhớ
    Dơi động hoàng hôn thấp thoáng bay
    Cơn gió hiu hiu buồn tiễn biệt
    Xa nhau chỉ biết nhớ vơi ngày
    Chiếu chăn không ấm người nằm một
    Thương bạn chiều ôm, sầu gối tay.


    Chi tiết đáng chú ý nhất chính là chữ ‘bạn’ được lặp lại hai lần trong bài thơ, trong câu ‘Nắng đã xế về bên xứ bạn’ và câu ‘Thương bạn chiều hôm, sầu gối tay’. ‘Bạn’ chứ không phải là người yêu. Chúng ta nhớ lại sự kiện khi Xuân Diệu phải đi làm việc ở Mỹ Tho, Huy Cận sống ở Hà Nội, và lời kể của Huy Cận: "Hai đứa phải sống xa nhau, buồn đứt ruột." Một chi tiết khác quan trọng không kém, đó là câu 'Chiếu chăn không ấm người nằm một'. Lúc này Huy Cận còn là học trò, chưa lập gia đình, chưa có vợ con. Người nằm chung chăn, chung chiếu với ông không phải là vợ ông, mà chính là người bạn trai của ông. Điều này sẽ rõ hơn, thuyết phục hơn, khi chúng ta đọc thêm bài ‘Ngủ chung’ cũng của Huy Cận, in trong tập Lửa Thiêng, xuất bản năm 1940:

    Ôi rét đêm nay mấy học trò
    Ngủ chung giường hẹp, trốn bơ vơ
    Cô hồn vạn thuở buồn đơn chiếc
    Có lẽ đêm nay cũng ngủ nhờ.
    Lạnh lùng biết mấy tấm thân xương!
    Ân ái xưa kia kiếp ngủ giường.
    Đâu nữa tay choàng làm gối ấm,
    Còn đâu đôi lứa chuyện canh sương
    Trốn tránh bơ vơ, chạy ngủ lang,
    Hồn ơi! có nhớ giấc trần gian
    Nệm là hơi thở, da: chăn ấm,
    Xương cọ vào xương bớt nỗi hàn?


    Bài thơ tả cảnh ngủ chung của học trò cùng phái tính, giữa những người bạn trai với nhau. Ở Việt Nam, đó là chuyện bình thường. Nhưng chúng ta hãy để ý kỹ: cả ngôn ngữ lẫn cảm xúc trong bài thơ này lại thấp thoáng những dấu hiệu không bình thường, chẳng hạn như chuyện ‘ân ái’: 'Ân ái xưa kia kiếp ngủ giường'; rồi ‘đôi lứa’: 'Còn đâu đôi lứa chuyện canh sương', Rồi chuyện ‘nệm là hơi thở’, ‘da là chăn ấm’, rồi chuyện ‘xương cọ vào xương’, v.v... Đọc kỹ bài thơ, chúng ta thấy ngay tính chất không bình thường của nó. Có lẽ, cùng với bài ‘Tình trai’ và bài ‘Em đi’ của Xuân Diệu, bài ‘Ngủ chung’ này của Huy Cận là những bài thơ tiêu biểu nhất cho chuyện đồng tính luyến ái trong thơ Việt Nam.
  2. auduongyhue

    auduongyhue Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    29/12/2009
    Bài viết:
    219
    Đã được thích:
    0
    Còn đây là một số đoạn trích từ “Hồi ký song đôi” của Huy Cận. Trong tập hồi ký này, Huy Cận viết về tuổi thơ của mình và Xuân Diệu. Đặc biệt ở phần phụ lục, ông nói rất tỉ mỉ về cuộc sống của hai người khi ở cạnh nhau.

    ===

    Tựu trường năm 1937 anh Diệu ra Hà Nội học trường Luật và viết báo “Ngày nay”, tôi học năm thứ hai ban tú tài, làm gia sư ở một nhà bác sĩ. Anh Diệu và tôi viết thư cho nhau hàng tuần và tôi gửi cho Diệu những bài thơ tôi vừa làm xong.

