1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Đọc và cùng suy ngẫm! Có một tội ác giữa lòng Hà Nội

Chủ đề trong 'Bắc Âu' bởi always_be_01, 30/09/2004.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. nokk

    nokk Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    17/09/2004
    Bài viết:
    251
    Đã được thích:
    0
    Người đầu bếp già
    :::Paustovsky:::​
    Một buổi tối mùa đông năm 1766, trong ngôi nhà gõ nhỏ ở ngoại ô thành Viên, người đầu bếp cũ của bà bá tước Tun - một ông lão mù - đang hấp hối. Nói cho đúng, đó cũng chẳng phải là nhà mà chỉ là một chiếc lều canh rách rưới ở sâu trong vườn. Khu vườn ngập những cành mục bị gió đánh gãy. Khi cành cây kêu răng rắc dưới mỗi bước đi thì con chó đực xích trong chuồng lại gầm gừ khe khẽ. Cũng như chủ mình, nó đang hấp hối vì tuổi già và giờ đây không còn sủa được nữa.
    Mấy năm về trước người đầu bếp già bị mù vì hơi nóng của bếp lò. Từ ấy, viên quản lý của bà bá tước cho ông lão ở trong túp lều canh và thỉnh thoảng cho ông vài lon flôrin.
    Ông lão ở với con là Maria, một cô gái độ tuổi mười tám. Đồ đạc trong lều vẻn vẹn có một cái giường, mấy chiếc ghế dài khập khiễng, một cái bàn thô, một số đồ sứ đã rạn nứt và một cái dương cầm kiểu cổ - tài sản độc nhất của Maria.
    Cái dương cầm đã cũ lắm, cũ đến nỗi mỗi khi có tiếng động vang lên ở chung quanh là những dây đàn lại rung lên khe khẽ hồi lâu. Người đầu bếp gọi đùa cái dương cầm là ?oanh gác của nhà ta?. Không ai có thể bước vào nhà mà không được cây đàn đón tiếp bằng một âm thanh run rẩy già yếu.
    Khi Maria đã làm xong việc lau mình cho người cha hấp hối, mặc chiếc áo sạch lạnh giá vào cho ông, ông lão bảo cô :
    - Cha không hề ưa bọn thầy tu và bọn nhà dòng. Vì vậy cha không thể mời cha xứ đến rửa tội, nhưng trước khi chết cha muốn cho lương tâm cha được trong sạch.
    - Vậy phải làm thế nào thưa cha ? - Maria lo lắng hỏi.
    - Con hãy ra đường, - ông lão nói, - và mời người đầu tiên mà con gặp vào nhà để rửa tội cho một người đang hấp hối. Không ai nỡ từ chối con đâu.
    - Phố nhà thì vắng tanh... - Maria lẩm bẩm, với lấy khăn choàng lên đầu và bước ra.
    Nàng chạy qua khu vườn, khó nhọc mở cánh cổng sắt gỉ và dừng lại. Phố vắng. Gió lùa lá rụng chạy trên mặt đường và từ trên bầu trời đen tối những hạt mưa rơi lạnh lẽo.
    Maria đợi hồi lâu và nghe ngóng. Cuối cùng nàng cảm thấy có một người đi dọc theo hàng rào, vừa đi vừa hát. Nàng tiến lên mấy bước, va phải anh ta và kêu lên. Người đàn ông dừng lại, hỏi :
    - Ai vậy ?
    Maria nắm tay người đàn ông và nàng run rẩy nói lại lời yêu cầu của cha mình.
    - Được rồi, - người đàn ông bình thản nói. - Mặc dù tôi không phải là thầy tu, nhưng không sao. Ta đi thôi.
    Họ bước vào nhà. Dưới ánh sáng của ngọn nến Maria nhìn thấy một người gầy gò bé nhỏ. Chàng vứt chiếc áo mưa ướt xuống ghế. Chàng ăn vận tao nhã và giản dị - ánh nến lấp lánh trên chiếc camiđôn màu đen, trên khuy pha lê và cổ áo thêu ren.
    Người lạ mặt còn trẻ lắm. Chàng lắc đầu hệt như đứa con nít, sửa lại bộ tóc giả rắc phấn, nhanh nhẹn đẩy chiếc ghế đẩu lại bên giường rồi ngồi xuống, đầu hơi cúi, chăm chú và vui vẻ nhìn vào mặt người hấp hối.
    - Xin cụ cứ nói ! - Chàng bảo. - Rất có thể, với quyền lực không phải do trời, mà do nghệ thuật mà tôi phụng sự đã cho tôi, tôi sẽ làm cho những phút cuối cùng của cụ được thanh thản và cất đi gánh nặng đè lên tâm hồn cụ.
    - Tôi làm việc suốt đời cho tới khi bị mù, - ông lão lẩm bẩm và nắm tay người lạ mặt kéo lại gần mình hơn. - Và ai làm việc người đó không có thời giờ để phạm tội. Khi vợ tôi bị lao - vợ tôi tên là Mácta - thầy thuốc kê đơn cho nàng nhiều thứ thuốc đắt tiền, buộc phải cho nàng ăn kem sữa và vả khô, uống rượu vang hâm nóng, vì vậy tôi đã lấy trộm trong bộ đồ ăn của bá tước Tun một chiếc đĩa vàng nhỏ, đập vụn ra rồi đem bán. Bây giờ tôi rất khổ tâm khi nhớ lại việc này, và phải giấu con gái tôi : tôi đã dạy nó không đụng đến một hạt bụi trên bàn người khác.
    - Vậy chứ có ai trong những người hầu bá tước phu nhân bị vạ lây vì vụ đó không ? - Người lạ mặt hỏi.
    - Thưa ngài, tôi xin thề là không có ai cả. - Ông lão trả lời và khóc. - Nếu tôi biết rằng vàng cũng chẳng cứu được Mácta thì tôi đã chẳng lấy trộm !
    - Tên cụ là gì ? - Người lạ mặt hỏi.
    - Iôhan Mâye, thưa ngài.
    - Vậy thì thưa cụ Iôhan Mâye ! - Người lạ mặt nói và đặt tay lên đôi mắt mù của ông lão, - trước mọi người cụ không có tội. Việc cụ đã làm chẳng phải là tội lỗi, cũng chẳng phải là ăn trộm, ngược lại, có thể coi nó như một chiến công của tình yêu.
    - Amen ! - Ông lão nói khẽ.
    - Amen ! - Người lạ mặt nhắc lại. - Còn bây giờ, cụ hãy nói cho tôi biết ước nguyện cuối cùng của cụ.
    - Tôi muốn có người sẽ săn sóc Maria.
    - Tôi sẽ làm việc ấy. Cụ còn muốn gì nữa không ?
    Người hấp hối bỗng mỉm cười và nói lớn :
    - Tôi muốn một lần nữa được nhìn thấy Mácta như buổi đầu tôi gặp nàng lúc còn trẻ. Nhìn thấy mặt trời và khu vườn cũ này khi nó nở hoa vào mùa xuân. Nhưng cái đó không thể nào có được, thưa ngài. Xin ngài đừng bực mình vì những lời lẽ ngu xuẩn đó. Bệnh tật đã làm cho tôi không còn sáng suốt.
    - Được, - người lạ mặt nói và đứng dậy. - Được, - chàng nhắc lại, đến gần chiếc dương cầm và ngồi xuống chiếc ghế đẩu kê trước đàn. - Được - lần thứ ba chàng nói lớn và bất thần tiếng đàn vút lên vang dội khắp lều như thể có hàng trăm viên pha lê rơi xuống sàn.
    - Cụ hãy nghe đây, - người lạ mặt nói. - Cụ hãy nghe và hãy nhìn đây.
    Chàng bắt đầu chơi. Về sau Maria nhớ lại khuôn mặt của người khách lạ khi phím đàn đầu tiên rung lên dưới tay chàng. Một sắc tái kỳ lạ phủ lên trán chàng và có một ngọn nến lung lay trong đôi mắt chợt tối đi của chàng.
    Lần đầu tiên sau nhiều năm chiếc dương cầm ca hết giọng. Tiếng đàn tràn ngập không riêng gian lều mà cả khu vườn. Con chó già bò ra khỏi chuồng, đầu ngả về một bên, nó chăm chú nghe, vẫy đuôi khe khẽ. Tuyết bắt đầu rơi, nhưng con chó chỉ ve vẩy đôi tai.
    - Tôi thấy rồi, thưa ngài ! - Ông lão nói và gắng gượng ngồi dậy. - Tôi thấy ngày tôi gặp Mácta và nàng vì ngượng ngùng đã đánh vỡ vò sữa. Lúc ấy vào mùa đông, ở trên núi. Bầu trời trong xanh như thủy tinh, và Mácta cười. Nàng cười, - ông lão nhắc lại, tai lắng nghe tiếng róc rách của cung đàn.
    Người lạ mặt chơi đàn, mắt nhìn vào cửa sổ tối om.
    - Còn bây giờ, - chàng hỏi, - cụ có nhìn thấy gì không ?
    Ông lão im lặng nghe ngóng.
    - Chẳng lẽ cụ không nhìn thấy ư ? - Người lạ mặt nói nhanh và vẫn tiếp tục chơi. - Đêm đang đen bỗng thành màu xanh thẫm rồi lại thành xanh lam, và ánh sáng ấm áp đã từ nơi nào trên cây cao kia chiếu xuống. Hoa trắng đang nở trên cành cây già cỗi trong vườn nhà cụ. Tôi cho đó là hoa táo mặc dù từ trong nhà này nhìn ra chúng giống hoa tuylip hơn. Cụ thấy không : tia nắng đầu tiên đã rơi xuống bức tường đá, sưởi ấm cho nó và từ đó hơi nước đang bốc lên. Chắc đó là do đám rêu ướt đẫm nước tuyết tan đang khô dần. Còn trời thì cứ cao lên mãi, xanh thêm mãi, đẹp thêm mãi, và trên thành Viên cổ kính của chúng ta từng đàn chim đang bay về phương bắc.
    - Tôi trông thấy tất cả những cái đó ! - Ông lão kêu lên.
    Bàn đạp rít lên khe khẽ và chiếc dương cầm cất cao giọng trịnh trọng như thể không phải chỉ riêng mình nó mà cả hàng trăm giọng hát vui mừng.
    - Không, thưa ngài, - Maria nói với người lạ mặt, - hoa đó không hề giống tuylip. Đó là những cây táo nở rộ trong một đêm.
    - Vâng, - người lạ mặt trả lời, - đó là hoa táo nhưng cánh của chúng rất to.
    - Mở cửa sổ ra, Maria ! - Ông lão bảo.
    Maria mở cửa sổ. Một luồng không khí lạnh ùa vào phòng. Người lạ mặt chơi rất khẽ và rất chậm.
    Ông lão ngã xuống gối, thở dốc, đôi tay quờ quạng trên tấm chắn. Maria chạy vội lại. Người lạ mặt ngừng chơi. Chàng ngồi lặng trước chiếc dương cầm như bị mê đi bởi tiếng nhạc của chính mình.
    Maria kêu lên. Người lạ mặt đứng dậy và bước đến bên giường bệnh. Ông lão vừa thở hổn hển vừa nói :
    - Tôi đã thấy tất cả, rõ như hồi trước đây. Nhưng tôi không muốn chết đi mà không được biết... tên. Tên ngài !
    - Tôi là Vônfgăng Amêđây Môza, - người lạ mặt trả lời.
    Maria lùi lại và cúi xuống, đầu gối gần sát đất, trước người nhạc sĩ vĩ đại.
    Khi nàng đứng thẳng lại thì ông lão đã qua đời. Bình minh cháy đỏ ngoài cửa sổ và trong ánh sáng ban mai, khu vườn đã phủ đầy hoa tuyết ướt.
    KIM ÂN dịch
  2. boxwehn

    boxwehn Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    09/07/2004
    Bài viết:
    882
    Đã được thích:
    0

    Vụ PMU 18 Và Đứa Con Bất Hiếu
    16/02/2007​
    (Hanoinet)- Chiều cuối năm. Trong ngôi nhà nằm hun hút cuối phố Trương Định, vợ chồng vị tướng già ngồi lặng lẽ như hai chiếc bóng. Thiếu tướng Bùi Bá Bổng năm nay thượng thọ 80 tuổi. Sau một đời trận mạc, cháu nội, cháu ngoại đề huề, đây lẽ ra là thời khắc mà vị tướng già được an hưởng niềm vui đoàn tụ. Nhưng nhà có 4 người con thì một người mất vì cúm H5N1, 2 người khác- nguyên TGĐ PMU 18 Bùi Tiến Dũng và em gái Bùi Thu Hạnh bị bắt giam.
    Vì thế mà vợ chồng tướng Bổng chẳng còn thiết gì đến Tết. Đào, quất không ra hoa. Sự chộn rộn, tấp nập và những sắc màu mùa xuân tràn ngập trên các con phố dường như bị một bức tường vô hình ngăn lại trước cổng nhà. Ngay đến bộ salon trong nhà, lâu không có khách đến thăm nên cũng bị xếp vào một góc phòng khách. Từ ngày xảy ra vụ án PMU 18, tướng Bổng đã mấy lần phải nhập viện. Sức khoẻ suy kiệt. Bây giờ, ông không còn thường xuyên đọc báo như những ngày Bùi Tiến Dũng, Bùi Thu Hạnh mới bị bắt. Tin tức bên ngoài xã hội, ông hầu như chỉ nghe qua chiếc đài phát thanh cũ kỹ.
    Ông kể: Năm bà Thoa, vợ ông sinh Bùi Tiến Dũng, ông đang chỉ huy chiến trận ở cánh đồng Chum, ngồi tàu xe ròng rã suốt mấy ngày mới về thăm vợ, nhìn mặt con được một đêm lại đi ngay. Cả năm sau đó, ở chiến trường, ông xin chuyển chế độ ăn từ tiểu táo (bếp nhỏ, nấu riêng cho các sỹ quan) sang chế độ trung táo (bếp lớn, nấu ăn chung cho đơn vị), dành dụm tiền mua được chiếc xe đạp Peugeot mang về tặng vợ làm kỷ niệm. Chiếc xe ấy bây giờ ông vẫn giữ.
    [​IMG]
    Tướng Bổng và chiếc xe Peugoet mua từ ngày sinh Bùi Tiến Dũng ​
    Bùi Tiến Dũng lớn lên, được gửi vào trường quân chính, rèn luyện trong quân đội suốt mười năm lăm trời, đã đeo đến quân hàm Đại uý. Chìm trong ký ức về những ngày 4 cha con cùng góp mặt trên một mặt trận, vị tướng già kể lại những ngày đầu trong quân ngũ của Bùi Tiến Dũng: Có lần, hai vợ chồng khăn gói lên đơn vị thăm con, ban chỉ huy làm cơm thết đãi ông đã nói từ chối. Nhưng bà Thoa, vợ ông thấy Dũng gầy gò, xanh xao, lầm lũi gánh củi, thương con, lại lén chạy xuống nhà dân mua gà nhờ luộc, dúi cho Dũng ăn.
    Những ngày đầu Dũng biệt phái sang ngành giao thông, hoàn cảnh kinh tế khó khăn, thường phải đi chở cám, ấp trứng vịt?Hồi ấy, ông rời quân đội, nghỉ hưu với quân hàm Thiếu tướng nhưng vẫn ngày đi làm thêm công việc quản lý bến xe, tối đến, tiếng là làm Phó Chủ nhiệm một HTX ở phố Đội Cấn, nhưng thực ra là ngủ đêm trông xưởng thay cho bảo vệ kiếm tiền phụ giúp vợ.
    Em gái Dũng- Bùi Thu Hạnh còn khổ hơn- bà Thoa, vợ tướng Bổng kể. Hồi mới sinh, Bùi Thu Hạnh bị bệnh, cứ như chiếc ghẻ vắt trên vai mẹ, nhờ sự tận tình của các y, bác sỹ bệnh viện 108 mới có thể sống sót.
    Trong những năm khó khăn đó, ông đã nhiều lần mang tấm gương Trần Dụ Châu, nguyên Đại tá, Cục trưởng Quân nhu vì sa ngã, đã bị tuyên án tử hình để giáo dục con cái.
    Nhưng rồi Bùi Tiến Dũng, Bùi Thu Hạnh lần lượt bị bắt giam. Hôm Dũng bị bắt, ông chết lặng ngồi chứng kiến cảnh con bị còng trong khoá số 8, phải bắt chéo tay mới ký được tên vào tờ biên bản. Nghe cán bộ điều tra đọc quyết định bắt giam, Dũng vừa khóc, vừa xin cha tha cho tội bất hiếu.
    Vị tướng già kể đến đây thì cũng không kìm nén được. Những giọt nước mắt hiếm hoi ăn dài trên khuôn mặt già nua, khắc khổ. Ông nghèn nghẹn nói: Nghĩ mà uất. Tôi không phải không dạy con, cũng không phải là người mà con không thể học tập. Dẫu việc ai làm người đó chịu, nhưng con dại, cái mang, tôi đau lắm, ngủ thì thôi, thức nghĩ đến các con lại buồn, lại khóc.
    Vợ chồng vị tướng già giờ sống cô độc trong ngôi nhà nằm trong một con ngõ ở cuối đường Trương Định. Bà bán hàng quà sáng nên láng giềng còn trông thấy mặt, chứ ông thường cả ngày lầm lụi trong nhà, cả tháng mới thấy dắt chiếc Peugoet cũ kỹ ra khỏi cổng một lần.
    Tết này, ông bà chỉ mong gửi được chút quà bánh vào trại giam cho hai con. Từ hôm Bùi Tiến Dũng, Bùi Thu Hạnh bị bắt, do vụ án đang trong quá trình điều tra nên ông bà không được thăm con, cũng không được thư từ liên lạc. Hỏi thăm thì biết, Dũng nghe đâu có dạo bị giam ở trại T16, Hạnh bị giam ở Bắc Giang, gia đình đã tìm đến trại nhưng không được gặp. Mỗi tháng một lần, người em trai Dũng chỉ được gửi tiền nhờ chuyển vào mua đồ trong trại. Tướng Bổng dù rất muốn được gửi cho con vài chữ, muốn nhắn với con về việc, nếu có quyết tâm thì sai lầm đến đâu cũng có thể làm lại cuộc đời nhưng không cách gì chuyển lời được.
    Nước mắt vị tướng già cứ lăn dài trong buổi chiều cuối năm tê tái. Không còn những cái Tết đi biền biệt nơi chiến trường, nhưng vào thời khắc năm cũ đã qua, năm mới sắp đến, vị tướng trận dẫu sống giữa gia đình mà vẫn không có được niềm vui đoàn tụ!
    Nguồn:
    http://www.ktdt.com.vn/newsdetail.asp?NewsId=6149&CatId=43
    (Boxwehn sửa tiêu đề bài báo).

  3. boxwehn

    boxwehn Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    09/07/2004
    Bài viết:
    882
    Đã được thích:
    0
    Cậu Tư
    Tạp bút - Phạm Lưu Vũ