    Tết năm Dần 1938, bài “Chiều xưa” của tôi được đăng cùng trong một khung với bài “Cảm xúc” của Xuân Diệu trên báo “Ngày nay”. Tết đó tôi từ Huế ra chơi với Diệu ở Hà Nội, lần đầu tiên tôi làm quen với đất nghìn năm văn vật, và lúc trở về Huế mang theo một cành đào. Hè 1938, tôi ra sống với Diệu ở chân đê Yên Phụ. Ở đó Diệu viết truyện “Cái giường”, một số bài thơ, còn tôi thì viết “Buồn đêm mưa”, “Trông lên”, “Đi giữa đuờng thơm” và mấy bài khác. Hè 1939, Diệu viết bài giới thiệu thơ Huy Cận: sau một năm, tôi đã có thơ đăng đều trên báo “Ngày nay”. Tựu trường năm 1939, sau khi đậu tú tài toàn phần, tôi dạy tư hai tháng ở Vinh và tháng 10 ra Hà Nội học Trường Cao đẳng Nông Lâm. Diệu tiếp tục học Luật và dạy văn ở trường Thăng Long. Hai chúng tôi cùng sống ở căn gác nhà số 40 phố Hàng Than, ở tầng dưới là anh Lưu Trọng Lư. Chúng tôi dành dụm tiền học bổng và tiền lương dạy học để tái bản tập “Thơ thơ” và cho in dòng chữ “Huy-Xuân xuất bản” lên sách.

    Đầu năm 1940, Diệu đi làm tham tá thương chánh ở Mỹ Tho, vì kế sinh nhai,cũng như tôi học cao đẳng Nông Lâm là cốt có nghề tay trái. Chúng tôi tạm sống xa nhau, buồn đứt ruột, hàng tuần viết thư cho nhau, có tuần hai, ba lá thư. Từ cuối năm 1941, tôi đã tham gia hoạt động cho *********, nhưng chưa có dịp cho Diệu biết. Diệu thì chờ tôi đậu kĩ sư là “cuốn gói” trở về Hà Nội. Hè 1942, tôi đậu kĩ sư canh nông và cuối năm bắt đầu đi làm ở Sở Nghiên cứu Tầm tang. Diệu điện hỏi tôi: “Diệu từ chức được chưa?”, tôi điện trả lời: “Từ chức ngay! Về ngay Hà Nội!”. Chúng tôi sống trên gác phố Hàng Bông (số nhà 61), tiếp tục làm thơ, làm “Nhà xuất bản Huy-Xuân”.

    […]

    Cuối năm 1944, Diệu về thăm quê ở Can Lộc (Hà Tĩnh), về thăm gia đình tôi ở xã An Phú, anh rất bí mật nói với mẹ tôi: “Anh Cận hoạt động cách mạng rồi bà ạ. Nếu cách mạng thành công thì không nói làm gì, nếu có điều gì chẳng may, thì con sẽ thay anh Cận cùng bà lo việc gia đình.”. Mẹ tôi ứa nước mắt và anh Diệu đã giúp mẹ tôi một số tiền để trả nợ.

    […]

    Cuộc sống và thơ đã cho tôi người bạn đời thân thiết nhất, cho tôi tâm hồn tri kỷ, tấm lòng tri âm nơi Xuân Diệu. Chúng tôi sống giữa đời như anh em sinh đôi, nhưng bản lĩnh và phong cách văn chương thì rất khác nhau, khác nhau mà bổ sung cho nhau thành một “quả đôi”. Anh Diệu ra đi chưa kịp viết hồi kí, chỉ để lại cái tên “Tôi cảm tạ cuộc đời” cho tập kỷ niệm đang chuẩn bị viết. Xuân mất đi, còn lạy Huy. Tôi đang viết hồi ký chung cho tất cả hai người với nhan đề là “Hồi ký song đôi”. Anh Tịnh Hà (em ruột Xuân Diệu), các anh Chế Lan Viên, Nguyễn Xuân Sanh, Tế Hanh và nhiều bạn thân khác của chúng tôi giúp tôi viết đầy đủ về đời và đời thơ của anh Xuân Diệu.

    Tôi nhớ lại: Một tháng trước khi Diệu mất, một buổi chiều, Diệu ngồi trệt giữa phòng nói với tôi: “Trong hai đứa mình, đứa nào chết trước là sướng, đứa nào ở lại sau chắc khổ lắm”. Tôi nghe, lặng người đi, không dám nói câu gì. Tôi cảm thấy nỗi đau trong lòng Diệu khi thốt ra câu đó. Nào ngờ đó là lời trối trăng của Diệu cho tôi. Quả thật, sau đám tang của Diệu, liền trong nửa năm, tôi nghe thấy như trong người tôi, trong tâm hồn tôi như hẫng đi, và thấy như cuộc đời hư lãng. Và rất nhiều lần Diệu về gặp tôi trong chiêm bao, cả lúc tôi ngủ trên máy bay đi công tác xa. Ngày Diệu mất, lúc 7 giờ 40 phút ở Hà Nội thì đúng lúc ấy ở Dakar (Senegal) là 12 giờ 40 phút trưa, tôi bị xuất huyết nặng. Thần giao cách cảm: nhân điện của Diệu truyền thông cho tôi giây phút ấy.