    Tôi sẽ viết sau đây một câu chuyện thần thoại. Đất nước này trong những thời điểm vô vọng của tâm linh, trong những lúc kì cùng của kiếp sống thường sinh ra những kì nhân. Có thời đại nào, có ở đâu trên thế gian này lại dày đặc xương người, vương vãi nơi đồng không mông quạnh, vùi lấp giữa rừng thẳm suối sâu... như ở dải đất từng là bãi chiến trường vô nhân vô đạo lý khủng khiếp này? Bao oan hồn vất vưởng, dãi dầu nơi xứ lạ quê người, mấy mươi năm ?othở than dưới đất ăn nằm trên sương? (Văn chiêu hồn - Nguyễn Du), lạnh lẽo không một tiếng khóc than, không một ai hương khói, mà đường về quê Mẹ thì xa xôi mù mịt, quỷ dữ luôn rình rập ở mọi chốn, mọi nơi... Nếu con người ở xứ sở này không mắc chứng ích kỉ và vô cảm bẩm sinh, thì ở bất cứ chỗ nào, bất cứ lúc nào cũng có thể nghe tiếng gào thét của hàng nghìn, hàng vạn oan hồn. Cõi âm đã ?ođộng? đến thế thì cõi dương yên ổn làm sao được. Nỗi đau đớn không thể nào nguôi của những người thân, cùng với những tiếng thở than, gào thét xé lòng ấy đã bao năm ngùn ngụt thấu đến tận Trời. Và những kì nhân đã xuất hiện. Bằng khả năng ngoại cảm thiên tài của mình, họ đã ra tay. Hàng nghìn, hàng vạn hài cốt và cũng là hàng nghìn, hàng vạn oan hồn tưởng mãi mãi vùi lấp chốn lãng quên, mãi mãi ngậm hờn làm con ma vô chủ, nay đã được trở về với quê hương, trở về với những người thân để đợi ngày siêu thoát...
    Trước những sự thật ghê hồn đó, khoa học hiện đại, khôn ngoan tuyệt đỉnh của con người không thể giải thích. Các công cụ, thiết bị tối tân của nó đã bó tay. Mặc kệ những thứ đó, các oan hồn đã cất lên tiếng nói, chỉ rõ nơi vùi lấp, khai tên tuổi, địa chỉ, người thân... cùng hàng trăm nghìn nỗi đau không bút nào tả xiết, không cái nào giống với cái nào. Những ông bố, bà mẹ mất con, những người vợ mất chồng, những người con mất cha, v.v... đã tin vào những sự thật hiển nhiên đó. Nhân dân đã tin, bất kể sự im lặng tuyệt đối của những đấng vô thần. Cuộc đời, nếu có ai đó khát khao sự thật, tất có kẻ sẽ hoảng sợ vì nó. Không ít những sự thật chẳng phải đang được chứa chất trong những oan hồn tưởng vĩnh viễn bị chôn vùi, vĩnh viễn không được cất lên tiếng nói đó ư? Chỉ đến khi nào cả thế gian không còn sự dối trá nữa, thì mới không còn ai cần đến sự thật, và cũng không còn kẻ nào phải sợ hãi trước sự thật. Những nhà ngoại cảm từng cứu vớt bao linh hồn của cả người chết lẫn người đang sống ấy đã và chắc sẽ chẳng cần được phong anh hùng. Song việc làm thần thánh của họ có trời cao đất dày này chứng kiến. Công lao kì vĩ, tuyệt vời nhân bản, không gì sánh nổi của họ trùm cả 3 cõi, được cả 3 cõi: người, quỷ thần và cõi từ bi ghi nhận.
    Những ai đó có thể nhắm mắt làm ngơ, có thể ?olờ? đi vì sợ hãi, vì mặc cảm tội lỗi hay vì một mục đích tối tăm nào đó. Song không ai có thể nghi ngờ về sự song song tồn tại của cả một thế giới tâm linh cùng với nền ?ovăn minh? hiện đại của loài người. Âu cũng là một nhẽ biện chứng của cuộc đời. Có điều ở đây, đó là một thế giới thảm thương. Thế giới mà thi hào Nguyễn Du đã miêu tả trong ?oVăn chiêu hồn?:
    ?oSống đã chịu một bề thảm thiết
    Ruột héo khô da rét căm căm
    Dãi dầu trong mấy mươi năm
    Thở than dưới đất ăn nằm trên sương.
    Nghe gà gáy tìm đường lánh ẩn
    Lặn mặt trời lẩn thẩn tìm ra
    Lôi thôi ẵm trẻ dắt già
    ...?
    Rất may, thế giới đó đã và đang có những kì nhân để đưa các vong hồn trở về với người thân, trở về nơi siêu thoát. Thế còn thế giới của những người nghèo, những ?ocô hồn? sống đang lâm vào cảnh kì cùng của kiếp người trên cõi dương gian này?
    Thế kỉ 21 này vẫn chưa cho phép những kẻ nghèo hèn có quyền được sống tử tế nếu trót mang bệnh trong người. Từng bầy, từng bầy dân chúng nhàu nát, hôi hám, lôi thôi già trẻ chen chúc xếp hàng ngùn ngụt trước cửa những phòng khám, ngập ngụa những hành lang, la liệt trên những giường bệnh cũ kĩ có khi phải 2, thậm chí 3 ?ocon bệnh? nằm giở đầu đuôi... Đơn giản thôi. Các bệnh viện đã quá tải trầm trọng. Có thẻ bảo hiểm y tế ư? Đó là thứ mà nhiều bác sĩ ăn lương nhà nước thời nay ghét cay ghét đắng. Mức độ nhiệt tình, thái độ đối xử... của họ tỉ lệ nghịch với tấm thẻ đáng thương ấy. Thật tội nghiệp, thẻ bảo hiểm chỉ đem lại lợi ích cho những ai đó, cho những cấp ?oquản lý? ở tận đâu đâu... chứ không mang lợi trực tiếp đến cho họ. Xứ sở này chỉ hâm mộ ?otiền tươi? mà thôi. Đó là những đồng tiền được nhìn thấy, sờ thấy liền trước mắt, những đồng tiền sẵn sàng chui ngay vào trong túi của mình. Thế là ?ocon bệnh? không có thẻ có khi còn đỡ, có thẻ vẫn phải đóng tiền. Con người vốn thông minh nên dễ dàng nghĩ ra những khoản nằm ?ongoài thẻ bảo hiểm?: tiền cho những thứ thuốc gọi là ?ođặc trị?, tiền mua thuốc ngoại, tiền cho những mũi tiêm rất đáng nghi mà ?ocon bệnh? không có quyền thắc mắc... Đặc biệt, khoản này thì bất kể có thẻ hay không. Đó là phải chuẩn bị sẵn những món tiền ?obồi dưỡng?, để sẵn sàng nhét vào túi cái áo blu trắng tinh và cao quý của những vị ?otừ mẫu lương y? ấy. Thăm bệnh: nhét, chích thuốc: nhét, truyền dịch: nhét, thậm chí nếu ?ocon bệnh? đang hấp hối, thì người nhà càng phải nhét thật nhanh tay, v.v... ?oLuật? ấy, than ôi dẫu ?obất thành văn?, song từ lâu đã ?obất di bất dịch?.
    Ai đã lần đầu tiên dùng từ ?ocon bệnh?? ?oThuật ngữ? ấy mới chính xác làm sao, cay đắng làm sao. Xin lỗi những vị y, bác sĩ chân chính, các vị hãy tin rằng người viết luôn có sẵn ý định trừ các vị ra. Song là những người ?onằm trong chăn?, các vị chắc chắn thừa biết rằng hằng hà sa số những ?ocon bệnh? kia chính là nguồn sống, nguồn kiếm tiền, nguồn làm giàu vô tận của nhiều, rất nhiều những người mặc blu trắng, những gã cò mồi, những kẻ buôn thuốc, những cấp ?oquản lý?... Tóm lại là những người dính dáng đến nghề y, hệt như những con bò, con heo, hay con gà, con vịt... nuôi trong chuồng nhà họ vậy. Thế những người nghèo không có tiền mua thuốc (xin lưu ý: giá thuốc đang ngày càng tăng phi mã, tăng tự do, vô tội vạ), những người nghèo không có tiền nằm viện, không có tiền ?obồi dưỡng?... thì sao? Nhất là họ không may mắc phải những chứng bệnh nan y? Thì... họ không có quyền được chữa trị, thậm chí không có quyền được sống nữa chăng?
    Chắc sẽ thế thôi. Họ sẽ không có cơ hội được sống, như một cách ?ochọn lọc tự nhiên? ghê rợn, để dành chỗ trong cuộc đời cho những kẻ khoẻ mạnh! Cứ gì thế kỉ 21 ấm no hạnh phúc này, thế kỉ nào chắc cũng phải vậy thôi. Những kiếp giẻ rách ấy sẽ phải chết, nếu nơi đây không xuất hiện những kì nhân...
    Ai đã tin rằng có những ?okì nhân? của các vong hồn, tưởng cũng nên tin rằng có ?okì nhân? của những kiếp người ?okì cùng? ấy.
    Một trong những ?okì nhân? ấy là Cậu Tư.
    Đó là một vùng quê hẻo lánh rất xa Thành phố. Con đường nhựa đủ cho khoảng 1,5 làn xe từ lộ chính chạy hun hút vào một ấp nhỏ. Nơi ấy có Cậu Tư đang ?ohành nghề?. Chẳng biết từ bao giờ, cái ấp nhỏ này đã trở nên sầm uất, sôi động với đủ các loại hàng quán bệ rạc, chợ búa tanh tưởi, nhà trọ tồi tàn mọc lên san sát. Nơi đây lúc nào cũng thường xuyên có khoảng bốn đến năm trăm người bệnh nằm la liệt, nhếch nhác trên những dãy giường tre, trong những căn nhà lá tùm hụp. Bất chấp cái nắng nóng rừng rực, nóng như nung người của miền Tây, bất chấp ruồi, muỗi như trấu, bất chấp dòng kinh đen sì lúc nào cũng bốc lên một thứ mùi hôi thối khủng khiếp. Những con bệnh nan y mà các bệnh viện đã thải về chờ chết, hoặc không có tiền viện phí, hoặc không tiền mua thuốc... hàng ngày từ khắp nơi ùn ùn về đây hy vọng kéo dài thêm cái kiếp sống khốn khổ của mình. Nghĩ cũng phải thôi. Đến con vật còn khát khao cuộc sống nữa là con người. Nghe nói Cậu Tư sinh năm Canh Tý, năm nay sang tuổi 48. Tối tối, bước qua chiếc cầu xi măng rộng chừng hơn mét, không lan can bắc qua dòng kinh đen, dòng người lần mò bước thấp bước cao trong một con hẻm nhỏ ngoắt ngoéo, chỗ sáng chỗ tối loang lổ, hai bên là liên tiếp những dãy phòng trọ mùng mền luộm thuộm ken dày đặc. Từ trong đó xộc ra một thứ mùi rất khó tả. Đó là mùi người trộn lẫn với mùi hôi thối của nước dòng kinh. Nhà Cậu Tư cất sát một con rạch khác nước cũng đen không kém. Một ?ophòng khám? rộng chừng 9m2 cất bằng cây sơ sài, không cửa nẻo, trong đó kê một chiếc bàn và 2 chiếc ghế băng. Một căn điện thờ toạ lạc chính giữa sân. Phía sau là một nhà chứa thuốc kiêm phát thuốc rộng rãi. Tất cả đều làm bằng gỗ, lợp lá, tồi tàn như hầu hết các căn nhà khác trong ấp. Một khoảnh sân trước ?ophòng khám? đủ rộng cho vài trăm con người. Tối nào Cậu Tư cũng ngồi nói chuyện khoảng hơn 1 giờ đồng hồ với các bệnh nhân hoặc người nhà của họ.
    Đám đông rầu rĩ, nhợt nhạt dưới ánh đèn nê ông hắt ra từ ?ophòng khám?, nơi Cậu Tư đang ngồi. Già trẻ, lớn bé ước chừng hơn trăm con người ngồi bệt dưới đất hoặc đứng lố nhố vòng trong vòng ngoài. Tất cả cùng im lặng nghe Cậu Tư nói chuyện. Cậu Tư mặc quần tây sẫm màu, áo sơ mi trắng, người cao ráo, ốm nhom, hai bàn tay xương xẩu, ngón dài gấp rưỡi người thường. Đôi mắt Cậu sáng quắc. Cậu ngồi vắt chân đường hoàng, đốt thuốc lá liên tục, vừa rít vừa trả lời những câu hỏi đủ các loại trên giời dưới bể của đám đông. Thỉnh thoảng lại một giọng rụt rè cất lên...
    ?o... Tôi ăn không tiêu, bác sĩ kê toa cho uống thuốc song chỉ được vài hôm. Giờ không đủ tiền mua thuốc, cái bụng cứng ngắc lại rồi, đau không chịu nổi. Bác sĩ bảo ung thư dạ dày, phải xạ trị, mỗi lần xạ trị 15 triệu đồng, trăm sự nhờ Cậu. Cậu Tư ơi...?
    ?oĐứa nào bảo ung thư dạ dày? - Cậu Tư mắng - trước mày khó tiêu là tại cái gan đó. Gan không tiết đủ dịch nên không tiêu hóa được thức ăn, lại cứ đổ tại dạ dày. Uống thuốc tiêu hoá thì nước mẹ gì. Nay cái u trong gan mày đã to tướng lên rồi, chắc không dưới 27 cm. Sáng mai vô tao xem thế nào...?
    Một giọng đàn ông khác thiểu não:
    ?o... bịnh viện nói gan tôi hư, phải ghép. Chi phí ghép gan 1 tỷ rưỡi. Cậu Tư ơi! Tôi một trăm ngàn cũng không có, lấy đâu ra tỷ rưỡi bây giờ?...?
    ?oMày 48 đúng bằng tuổi tao, chết cũng được rồi đó. - Cậu Tư pha trò - Xuống dưới ấy mua lấy vài mẫu đất, phân lô sẵn đợi tụi tao xuống rồi bán, chắc chẳng mấy chốc có đủ tỷ rưỡi (đám đông bật cười rào rào). Bây giờ đâu đâu người ta cũng làm như thế hà rầm à. Có đúng không bà con? (nhiều tiếng vỗ tay từ đám đông). Nếu muốn ở lại cõi dương này thì đưa đây hai trăm triệu, đảm bảo tao chữa khỏi cái gan cho mày. Không khỏi tao trả lại tiền, chứ bịnh viện thì đừng hòng người ta trả lại. Chịu không??
    Im lặng...
    ?oThế nào? Hai trăm thôi, rẻ hơn bịnh viện những 1 tỷ ba. Nói thế chứ gan mày đâu đã đến nỗi hư. Chỉ là bị lủng một ống huyết đó thôi. Từ đó máu chảy ra đổ vào dạ dày, vì thế ỉa ra máu. Lại đổ vào bể thận, vì thế đái cũng ra máu. Chịu hai trăm đi rồi tao cho thuốc, đảm bảo 2 tiếng sau ngưng ra máu liền...?
    Im lặng...
    ?oChịu đi, chịu đi...? ?" nhiều tiếng xì xào giục khẽ từ phía đám đông.
    Im lặng...
    ?oTao chữa bệnh cho bà con gần 18 năm nay, chưa hề lấy một đồng tiền thuốc nào. Vậy mà có lúc vẫn bị nghi là lừa đảo để ăn tiền của dân. Đã vậy tao phải ?omần? cho ra tấm, ra món đàng hoàng, không thèm ?omần? lặt vặt. Vì thế vụ này phải kêu hẳn hai trăm. Đúng không bà con?? ?" đám đông lại bật cười rào rào.
    Người đàn ông khốn khổ kia vẫn cúi đầu im lặng. Từ trong hai hốc mắt đen ngòm của anh ta, vừa lăn ra hai giọt nước mắt long lanh...
    ?oBà con thấy chưa. Thằng này hai trăm còn tiếc, huống hồ là tỷ rưỡi. Chẳng trách bịnh viện người ta đuổi về là phải. Thôi, nói chơi vậy nghen. Tao mà lấy của ai một đồng thì người ta cho tao vào tù lâu rồi. Còn đâu mà ngồi đây chữa bệnh cho mày... Có đúng không bà con??
    ?oĐúng thế. Đúng thế...? ?" đám đông hưởng ứng.