    […]

    Nửa thế kỉ tình bạn, nói sao cho xiết! Diệu ơi, ở thế giới bên kia Diệu có còn nghe chăng Cận kể chuyện Huy – Xuân trong hơi thở ấm nồng của tiếng Việt, tiếng Việt mà chúng ta đã yêu tha thiết, yêu da diết như chính hồn của dân tộc, như chính hồn của mỗi chúng ta…

    “Xin tặng cho độc gia bảy bài thơ về tình bạn Huy – Xuân của tôi” – Huy Cận.

    DIỆU ƠI, DIỆU ĐÃ VỀ YÊN TỊNH

    Diệu ơi, Diệu đã về yên tịnh
    Cận hãy còn đây trăm xốn xang,
    Cận mới về thăm quê Nghệ Tĩnh
    Gặp tuần trăng sáng ngẩn ngơ trăng.

    Cận ra Thanh Hoa nằm bên biển
    Biển lại dồn xao không phút ngưng.
    Diệu đã đi xa về tới bến
    Cận đang biển động sóng lừng dâng.

    "Hồi kí song đôi" đang viết dở
    Hai chương tuổi nhỏ chép xong rồi
    Đời ta, trang khép, còn trang mở
    Cận viết đầy trang, tay mới xuôi.

    Biển lớn băng qua, ấy biển đời
    Biển vào vũ trụ, ánh sao mời
    Diệu dò thế giới bên kia trước
    Khỏi lạ đường khi Cận tới nơi.

    Sầm Sơn sáng 27-7-1986

    =====

    BÀI THƠ MẢNH VẢI

    Diệu ở Mỹ Tho gửi thư cho tôi nói sẽ mua vải gửi ra cho tôi may bộ quần áo mùa hè. Tôi đáp lại bằng thư - thơ sau đây:

    Cảm lòng ôm ấp phương xa
    Nỗi niềm thương nhớ vì ta trải bày
    Vải cầm mảnh nhỏ trong tay
    Lòng kia dệt ấm trời mây mấy trùng.
    Mở thư một sáng lạnh lùng
    Hai chiều vải dệt tao phùng Huy - Xuân.
    Dọc ngang tơ chỉ sát gần
    Đi về mấy dạo hai thân một hồn.
    Một mai ta chết xin chôn
    Hai ta sát cạnh xương luồn qua xương
    Đất già lạnh toát đêm trường
    Huy - Xuân nằm dệt tấm thương muôn đời.
    Mắt này gửi liễu đâm tươi.
    Môi này lại mượn chim cười giao duyên.

    Huy Cận
    (Hà Nội mùa thu 1942)

    =====

    VIẾNG MỘ DIỆU

    Lạnh lắm trời ơi! lạnh lắm không?
    Cận về không kịp, chỉ còn trông
    Đất vàng một nấm hoa vừa héo
    Nằm một, giờ đây Diệu lạnh lùng.

    Năm mươi năm trước thuở ra đời
    Thơ của Huy Xuân trái kết đôi
    Tình bạn Huy Xuân đời ấm áp
    Tiếng ai thăm hỏi: Xuân đâu rồi?

    Xuân vẫn còn đây, Xuân ở đây
    Xuân đi, Xuân lại cắm đời này
    Dọc đường tiễn Diệu về an nghỉ
    Nghìn vạn bà con mắt lệ đầy.

    24-12-1985
    Huy Cận

    =====

    CHIÊM BAO THẤY DIỆU

    Trên đường công tác phương xa
    Nửa đêm gặp Diệu, lại là chiêm bao!
    Diệu rằng: “Tuyển tập ra sao?
    Phải tay Diệu chọn cho dào mạch thơ”
    Diệu ơi! Mới đó, đôi bờ
    Âm dương đã cách, bao giờ lại chung?
    Huy Xuân một cuộc tao phùng
    Nửa trăm năm chửa thoả lòng tri âm
    Hẹn cùng trời đất ta nằm
    Bên nhau cho khỏi lạnh dằm Xuân ơi!
    Bấy giờ liễu sẽ đâm tươi
    Môi tàn lại mượn chim cười giao duyên.

    (Trên máy bay từ TP. Hồ Chí Minh đi Paris, đêm ngay 13, rạng ngày 14-2-1986)

    Huy Cận

    =====


    NẰM BỆNH VIỆN, GỬI DIỆU


    Tập đi tập đứng lại yên ngồi
    Số một thân ta báo động rồi
    Cận hứa từ đây thôi ỷ sức
    Gắng theo hết thế kỷ hai mươi.