  4. boxwehn

    boxwehn Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    09/07/2004
    Bài viết:
    882
    Đã được thích:
    0
    Rồi Cậu Tư tiếp tục:
    ?oBà con mình chỉ những lúc bịnh mới thấy quý mạng sống. Có biết đâu rằng bịnh nó xâm nhập vào mình từ mọi lúc, mọi nơi. Cơ thể hàng ngày sản sinh ra biết bao nhiêu tế bào. Trong số những tế bào mới sinh ra đó, tất phải có những cái phế phẩm. Số lượng phế phẩm nhiều ít liên quan đến ăn uống, hít thở, tiếp xúc với độc hại, ô nhiễm... Bình thường thì cơ thể thu những ?ophế phẩm? ấy vào một chỗ rồi ?okhoá? lại, gọi là cái u lành. Đến một lúc nào đó, cái ?okhoá? bỗng bị hư. Thế là những tế bào phế phẩm ấy được dịp tung ra, tự nhân đôi vô tội vạ, một thành hai, hai thành bốn, v.v... Cứ thế, chẳng mấy chốc cái u phình to ra, chèn ép các cơ quan khác, lại phát tán đi khắp nơi... Thế là thành u ác. Nó là cái thứ rất độc. Nếu biết sớm mà ?odọn? đi, thì sau này dẫu ?okhoá? có bị hư, cũng không hề hấn gì...?
    ...
    ?oBà con tới đây toàn là những người bịnh viện đã thải về, nếu không thì cũng tự thải do không có tiền nằm viện hoặc không tiền mua thuốc. Thuốc của Cậu Tư chỉ gồm 3 thứ: nam, bắc và núi. Nhẹ dùng thuốc nam, nặng dùng thuốc bắc, kết hợp với lá cây hái ở trên núi. Đã nghe Cậu Tư này chữa bịnh thì phải biết ăn kiêng. Không kiêng khem thì có khi lại nuôi cho cái u nó ngày càng lớn lên, thuốc nào trục ra cho xuể...?
    ...
    ?oChữa bệnh nan y có khi phải lấy độc trị độc. Nghĩa là phải làm sao cho tự những chất độc trong cơ thể nó thủ thế diệt nhau, mạng ta ở giữa hưởng lợi. Song đừng để cho những chất độc ấy rơi vào thế mất cân bằng. Nếu mất cân bằng thì mạng tiêu luôn. Vì thế càng phải ăn uống theo đúng chỉ định. Cái thằng bác sĩ ở bịnh viện (...) trên Thành phố ấy. Ung thư di căn giai đoạn cuối, bịnh viện bó tay rồi, xuống đây tao bảo còn nước còn tát. Uống thuốc tao 6 tháng khoẻ mạnh trở lại. Về nhà siêu âm thấy không còn khối u. Con cháu, bạn bè mừng quá mở tiệc ăn mừng. Giời xui đất khiến thế nào mà trong tiệc lại có món lươn là món tao cấm. Thằng ấy lú lẫn nhất thời không nhớ ra bèn ăn vào. Chết liền hai giờ đồng hồ sau đó...?
    ...
    ?oKể chuyện ấy ra đây không phải để hù bà con. Cậu Tư này muốn nói rằng có thể chữa được bịnh, song không thể chữa được ?ođức?. Một khi ?ođức? đã cạn thì ?omạng? ắt phải tiêu. Dẫu chữa được bịnh này thì cũng chết vì bịnh khác, thậm chí không bịnh cũng phải chết. Cái nhẽ sinh tử nó như vậy mà. Chẳng nhẽ cứ chữa được hết mọi bịnh thì con người ta sẽ sống mãi hay sao? Cậu Tư nói không thể chữa được ?ođức?, cũng tức là không thể đổi được ?othiên cơ?. Con người ta sống ở đời, ngoài việc cần phải có cơm ăn, nước uống, cần đến một cơ thể không bịnh tật... còn cần phải có ?ođức? nữa. Tại sao như thế? Bởi ?ođức? là ?otài sản?, là ?ocủa cải? đảm bảo cho cái ?omạng? của mình. Cũng như nhà nước in tiền ra phải có vàng ở trong kho đảm bảo vậy. Vàng trong kho mà cạn, thì tiền chỉ còn là giấy lộn mà thôi. Vàng trong kho càng nhiều thì tiền càng có giá. Cũng như ?ođức? càng dày thì ?omạng? càng lớn, có khi đạn bắn trúng tim cũng không chết, kẻ ác tìm mọi cách cũng không hại nổi... huống hồ chỉ là vài căn bệnh cỏn con. Song nếu ?ođức? đã cạn thì Phật Tổ cũng bó tay. Lúc đó mạng người hay là giẻ rách thì cũng chẳng khác gì nhau. ?oĐức? cần đối với mạng sống của con người cũng ví như cái cây sống cần phải có nước vậy. Nước đã cạn rồi thì dẫu có bắt sạch hết mọi loại sâu bọ đang đục trong thân đi, cái cây vẫn phải chết... Ông bác sĩ kia chính là ứng vào trường hợp như thế đó. Chẳng phải tại Cậu Tư không dặn kĩ đâu...?
    Kết thúc buổi nói chuyện hằng đêm, con hẻm ngoắt ngoéo, tối tăm lại đưa đám đông rời nhà Cậu Tư. Những bóng đen dắt díu nhau dò dẫm lần mò trên bờ rạch, len lỏi giữa những căn phòng trọ lúc này chỉ còn tù mù những ngọn đèn ngủ đỏ quạch. Con hẻm tối tăm, khấp khểnh, khó đi như muốn thử thách ý chí của những con người cố níu lại sự tồn tại của mình ở chốn dương gian. Nếu không có những tiếng rì rầm trò chuyện, có lẽ ai đó sẽ tưởng nhầm đây là những bóng ma đang lần bước dưới địa ngục. Chợt ?orào? một cái. Một bà cụ nào đó vừa trượt chân té xuống con rạch. Mấy người đi gần cụ hoảng hốt, nhốn nháo. Hàng người dừng lại, chôn chân tại chỗ nghe ngóng trong đêm đen mà chẳng giúp gì được. ?oGiá có một cây đèn cao áp...? ?" tôi bật lên tiếng nói. Người phụ nữ đi sau tôi nhanh nhảu: ?oDào ôi! mười tám năm nay rồi chứ có phải mới một vài ngày, một vài tháng đâu...? ?" ?oThế chính quyền địa phương không quan tâm gì à?? ?" tôi hỏi ?" ?oDân nghèo chưa muốn xuống âm phủ ngay thì tự dắt díu nhau mà đi tìm lấy cơ hội sống. Chính quyền nào thèm quan tâm?. ?" ?oChẳng lẽ chữa bệnh ì xèo như thế này mà họ không biết hay sao?? ?" ?oHọ biết chớ. Bao nhiêu đoàn thanh tra, kiểm tra đã tới đây rồi đó. Họ điều tra xem Cậu Tư có lừa đảo, có làm tiền bất chính hay không. Song Cậu Tư khám, chữa bệnh cho dân mà tịnh không lấy của ai một đồng nào. Họ không có cớ gì mới để yên cho đấy...?
    Cậu Tư không hề lấy của ai một đồng nào, cả tiền khám lẫn tiền thuốc. Đó là một sự thật, còn hơn thế nữa kia, tôi đang nghĩ. Vậy cậu lấy đâu ra tiền để sinh sống, để mua thuốc. Mỗi ngày phát không cho bà con hàng nghìn thang thuốc. Cả một căn nhà lớn chứa đầy thuốc. Lại còn những người giúp việc...? Chị phụ nữ bảo: ?oCậu có nguồn tài trợ, có các nhà chùa quanh vùng trồng thuốc cung cấp...? ?" ?oAi tài trợ?? ?" ?oThì những người được Cậu Tư chữa khỏi bệnh ấy. Nhiều lắm, có cả Việt kiều, có cả người nước ngoài... Song tất cả chỉ là đồn đoán vậy thôi. Cậu Tư bí ẩn như người giời, không ai có thể giải thích nổi. Có điều con đường nhựa từ lộ vào ấp này, cả chiếc cầu xi măng bắc qua con kinh thì đúng là do người ta tài trợ đấy, có biển ghi tên họ hẳn hoi. Sao không ai nghĩ ra một ngọn đèn cao áp nhỉ?...? ?" ?oVậy tôi muốn biếu Cậu một ít tiền có được không?? ?" ?oĐố anh làm được chuyện ấy đấy. Kể cả những người giúp việc. Họ là những người cũng được Cậu chữa lành bệnh, nay tình nguyện ở lại làm công quả, người hai năm, người ba năm... Tất cả đều tuân thủ nguyên tắc không tiếp xúc riêng với bất kì bệnh nhân hay người nhà nào. Mọi người bệnh đều tuyệt đối bình đẳng, không hề có ưu tiên, trừ bệnh nặng...? ?" ?oBệnh nặng thì sao?? ?" ?oThì sẽ được khám và cho thuốc ngay. Còn không phải đăng kí trước hàng tháng theo từng ?ođoàn?, có danh sách hẳn hoi. Đông ùn ùn thế này, không đặt ra quy củ thế có mà loạn...?
    Về đến phòng trọ, ông chủ nhà trọ hớt hải chạy đến đòi tôi giấy chứng minh nhân dân để đem lên trình công an xã. ?oTôi tìm anh mãi. Không có giấy chứng minh, bố tôi cũng không dám cho anh ngủ trọ. Họ mà biết thì ngày mai tôi hết được cho thuê phòng luôn.? Ra thế. Đây là dấu hiệu duy nhất cho thấy sự tồn tại của chính quyền. Tôi móc giấy đưa cho ông ta rồi kéo chiếc ghế nhựa ra hè ngồi. Trời nóng kinh khủng. Muỗi bay ràn rạt làm tôi cứ phải luôn tay đập đen đét. Chắc chẳng bao giờ người ta phun thuốc trừ muỗi, mà có phun chắc cũng không xuể. Những phòng trọ rì rầm, nhốn nháo tiếng người. Thôi thì đủ các giọng Bắc, Trung, Nam... Chỉ cần ngoái đầu lại một cái là lập tức mùi người hầm hập, đặc quánh xộc thẳng vào mặt. Những căn phòng đen ngòm như những cái hang chuột khổng lồ. Mấy bóng đen lầm lũi ra vào, hoặc đứng, hoặc ngồi, hoặc chổng mông sắc thuốc la liệt suốt dọc con đường đất tối thui. Mùi thuốc thơm bốc lên không át nổi mùi chua khẳn, hôi hám của con rạch đâm thẳng ngay trước mặt. Cái loa thùng ở một quán gần đấy cất lên một giọng ca vọng cổ não nề. Một cái loa khác lại ca tân nhạc, nghe mà phát ớn: ?oChưa có bao giờ đẹp như hôm nay, non nước mây trời lòng ta mê say...? Đàn muỗi xung quanh tôi đã thay đổi chiến thuật. Chúng chia làm nhiều mũi, tấn công tôi tứ phía, cả trên mặt lẫn dưới chân như bị rắc cát. Tôi phải đứng bật dậy, co chân chạy đi chạy lại, vừa chạy vừa quạt tay lia lịa như thể ra dấu hiệu xin hàng... Một đêm kinh khủng đây, tôi nghĩ...
    Quả là nếu Cậu Tư không đặt ra quy củ thì không biết sẽ hỗn loạn ra sao. Sáng hôm sau tôi mới chứng kiến những người bệnh đông như thế nào. Từ khắp các nhà trọ bên này cầu, bên kia cầu, từng đám người lôi thôi bồng bế, dắt díu nhau ra. Thật chỉ khác với những cô hồn trong mô tả của cụ Nguyễn Du ở thời khắc. Tất cả lại rồng rắn theo con hẻm nhỏ rì rầm kéo vào nhà Cậu Tư. Khoảnh sân trước ?ophòng khám? của Cậu hầu như đã kín người, song ai cũng từ tốn, trật tự. Cậu Tư vẫn ngồi chỗ tối qua, ngay sau chiếc bàn kê giữa ?ophòng khám?. Tay Cậu cầm một chiếc khăn bông, phanh ngực lau mồ hôi túi bụi. Bên cạnh Cậu có một người đàn ông mặt đỏ au mặc áo ca rô, một tay cầm xấp giấy nhỏ, một tay cũng đang hối hả lau mồ hôi. Đó là Cậu Ba, viên ?othư kí? ghi bệnh, đồng thời bốc thuốc, trợ thủ đắc lực của Cậu Tư. Hai chiếc ghế băng kê hai bên ?ophòng khám? đã kín người ngồi. Đó là những người bệnh may mắn đã đăng kí trước theo ?ođoàn?.
    Tám giờ sáng, cuộc khám bắt đầu. Cậu Ba cầm từng mảnh giấy lên đọc tên. Lần lượt từng người trong ?ođoàn? rời khỏi ghế, tới ngồi trước mặt Cậu Tư. Cậu Tư một tay xem mạch, một tay trỏ vào chỗ nọ chỗ kia trên cơ thể người bệnh, nói rành rọt từng căn bệnh, triệu chứng... để Cậu Ba ghi vào ?obệnh án?. Người bệnh ngồi trước mặt Cậu không hề phải kể, không hề nói bất kì câu gì. Cứ thế Cậu chỉ ra từng chỗ, từng chỗ... như thể Cậu nhìn thấu lục phủ ngũ tạng, nhìn thấu tận xương tuỷ của người bệnh vậy. Tất cả chỉ trong vòng một phút, đúng một phút không hơn không kém. Từ tim, gan, phèo, phổi... đến máu, thận, dạ dày, rồi ruột non, ruột già, từ bàng quang, tiền liệt tuyến đến cột sống, ống chân, v.v... đau ở đâu, u ở đâu, kích thước bao nhiêu, đã di căn chưa, di căn tới chỗ nào... Rồi thì nhức ở đâu, mỏi ở đâu, mất ngủ như thế nào, váng vất ra làm sao, cái gì gây nên bệnh, chỗ nào cần chữa ngay... Cả những chỉ số y học như áp huyết, lượng đường, cholestrol, chức năng gan... Cậu vanh vách chỉ ra chính xác đến từng dấu phẩy, như thể Cậu đang đọc một bản thông báo đặt ngay trước mặt vậy. Thật là những cuộc khám tổng quát kì diệu, có một không hai trên thế gian này. Sở dĩ nói như thế bởi tất cả chỉ diễn ra trong vòng 1 phút. Ai đã từng vô bệnh viện khám tổng quát? Nếu suôn sẻ, thì ít nhất cũng phải mất cả ngày trời với bao nhiêu xét nghiệm, rồi lấy máu, lấy nước tiểu, rồi X quang, siêu âm, rồi nội soi, điện tâm đồ... với những thiết bị tinh vi, những chuyên gia đầy bằng cấp... mà cũng phải đợi hàng tuần sau mới có đầy đủ kết quả, những kết quả y hệt như Cậu Tư vừa chỉ ra trong cái phút giây thần kì ấy.
    Tôi đang chứng kiến một câu chuyện thần thoại diễn ra ngay trước mắt mình. Chẳng mấy chốc Cậu Tư đã khám xong cho số người đăng kí trước ở hai hàng ghế. Họ sẽ được Cậu Ba ghi toa và bốc thuốc phát ngay trong ngày hôm đó. Những ngày sau không cần khám lại nữa, người nhà chỉ việc đem toa vào lãnh thuốc. Bây giờ đến lượt những ca bệnh nặng, những người chưa kịp đăng kí đang ngồi la liệt dưới sân. ?oThuật ngữ? ở đây gọi là ?okhám ngoài giờ? (lẽ ra phải là ?ongoài luồng? mới đúng). Già trẻ lớn bé, bất kể thần thái ra sao, bất kể mập ốm thế nào, cứ bệnh nặng là Cậu nhìn ra, không trật một người nào. Sau khi lau mồ hôi, ngồi một lát định thần, Cậu trỏ tay gọi người này, người kia... Tất cả hầu như bệnh nan y. Một phụ nữ vừa tới được một lúc, trên tay bế đứa nhỏ khoảng bốn tuổi. Cô bé mặt mũi kháu khỉnh, ngây thơ, người ốm nhom như bị suy dinh dưỡng. Cậu Tư vừa nhìn thấy liền gọi ngay:
    ?oBịnh viện nhi đồng trả về phải không? Tội nghiệp, con bé trông thế kia mà bị ung thư máu nặng đấy. Thôi thì còn nước còn tát...?
    Người phụ nữ đổ sụp xuống, òa lên nức nở. ?oTrời, đúng thế đấy Cậu Tư ơi. Xin Cậu cứu lấy con tui...?
    Đến lượt người đàn ông tối qua. Khoanh ngón tay trỏ và ngón cái dí vào bụng người ấy làm động tác ?onội soi?, Cậu bảo:
    ?oTối qua, tao đoán khối u này chừng 27 cm. Nay ?onội soi? cho kết quả hai mươi chín phẩy hai xăng ti mét...?
    Người khác:
    ?oGiở áo lên coi vết mổ ở bụng xem nào. Cắt dạ dày phải không? Ẩu quá, phải chụp lại làm bằng chứng mới được, sau này nhỡ bịnh viện họ cãi phăng. Họ cắt có một phần ba phía bờ cong lớn, lại nói là cắt hai phần ba. Mày bị loét dạ dày nặng, đâu phải ung thư. Nay động dao kéo vào nó sinh ra di căn...?
    ...
    Buổi khám bệnh kết thúc đúng vào lúc 10 giờ. Hai tiếng đồng hồ kịp yên lòng cho khoảng trên dưới 40 người may mắn. Những người khác tiếp tục chờ đến hôm sau, hôm sau, và hôm sau nữa, v.v... Cậu Tư và Cậu Ba phờ phạc đứng dậy, trật áo ra khỏi vai lau mồ hôi, một tay cầm chiếc quạt giấy quạt lấy quạt để. Đám đông vẫn từ tốn, trật tự kéo nhau rời khỏi mảnh sân. Không một tiếng năn nỉ, luật vậy rồi, năn nỉ cũng vô ích. Rất nhiều người chưa được khám, song không một gương mặt thất vọng. Tất cả rồi sẽ đến lượt. Chỉ một phút thôi. Nhưng để có được cái phút quý giá ấy, nhiều người đã phải ăn chực nằm chờ cả tháng trời...


  5. boxwehn

    boxwehn Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    09/07/2004
    Bài viết:
    882
    Đã được thích:
    0
    Rồi cũng đến lúc tôi rời khỏi cái ấp nhỏ bé chật chội và ô nhiễm ấy. Chiếc cầu xi măng cong cong bắc qua con kinh vừa trải qua một ngày đêm đã trở nên thân thuộc. Trước đây nó chỉ là cái cầu khỉ, người lớn phải cõng trẻ con qua. Ngay đầu cầu gắn một tấm biển đề mấy câu ?olục, bát? cực kì sái vần:
    ?oQua cầu chậm bước ngắm nhìn
    Nhớ đời từ thiện ông bà Thọ, Thu?
    Tôi được biết ông bà có tên Thọ và Thu ấy đã bỏ tiền xây chiếc cầu này. Nghe người ở đây bảo ông bà ấy là Việt kiều Canada. Ông được Cậu Tư chữa khỏi ung thư. Thỉnh thoảng về nước họ vẫn ghé thăm Cậu Tư. Dòng kinh đen ngòm vẫn lờ đờ trôi những rác rưởi, mảnh bao ni lông... Đứng trên cầu nhìn bốn phía, nhà trọ, quán hàng, quán cà phê, tạp hoá... cái thụt cái thò, chen vai thích cánh. Duy nhất có 1 dãy nhà trọ xây gồm 7 phòng, mái lợp tôn. Dân ở đây nhờ có Cậu Tư mà đã tự phát phát triển bao nhiêu dịch vụ. Hàng nghìn người bệnh rách rưới từ khắp nơi đổ về đây vì thế cũng có chỗ che mưa che nắng, có chỗ mua thức ăn, nước uống, mua than, mua củi sắc thuốc... Không thấy một dấu hiệu nào của cái chính quyền ?ocủa dân, do dân và vì dân? của địa phương này ở đâu, ngoại trừ việc trình giấy chứng minh nhân dân. Chợt nhớ chuyện thời nhà Chu bên Tàu. Cách đây hơn hai ngàn năm, các quan sở tại thời đó còn biết cất những nhà quán xá ở dọc đường để cho khách thập phương tam đạo có chỗ nghỉ phòng khi bị lỡ độ đường... Gần mười tám năm rồi, sao người dân nơi đây không ?ođầu tư? những phòng trọ cho tử tế một chút nhỉ? Câu trả lời tôi vừa nhận được từ một ông chủ nhà: ?oĐầu tư thì giá thuê mắc, người nghèo lấy đâu ra trả. Họ chỉ cần 1 chỗ nằm thôi. Vả lại, biết Cậu Tư còn được cái khả năng ấy đến lúc nào?? Tôi giật thót mình. Cậu Tư đến một lúc nào đó, có thể sẽ mất đi cái khả năng kì diệu ấy sao?
    Con đường nhựa lại đưa tôi ra ngoài lộ. Nghe nói ngày trước nó chỉ là một con đường đất lầy lội. Ngay đầu đường cũng trồng một tấm bảng đúc bằng xi măng, trên đó có ghi mấy câu thơ:
    Từ giã nơi đây cổ nghẹn ngào
    Hết bệnh mạnh giỏi nghĩa ơn sâu
    Thân con nay còn - Cậu Tư giúp
    Ơn này mang nặng đến đời sau
    Phía dưới ghi tên họ những người đã góp tiền làm nên con đường này. Chả cứ gì họ. Ngay cả tôi, chứng kiến những kiếp người khốn khổ đang trầy trụa, nhẫn nhục chịu đựng dưới cái nắng nóng khắc nghiệt, trong những ổ chuột khổng lồ kia để cố níu kéo lấy sự sống của mình, nghĩ đến những gì đã chứng kiến từ hôm qua đến giờ, chính tôi cũng cảm thấy cổ họng nghẹn ngào. Trong óc tôi chợt hiện lên mấy câu thơ mộc mạc treo ngay nơi phát thuốc trong nhà Cậu Tư. Nghe nói mấy câu này là của Cậu Tư dành tặng Cậu Ba:
    Bàn tay phục dược uy linh
    Trần thân xả hết sức mình cứu nguy
    Phước này non biển đâu bì
    Tấm lòng quảng đại từ bi tuyệt vời
    Miền Tây, một ngày cuối tháng 4 năm 2007
    www.talawas.org/talaDB/suche.php?res=9890&rb=09
    -----
    (Mạn phép tác giả lược bỏ một vài đoạn).