    Cái dạ yêu đời không thể can:
    Đàn bầu dây đã vặn lên cần
    Hễ đời chạm đến liền vang động
    Một tiếng vê là vạn tiếng ngân.

    Hai đứa rồi ra nghĩ cũng kỳ
    Thương nhau hơn ruột thịt dường ni
    Mà đàn mỗi đứa riêng âm sắc,
    Cuộc sống muôn màu lặp lại chi!

    Không lặp trùng nhau, nhưng cảm nhau
    Tử Kỳ xưa chết, Bá Nha sầu.
    Nhưng ta hai đứa cầm đàn vững,
    Xã hội tri âm, đàn lắng sâu.

    Yêu bạn, Mông-te tự giải lời:
    “Bởi vì là bạn, vì là tôi”
    Vì là Diệu, Cận nên ta đã
    Quyện với nhau làm một trái đôi.

    Bệnh viện Việt Xô, Ngày 5-12-1974
    Huy Cận

    =====

    TẶNG KHĂN

    Chiếc khăn đầm lệ cho Xuân
    Lệ non sông, lệ trầm luân một nguồn
    Mắt Huy trút một kiếp buồn
    Xuân cầm mảnh vải sờ khuôn mặt sầu
    Vải sờn từng ấp xương đau
    Lòng tan trăm bận khăn nhàu là đây

    1942
    Huy Cận


    (Sưu tầm)
  3. Dungnvph03125

    Dungnvph03125 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    27/07/2015
    Bài viết:
    60
    Đã được thích:
    1
    Bài viết hay quá :D
  4. hainhuxvn

    hainhuxvn Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    17/11/2017
    Bài viết:
    14
    Đã được thích:
    0
    Hiện nay cồn khô và cồn thạch đã được phân phối rộng rãi hơn so với bếp gas trong các hàng quán và đám tiệc do đặc điểm an toàn và tiện lợi. Kinh doanh và sản xuất cồn thạch và cồn khô cho người chuẩn bị khởi nghiệp mà ít đầu tư. Tôi sẽ hướng dẫn cho các bạn thực tế quy trình sản xuất cồn khô, cồn thạch và cồn gel.

    Xin liên hệ Số điện thoại: 0122.9625.524 (Anh Thành)
    [​IMG]

    1. Quy trình sản xuất Cồn Thạch

    Ngày nay cồn thạch được phân phối phổ biến hơn so với cồn khô do có nhiều tiện lợi. Công thức làm cồn thạch không dùng nhiệt nên rất an toàn và thiết bị đầu tư ít. Công thức sản xuất cồn thạch cho nhiệt lượng lớn, cháy lâu. Đặc biệt cồn thạch khi cháy không để lại cặn bã, thuận lợi vệ sinh bếp cồn. Không có khí độc hại và cay mắt nên rất an toàn cho người sử dụng.

    Chi phí cho thiết bị làm cồn thạch dao động 10-20 triệu, diện tích 16m2 là có thể làm được được với quy mô vừa và nhỏ. Nếu các bạn có khả năng tiêu thụ cồn thạch với sản lượng lớn thì có thể đầu tư thiết bị bán tự động dao động 100-200 triệu để sản xuất ở quy mô lớn hơn.

    2. Quy trình làm Cồn Khô

    Công thức làm cồn khô khi cháy không cay mắt và không có khí gây hại. Chất lượng cục cồn cứng, vận chuyển dễ, không chảy nước. Giá cả cạnh tranh.

    Tôi sẽ chỉ dẫn cho bạn 3 loại cồn khô (bao gồm loại cồn siêu cháy không ra nước khi đốt). Bạn có thể canh chỉnh được chất lượng cồn khô trong quy trình sản xuất. Trang thiết bị làm đơn giản, chỉ cần gia công tại các xưởng Inox. Với diện tích 16 mét vuông, các bạn có thể sản xuất ra 500 kg cồn/ngày.

    3. Quy trình làm Cồn Gel

    Cồn gel sản xuất ra khi cháy có mùi hương dễ chịu, không hại mắt. Công nghệ sản xuất cồn gel đơn giản hơn cồn khô vì không dùng đến nhiệt. Không sử dụng nhiều trang thiết bị và đặt khuôn, nhân công ít. Đầu tư thấp. Có khả năng làm hơn một tấn cồn/ngày..

    Tôi sẽ hướng dẫn cho các bạn tự tự tay sản xuất ra sản phẩm với thiết bị và nguyên liệu do tôi chuẩn bị sẵn.

    Chi phí hướng dẫn cho mỗi sản phẩm là 5 triệu. Có hợp đồng chuyển giao.

    Xin liên hệ Số ĐT: 0122.9625.524 (Mr. Thành)

Chia sẻ trang này