  6. boxwehn

    boxwehn Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    09/07/2004
    Bài viết:
    882
    Đã được thích:
    0
    Câu chuyện của một Tiến sĩ toán học Harvard University
    Ngày 28/9/1997, An Kim Bằng, học sinh lớp 12 trường Trung học số 1 của Thiên Tân (Trung Quốc) đã đoạt Huy chương Vàng cuộc thi Olympic Toán quốc tế lần thứ 38 tại Argentina. Sau lưng của An Kim Bằng và tấm Huy chương Vàng làm cả Thiên Tân tự hào là một câu chuyện về mẹ.
    [​IMG]
    Người mẹ nông dân của tôi
    Ngày 5/9/1997, là ngày tôi rời gia đình đi nhập học ở Đại học Bắc Kinh, khoa Toán.
    Ngọn khói bếp dài cất lên từ trên nóc ngôi nhà nông dân cũ nát gia đình tôi. Người mẹ chân thập thễnh của tôi đang nấu mì sợi cho tôi, những bột mì này có được nhờ mẹ đổi năm quả trứng gà cho hàng xóm, chân mẹ bị thương vì mấy hôm trước, để thêm tí tiền cho tôi nhập học, mẹ đẩy một xe chất đầy rau từ thôn ra thị trấn, trên đường bị trật chân.
    Bưng bát mì, tôi đã khóc.
    Tôi buông đũa quỳ xuống đất, xoa nắn chỗ chân sưng phồng lên to hơn cả cái bánh bao của mẹ, nước mắt rơi xuống đất... Nhà tôi ở Thiên Tân, làng Đại Hữu Đới, huyện Vũ Thanh, tôi có một người mẹ tốt nhất thế gian tên là Lý Diệm Hà.
    Nhà tôi vô cùng nghèo khó.
    Khi tôi ra đời, bà nội ngã bệnh ngay trên giường sưởi, tôi bốn tuổi, ông nội lại mắc bệnh hẹp khí quản và bán thân bất toại, những món nợ trong nhà lớn dần theo năm.
    Khi bảy tuổi, tôi được đi học, học phí là mẹ vay người khác.
    Tôi thường đi nhặt những mẩu bút chì bạn bè vứt đi, dùng dây buộc nó lên một cái que rồi viết tiếp, hoặc dùng một cái dây chun xoá sạch những cuốn vở bài tập đã viết, rồi viết lại lên đó, mẹ thương tôi đến mức, cũng có lúc đi vay vài hào của hàng xóm để mua vở và bút chì cho tôi.
    Nhưng cũng có những khi mẹ vui vẻ, là khi bất kể bài kiểm tra nhỏ hay kỳ thi lớn, tôi luôn đứng đầu, toán thường được 100/100 điểm. Dưới sự khích lệ của mẹ, tôi càng học càng thấy ham thích. Tôi thực sự không hiểu trên đời còn có gì vui sướng hơn được học hành.
    Chưa đi học lớp một tôi đã thông thạo cộng trừ nhân chia và phân số, số phần trăm; khi học Tiểu học tôi đã tự học để nắm vững Toán Lý Hoá của bậc Trung học Phổ thông; Khi lên trung học, thành phố Thiên Tân tổ chức kỳ thi vật lý của bậc Trung học, tôi là đứa học trò nông thôn duy nhất của cả năm huyện ngoại thành Thiên Tân được giải, một trong ba người đỗ đầu.
    Tháng 6 năm đó, tôi được đặc cách vào thẳng trường Trung học số 1 danh tiếng của Thiên Tân, tôi vui sướng chạy như bay về nhà.
    Nào ngờ, khi tôi báo tin vui cho cả nhà, mặt bố mẹ chất chứa toàn những đau khổ; bà nội vừa mất nửa năm, ông nội đang gần kề cái chết, nhà tôi đã mắc nợ tới hơn mười nghìn Nhân dân tệ rồi. Tôi lặng lẽ quay về bàn học, nước mắt như mưa suốt một ngày.
    Đến tối, tôi nghe thấy ở ngoài nhà có tiếng ồn ào. Thì ra mẹ tôi đang định dắt con lừa con của nhà đi bán, cho tôi đi học, nhưng ba tôi không chịu.
    Tiếng ồn ào làm ông nội nghe thấy, ông đang bệnh nặng, trong lúc buồn bã ông đã lìa đời.
    Sau lễ an táng ông nội, nhà tôi lại mắc thêm vài nghìn tệ tiền nợ nữa. Tôi không còn dám nhắc đến việc đi học nữa, tôi cất "Giấy báo nhập học" thật kỹ vào vỏ gối, hàng ngày tôi ra đồng làm việc cùng mẹ.
    Sau hai hôm, tôi và ba tôi cùng lúc phát hiện ra: con lừa con biến mất rồi.
    Ba tôi sắt mặt lại, hỏi mẹ tôi: "Bà bán con lừa con rồi à? Bà bị thần kinh à? Sau này lấy gì kéo, lương thực hoa màu bà đẩy xe tay nhé, bà tự cõng nhé? Bà bán lừa một hai trăm bạc liệu cho nó học được một học kỳ hay là hai học kỳ?"
    Hôm đó mẹ tôi khóc, mẹ tôi dùng một giọng rất dữ dội rất hung dữ để gào lại ba tôi:
    "Con cái mình đòi đi học thì có gì sai? Nó thi lên được trường số 1 của thành phố nó là đứa duy nhất của cả huyện này đấy, tôi không thể để cho tiền đồ của nó bị lỡ dở được. Tôi sẽ dùng tay đẩy, dùng lưng vác, để cho nó đi học..."
    Cầm sáu trăm tệ mẹ vừa bán lừa, tôi thật sự chỉ muốn quỳ xuống dập đầu trước mẹ. Tôi đã thích được học quá rồi, mà còn học tiếp, thì mẹ sẽ khổ sở bao nhiêu, vất vả bươn chải thêm bao nhiêu?
    Mùa thu năm đó tôi quay về nhà lấy áo lạnh, thấy mặt ba tôi vàng như sáp, gầy da bọc xương đang nằm trên giường sưởi. Mẹ bình thản bảo: "Có gì đâu, bị cảm, sắp khỏi rồi". Ai ngờ, hôm sau tôi xem vỏ lọ thuốc của ba, thì thấy đó là thuốc ngăn ngừa tế bào ung thư phát triển.
    Tôi kéo mẹ ra ngoài nhà, khóc hỏi mẹ mọi chuyện là thế nào, mẹ bảo, từ sau khi tôi đi học, ba bắt đầu đi ngoài ra máu, ngày càng nặng lên. Mẹ vay sáu nghìn tệ đưa ba lên Thiên Tân, Bắc Kinh đi khắp nơi, cuối cùng xác định là u nhu ruột bowel polyps, bác sĩ yêu cầu ba phải mổ gấp. Mẹ chuẩn bị đi vay tiền tiếp, nhưng ba kiên quyết không cho. Ông nói, bạn bè họ hàng đã vay khắp lượt rồi, chỉ vay mà không trả thì còn ai muốn cho mình vay nữa!
    Hàng xóm kể với tôi: Mẹ dùng một phương pháp nguyên thuỷ và bi tráng nhất để gặt lúa mạch.
    Mẹ không đủ sức gánh lúa mạch ra sân kho để tuốt hạt, mẹ cũng không có tiền thuê người giúp, mẹ bèn gặt dần, lúa mạch chín chỗ nào gặt chỗ đó, sau đó dùng xe cải tiến chở về nhà, tối đến mẹ trải một tấm vải nhựa ra sân, dùng hai tay nắm từng nắm lúa mạch đập lên một hòn đá to...
    Lúa mạch trồng trên ba mẫu đất của nhà, một mình mẹ làm, mệt đến mức không đứng dậy nổi nữa thì mẹ ngồi xổm xuống cắt, đầu gối quỳ còn chảy máu, đi đường cứ cà nhắc...
    Không đợi hàng xóm kể hết, tôi chạy như bay về nhà, khóc to gọi mẹ: "Mẹ, mẹ, con không thể đi học nữa đâu...". Kết quả, mẹ vẫn tống tôi lên trường.
    Tiền sinh hoạt phí mỗi tháng của tôi chỉ 60 đến 80 tệ (tương đương 120-160.000 VND), thật thảm hại nếu so với những người bạn học khác mỗi tháng có 200-240 tệ. Nhưng chỉ mình tôi biết, món tiền nhỏ này mẹ tôi cũng phải tằn tiện lắm, từ ngày đầu tháng đã dành từng hào từng hào, bán từng quả trứng gà, rau xanh lấy từng đồng từng đồng, có lúc dành dụm không đủ đã phải giật tạm vài đôi chục. Mà cha tôi, em trai tôi, dường như chẳng bao giờ có thức ăn, nếu nhà ăn rau cũng chẳng dám xào mỡ, chỉ chan tí nước dưa muối ăn qua bữa.
    Mẹ không muốn tôi đói, mỗi tháng mẹ chăm chỉ đi bộ hơn mười cây số mua mì tôm với giá bán buôn. Rồi mỗi cuối tháng, mẹ vất vả cõng một túi nặng lên Thiên Tân thăm tôi. Trong túi ấy ngoài những gói mì tôm ra, còn có nhiều xếp giấy loại mẹ phải đi bộ ra một xưởng in ngoài thị trấn cách nhà 6km để xin cho tôi (đó là giấy để tôi làm nháp toán), cả một chai tương cay rất to, cải bẹ muối thái sợi, và cả một cái tông đơ để cắt tóc. (Cắt tóc nam rẻ nhất Thiên Tân cũng phải 5 tệ, mẹ muốn tôi dành tiền cắt tóc để mua thêm lấy vài cái bánh bao mà ăn).
    Tôi là học sinh cấp 3 duy nhất của Thiên Tân đến cả rau ở bếp ăn nhà trường cũng không mua nổi, chỉ có thể mua vài cái bánh bao, mang về ký túc ăn cùng mì sợi khô hoặc chấm với tương ớt, kẹp dưa muối để ăn qua bữa. Tôi cũng là học sinh duy nhất không có giấy kiểm tra, chỉ có thể tận dụng giấy một mặt của xưởng in để viết bài. Tôi là đứa học sinh duy nhất chưa bao giờ dùng xà phòng, khi giặt quần áo tôi thường đi nhà bếp xin ít bột kiềm nấu ăn (alkali - chất kiềm, dùng để hấp bánh bao, làm bánh nướng, làm nước sôđa) là xong. Nhưng tôi chưa bao giờ tự ti, tôi cảm thấy mẹ tôi khổ cực cả đời, như người anh hùng chống lại đói khổ, làm con của người mẹ như thế tôi rất tự hào.
    Hồi mới lên Thiên Tân, tiết học tiếng Anh đầu tiên khiến tôi ù cạc. Khi mẹ lên, tôi kể cho mẹ nghe tôi sợ tiếng Anh thế nào, ai ngờ mẹ chỉ cười bảo: "Mẹ chỉ biết con là đứa trẻ con khổ cực nhất, mẹ không thích con kêu khó, vì chịu khổ được thì chả còn gì khó nữa."
    Tôi hơi bị nói lắp, có người bảo, học tiếng Anh đầu tiên cần làm chủ được cái lưỡi của mình, bởi vậy tôi thường kiếm một hòn sỏi ngậm vào miệng mình, rồi gắng đọc tiếng Anh. Hòn sỏi cọ xát vào lưỡi tôi, có lúc máu chảy ra bên mép, nhưng tôi cố gắng để kiên trì. Nửa năm trôi qua, hòn sỏi nhỏ đã bị mài tròn đi, lưỡi tôi cũng đã nhẵn, tiếng Anh đã thành người giỏi thứ 3 của lớp.
    Tôi vô cùng cảm ơn mẹ, lời mẹ khích lệ tôi vượt qua khó khăn lớn trong học tập.
    Năm 1996, lần đầu tiên tôi được tham gia cuộc thi Olympic tri thức toàn quốc khu vực Thiên Tân, đoạt giải Nhất môn Vật lý và giải Nhì môn Toán học, tôi được đại diện Thiên Tân đi Hàng Châu tham gia Cuộc thi Olympic toàn Trung quốc môn Vật lý.
    "Đoạt lấy chiếc Cup giải Nhất toàn Trung quốc tặng mẹ, rồi lên đường dự Olympic Vật lý Thế giới!" Tôi không ngăn được nỗi khao khát trong lòng, tôi viết thư báo cho mẹ tin vui và mơ ước của tôi.
    Kết quả, tôi chỉ được giải Nhì, tôi nằm vật ra giường, không ăn không uống.
    Dù tôi là người đạt thành tích cao nhất trong đoàn Thiên Tân đi thi, nhưng nếu tính cả những khốn khổ của mẹ tôi vào, thì thành tích này không xứng đáng!
    Tôi về trường, các thầy ngồi phân tích nguyên nhân thất bại cho tôi thấy: Tôi những muốn phát triển toàn diện cả Toán Lý Hoá, những mục tiêu của tôi quá nhiều nên sức lực tinh thần tôi phải phân tán rộng. Nếu giờ tôi chỉ chọn một mục tiêu trước mắt là kỳ thi Toán, nhất định tôi thắng.
    Tháng 1 năm 1997, tôi cuối cùng đã giành chiến thắng tại kỳ thi Olympic Toán toàn Trung Quốc với điểm số tuyệt đối, lọt vào đội tuyển Quốc gia, cả mười kỳ thi kiểm tra ở đội tuyển tôi đều là người đứng đầu. Với thành tích đó, tôi được sang Argentina tham gia kỳ thi Olympic Toán quốc tế.
    Nộp xong phí báo danh, tôi gói những sách vở cần chuẩn bị và tương đậu cay của mẹ lại, chuẩn bị lên đường.
    Giáo viên chủ nhiệm và thầy giáo dạy Toán thấy tôi vẫn mặc bộ quần áo thải của người khác cho, những thứ áo quần màu sắc chả đâu vào đâu, kích cỡ khác nhau, bèn mở tủ áo của tôi ra, chỉ vào những áo trấn thủ vá, những áo bông tay đã phải nối hai lần, vạt đã phải chắp ba phân, hỏi tôi:
    "Kim Bằng, đây là tất cả quần áo của em ư?"
    Tôi chả biết nói sao, vội đáp: "Thầy ơi, em không sợ người khác chê cười! Mẹ em thường bảo, Phúc Hữu Thi Thư Khí Tự Hoa - trong lòng có sách vở tất mặt mũi sáng sủa, em mặc những thứ đồ này đi Mỹ gặp tổng thống Clintơn em cũng chẳng thấy ngượng."
    Ngày 27/7, Olympic Toán học Thế giới lần thứ 38 chính thức khai mạc.
    Chúng tôi thi liên tục suốt năm tiếng rưỡi, từ 8 giờ 30 phút sáng tới 2h chiều. Ngày hôm sau công bố kết quả, đầu tiên công bố Huy chương Đồng, tôi không muốn nghe thấy tên mình; Sau đó công bố Huy chương Bạc, cuối cùng, công bố Huy chương Vàng, người đầu tiên, người thứ hai, người thứ ba là tôi.
    Tôi khóc lên vì sung sướng, trong lòng tự nói: "Mẹ ơi, con mẹ thành công rồi!"
    Tin tôi và một người bạn nữa đoạt Huy chương Vàng kỳ thi Olympic Toán học ngay chiều hôm đó đã được Đài phát thanh Nhân dân Trung ương TQ và Đài truyền hình Trung ương TQ đưa. Ngày 1/8, chúng tôi vinh quang trở về, lễ đón long trọng được Hiệp hội khoa học Trung Quốc và Hội Toán học TQ tổ chức. Khi đó, tôi muốn về nhà, tôi muốn sớm gặp mẹ, tôi muốn chính tay tôi đeo tấm huy chương vàng chói lọi lên cổ mẹ...

    An Kim Bằng nhận Huy chương Vàng IMO tại Argentina năm 1997​
    Hơn mười giờ đêm tối hôm đó, tôi cuối cùng đã đội trời đêm về đến nhà. Người mở cửa là ba tôi, nhưng người một tay ôm chặt lấy tôi vào ngực trước lại chính là mẹ tôi.
    Dưới trời sao vằng vặc, mẹ tôi ôm tôi rất chặt...
    Tôi lấy tấm huy chương vàng đeo lên cổ mẹ, khóc một cách nhẹ nhõm và sung sướng.
    Ngày 12/8, trường Trung học số Một của Thiên Tân chật ních người, mẹ được ngồi lên bàn Chủ tịch danh dự cùng với các quan chức Cục giáo dục Thiên Tân và các giáo sư toán học hàng đầu. Hôm đó, tôi đã phát biểu thế này:
    "Tôi muốn dùng cả sự sống của tôi để cảm tạ một người, là người mẹ đã sinh và nuôi nấng tôi. Mẹ tôi là một người phụ nữ nông dân bình thường, nhưng những đạo lý mẹ dạy tôi nên người đã khích lệ tôi cả đời. Năm tôi học lớp 10, tôi muốn mua cuốn sách "Đại từ điển Anh-Trung" để học tiếng Anh, mẹ tôi không có tiền, nhưng mẹ vẫn nghĩ cách giúp tôi.
    Sau bữa cơm sáng, mẹ tôi mượn một chiếc xe cải tiến, chất một xe rau cải trắng, hai mẹ con tôi đẩy ra chợ huyện cách hơn bốn mươi km bán rau. Đến được chợ đã gần trưa, buổi sáng đó tôi và mẹ chỉ ăn hai bát cháo ngô nấu với khoai lang đỏ, lúc đó bụng đói cồn cào, chỉ mong có ai tới mua cho cả xe rau ngay. Nhưng mẹ vẫn nhẫn nại mặc cả từng bó, cuối cùng bán với giá 1 hào một cân. Hai trăm cân rau đáng lẽ 21 tệ, nhưng người mua chỉ trả 20 tệ.
    Có tiền rồi tôi muốn ăn cơm, nhưng mẹ bảo nên đi mua sách trước, đó là việc chính của ngày hôm nay. Chúng tôi đến hiệu sách hỏi, giá sách là 18 tệ 2 hào 5 xu, mua sách rồi còn lại 1 tệ 7 hào 5 xu. Nhưng mẹ chỉ cho tôi 7 hào rưỡi đi mua hai cái bánh bột nướng, một tệ kia còn phải cất đi để dành cho tôi làm học phí. Tuy ăn hết hai cái bánh nướng, nhưng đi bộ tiếp 40km về nhà, tôi vẫn đói tới mức hoa mắt chóng mặt, lúc này tôi mới nhớ ra tôi đã quên không phần cho mẹ ăn một miếng bánh nướng nào, mẹ tôi chịu đói cả ngày, vì tôi mà kéo xe suốt 80km đường xa.
    [​IMG]
    Bánh bột nướng
    Tôi hối hận tới mức chỉ muốn tát cho mình một cái, nhưng mẹ tôi chỉ bảo: "Mẹ ít văn hoá, nhưng mẹ nhớ khi nhỏ được thầy giáo dạy là, Golgi có nói một câu: Nghèo đói là trường đại học tốt nhất. Nếu con có thể tốt nghiệp trường đại học này, thì những trường đại học như Thiên Tân, Bắc Kinh con chắc chắn đều đỗ."
    Khi mẹ nói thế mẹ không nhìn tôi, mẹ nhìn ra con đường đất xa xôi, cứ như thể con đường đất đó có thể thông tới tận Thiên Tân, đi thẳng tới Bắc Kinh. Tôi nghe mẹ bảo thế, tôi không thấy đói nữa, chân tôi không mỏi nữa..
    Nếu nghèo đói là trường đại học tốt nhất, thì tôi muốn nói rằng, người mẹ nông dân của tôi chính là người thầy giáo giỏi nhất của đời tôi."
    Dưới khán đài, không biết có bao nhiêu đôi mắt đã ướt đẫm, tôi quay về phía người mẹ tóc hoa râm của tôi, cúi người xuống kính cẩn...
    ----------------------------------------
    Trang Hạ (tổng hợp các báo Trung Quốc, cuốn "Tâm hồn cao đẹp", tự truyện của An Kim Bằng, tự truyện của Lưu Lệ Quyên)
    http://blog.360.yahoo.com/blog-Vu7viS0laaeZd4RQ7woX3YU-?cq=1&p=7775
    được Tuan_Ngoc_Pham sửa chữa / chuyển vào 10:23 ngày 05/04/2008
  7. boxwehn

    boxwehn Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    09/07/2004
    Bài viết:
    882
    Đã được thích:
    0
    Viết Trên Tường Nhà Dưỡng Lão​
    Tôi nghĩ là những dòng chữ này viết trong những lúc cô đơn, hồi ức về những thứ ở ngoài bức tường Viện Dưỡng Lão.
    Ở Đài Loan:
    (Thuỷ Khởi)
    Con ơi! Khi con còn thơ dại,
    Mẹ đã mất rất nhiều thời gian,
    Mẹ dạy con cầm thìa, dùng đũa ăn cơm;
    Mẹ dạy con buộc dây giày, chải tóc, lau nước mũi;
    Những kỷ niệm về những năm tháng mẹ con mình sống bên nhau
    Làm mẹ nhớ thương da diết,
    Vì thế, khi mẹ chóng quên, mẹ chậm lời
    Con hãy cho mẹ chút thời gian, xin con chờ mẹ chút,
    Cho mẹ suy nghĩ thêm...
    Cho dù cuối cùng ngay cả định nói gì,
    Mẹ cũng quên...
    Con ơi! Con quên là mẹ con ta đã tập luyện hàng trăm lần,
    Con mới thuộc khúc đồng dao đầu đời?
    Con nhớ không mỗi ngày mẹ đáp
    Những câu ngây ngô, hàng trăm câu con hỏi từ đâu?
    Nên nếu mẹ lỡ kể lể nhiều lần những câu chuyện móm răng
    Ngâm nga những khúc ru con thời con bé
    Xin con tha thứ cho mẹ
    Xin con cho mẹ chìm trong những hồi ức ấy nhé!
    Xin con đáp lời mẹ kể những chuyện vụn vặt trong nhà!
    Con ơi! Giờ mẹ thường quên cài nút áo, xỏ dây giày,
    Ăn cơm vãi đầy vạt áo,
    Chải đầu tay bần bật run,
    Đừng giục giã mẹ,
    Xin con nhẫn nại chút và dịu dàng thêm,
    Mẹ chỉ cần có con ở bên
    Mẹ đủ ấm.
    Con ơi! Bây giờ mẹ đi chân không vững, nhấc không nổi bước
    Mẹ xin con nắm tay mẹ,
    Dìu mẹ, chậm thôi
    Như năm đó,
    Mẹ dìu con đi những bước đầu đời.
    http://blog.360.yahoo.com/blog-Vu7viS0laaeZd4RQ7woX3YU-?cq=1&p=5397
    ---------------------------------------------------
    (2 bài viết trên đã được Trang Hạ đồng ý đưa lên TTVN. Thanks Trang Hạ!)

    Được boxwehn sửa chữa / chuyển vào 22:46 ngày 17/09/2007
  8. boxwehn

    boxwehn Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    09/07/2004
    Bài viết:
    882
    Đã được thích:
    0
    ĂN XIN, NGỦ BỤI VÀO OXFORD
    HẠNH NHƠN
    Nguyễn Phan Anh Tú - lại là tên của một cô gái xinh xắn, sinh năm 1985, vừa tốt nghiệp Đại học Oxford (Anh). Cùng một lúc, cô theo học cả hai ngành: Quản trị kinh doanh và tiếp thị. Câu chuyện của cô không có những danh lam thắng cảnh, những tiện nghi hiện đại ở xứ người... nhưng vẫn đầy sức hấp dẫn và cảm động.
    ?oKhi tôi đang học lớp 9, ba mẹ tôi bị thất bại, phá sản. Những ngày tiếp theo là một sự thay đổi khủng khiếp. Từ giã ngôi biệt thự, gia đình tôi năm người, ba mẹ và ba đứa con, sống lay lắt trong một căn phòng nhỏ xíu, mà tiền thuê nhà cũng làm chúng tôi chóng mặt. Trong khối tài sản phải bán đi trả nợ, tôi tiếc nhất cây đàn Piano, vì nó cùng tôi lớn lên, nuôi dưỡng tuổi thơ của tôi. Biết tôi yêu âm nhạc, mẹ cố giữ cây đàn violon, nhưng cuối cùng cũng phải giã từ cây đàn nhỏ bé ấy, dù nó chỉ đổi được vài bữa cơm đạm bạc.
    Dù yêu đàn, nhưng tôi không chọn nghiệp âm nhạc.Xong cấp III, tôi chỉ muốn vào Đại học Kinh tế, vì nghĩ đơn giản đó là ngành học có thể kiếm được tiền lo cho gia đình. Tôi tự học tiếng Anh để dễ tìm việc làm.
    Một cuộc gặp gỡ đã làm thay đổi cuộc đời tôi. Một chiều, tôi làm quen với một người Ý, chỉ vì muốn thực hành tiếng Anh. Người bạn mới, tình nguyện viên của một tổ chức phi chính phủ, hỏi tôi. ?oSao bạn không đi du học??. Gợi ý đó gieo vào lòng tôi một niềm tin. Không nói suông, anh bắt đầu tìm trên internet danh sách các trường ĐH trên thế giới, chọn ra cho tôi 5 đề thi. Đáp lại sự giúp đỡ của anh, tôi cố gắng làm bài, coi như một cơ hội rèn luyện kỹ năng viết tiếng Anh. Thật bất ngờ, ĐH Oxford của Anh gọi tôi nhập học, ngành quản trị kinh doanh.
    Niềm vui không vượt được nỗi lo không tiền. Anh bạn người Ý tiếp tục giúp tôi bằng cách kêu gọi tổ chức của anh tài trợ cho tôi tiền máy bay, động viên tôi cứ sang Anh, học có kết quả tốt sẽ xin được học bổng. Nhưng tôi cũng cần phải có một ít để sống trong thời gian chưa có học bổng. Tôi nói với mẹ. Bà im lặng. Tôi gõ cửa những công ty lớn, trình bày nguyện vọng đi học, cam kết sẽ về làm việc cho công ty nhưng chẳng ai chịu đầu tư cho một cô gái nhỏ bé trong chiếc áo dài trắng. Con đường du học mờ dần?
    [​IMG]
    Gần đến ngày nhập học, đột nhiên mẹ dúi cho tôi gần 1.000 USD. Mẹ đã bán hết mọi thứ kỷ vật của ngày lên xe hoa, vay mượn thêm?để nuôi ước mơ của tôi. Bà đọc được trong mắt tôi niềm vui tột cùng và ý chí quyết tâm đi học. Tôi mới hiểu thế nào là lòng mẹ bao la!
    Cuối năm 2003. Nước Anh đón tôi bằng cái lạnh thấu xương. Với vốn tiếng Anh hơn 500 điểm TOEFL, tôi điếc đặc khi nghe người bản xứ nói. Dò dẫm, tôi cũng đến được trường Oxford, ngôi trường danh giá. Tôi phấn chấn dạo một vòng sân trường, rồi ra mắt các thầy phụ trách. Họ kiểm tra xem tôi có đúng là người đã làm bài thi gửi đến cho trường qua mạng không. Dù chuẩn bị khá kỹ nhưng tôi vẫn trình bày lại những gì mình viết một cách lập cập. Các thầy bảo tôi phải học thêm tiếng Anh, phải làm lại một tiểu luận khác theo yêu cầu của trường để trình bày lại. Nếu được hội đồng giáo viên chấp nhận, tôi mới trở thành sinh viên chính thức của trường.
    Tôi chọn một khách sạn bèo nhất TP Oxford, giá cũng đã đến 20 USD một đêm. Vì phải chi một khoảng lớn trong số tiền còm cõi cho việc học tiếng Anh, nên chỉ một tuần tôi đã cạn túi. Tôi quay về trường, gặp người quản lý du học sinh nhờ giúp đỡ. Anh ta lắc đầu: ?oTrường này đâu phải nhà trọ. Bạn phải tự lo, cố gắng có học bổng, cuộc sống sẽ dễ dàng hơn?.
    Tôi kéo vali ra khỏi khách sạn, không biết đi đâu. Lần đầu tiên qua đêm tại ga tàu điện ngầm, dùng hai vali làm giường, co ro trong chiếc áo choàng có dòng chữ ĐH Oxford làm chăn, tôi không sao ngủ được. Có một ban nhạc chơi ngay trong sân ga. Tôi mon men đến làm quen, xin tham gia. Họ từ chối vì tôi không có giấy phép, nếu cảnh sát phát hiện tôi làm chui, sẽ trục xuất tôi về nước.
    Đói ở xứ lạnh là một chuyện khủng khiếp, đến nỗi tôi phải bán cây đàn violong mang theo (do người bạn mẹ tôi tặng) chỉ với 30 USD để qua cơn đói. Rồi những gì trong vali có thể bán được, tôi đều bán hết. Mỗi ngày, ngoài việc học tiếng Anh, tôi phải bắt đầu viết bài tiểu luận về cách quản lý của nhà hàng KFC (gà rán ). Tôi nhịn đói, để dành tiền đi xe buýt, tàu điện?
    Nhịn đói đến ngày thứ ba, trong cơn run rẩy, tôi gặp một người đàn bà đi cùng một con chó. Bà là người vô gia cư, ăn xin có giấp phép. Biết tôi là sinh viên, bà đồng ý cho tôi theo, hôm nào có tiền, tôi được bà dẫn về trại ngủ tập thể, giá rất rẻ, nhưng được nằm hẳn hoi một mình trên một cái giường. Nhưng những ngày thiếu ăn, ngủ bụi vẫn nhiều hơn. Ai có thể biết, một cô gái chững chạc đến phỏng vấn các nhà quản lý lấy tư liệu, lại là một kẻ lang thang, sống nhờ vào lòng từ thiện của người đi đường.
    Một hôm, người đàn bà ấy bỏ đi, khi tôi ngủ say. Tự nhiên, tôi quá nản lòng, muốn quay về nhà ngay tức khắc. Nhưng chẳng lẽ tôi về nhà tay không? Tôi quay lại sân ga. Người đàn bà hành khất đã quay trở lại chỗ cũ. Con chó rối rít mừng tôi. Bà ta nhìn ban nhạc kiếm được nhiều tiền, chép miệng: ?oPhải chi mày cũng biết đàn!?. Tôi tròn mắt gật đầu lia lịa. Bà kéo tôi ra một tiệm bán đàn, thuê cây đàn vio-lin cũ. Không đủ tiền trả, bà thế lại con chó. Ông chủ tiệm gật gù: ?oMười ngày sau không mang tiền lại, con chó sẽ bị giết?. Nhưng, tôi chưa đủ điều kiện để được phép chơi đàn.
    Mùa đông ập đến, cơn đói đe doạ, con chó sẽ bị giết... Đứng phía ngoài phòng cấp giấy phép, tôi bật khóc nức nở. Người đi đường dừng chân hỏi chuyện. Họ cảm thông, họ biểu tình, họ đòi hỏi... Cuối cùng, tôi được một giấy phép chỉ đánh đàn trong giờ vắng khách. Cũng những người đi đường ấy đến nghe, ủng hộ...
    Mọi việc đang suôn sẻ, thì một lần nữa, người đàn bà ôm hết tiền, bỏ đi cùng với cây đàn. Tôi đi học về, chỉ có con chó ngồi chờ. Tôi lại trắng tay, hụt hẫng, lại muốn quay về nhà. Tôi đến tiệm đàn, ông chủ tiệm thông cảm, nhận hộ chiếu làm vật thế chấp. Trong một góc sân ga, những giai điệu nhạc Trịnh đã níu chân nhiều khách qua đường, trong đó có nhiều người Việt. Tôi ấm lòng, đỡ nhớ nhà, nhớ quê.
    Có tiền, tôi yên tâm dồn sức học hành. Bài tiểu luận của tôi được trường chấp nhận, vốn tiếng Anh cũng tạm đủ để tôi được trở thành sinh viên chính thức của trường. Tôi được vào ký túc xá, chấm dứt 6 tháng lang thang, sống cảnh ?obụi đời?.
    Sau hai năm học hành, làm thêm nghề giữ trẻ, dành dụm được ít tiền, tôi mới tính chuyện về thăm gia đình và tìm tư liệu chuẩn bị cho luận án tốt nghiệp. Không thể tả hết xúc động khi tôi trở lại sân bay Tân Sơn Nhất. Mọi người đều kinh ngạc thấy tôi khóc như mưa. Mấy ai biết, đó là nước mắt của hạnh phúc...
    Tết năm nay, My ?" tên gọi ở nhà của Anh Tú ?" không còn lang thang ở xứ người nữa. Sự nghiệp đang chờ đợi cô. Nhưng, cô vẫn nhớ mãi chặng đường đã qua, con đường mà cô đã đi theo chiều ngược gió và có quá nhiều kỷ niệm. Cô cảm ơn những gian nan, nghèo khó, cảm ơn cả người đàn bà ăn xin từng lừa gạt cô. Ít ra bà ta cũng góp được một chút gì đó cho sự... trưởng thành của cô.
    Nguồn: Báo Phụ Nữ TP HCM xuân Mậu Tý 2008

  9. crazy_avatar

    crazy_avatar Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    06/12/2006
    Bài viết:
    45
    Đã được thích:
    0
    Câu chuyện về nhân vật Nguyễn Phan Anh Tú đã được lan truyền nhanh và rộng trên các báo điện tử cũng như trên các phương tiện thông tin Internet trong tuần qua. Từ bài báo gốc mang tên ?oĂn xin, ngủ bụi, học Oxford? trên báo Phụ Nữ, số Xuân 2008; câu chuyện này tiếp theo đã được đăng tải trên Tuổi Trẻ Online và Dantri với tên ?oNgười đi ?. ngược gió?. Tính đến thời điểm của bài viết này, câu chuyện đã được phổ biến rộng rãi ở nhiều diễn đàn điện tử và được truyền tai rất nhiều người qua tiện ích Yahoo! Messenger.
    Xét thấy câu chuyện ?" ở mọi phiên bản của nó ?" đều có những thông tin và chi tiết sai lệch hoặc không đúng sự thật về Đại học Oxford, quy trình tuyển sinh của Đại học Oxford và thành phố Oxford ở Anh quốc nói chung; Hội Sinh viên Việt Nam ở Oxford (gọi tắt là VOX) quyết định viết bài đính chính để làm rõ sự việc và để tránh sự hiểu nhầm của đông đảo các bạn trẻ về cuộc sống của sinh viên Việt Nam ở Oxford.
    Trước hết, toàn bộ cựu sinh viên và sinh viên Việt Nam hiện tại ở Oxford chưa ai từng nghe nói đến nhân vật Nguyễn Phan Anh Tú; trong đó bao gồm nhiều cựu sinh viên đã là thành viên của Đại học Oxford từ năm 2003. Có một khả năng, dù rất nhỏ, là nhân vật chưa bao giờ tìm cách liên lạc với Hội Sinh viên Việt Nam ở đây. Trong trường hợp đó, tôi xin phân tích những điểm mâu thuẫn hoặc vô lý trong câu chuyện (như đã được đăng tải trên nhiều nơi khác nhau).
    Xin lưu ý rằng, ở đây, tôi chỉ xin bàn về những chi tiết liên quan trực tiếp đến Đại học Oxford và thành phố Oxford, Anh Quốc.
    Chi tiết không đúng sự thật đầu tiên về thành phố Oxford, Anh quốc là sự tồn tại của một ?oga tàu điện ngầm? cũng như của dịch vụ tàu điện ở thành phố này. Trong bài viết có những câu:
    ?oLần đầu tiên qua đêm tại ga tàu điện ngầm, dùng hai vali làm giường, co ro trong chiếc áo choàng có dòng chữ ĐH Oxford làm chăn, tôi không sao ngủ được.?

    ?oTôi nhịn đói, để dành tiền đi xe buýt, tàu điện??
    Trên thực tế, Thành phố Oxford ở Anh quốc không có ga tàu điện ngầm. Các phương tiện di chuyển công cộng của thành phố bao gồm xe buýt (bus), xe buýt chạy đường dài (coach) và xe lửa (train). Đây là một thực tế có thể được kiểm chứng trên trang http://www.oxford.gov.uk/ - trang thông tin điện tử chính thức của hội đồng thành phố. (Vào mục http://www.oxford.gov.uk/transport/public-transport.cfm để xem thông tin về phương tiện di chuyển công cộng ở Oxford.)
    Thứ hai, trong câu
    ?oDò dẫm, tôi cũng đến được Oxford, ngôi trường danh giá. Tôi phấn chấn dạo một vòng sân trường [?]?
    nhân vật nhắc đến Đại học Oxford như một chủ thể đơn lập. Trên thực tế, Đại học Oxford có hệ thống quản lý kiểu college (collegiate system) rất đặc trưng: là một chủ thể bao gồm 39 college và 7 hall. Khi nộp đơn vào Đại học Oxford, sinh viên sẽ trở thành thành viên của một trong các college và hall; học tập, sinh hoạt và ăn ở tại college hoặc hall đó. Nói cách khác: không tồn tại một nơi chốn cụ thể nào tên là Đại học Oxford, mà tên gọi này dùng để chỉ cả một chủ thể tổng hợp như đã giải thích ở trên. Vì vậy, tính xác thực của câu chuyện cần phải được kiểm chứng bằng cách yêu cầu nhân vật cho biết college hoặc hall mà nhân vật đã theo học từ năm 2003-2006.
    Thứ ba, những thông tin về quy trình tuyển sinh của Đại học Oxford mà nhân vật nhắc đến trong câu chuyện hầu hết đều không đúng với thực tế. Đại học Oxford nói riêng và các Đại học ở Anh quốc nói chung chỉ nhận đơn xin học từ các sinh viên đã có, hoặc đang học để lấy, bằng A-level của Anh quốc hoặc những bằng cấp có giá trị tương tự. Nếu là sinh viên quốc tế, sau 2 năm học A-level, sinh viên cũng cần có bằng Anh ngữ IELTS với điểm thi trên 7.0 mới được xem xét mời đến phỏng vấn. Nếu là sinh viên học ngành Kinh tế và Quản trị (Economics & Management), sinh viên sẽ trải qua một bài kiểm tra viết và một buổi phỏng vấn với các thầy phụ trách (tutor) của những môn này. Nếu đáp ứng đủ yêu cầu về khả năng lý luận lôgic và khả năng thảo luận với thầy phụ trách, sinh viên mới được nhận vào học. Quy trình tuyển sinh chính thức này vẫn giữ nguyên trong vòng 4 năm qua và không cựu sinh viên hay sinh viên Việt Nam nào ở Oxford biết đến việc Đại học Oxford tuyển sinh qua đề thi tiểu luận trên mạng. Trong trường hợp Đại học Oxford thật sự tuyển sinh qua đề thi tiểu luận trên mạng trong quá khứ, nhân vật cần cho biết tên của cuộc thi này cùng với đề thi để ta có thể kiểm chứng với Phòng Tuyển sinh của Đại học Oxford.
    Cuối cùng, Đại học Oxford cùng với các Đại học khác ở Anh quốc chỉ hoạt động dựa trên một quy trình tuyển sinh chính thức chung. Sinh viên nộp đơn trước ngày 15 tháng 10 hàng năm cho Đại học Oxford (và Đại học Cambridge); và trước tháng 12 cho các Đại học khác ở Anh quốc. Các buổi phỏng vấn cho Đại học Oxford diễn ra vào tháng 12 mỗi năm, và sinh viên nhận được thư thông báo kết quả vào tháng 1 mỗi năm. Trong trường hợp không được nhận nhưng muốn thử sức lần nữa, sinh viên có thể chờ đến mùa tuyển sinh năm sau để nộp đơn. Hội Sinh viên Việt Nam ở Oxford chưa nghe nói đến trường hợp ngoại lệ nào sinh viên được chính các thầy phụ trách cho phép học thêm tiếng Anh và viết tiểu luận trong 6 tháng để sau đó nhận vào học chính thức ngay.
    Cuối cùng, tôi xin nêu một số chi tiết sai lệch và đáng ngờ khác:
    -Thứ nhất, nhân vật đem vật nuôi trong nhà vào ký túc xá, trong khi theo luật thì không một ký túc xá nào ở Anh quốc cho phép sinh viên làm việc đó.
    -Thứ hai, nhân vật tính tất cả tiền bạc bằng USD cũng như điểm thi tiếng Anh bằng TOEFL (lưu ý từ TOEFL ở phiên bản của TTO bị đánh vần sai là ?oTOFLE?), trong khi đơn vị tiền tệ của Anh quốc là GBP và tất cả các trường Đại học ở Anh quốc đều xét khả năng Anh ngữ dựa trên hệ thống IELTS.
    -Cuối cùng, Đại học Oxford không có khóa học đôi Quản trị Kinh doanh và Tiếp thị. Khóa học đôi duy nhất gần giống với khóa học trong câu chuyện là Kinh tế và Quản trị (Economics & Management) và cần được phân biệt rõ ràng với Quản trị Kinh doanh (Business Management hoặc Business Administration).
    Hội Sinh viên Việt Nam ở Oxford thành thật mong bài viết này sẽ nhận được sự hợp tác của Hội Sinh viên Việt Nam ở khắp nơi trong việc lưu hành trên các phương tiện thông tin Internet để giúp làm rõ câu chuyện này.
    Thay mặt Hội Sinh Viên Việt Nam ở Oxford,
    Nguyễn Ngọc Nam Phương ?" Chủ tịch Hội 2007-2008
    (phuong.nguyen@lmh.ox.ac.uk)
    http://svuk.org.uk/forums/index.php?s=08ba59e705e4f57d831db58bfe4d988e&showtopic=25849
  10. boxwehn

    boxwehn Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    09/07/2004
    Bài viết:
    882
    Đã được thích:
    0
    To @crazy_avatar: cám ơn bạn đã gửi một bài viết giá trị. Bài viết Ăn xin ngủ bụi vào Oxofd được gõ lại từ báo Phụ Nữ TP HCM. Mấy hôm trước tôi đọc một bài viết của Nguyễn Phan Anh Tú giải thích về chuyện này ở báo Tuổi trẻ nhưng hôm nay không tìm lại được link bài viết đó trên báo Tuổi trẻ. Tôi sẽ giữ lại cả 2 bài viết. Nếu như những gì viết về Nguyễn Phan Anh Tú không đúng sự thật thì đây cũng là một dịp "đọc và cùng suy ngẫm" về cách tiếp cận thông tin.

Chia sẻ trang này